Lăng Phạm Đôn Nghị, dấu ấn nghệ thuật điêu khắc đá thế kỷ XVIII



Quách Thị Ngọc An – Trang Thanh Hiền
Lăng mộ không chỉ là những di tích để tưởng niệm người chết, mà còn phản ánh nhiều khía cạnh: quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan của người đương thời về sinh tử. Ngoài ra, việc xây cất lăng còn phản ánh các giá trị nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của thế kỷ ấy. Trong vô số các lăng mộ quan lại được xây dựng trong thế kỷ XVIII, lăng Phạm Đôn Nghị, một Quận công thời Hậu Lê (1428- 1789), là một di tích đẹp, khá nguyên vẹn còn tồn tại đến ngày nay. Nằm trên xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, Hà Nội, lăng được xây dựng cách đây gần 300 năm. Công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo này được xem là khu quần thể lăng mộ thế kỷ XVIII đẹp nhất ở Hoài Đức.
Việc xây lăng mộ là một truyền thống lâu đời trong nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam. Nếu lăng mộ từ thời Lê Sơ về trước dường như chỉ có vua hay các bà hoàng mới được xây lăng, rất hãn hữu mới có lăng đại thần (như lăng Trần Thủ Độ), thì sang thời Hậu Lê lại có chiều hướng phát triển ngược lại. Giai đoạn này, trong hệ thống quản lý quốc gia bên cạnh vua Lê lại có thêm chúa Trịnh, đáng ra sẽ có cả hệ thống lăng mộ của vua Lê và chúa Trịnh. Nhưng thực tế, các lăng mộ vua, chúa còn lại đến ngày nay với niên đại thời Hậu Lê có số lượng rất ít. Một vài lăng có quy mô hơn cả như lăng chúa Trịnh Doanh (Nga Mi, Thanh Hóa - thế kỷ XVIII) lại càng hiếm. Và trên một cơ sở nào đó, quy mô của lăng mộ này có phần tương tự hoặc lớn hơn không nhiều so với các lăng quan lại. Điều này được các nhà nghiên cứu giải thích trên quan điểm lịch sử đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh nội chiến, và bởi sự tiếm quyền lẫn nhau trong xã hội, vua Lê thì bù nhìn và chúa Trịnh nắm quyền thế. Các thế lực này không thể quan tâm một cách sâu sắc đến việc xây lăng mộ cho chính bản thân mình. Hơn nữa việc trả thù cá nhân của các triều đại tiếp sau khiến rất có thể vua chúa có lăng nhưng cũng không thể tồn tại đến bây giờ, hoặc xây lăng nhưng lại ẩn danh như trường hợp lăng chúa Trịnh Doanh, nhưng phải lấy tên bà Thái phi Ngọc Diệm [1,tr.241]. Mặt khác, các quan đại thần nắm giữ quyền lực trong tay, để củng cố cho địa vị của mình đã tự mình xây dựng lăng mộ cho bản thân tại quê hương bản quán. Có lẽ ở thế kỷ XVIII, việc xây cất lăng mộ đã trở thành phong trào. Nó cũng giống như việc cúng tiền để xây đình, chùa, đặt làm tượng hậu để thờ, ý nghĩa của việc lưu danh hậu thế đã khiến người ta không dè xẻn tiền của. Vậy nên các lăng Quận Công xuất hiện chiếm một số lượng lớn như: lăng Phạm Mẫn Trực (Hà Tây - 1713), lăng quận Thạc (Thanh Hóa - 1716), lăng Dinh Hương (Bắc Giang - 1729), lăng họ Đỗ (Bắc Ninh - 1734), lăng Phạm Đôn Nghị (Hà Tây - xây 1734 sửa 1754), lăng Phú Đa (Vĩnh Phúc - 1767), lăng Nguyễn Diễn (Bắc Ninh - 1769), lăng Phạm Huy Đĩnh (Thái Bình - 1772)... Các lăng này có phong cách và qui mô ít nhiều tương đồng.
Lăng Phạm Đôn Nghị có lẽ cũng không nằm ngoài những mô thức chung cho việc xây cất lăng mộ thế kỷ XVIII, nhưng so với rất nhiều lăng hiện tồn, nó lại nằm trong số ít các lăng còn nguyên vẹn các giá trị về nghệ thuật cũng như kiến trúc. Quần thể lăng Phạm Đôn Nghị có hướng Tây Nam, rộng khoảng 850m2, chiếm một bãi đất rộng ở đầu làng, tạo một không gian thoáng đãng. Nét tĩnh mịch phủ mầu thời gian trên lăng nhưng không hoang sơ chìm vào trong quên lãng như ở những lăng khác, mà lăng Phạm Đôn Nghị được con cháu thay nhau trông coi, nhang khói. Bên trong cổng là một khoảng sân rộng có nhiều cây xanh quanh năm xào xạc tạo cho không gian lăng mộ lúc nào cũng yên tĩnh và trầm lặng.
Quận công Phạm Đôn Nghị một là võ quan từng đi kinh lý giữ yên cõi bờ và bình định những cuộc nổi dậy. Ông cũng là người giàu có, nhiều thế lực, và đã có công dồn tiền của xây dựng quê hương, giúp đỡ dân làng. Đồng thời, ông cũng giành một phần của cải công sức cho dòng họ và xây dựng nơi yên nghỉ cho bản thân. Phạm Đôn Nghị là người đã ghi công lớn cho đất nước, làm Đốc lĩnh các đạo Hải Dương, Kinh Bắc, làm Chưởng đốc xứ Sơn Tây nên được phong tước Quận Công, do vậy lăng của ông cũng được dân làng gọi là ông Quận. Theo lời kể của các bô lão ở làng thì trước đây toàn bộ tường bao xây quanh lăng đều bằng đá ong, cao gần 2m. Nhưng hiện nay tường đá ong này không còn mà được xây lại bằng gạch, chỉ cổng bên trái bằng đá là còn dấu vết đá ong cũ, cổng bên phải được tôn tạo thêm bằng đá ong mới. Vào năm 1999, dòng họ Phạm xây thêm một toà nhà 5 gian làm nơi thờ.
Bước qua gian thờ mới xây, người đến thăm sẽ phải sửng sốt khi bắt gặp toàn bộ khu lăng tẩm kết thành một khối kiến trúc cũng được bao bọc bằng một bức tường đá ong dày gần 1m. Khu mộ được xây rất kiên cố nên trải qua 3 thế kỷ dường như vẫn giữ được nét kiến trúc ban đầu. Lăng mang nhiều nét uy nghi diễm lệ và mang đậm những dấu tích, ý nghĩa lịch sử cũng như giá trị văn hóa nghệ thuật. Cổng vào lăng được làm bằng đá, phía trên cổng được lợp ngói bằng đá ong, hai bên trụ có chạm khắc câu đối. Toàn bộ bốn bức tường bao quanh khu mộ được xây dựng bằng đá ong gần như còn nguyên vẹn. Đôi chó đá được tạc ở hai bên cổng như một qui cách chung nhằm bảo vệ trật tự trị an ngày đêm canh chừng. Đôi chó được tạc mập mạp ngồi phủ phục trên bệ, cổ đeo chuông nhạc với vòng nhạc tròn thể hiện kỹ thuật chạm nổi với trình độ cao.
Hình 1: Cổng vào khu lăng tẩm
Qua cổng tới khu sinh phần đồng thời là nơi thờ chính. Trung tâm đặt một hương án lớn trước một nhà chứa sập thờ, hai bên là hai đẳng thờ đặt trước hai nhà bia. Hương án phía trên ngai, được chạm hình rồng mây, phía dưới là đồ án hoa văn hoa thị xen kẽ với mây trong dạng hình cánh sen. Các đồ án có bố cục khá chỉnh chu, cân đối, mặc dù các họa tiết được lặp đi lặp lại nhưng không gợi sự nhàm chán. Các nghệ nhân chạm khắc đã khéo léo sắp xếp hợp lý giữa mảng lớn nhỏ, giữa vị trí đặt để trên và dưới nên khiến cho người xem lại cảm thấy rất vui mắt. Các đẳng thờ bằng đá hình chữ nhật cao khoảng gần 1m, khối đặc, chạm trổ tinh vi, xung quanh mặt bàn khắc văn kỷ hà lồng móc vào nhau đăng đối. Song song với việc tạo ra các thức chạm khắc cân đối và đăng đối trong các mẫu thức hoa văn trang trí, thì bố cục lăng cũng có tính cách hoà điệu như vậy. Sự đăng đối hai nửa phải trái của hình thức kiến trúc lăng, và các lớp cửa trước sau, đã tạo nên sự tôn nghiêm cho khung cảnh tĩnh mịch này.
Hình 2: Phía bên trong lăng, gồm nhà bia, hương án, tòa thờ
Trong hệ thống tẩm thờ, ngoài những bệ - sập - ngai thờ còn có hệ thống các tượng người và thú xếp từng đôi một đăng đối nhau qua trục đường thần đạo. Các tượng này được làm bằng đá xanh, to bằng kích thước người thực, gây cho người đời sau liên tưởng tới không khí nghiêm trang của cảnh phục dịch khi nhân vật được thờ còn sống. Trong các dạng chạm khắc lăng nói chung, dù là tượng người hay thú (phổ biến là ngựa, voi, chó) được chạm ở dạng tĩnh lặng, thường ở dạng đứng đơn chiếc độc lập. Nhưng tượng ở lăng Phạm Đôn Nghị lại là một trong số ít trường hợp đặc biệt là các tượng này được bố trí thành nhóm đặt cạnh nhau. Điển hình là pho tượng người và ngựa. Cặp đôi tượng người - ngựa này có một sự tương đồng với lăng Dinh Hương (Hiệp Hòa, Bắc Giang). Nhưng ở lăng Dinh Hương, cặp tượng này là người dắt ngựa, tức có sự liên kết gần kề, thì ở lăng Phạm Đôn Nghị tượng người chỉ đơn thuần được đặt cạnh tượng ngựa để tạo thành nhóm. Con ngựa được tạc trong một khối đá đặc kể cả phần giữa bốn chân. Song, điểm độc đáo ở đây là tính chất hiện thực được gợi tả bởi cặp chân mảnh dẻ lại được các nghệ nhân khéo léo tạc theo dạng phù điêu trên đá. Do vậy, tuy không đục rỗng phần giữa của hay chân ngựa giống như các dạng điêu khắc tượng ngựa thời Lê Sơ, nhưng dáng vẻ của con ngựa vẫn hợp lý và thanh thoát. Cái khối đặc tưởng chừng như nặng nề ấy lại được giải quyết một cách khéo léo bằng việc trang trí yên cương một cách khá cầu kỳ. Không chỉ vậy, chẳng những tóc và bờm đã mang chất trang trí mà yên cương được thắng đầy đủ làm cho vui mắt hẳn lên. Điều này khiến cho toàn bộ khối tượng chắc chắn hơn và vẫn giữ được nét hiện thực cần thiết.
Hình 3: Nhóm tượng quan hầu và ngựa ở lăng Phạm Đôn Nghị
Hình 4 : Tượng quan hầu dắt ngựa ở lăng Dinh Hương (Bắc Giang)
Tượng quan hầu lăng Phạm Đôn Nghị được đặt sát với ngựa. Ở đây, nghệ sĩ đã vận dụng khéo những mảng khối ngang là mình ngựa với khối dọc là thân người tạo nên sự đối lập để tôn nhau lên trong cùng một tổng thể. Con ngựa hiện ra với bốn chân thẳng, đầy đủ dây buộc mõm, yên cương, bàn đạp, vải phủ có hoa văn mây, bông gù, tua rua, lục lạc... rất cầu kỳ. Bên cạnh là một võ quan, mặc áo giáp, một tay úp lên ngực thể hiện sự trung thành, một tay nắm cây chùy dài trông rất sống động và chân thực. So với lăng Dinh Hương, thì nhóm tượng này có phần khác nhau về tỷ lệ tượng người. Ở lăng Dinh Hương tượng người nhỏ nhắn so với tượng ngựa, còn ở lăng này tượng người có tỷ lệ lớn hơn hẳn. Điều này tạo cho nhóm người ngựa tuy tách nhau ra trong một khoảng cách vùa đủ nhưng vẫn tạo cảm giác gắn kết.
Nhân vật võ quan ở đây có tư cách chủ thể hơn so với tượng dắt ngựa của lăng Dinh Hương. Về mặt điêu khắc chân dung nhân vật, thì tính chất võ quan ở các pho tượng này cũng được thể hiện ra một cách rõ ràng hơn với khối cằm bạnh, mũi và má gồ cao. Chân dung của hai nhân vật võ quan trong nhóm tượng người ngựa này cũng khác nhau khá rõ ràng. Một ông có khuôn mặt bạnh hơn, còn ông kia lại thanh thoát hơn. Việc chú ý đến tả thực chân dung cũng là một nét rất đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII- XVIII, mà các bức tượng này được thừa hưởng.
So với các lăng quan lại khác trong thế kỷ XVIII, như lăng Dinh Hương, lăng Bầu, lăng Cẩm Bào, lăng Nội Tròn (đều thuộc Hiệp Hoà, Bắc Giang), lăng họ Đỗ, lăng Nguyễn Diễn (Tiên Sơn - Bắc Ninh), lăng Đoàn Văn Khôi (Ứng Hòa - Hà Tây)... thì cặp tượng quan hầu và ngựa ở lăng Phạm Đôn Nghị và lăng Dinh Hương được xem là những kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá. Chúng được xuất hiện khá phổ biến trong các lăng mộ thời kỳ này, nhưng đa phần mang khuynh hướng tự nhiên ít tính trang trí. Các tượng thường được chú trọng vào cách tạo khối trên thân, khiến con vật trở nên đậm chất hiện thực. Do vậy, việc xuất hiện một số mảng chạm tỷ mỷ và mang tính cách điệu cao như phần yên cương, bờm của ngựa ở lăng Phạm Đôn Nghị và lăng Dinh Hương, đã làm hình thức điêu khắc hiện thực này trở nên độc đáo.
Các tượng trong lăng mộ thời Hậu Lê về số lượng và đề tài thường không theo một sự quy định chặt chẽ do tính chất tự phát của việc xây lăng. Như lăng Phạm Mẫn Trực chỉ có hai tượng voi, lăng Phạm Đôn Nghị chỉ có hai tượng người đứng cạnh ngựa, lăng Phạm Huy Đĩnh có cả tượng võ sĩ, ngựa và voi, lăng Dinh Hương ngoài tượng võ quan dắt ngựa, voi, tượng võ sĩ, còn có cả tượng người hầu gái cầm quạt hoặc ôm tráp... đứng ngay trên sinh phần cạnh ngai thờ... Ngay trong số tượng võ sĩ cũng có người cầm gươm, người cầm trùy. Có nhiều lăng có tượng chó gác cổng, vài lăng còn thêm cả tượng phỗng, tượng nghê... Nằm trong dòng chảy chung của tượng lăng mộ thời Hậu Lê, các tượng người và thú ở lăng Phạm Đôn Nghị vừa có cái chung như tượng ở các lăng mộ khác, vừa có nét đặc sắc riêng biệt. Xét về vị trí chung mà nói, thì vị trí các tượng trong lăng Phạm Đôn Nghị vẫn theo một qui tắc nhất định nhìn từ phía trong ra: người - ngựa - chó theo trục thần đạo không có gì đặc biệt. Nhưng việc đặt tượng võ quan sát với tượng ngựa đã làm thay đổi kết cấu chung này khiến chúng tạo thành một nhóm, thay đổi đi cái nhịp điệu đơn giản của một cấu trúc lăng mang tính tôn nghiêm.
Hình 5: Nhà bia bên phải lăng Phạm Đôn Nghị
Một đặc điểm khá độc đáo nữa của lăng Phạm Đôn Nghị là hình tượng võ sĩ cầm chuỳ được chạm khắc nổi ở hai bên cột đá của nhà bia hai bên phần mộ. Nó khá giống với dạng bố cục của lăng Phạm Mẫn Trực (Hà Tây) nhưng khác hẳn lăng họ Ngọ (Bắc Giang), các tượng võ sĩ này được chạm thẳng vào bề mặt đá ở tường bao phía ngoài. Cái vẻ rắn chắc của đá xanh, khiến cho bức chạm khắc này ở lăng Phạm Đôn Nghị có phần trở nên sắc nét. Một lần nữa ta lại gặp hình thức điêu khắc chân dung trên hai bức phù điêu mô tả hai nhân vật một già một trẻ. Đặc biệt nhân vật già hơn một chút với bộ ria mép như cố tình tạo cảm giác uy vũ nhưng thực chất lại rất hiền lành. Trong khi người trẻ lại tỏ ra có vẻ bặm trợn hơn khi dương cây chuỳ theo thế nghiêng nghiêng. Dáng vẻ của họ cũng vậy, không khuôn vào một cách cứng nhắc mà có phần uyển chuyển. Hai bức phù điêu độc đáo này khiến cho khung cảnh của khu sinh phần của Quận công Phạm Đôn Nghị bớt đi tính chất khô lạnh mà trở nên gần gũi thân quen. Ngoài ra cách chạm khắc các trang phục quần áo của hai vị võ quan này cho thấy lối điêu khắc rất đặc trưng cho nghệ thuật thế kỷ XVIII, đó là lối chạm nông vừa phải chi tiết sắc nét, chú trọng đến các nếp và dải áo.

Hình 6: Phù điêu võ sĩ (bên trái)
Hình 7: Phù điêu võ sĩ (bên phải)
Đặc biệt, hai bên khu thờ cúng là hai nhà bia làm bằng đá tảng lớn. Bia bên phải có tên bài văn là “Phạm công gia phả bi ký” kể lại sự tích các đời của dòng họ Phạm. Bia bên trái có tên là “Hiển linh từ hậu thần bi ký” (mặt trước), “Nhất xã thôn hậu phật sự lệ” (mặt sau), nói về việc bầu Phạm Đôn Nghị làm hậu Thần hậu Phật cho làng vì có công đóng góp tiền của, cả hai bia đều dựng năm Long Đức 3 (1734) [3, tr.176]. Mặt bia phía trên chạm đôi rồng chầu được cách điệu kiểu rồng hoá mây, các diềm bia còn lại chạm trang trí hoa văn mây xoắn, hoa dây uốn lượn. Nhưng có lẽ điều độc đáo phải kể đến ở đây chính là nghệ thuật kiến trúc của hai nhà bia này. Cùng đặc điểm giống như nhà chứa sập thờ, khác với kiến trúc của nhà bia ở các lăng khác với đặc trưng vòm mái cong với những yếu tố mềm mại, mỗi nhà bia ở lăng Phạm Đôn Nghị đều có cấu trúc như một long đình với bốn mái đá phẳng và góc cạnh. Mỗi đầu đao và hai đầu mái chạm khắc đầu rồng, phần trung khu chạm hình chữ Vạn. Mặc dù các kiến trúc được thiết kế bằng các khối đá tảng lớn nhưng các nhà bia ở đây vẫn tạo được dáng vẻ thanh thoát. Phải chăng đã có sự chi phối của tâm thức Phật giáo trong kiến trúc lăng mộ ở đây.
Qua khu lăng mộ và đền thờ, mộ Phạm Đôn Nghị nằm sau cùng, được bao bọc bởi những bức tường đá ong. Mộ phần bằng đá tảng hình chữ nhật nằm giữa những bức tường đá ong kiên cố, tuy công trình đã khởi xây từ thế kỷ XVIII nhưng nhờ bảo quản tốt nên các nét chữ khắc trên mộ nhìn từ xa như hoa văn họa tiết vẫn còn sắc sảo. Trải bao thời gian, khu di tích lăng đá Phạm Đôn Nghị được xem là một quần thể kiến trúc điêu khắc đá hoành tráng, độc đáo thời Hậu Lê còn tồn tại đến ngày nay./.

Nhận xét