Khi tìm hiểu về mỹ
thuật, nhiều người có chung những câu hỏi: “Trường phái hội họa là gì ?”
, “có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa ?” , ” trường phái nào lớn
nhất ?” và khi tìm hiểu thêm nữa thì ai cũng lại muốn biết thêm ” họa sỹ
tiêu biểu nào đứng đầu một trường phái ?” , ” tác phẩm tiêu biểu ?”…
Trường phái hội họa là gì ?
Hội họa đã xuất
hiện từ rất lâu, từ khi chữ viết của con người còn chưa xuất hiện, từ
lịch sử mỹ thuật ta có thể đưa ra kết luận: hội họa là một ngôn ngữ để
truyền đạt ý tưởng bằng các tác phẩm sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương
pháp (thuật) của họa sỹ. Trong hội họa, thuật ngữ “trường phái” dùng để
chỉ một phong cách, trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có chung
những kỹ thuật và phương pháp thể hiện.
Có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa?
Các trường phái hội
họa ở trên thế giới là vô cùng nhiều, các trường phái xuất hiện ở bất
cứ quốc gia nào, và ở bất cứ khoảng thời gian nào. Vẫn đề chỉ là tính
đại chúng – được nhiều người biết đến hay không mà thôi.
Các trường phái hội họa Châu Âu
Nhắc đến các trường
phái hội họa, chúng ta hay nghĩ ngay đến những thuật ngữ : “Trừu tượng”
“Lập thể” “Ấn tượng” … Đó là các trường phái lớn (bắt nguồn từ Châu Âu)
có tầm ảnh hưởng quốc tế, và dần trở thành quy chuẩn cho mỹ thuật thế
giới.
* Ấn tượng* Baroc
* Cấu trúc
* Chấm họa
* Dã thú
* Graffiti
* Hard-edge
* Hậu ấn tượng
* Hậu hiện đại
* Hiện đại
* Hiện thực
* Hiện thực lãng mạn
* Hiện thực xã hội
* Lãng mạn
* Lập thể
* Mannerism
* Ngây thơ
* Pop-Art
* Siêu thực
* Tân cổ điển
* Thị giác (Op-Art)
* Trừu tượng
…
* Graffiti
* Hard-edge
* Hậu ấn tượng
* Hậu hiện đại
* Hiện đại
* Hiện thực
* Hiện thực lãng mạn
* Hiện thực xã hội
* Lãng mạn
* Lập thể
* Mannerism
* Ngây thơ
* Pop-Art
* Siêu thực
* Tân cổ điển
* Thị giác (Op-Art)
* Trừu tượng
…
Như đã nêu, các
trường phái trên là những trường phái nổi bật nhất, có sức ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất. Chứ không phải là toàn bộ các trường phái mỹ thuật trên
thế giới. Các trường phái hội họa phương Tây đều có tính lịch sử, một
trường phái ra đời do phản ứng lại những hạn chế của trường phái trước
đó và đến lượt nó lại tạo cơ hội cho một trường phái mới phát triển.
# 1 Trường phái ấn tượng – Impressionism(1874- 1886)
# 2 Trường phái hậu ấn tượng (Post Impressionism 1886- 1910)
# 3 Trường phái Dã thú – Fauvism (1905-1909)
# 4 Trường phái biểu hiện -Expressionism (1906-1919)
# 5 Trường phái lập thể – Cubism (1909-1926)
# 6 Trường phái tương lai – Futurism (1909-1918)
# 7 Trường phái Dada (Dadaism) (1916-1922)
# 8 Trường phái siêu thực – Surrealism (1924-1938)
# 9 Trường phái ấn tượng trừu tượng – Abstract Expressionism (những năm 1940)
# 10 Trường phái Kinetic Art (1950′s-1960′s)
# 11 Trường phái Pop Art (1961-1968)
# 12 Trường phái Op Art (1964-1967)
# 13 Trường phái Minimalism (1966-1970)
# 14 Trường phái nghệ thuật nhận thức- Conceptual Art (1960′s and 70′s)
….
# 2 Trường phái hậu ấn tượng (Post Impressionism 1886- 1910)
# 3 Trường phái Dã thú – Fauvism (1905-1909)
# 4 Trường phái biểu hiện -Expressionism (1906-1919)
# 5 Trường phái lập thể – Cubism (1909-1926)
# 6 Trường phái tương lai – Futurism (1909-1918)
# 7 Trường phái Dada (Dadaism) (1916-1922)
# 8 Trường phái siêu thực – Surrealism (1924-1938)
# 9 Trường phái ấn tượng trừu tượng – Abstract Expressionism (những năm 1940)
# 10 Trường phái Kinetic Art (1950′s-1960′s)
# 11 Trường phái Pop Art (1961-1968)
# 12 Trường phái Op Art (1964-1967)
# 13 Trường phái Minimalism (1966-1970)
# 14 Trường phái nghệ thuật nhận thức- Conceptual Art (1960′s and 70′s)
….
Một số trường phái mỹ thuật hiện đại tiêu biểu
1. Trường phái ấn tượng
Bức tranh Village on the Banks of the Seine của Alfred Sisley
Ấn tượng (tiếng
Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một trào lưu nghệ
thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng
đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên “ấn tượng” do các
nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet:
Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc).
Trường phái ấn
tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát
và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn
còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ
hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời
hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này đã bị phá
bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài,
với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà hát.
Những bức tranh
thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét cọ có thể nhìn thấy
được, sự pha trộn không hạn chế giữa các màu với nhau và nhấn mạnh đến
sự thay đổi và chất lượng của độ sáng trong tranh.
Hai ý tưởng đáng
chú ý trong trường phái này là: Bức tranh được vẽ rất nhanh với mục đích
là ghi lại một cách chính xác tổng quan của khung cảnh.Tiếp theo sau là
thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và không định kiến; khác với trường
phái hiện thực,tự nhiên.
Các họa sĩ tiêu
biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne (sau này đã rời bỏ
phong trào), Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard Manet (tuy nhiên Manet
không xem mình thuộc phong trào), Claude Monet, Berthe Morisot, Camille
Pissarro, Pierre-Auguste Renoir, Zinaida Yevgenyevna Serebryakova,
Alfred Sisley
2. Trường phái hậu ấn tượng
Tranh của Vincent Van Gogh
Hậu ấn tượng là tên
gọi chung để chỉ tới những nghệ sĩ thuộc thời kỳ sau trường phái ấn
tượng. Trường phái ấn tượng là một bước ngoặt trong hội họa, rũ bỏ những
quan niệm từng tồn tại rất nhiều năm ở châu Âu. Từ sau ấn tượng, nhiều
nghệ sĩ độc lập tìm tòi sáng tạo và đi theo các hướng khác nhau. Mặc dù
họ không có phong cách sáng tác giống nhau, nhưng được gọi chung là hậu
ấn tượng. Thuật ngữ này do nhà phê bình người Anh Roger Fry đặt ra chỉ
những họa sĩ như Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh. Nghiên
cứu về các họa sĩ này cũng cho thấy sự phát triển của nghệ thuật Pháp
thời gian cuối thế kỷ 20.
Các nghệ sĩ hậu ấn
tượng từ chối rập khuôn theo chủ nghĩa ấn tượng và từng người tìm cách
nổi bật cá tính của mình, có thái độ biểu hiện chủ nghĩa trong hình họa,
màu sắc và cách giải quyết đề tài. Đó thực sự làm nên một nghệ thuật
mới với những tuyên ngôn thẩm mĩ khác, không giống với nghệ thuật và kĩ
thuật của xu hướng ấn tượng mà họ cùng tham gia trước đó. Ba họa sĩ Paul
Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh với ba phong cách hiện thực đã
làm phong phú và đa dạng một thời kỳ ngắn ngủi nhưng vang dội và đầy hấp
dẫn của của nghệ thuật. Họ báo hiệu cho các trào lưu sẽ nở rộ ở thế kỷ
20.
3. Trường phái dã thú
Để chống chọi với
trường phái Ấn tượng, quá chú trọng đến ánh sáng mà quên đường nét của
cảnh vật, nên trường phái Dã thú ra đời.
Trường phái Dã thú
có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trường phái Ấn tượng, chống lại sự mất
mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉ mỉ, không
theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính
trước. Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã thú là màu sắc, chứ không
phải vẽ như thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một
bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục
tạo hình sống động, không là cảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc
mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp mắt.
Năm 1905, triễn lãm
mùa thu ở Paris có một phòng tranh giới thiệu những tác phẩm mới, đặc
biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh phản ứng khác nhau, vì có
một sự thật là một loạt tiêu chí hội họa cổ điển nữa đang bị phá vỡ.
Phòng tranh được nhà phê bình LuisVauxcelles gọi là ” Chuồng dã thú “,
và cái tên Dã thú đã bước vào lịch sử hội hoạ Thế giới. Tên goi đó rất
phù hợp với các họa sĩ này bởi vì những màu sắc mà họ sử dụng là dữ dội
một cách cố tình.
Khuynh hướng Dã thú
ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực thịnh năm 1905 – 1906, có dấu hiệu
suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động trước chiến tranh Thế Giới thứ
nhất để chuyển sang những phong cách rất khác nhau. Những thành viên
tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet,
Dufy….
Hầu hết thành viên
của trường phái Dã thú là người Pháp và trẻ tuổi. So với khuynh hướng Ấn
tượng, sự xuất hiện của hội họa Dã thú mang tính chất đảo lộn, phủ định
hơn rất nhiều. Tất cả đều cùng ý chí ” Nổi loạn màu sắc”, Vlaminck và
Derain tuyên bố sẽ ” Đốt trụi trường Mỹ thuật bằng các sắc xanh Cobalt
và đỏ son”.
Để thực hiện tham
vọng sáng tạo một nền hội họa mới, các họa sĩ Dã thú chủ trương phất cao
lá cờ tự do, không lệ thuộc vào đề tài, vào thiên nhiên và sử dụng màu
sắc một cách mạnh mẽ nhất, dùng màu nguyên chất tạo sự tương phản mạnh
và vứt bỏ khối vờn, bỏ diễn tả sáng tối. Theo họ như vậy tranh mới phát
huy được hết các cường độ và âm hưởng của màu, mới tương ứng với tình
cảm mạnh mẽ của lớp thanh niên đầu thế kỷ. Nhãn thức Dã thú đã đưa hội
họa đến một không gian chói chang. Họ sử dụng bút pháp phóng đại cường
điệu. Con người và sự vật trong tranh được vẽ bởi những nét rất dứt
khoát và đậm. Với họ, bức tranh phải thể hiện cá tính mạnh mẽ, biểu hiện
những tư tưởng tình cảm và rung động chủ quan của tác giả.
4. Trường phái biểu hiện
Bức tranh Tiếng thét của Edvard Munch
Chủ nghĩa biểu hiện
hay Trường phái biểu hiện (Expressionism) là một trào lưu nghệ thuật
xuất hiện và phát triển ở châu Âu vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế
kỷ 20, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính – xúc
cảm của chủ thể (thường là cảm xúc con người hoặc một nhóm người) hoặc
xúc cảm của chính người họa sĩ. Những cảm xúc này thường được gây ra bởi
một sự kiện đặc biệt nào đó, cũng có thể bởi sự gặp mặt-giao lưu của
nhiều người hoặc sự giao lưu của những xu hướng hội họa khác nhau (như
cổ điển và hiện đại).
Chủ nghĩa biểu hiện thể hiện trong nhiều dạng nghệ thuật, từ hội họa, kiến trúc cho đến văn học, thơ ca, nhạc kịch và điện ảnh.
5. Trường phái lập thể
Tranh của Pablo Picasso
Chủ nghĩa lập thể,
còn gọi là trường phái lập thể, (Cubism) là một trường phái hội họa tạo
ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20.
Trong tác phẩm của
họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại
trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở
một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác
nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng
giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó
nhận ra chiều sâu của bức tranh.
Chủ nghĩa lập thể
do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu
Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm
việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu.
Nhà phê bình hội
họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ “lập thể” lần đầu tiên
để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó
danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một
vài lần và sau đó thành tên gọi chính thức.
Trường phái Lập thể
khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ở gần đó và
được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trở nên
phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Tuy nhiên, một
số họa sỹ khác cũng tự coi là họa sỹ lập thể khi đi theo các khuynh
hướng khác với Braque và Picasso.
Lập thể ảnh hưởng
tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ
thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu
hiện.
Các nghệ sỹ thiên
tài, Braque và Picasso mở ra phương pháp mới trong cách diễn đạt và thể
hiện không gian trong hội họa nhưng chính họ lại bị ảnh hưởng của các
nghệ sỹ khác như Paul Cezanne, Georges Seurat, điêu khắc Iberi, nghệ
thuật điêu khắc châu Phi và như sau này Braque thừa nhận, họ bị ảnh
hưởng bởi chủ nghĩa dã thú.
Các họa sỹ lập thể
nổi tiếng của trường phái này: Georges Braque, Marcel Duchamp, Juan
Gris, Fernand Leger, Jacques Lipchitz, Louis Marcoussis, Marie Marevna,
Jean Metzinger, Francis Picabia, Pablo Picasso, Liubov Popova, Marie
Vassilieff, Fritz Wotruba…
6. Trường phái tương lai
Tranh của Umberto Boccioni
Chủ nghĩa tương lai
là một trường phái nghệ thuật bộc lộ một cách trần trụi sự bất mãn với
xã hội đương thời. Trường phái này nổi bật nhất ở Italy.
Các họa sĩ của trào
lưu Giacomo Balla, Umberto Boccioni, Carlo Carrà, Severini, Luigi
Russolo đã mượn kỹ thuật điểm mảng màu của trường phái Ấn tượng mới và
trường phái Lập thể để chồng chéo hình thức, nhịp điệu, màu sắc và ánh
sáng, qua đó thể hiện một “cảm giác động” và tính đồng thời của các
trạng thái tâm hồn, cấu trúc phức tạp của thế giới.
7. Trường phái Dada (Dadaism)
Tranh của Jean Arp
Những người theo trường phái dadaism đã cố gắng làm rõ tất cả những ý tưởng và nguyên tắc mới lạ.
Ða đa là một phong
trào văn học nghệ thuật (nhất là hội hoạ) phản kháng dữ dội của các
nghệ sĩ và các nhà văn Âu Mỹ, cống lại sự tự mãn, trong đó, những sức
mạnh sáng tạo nghệ thuật được hướng vào việc chống lại nghệ thuật. Phong
trào nầy sinh ra do tâm trạng vỡ mộng vì ảnh hưởng của Ðại chiến thế
giới lần thứ nhất, mà một số nghệ sĩ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau
đã phản ứng lại một cách mỉa mai, cay độc, thậm chí với những tư tưởng
vô chính phủ nữa. Qua những thể hiện của họ, cái phi lý và tư tưởng
phản kháng là hai điểm nổi bật nhất.
Những họa sĩ tham
gia trong trường phái Đa đa phải kể: Apollinaire, Marinetti, Picasso,
Modigliani, Kandinsky. Tháng 3/1917, một Gallery của trường phái Đa đa
ra đờiở Bahnhofstrasse. Tháng 7/1917, cuốn sách đầu tiên của
trường phái Đa đa được xuất hiện do hai hoạ sĩ Đa đa thực hiện là
Tzana Do Janko và Hans Arp. Một đoạn viết về lịch sử của
trường phái Đa đa do Huelsenbeck công bố (7/1920) ở Hanover cho
rằng: “Trường phái Đa đa họp tại quán Voltaire tập trung các nghệ sĩ
nhạy cảm với sự phát triển những cách thể hiện mới”.
8. Trường phái siêu thực
Tranh của Joan Miró
Trường phái
surrealissm đã phô bày những tác phẩm nghệ thuật bằng trang và bằng chữ
viết. Họ nhấn mạnh đến sức mạnh của trí tuệ khi tạo ra những tác phẩm
nghệ thuật có ý nghĩa.
Với trường phái hội
họa này, những chủ thể rất bình dị được đặt trong một phông màn hoặc bí
ẩn, hoặc hùng vĩ, khiến cho bức tranh mang một sức sống mới, ý nghĩa
mới, như tồn tại trong mơ cùng những sự vật hiện thực trong trạng thái
không thực.
9. Trường phái ấn tượng trừu tượng
Tranh của Jackson Pollock
Trong khoảng thời
gian ngắn, nước Mỹ đã phải trải qua một thời kỳ mà phong trào nghệ thuật
lên cao. Trường phái ấn tượng trừu tượng này đã đánh dấu một kỷ nghuyên
trong lịch Mỹ. Trường phái De Stijl bao gồm một loại hình nghệ thuật
mới, đó là kiến trúc nghệ thuật hiện đại. Trường phái này sử dụng những
tài năng của các nghệ sỹ để thiết kế nhà cửa, công trình và đồ đạc.
10. Trường phái Kinetic Art
Tác phẩm của nhà điêu khắc Naum Gabo
Trường phái nghệ
thuật này đóng vai trò rất quan trọng bởi vì nó đã khai thác được các
khía cạnh nghệ thuật cảm xúc. Bản thân trường phái này đã chứa đựng rất
âm bội bao gồm có những âm bội của nền văn hoá nghệ thuật, tự nhiên và
khoa học kỹ thuật. Trường phái này chủ trương khai thác các khía cạnh
nghệ thuật cảm xúc.
11. Trường phái Pop Art
Bức họa Marilyn Monroe của Rebecca Rhys Butler
Bức họa nữ ca sĩ katy-perry
Pop Art là trào lưu
nghệ thuật mới ra đời ở Anh trong thập kỷ 50 của thế kỷ 20. Song nơi nó
phát triển rực rỡ nhất và để lại dấu ấn trong lịch sử mỹ thuật chính là
tại Mỹ.
Pop Art nổi tiếng
với các bức họa lấy những đề tài bình dân, phổ biến với mọi người như
các thần tượng mà mọi người tôn thờ trong ca nhạc, phim ảnh, nhãn mác
sản phẩm, tranh quảng cáo, bao bì sản phẩm… thậm chí đôi giày, tờ báo…
làm chủ đề chính để sáng tạo nghệ thuật.
Cách thể hiện của
trường phái Pop Art chấp nhận tất cả các cách có thể. Bức họa “Marilyn
Monroe” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho Pop Art, tác phẩm này
thể hiện bằng phương pháp in lưới, bằng máy. Nhiều tác phẩm khác được
thể hiện bằng phần mềm máy tính, in bằng máy. Nhiều tác phẩm gắn cả “vật
thật” như báo chí, lon bia, chai lọ… lên tranh. Một số bức họa đắt giá
nhất của trường phái này vốn là minh họa cho truyện tranh.
12. Trường phái Op Art
Tranh của Victor Vasarely
Sự ra đời của
trường phái này được gắn với tạp chí Time. Vào năm 1964, tạp chí này đã
đăng một bài báo nói về một làn sóng nghệ thuật mới liên quan đến ảo
giác.
13. Trường phái Minimalism
Tranh của Frank Stella
Trường phái này
nhận được rất nhiều sự chỉ trích từ công chúng vì họ khó có thể chấp
nhận được một dãy hình lập phương, hai hình chữ nhật đặt cạnh nhau hay
năm khối hình hộp treo trên tường lại có thể được gọi là nghệ thuật. Đơn
giản hóa mọi thứ tối đa, kiệm lời là đặc điểm của trường phái
Minimalism.
14. Trường phái nghệ thuật nhận thức
Tranh của Lucio Fontana
Chính trường phái
này đã chấm dứt kỷ nguyên được gọi là “nghệ thuật hiên đại”. Ngày nay,
trường phái hậu hiện đại, tân hiện đại và nghệ thuật nhận diên đã chiếm
ưu thế trong thị trường nghệ thuật. Các nghệ sỹ của ngày hôm nay không
còn là một phần của nguồn nghệ thuật tập thể nhưng họ đã đào sâu những
xu hướng và ý tưởng mới thay đổi từ năm này sang năm khác.
Trường phái nghệ
thuật nhận thức này đã giúp chúng ta đem lại độc lập, và trong một khía
cạnh nào đó nó đã hoàn thành một kỷ nguyên với những tư tưởng nghệ thuật
mới, mà khởi đầu là từ trường phái ấn tượng cách đây 100 năm.
Các trường phái hội họa khác
Gần gũi nhất với
chúng ta ở Châu Á, có thể nói đến các trường phái Thư pháp, Thủy Mặc của
Trung Quốc, cũng có sức ảnh hưởng rất lớn tới các quốc gia trong khu
vực, và trở thành hiện tượng mới làm ảnh hưởng sang cả Châu Âu, Châu Mỹ.
Kết luận
Mỗi
trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp, quyết định riêng
việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình và xử lý
kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu quả mong muốn. Xã hội
càng phát triển, nhận thức của con người càng cao thì các trường phái
hội họa càng lớn mạnh, càng xuất hiện nhiều trường phái mới.
Nhận xét
Đăng nhận xét