Lầu Hoàng Hạc bên bờ sông Dương Tử của Trung Quốc...
Nguyên văn chữ Hán:
黃鶴樓送孟浩然之廣陵
Dịch nghĩa:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Dịch thơ:
Lầu Hoàng Hạc tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
(Người dịch: Ngô Tất Tố)
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời…
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời…
Không chỉ Lý Bạch mà Thôi Hiệu cũng có một bài thơ rất nổi tiếng về Lầu Hoàng Hạc. Xin chép thêm ra đây:
Chữ Hán
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Hán-Việt
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân[1] dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ[2] châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người !
Cho đến nay tại Việt Nam đã có nhiều người dịch Hoàng Hạc lâu ra tiếng Việt. Tản Đà là một trong những người dịch đầu tiên và tài năng của ông đã giúp cho bài thơở nên quen thuộc với người Việt Nam. Ngoài ra, có thể kể đến những bản dịch của Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố, Vũ Hoàng Chương... tr
Bản dịch của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai...
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người…
Sở dĩ cần thiết phải nhắc tới 2 bài thơ của Lý Bạch và Thôi Hiệu để thấy Hoàng Hạc Lâu nôi tiếng như thế nào, đã đi vào thi ca, vào tâm thức văn hóa của biết bao thế hệ người Việt…Nhất là bản dịch của Hoàng Hạc Lâu của Tản Đà đã đi vào khuôn mẫu của thơ dịch.
Hoàng Hạc Lâu
Hoặc:
Sa bàn Hoàng Hạc Lâu (Ngày xưa )
Truyền thuyết:
Theo sách “Liệt tiên toàn truyện” của Vương Thế Trinh đời Minh, có một câu chuyện kể rằng: Xưa có một người họ Tân, bán rượu ở chân núi Hoàng Cốc kiếm sống qua ngày. Một hôm có có đạo sĩ già ăn mặc rách rưới đến xin rượu uống. Anh bán rượu nghèo tốt bụng, thấy ông lão đáng thương, bèn cho rượu uống. Từ đấy, ngày nào đạo sĩ cũng đến xin rượu. Một hôm, đạo sĩ từ biệt anh bán rượu, nói: “Một năm qua, ngày nào anh cũng cho rượu uống, chẳng có gì đền đáp. Lão có con hạc quí, tặng anh để tỏ lòng biết ơn”. Nói rồi ông lấy vỏ cam vẽ lên tường một con hạc, dặn: “Chỉ cần anh vỗ tay là hạc sẽ bay ra nhảy múa, mua vui cho khách”.
Dứt lời, đạo sĩ biến mất. Anh bán rượu làm theo, quả nhiên có hạc vàng bay ra nhảy múa. Từ đấy, khách uống rượu hiếu kì kéo đến rất đông, chẳng bao lâu, anh trở nên giàu có. Bỗng một hôm đạo sĩ quay lại nói: “Mười năm qua, tiền anh kiếm được chắc đã đủ trả chỗ rượu anh cho lão uống?”. Rồi, ông rút cây sáo thần thổi lên một khúc, gọi hạc vàng bay ra, cưỡi hạc bay đi mất. Vì thế, về sau, căn lầu xây ở nơi này được mang tên Hoàng Hạc.
Tuy nhiên, theo Vương Tượng Chi của đời Bắc Tống viết trong “Dự Ðịa kỷ thắng” thì lại ghi nhận rằng sở dĩ tháp quan sát được gọi là Hoàng Hạc Lâu là vì tháp này nằm trên Hoàng Hộc Sơn, phía tây nam của Từ Thành ngày xưa. Vào thời cổ đại, chữ Hộc (con ngỗng trời: thiên nga) trong ngôn ngữ cổ đại Trung Hoa cũng còn có nghĩa là Hạc, nên về sau người ta dùng chữ Hạc cho rõ nghĩa hơn. Từ đó, Hoàng Hộc Sơn được gọi là Hoàng Hạc Sơn. Nhưng về sau, ngọn núi nhỏ Hoàng Hạc này có hình thù ngoằn ngèo giống như Rắn nên đời sau đã lấy môt tên khác là Xà Sơn thay vì gọi là Hoàng Hạc Sơn.
Lầu Hoàng Hạc vốn là một đài quan sát quân sự, được xây từ thời Tam Quốc, ở bờ nam Trường Giang, thuộc địa phận nước Ngô(thành phố Vũ Xương, Vũ Hán ngày nay). Đài quan sát này tồn tại được 50 năm thì nước Ngô bị diệt vong. Từ đấy không có ý nghĩa quân sự nữa. Nhưng, do được xây ở nơi phong cảnh hùng vĩ, lầu Hoàng Hạc dần dần trở thành điểm tham quan của tao nhân, mặc khách và ngày càng nổi tiếng, là biểu tượng, niềm tự hào của người dân Vũ Hán.
Lầu Hoàng Hạc nguyên thuỷ là một kiến trúc bằng gỗ chạm trổ gồm ba tầng, ở trên đỉnh bằng đồng. Trải qua nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc, chịu biết bao cuộc chiến tranh huỷ diệt; rồi lại được dựng lên, sau nhiều lần trùng tu thì cho đến nay lâu Hoàng Hạc được tái sinh trở lại với sự kết tinh nhuần nhuyễn những phong cách độc đáo của Hoàng Hạc Lâu của các triều đại trước, lộng lẫy hơn nhiều gồm 5 tầng với chiều cáo 51.4 mét, ngói vàng, trụ đỏ.
Các tầng mái hiên được uốn vênh lên như đôi cánh hạc. Lầu có thể chia ra làm 3 phần chính. Phần thứ nhất bao gồm cách thiết kế bên trong của tầng 1, tầng này cao hơn 10m và phần trang trí bên trong được thiết kế cho người xem hiểu ngay được về sự tích của Hoàng Hạc Lâu. Phần hai bao gồm các tầng từ tầng 2 cho đến tầng 4. Ðây là các tầng gìn giữ lại những bài thơ, những bài từ bất tử nói về Hoàng Hạc Lâu, những bức họa tranh nói về các sự kiện lịch sử từ thời tam quốc, những danh nhân của đất Sở ngày nào như Khuất Nguyên, những thi tài Lý Bạch, Thôi Hiệu, danh tướng Tống Nhạc Phi, những kiến trúc cũ của Hoàng Hạc Lâu đời Ðường, đời Nguyên, Minh, Thanh..v..v. được trưng bày tại đây để mọi người thưởng ngoạn.
Phần ba bao gồm tầng 5 cũng là tầng cao nhất của Lầu. Ðứng ở đây, người ta có thể ngắm cảnh trời sông bao la bát ngát, nhìn dòng sông Trường Giang và Hán Thủy hợp lưu lại thành hình một chữ “Nhân” trong Hán tự .
Các tầng mái hiên được uốn vênh lên như đôi cánh hạc. Lầu có thể chia ra làm 3 phần chính. Phần thứ nhất bao gồm cách thiết kế bên trong của tầng 1, tầng này cao hơn 10m và phần trang trí bên trong được thiết kế cho người xem hiểu ngay được về sự tích của Hoàng Hạc Lâu. Phần hai bao gồm các tầng từ tầng 2 cho đến tầng 4. Ðây là các tầng gìn giữ lại những bài thơ, những bài từ bất tử nói về Hoàng Hạc Lâu, những bức họa tranh nói về các sự kiện lịch sử từ thời tam quốc, những danh nhân của đất Sở ngày nào như Khuất Nguyên, những thi tài Lý Bạch, Thôi Hiệu, danh tướng Tống Nhạc Phi, những kiến trúc cũ của Hoàng Hạc Lâu đời Ðường, đời Nguyên, Minh, Thanh..v..v. được trưng bày tại đây để mọi người thưởng ngoạn.
Phần ba bao gồm tầng 5 cũng là tầng cao nhất của Lầu. Ðứng ở đây, người ta có thể ngắm cảnh trời sông bao la bát ngát, nhìn dòng sông Trường Giang và Hán Thủy hợp lưu lại thành hình một chữ “Nhân” trong Hán tự .
Các bài thơ về Hoàng Hạc Lâu
Theo tài liệu văn học Trung Quốc thì có khoảng 300 bài thơ tả cảnh lầu Hoàng Hạc, nhưng chỉ có bài thơ của Thôi Hiệu đời Đường là xuất sắc nhất, phổ thông nhất, có giá trị nghệ thuật vượt không gian và thời gian, được lưu truyền mãi cho đến ngày nay. Tương truyền, khi “Thánh thi” Lý Bạch đến lầu Hoàng Hạc du ngoạn, định đề thơ, nhưng đọc xong thơ Thôi Hiệu đã đề trước đó, ông đành nghiêng mình gác bút, ngửa mặt lên trời mà than rằng :“Nhãn tiền hữu cảnh đạo vô tắc, Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (Cảnh đẹp nhường kia sao khó viết, Trên đầu Thôi Hiệu đã đề thơ). Để ghi nhớ giai thoại văn học “Thôi Hiệu đề thơ, Lý Bạch gác bút” thú vị này, ngày nay ở phía Nam lầu Hoàng Hạc, người ta xây dựng “Đình gác bút”, làm điểm tham quan, dừng chân cho du khách.
Theo tài liệu văn học Trung Quốc thì có khoảng 300 bài thơ tả cảnh lầu Hoàng Hạc, nhưng chỉ có bài thơ của Thôi Hiệu đời Đường là xuất sắc nhất, phổ thông nhất, có giá trị nghệ thuật vượt không gian và thời gian, được lưu truyền mãi cho đến ngày nay. Tương truyền, khi “Thánh thi” Lý Bạch đến lầu Hoàng Hạc du ngoạn, định đề thơ, nhưng đọc xong thơ Thôi Hiệu đã đề trước đó, ông đành nghiêng mình gác bút, ngửa mặt lên trời mà than rằng :“Nhãn tiền hữu cảnh đạo vô tắc, Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (Cảnh đẹp nhường kia sao khó viết, Trên đầu Thôi Hiệu đã đề thơ). Để ghi nhớ giai thoại văn học “Thôi Hiệu đề thơ, Lý Bạch gác bút” thú vị này, ngày nay ở phía Nam lầu Hoàng Hạc, người ta xây dựng “Đình gác bút”, làm điểm tham quan, dừng chân cho du khách.
Còn với các thi sĩ Việt Nam, khi đi sứ sang nhà Thanh, Nguyễn Du cũng qua lầu Hoàng Hạc và viết bài Hoàng Hạc Lâu:
黃鶴樓 Hoàng Hạc lâu
阮攸 Nguyễn Du
何處神仙經紀時 Hà xứ thần tiên kinh kỉ thì
猶留仙跡此江楣 Do lưu tiên tích thử giang mi
今來古往盧生夢 Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng
鶴去樓空崔顥詩 Hạc khứ lâu không Thôi Hiệu thi
軒外煙波空渺渺 Hiên ngoại yên ba không diểu diểu
眼中草樹尚依依 Nhãn trung thảo thụ thượng y y
衷情無限凴誰訴 Trung tình vô hạn bằng thùy tố
明月清風也不知 Minh nguyệt thanh phong dã bất tri Lầu Hoàng Hạc
Nào thuở tiên đi mãi đến giờ ,
Dấu tiên bên bến đứng trơ vơ .
Xưa qua nay lại Lư dồn mộng ,
Hạc khuất lầu không Hạo để thơ .
Thăm thẳm nước mây ngoài vạn dặm ,
Dờn dờn cây cỏ vẫn nghìn xưa .
Nỗi lòng ấp ủ cùng ai tỏ ?
Gió mát trăng trong luống hửng hờ (Quách Tấn dịch)
Chưa hết, những bài thơ về lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu và Nguyễn Du, lại khiến cho một tài thơ khác có một nỗi đồng điệu, đó là nhà thơ Vũ Hoàng Chương với bài thơ cùng tên Hoàng Hạc Lâu:
Hoàng Hạc Lâu
Vũ Hoàng Chương
Đã bao giờ có hạc vàng đâu
Mà có người tiên để có lầu!
Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở
Lầm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau.
Hạc chưa thoát khỏi mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
Trăng gió hão huyền như khói sóng
Nồi kê đã chín nghĩ mà đau
黃鶴樓 Hoàng Hạc lâu
阮攸 Nguyễn Du
何處神仙經紀時 Hà xứ thần tiên kinh kỉ thì
猶留仙跡此江楣 Do lưu tiên tích thử giang mi
今來古往盧生夢 Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng
鶴去樓空崔顥詩 Hạc khứ lâu không Thôi Hiệu thi
軒外煙波空渺渺 Hiên ngoại yên ba không diểu diểu
眼中草樹尚依依 Nhãn trung thảo thụ thượng y y
衷情無限凴誰訴 Trung tình vô hạn bằng thùy tố
明月清風也不知 Minh nguyệt thanh phong dã bất tri Lầu Hoàng Hạc
Nào thuở tiên đi mãi đến giờ ,
Dấu tiên bên bến đứng trơ vơ .
Xưa qua nay lại Lư dồn mộng ,
Hạc khuất lầu không Hạo để thơ .
Thăm thẳm nước mây ngoài vạn dặm ,
Dờn dờn cây cỏ vẫn nghìn xưa .
Nỗi lòng ấp ủ cùng ai tỏ ?
Gió mát trăng trong luống hửng hờ (Quách Tấn dịch)
Chưa hết, những bài thơ về lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu và Nguyễn Du, lại khiến cho một tài thơ khác có một nỗi đồng điệu, đó là nhà thơ Vũ Hoàng Chương với bài thơ cùng tên Hoàng Hạc Lâu:
Hoàng Hạc Lâu
Vũ Hoàng Chương
Đã bao giờ có hạc vàng đâu
Mà có người tiên để có lầu!
Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở
Lầm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau.
Hạc chưa thoát khỏi mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
Trăng gió hão huyền như khói sóng
Nồi kê đã chín nghĩ mà đau
Câu chuyện và bài nhạc NGÀN NĂM MÂY BAY
(Tài liệu từ Đường Thi Tuyển Dịch của Chi Điền Hoàng Duy Từ)
Chuyện ngày xưa (thê’ kỷ thư’ 7)
Nhiều người chúng ta đã biê’t thi sĩ Thôi Hiệu (? - 754) là một trong những nhà thơ danh tiê’ng nhâ’t thời Thịnh Ðường (713-765), Trung Quô’c. Ông người tỉnh Hà Nam, đỗ Tiê’n Sĩ, ti’nh tình lãng mạn, co’ đê’n bốn lần vơ… Công trình sa’ng ta’c chỉ co’ một tập thơ, nhưng bài Hoàng Hạc Lâu râ’t nổi tiê’ng, trong đo’ co’ hai câu thơ gây cảm hư’ng tơ’i tận bây giờ và co’ lẽ mãi sau này cho nhiều thi nhân:
Hoàng hạc nhất khư’ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
được dịch là:
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
(Tản Ðà)
(Tản Ðà)
Hoặc:
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
(Vũ Hoàng Chương)
Hay là:
(Vũ Hoàng Chương)
Hay là:
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một mầu mênh mông
(Trần Trọng Kim)
(Trần Trọng Kim)
Văn học Trung Hoa cho bài Hoàng Hạc Lâu là hay nhất, hay hơn bài Ðằng Vương Các của Vương Bột, bài Vạn Tuê’ Lâu của Vương Xương Linh, bài Phượng Hoàng Lâu của Ly’ Bạch và bài Ðền Thục Vương của Ðỗ Phủ, có cùng một đề tài vịnh đền miếu cổ (Tài liệu lâ’y từ Ðường Thi Tuyển Dịch của ta’c giả Hoàng Duy Từ)
Chuyện ngày nay (thê’ kỷ 21)
Du kha’ch từ xa đê’n thăm San Diego, thành phô’ cực Nam miền Tây Hoa Kỳ, ven bờ Tha’i Bình Dương, co’ thể du ngoạn Trung Tâm Giải Tri’ Sea World. Nơi đây co’ những tiê’t mục hâ’p dẫn như xem ca’ voi, hải cẩu, hải sư … biểu diễn, hay co’ thể trực diện vơ’i những con ca’ mập râ’t lơ’n (Sharks Encounter) trong những ống hay bồn chứa khổng lồ bằng plexiglass …
Ngoài những màn biểu diễn chi’nh của những sinh vật sô’ng dươ’i nươ’c, còn co’ thêm ca’c tiê’t mục kha’c, lâu lâu lại được đổi mơ’i.
Không biê’t bây giờ còn không, nh ưng vài năm trươ’c co’ một chương trình hâ’p dẫn là Du Ngoạn bằng Phi Thuyền Không Gian, ai co’ bệnh tim được ân cần căn dặn không nên tham dự. Du kha’ch được hươ’ng dẫn trở thành phi hành đoàn, vào ngồi trên những ghê’ đặc biệt trong Phi Thuyền (simulated), và phải đeo dây an toàn. Phi đoàn trưởng được lệnh khởi hành, đê’m ngược từ 10 đê’n 1 từ trung tâm dươ’i dâ’t, và thân tàu rung chuyển cực mạnh, rời giàn pho’ng vơ’i một gia tô’c thật cao. Xung quanh du kha’ch là một màn ảnh cong râ’t lơ’n, cho cảm tưởng nhìn thâ’y không gian bao la, thâ’y mặt trời phi’a trươ’c, bên dươ’i thâ’y địa cầu co’ biển và những rừng cây xanh tuyệt đẹp như địa đàng, xa dần và nhỏ dần … Phi thuyền nhanh cho’ng rời khỏi hâ’p lực của tra’i đâ’t, bay vào vũ trụ mênh mông, vô tận. Ca’c “phi hành gia du kha’ch” lu’c này cảm gia’c chỉ co’ không gian, không còn thời gian nữa. Những tinh tu’ to và nhỏ, khi gần khi xa, lâ’p la’nh trên bầu trời. Cảm gia’c mạnh nhâ’t là khi phi thuyền đê’n gần những thiên thạch, to như những tòa nhà, co’ khi như những tra’i nu’i bay trong không gian, thật gần, râ’t gần. Nê’u phi đoàn trưỏng không khe’o le’o tra’nh ne’ ca’c thiên thạch, du kha’ch co’ cảm gia’c vi’ như phi thuyền va chạm vào thiên thạch, ca’c “phi hành gia tài tử” sẽ không bao giờ trở về tra’i đâ’t nữa. Sau một thời gian tha’m hiểm vũ trụ, phi thuyền trở về tra’i đâ’t. Du kha’ch, sau chuyê’n du hành không gian an toàn, lại thâ’y địa cầu vơ’i “ngàn năm mây tră‘ng vẫn còn bay”, biển xanh co’ so’ng dạt dào ngay gần Sea World, không có hạc vàng bay đi nhưng lại có nhiều hồng hạc nhởn nhơ bên những hồ cá hay dưới những bóng cây.
Nhận xét
Đăng nhận xét