Lăng Khải Định

Lăng Khải Định
Lăng Khải Định (còn gọi là Ứng Lăng) là lăng mộ của vua Khải Định (1885-1925), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế.

Click the image to open in full size.
Ứng LăngLăng Khải Định

Click the image to open in full size.
Toàn cảnh ngoại thất lăng Khải Định

Khải Định lên ngôi năm 1916 ở tuổi 31. Ngay sau khi lên ngôi, ông đã cho xây dựng nhiều cung điện, dinh thự, lăng tẩm cho bản thân và hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Định, cửa Trường An, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức, đặc biệt là Ứng Lăng.
Để xây dựng sinh phần cho mình, Khải Định đã tham khảo nhiều tấu trình của các thầy địa lý cuối cùng đã chọn triền núi Châu Chữ làm vị trí để xây cất lăng mộ. Ở vị trí này, lăng Khải Định lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án; lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn chầu trước mặt làm “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”; có khe Châu Ê chảy từ trái qua phải làm “thủy tụ”, gọi là “minh đường”. Nhà vua đổi tên núi Châu Chữ - vừa là hậu chẩm, vừa là “mặt bằng” của lăng - thành Ứng Sơn và gọi tên lăng theo tên núi là Ứng Lăng.
Lăng khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920 do Tiền quân Đô thống phủ Lê Văn Bá là người chỉ huy và kéo dài suốt 11 năm mới hoàn tất. Tham gia xây dựng lăng có rất nhiều thợ nghề và nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu Sừng... Để có kinh phí xây dựng lăng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng. Hành động này của Khải Định đã bị lịch sử lên án gay gắt.
So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích rất khiêm tốn hơn: 117 m × 48,5 m nhưng cực kỳ công phu và tốn nhiều thời gian. Để xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise..., cho thuyền sang Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu... để kiến thiết công trình.
Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái ngông nghênh, lạc lõng... tạo ra từ phong cách kiến trúc.




Về tổng thể, lăng là một khối hình chữ nhật vươn lên cao có 127 bậc cấp. Sự xâm nhập của nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique... đã để lại dấu ấn trên những công trình cụ thể:

  • Những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ;
  • Trụ biểu dạng stoupa của Phật giáo;
  • Hàng rào như những cây thánh giá khẳng khiu;
  • Nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể...
Điều này là kết quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định.


Click the image to open in full size.





Cung này ở vị trí cao nhất là kiến trúc chính của lăng, được xây dựng công phu và tinh xảo. Toàn bộ nội thất trong cung đều được trang trí những phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là những bộ tranh tứ quý, bát bửu, ngũ phúc, bộ khay trà, vương miện... kể cả những vật dụng rất hiện đại như đồng hồ báo thức, vợt tennis, đèn dầu hỏa... cũng được trang trí nơi đây. Công trình này gồm 5 phần liền nhau:

  • Hai bên là Tả, Hữu Trực Phòng dành cho lính hộ lăng;
  • Phía trước là điện Khải Thành, nơi có án thờ và chân dung vua Khải Định;
  • Chính giữa là bửu tán, pho tượng nhà vua ở trên và mộ phần phía dưới;
  • Trong cùng là khám thờ bài vị của vua.
Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp năm 1920, do 2 người Pháp là P. Ducing và F. Barbedienne thực hiện theo yêu cầu của vua Khải Định. Thi hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30 m, bắt đầu từ phía sau Bi Đình. Phía sau ngôi mộ, vầng mặt trời đang lặn như biểu thị cái chết của vua.
Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của 3 bức bích họa “Cửu long ẩn vân” lớn vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.

Click the image to open in full size.
Nghệ thuật ghép sành sứ tại Khải Định lăng

Click the image to open in full size.
Bửu tán, tượng nhà vua ở trên và mộ phần ở dưới trong cung Thiên Định

Click the image to open in full size.
Bi đình Ứng Lăng

Click the image to open in full size.
Tượng chầu trước Lăng
(nói thêm về Lăng Khải Định)
Thôn Châu Chữ, Xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế là địa chỉ của lăng Khải Định. Lăng Khải Định là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11-12-1993.

So với 6 khu lăng của các vua nhà Nguyễn, lăng Khải Định là lăng sau cùng, và mặt bằng kiến trúc nhỏ nhất, nhưng lại là lăng có thời gian xây dựng dài nhất - 11 năm (1920 - 1931), và chi phí tốn kém nhất. 


Năm 1920, sau khi các thầy địa lý đi coi đất và chọn địa điểm xong, triều đình huy động nhiều tù nhân và binh lính ở Huế lên làm việc khổ sai như mở đường, phá núi, làm toại đạo, tạo ra một mặt bằng xây dựng ở triền phía tây của một ngọn núi thuộc vùng Châu Chữ - là nơi rừng thiêng, nước độc nền tù nhân và binh lính lên xây dựng lăng bị chết khá nhiều.


Triều đình đã đưa tất cả thợ thủ công giỏi nhất trong “Nê ngõa tượng cuộc” lên làm việc dài hạn ở đây, trong số đó có nghệ nhân nổi tiếng nhất về tài trang trí bằng cách vẽ những bức họa long vân trên trần và đắp nổi cảnh vật lên tường là cụ Phan Văn Tánh, về sau được tặng hàm Bát phẩm.


Trong lăng Khải Định có hai pho tượng bằng đồng tạc hình vua: tượng ngồi trên ngai vàng được thực hiện ở Paris vào năm 1920, do hai người Pháp là P.Ducuing tạc tượng và F.Barbedienne đúc tượng, trong lòng rỗng, sau đó đưa về Huế mới mạ vàng bên ngoài. Tượng đứng đúc tại Huế do một người lính thợ quê ở Quảng Nam thực hiện. Làm tượng xong ông được tặng hàm Bát phẩm. Tượng này nguyên đặt trong nhà bát giác trước cổng cung An Định, năm 1960 đưa lên đặt tại Bi đình ở lăng Khải Định, từ năm 1975, cất vào phòng kín trong lăng.


Để thực hiện các công trình kiến trúc và trang trí tốn kém ở lăng Khải Định, nhà nước đương thời đã tăng thuế điền trên toàn quốc lên 30%. Kinh phí lớn nhất là mua vật liệu từ nước ngoài. Sắt, xi măng, ngói ác - đoa phải mua từ Pháp. Sành ngang chở từ Hà Đồng vào, nhưng sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai, thủy tinh phải nhập từ Trung Quốc, Nhật Bản.


Dưới thời Khải Định (1916 - 1925), chủ quyền Việt Nam đã lọt hẳn vào tay thực dân Pháp, văn hóa phương Tây đang thâm nhập mạnh vào Việt Nam, nên lăng Khải Định mang nhiều yếu tố kiến trúc phương Tây. Thoạt nhìn, lăng Khải Định giống như một lâu đài ở châu Âu bởi những vật liệu hiện đại đã lấn át những vật liệu truyền thống. Và các yếu tố kiến trúc đã không còn giữ lại được tính đặc trưng của kiến trúc dân tộc nói chung, kiến trúc Nguyễn nói riêng. Hình khối bê tông nặng nề của tổng thể lăng, của các con rồng to lớn, cứng đã làm cho lăng Khải Định khác hắn các lăng vua Nguyễn trước đó.


Tuy nhiên, tất cả núi đồi, khe suối của một vùng rộng lớn chung quanh lăng đều được dùng làm các yếu tố phong thủy địa lý: tiền án, hậu chẩm, hổ phục, rồng chầu, minh đường, thủy tụ, tạo ra cho lăng Khải Định một ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ.
Giá trị nghệ thuật kiến trúc đặc trưng nhất ở lăng Khải Định là cung Thiên Định - công trình chính của lăng. Về hội họa: các nghệ nhân xưa đã sử dụng màu xanh sẫm vẽ lên xi măng giả cẩm thạch ở các tường và trần trực phòng. Những bức họa long vân với diện tích hàng chục mét vuông trên trần 3 phòng giữ cung Thiên Định được coi là những bức họa hoành tráng có giá trị nghệ thuật đặc biệt của nền hội họa Việt Nam. 


Về nghệ thuật ghép mảnh lên tường, những nghệ nhân đầu thế kỷ XX đã dùng hàng vạn mẫu sành, sứ, thủy tinh đủ màu để đắp nổi thành hàng ngàn hình ảnh cung đình và dân gian sinh động, vui mắt; các bộ tranh tứ thời, ngũ phúc, bát bửu, bộ khay trà, mâm ngũ quả, ngọn đèn dầu hỏa, những chiếc đồng hồ, mấy cái mề đay,... tất cả đều được tạo nên bằng những chất liệu cứng, nhưng dưới bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân, chúng đều trở nên mềm mại, lóng lánh, thanh nhã, biểu cảm. Việc tạo hình và tạo dáng chiếc bửu tán che trên ngự tọa cho người xem cảm nhận sự nhẹ nhàng, thanh thoát không nặng nề. Nhiều hình họa trang trí ở pa nô, các chữ “phúc”, chữ “thọ” cách điệu là sự thông minh, sáng tạo và kiên trì của những nghệ nhân xưa tham gia kiến trúc phần mỹ thuật ở lăng Khải Định. Người thợ thủ công tài bà Việt Nam đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền mỹ thuật Việt Nam thời Nguyễn với nghệ thuật làm phù điêu bằng sành sứ tinh xảo, độc đáo và hấp dẫn.


Tượng đồng, bia đá, cung Thiên Định nằm trong tổng thể lăng Khải Định là một công trình xây dựng mang hai dòng kiến trúc Á - Âu tuyệt vời giữa cảnh quan thiên nhiên đặc sắc tuyệt mỹ đã làm cho lăng Khải Định trở thành một công trình kiến trúc độc đáo của đất nước Việt Nam nói chung, của các lăng tẩm vua triều Nguyễn nói riêng.

Nhận xét