“Rường”
là một cách nói rút ngắn của rường cột. Nhà rường là loại nhà có hệ
thống cột kèo gỗ được dựng lên theo những quy cách nhất định. Dù to lớn
đến đâu, nhà rường Việt Nam
cũng được kết cấu hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ để có thể lắp ráp và
tháo gỡ dễ dàng. Số gian trong nhà được phân định bằng các hàng cột. Chỉ
có hai chái ở đầu nhà là được phân cách với các gian giữa bằng vách
ngăn.
Huế
xưa kia là kinh đô của một nước có nền kiến trúc trọng mộc, cho nên từ
các cung điện trong thành nội, các dinh, phủ vương công, cho đến nhà cửa
của thị dân khá giả ở đây đều thuộc dạng nhà rường. Tuy nhiên, khi nhắc
đến nhà rường Huế ai cũng mường tượng ngay ra những tư thất kính cẩn
nghiêm trang, nhưng ấmcúng. Xen vào đấy là vài nét phong lưu đặc thù của
chốn Thần Kinh.
Có
thể nói một khía cạnh của đời sống ở đế đô đều bị ảnh hưởng, chi phối
bởi những tục lễ nghi. Phép vua thua lệ làng ở đâu đó, chứ không bao giờ
ở Huế. Vì thế chuyện trọng đại như việc xây nhà ở đây đương nhiên phải
tuân theo đủ thư phép tắc. Một đạo dụ ban ra năm Minh Mạng 3 (1822), ấn
định rằng tất cả các nhà xây bên ngoài Đại Nội, dù là của hoàng thân
quốc thíc hay trưởng công chúa, đều không được vượt quá 3 gian 2 chái.
Do vậy mà các nhà Huế xưa chỉ có một hoặc ba gian hai chái. Vài cái nhà
rường 5 gian 2 chái ở Huế hiện nay đều là nhà mới xây, hoặc do chủ nhân
mua mấy cái nhà cũ, lược bỏ những phần không ưa thích hoặc không cần
thiết, rồi lắp lại mà thành. Thật ra thời trước thỉnh thoảng cũng có
trường hợp ngoại lệ, thí dụ như nhà của cụ Đông Các đại học sĩ Thân
Trọng Huề ở Gia Hội. Chủ nhân đã thay hai chái bằng hai gian, để căn nhà
trở thành 5 gian không chái, và như vậy không phạm vào phép vua.
Vì
phải gánh chịu nhều mưa bão cho nên nhà ở Huế thường không đươc xây cao
lắm. Làm thế cũng để tránh không vượt quá chiều cao của Hiểu Lâm Các,
cấu trúc cao nhất trong Đại Nội. Thêm vào đó mái nhà Huế có độ dốc lớn
để nước mưa thoát được nhanh, cho nên nhà rường Huế đa phần có diện tích
nhỏ. Ngôi nhà rường một gian hai chái ít khi quá 8 thước tây, và một
căn ba gian hai chái dài nhất cũng chỉ đến 15 thước. Nếu nhà đông người,
gia chủ phải xây thêm các nhà phụ, nhà ngang. Để bù đắp cho sự khiêm
tốn về kích thước nhà, Người Huế cho chạm, khảm các kèo, xà và vách ngăn
một cánh hoành tráng, nhiều khi đến mức thái quá. Mỗi đòn, kèo của nhà
rường Huế là một bức hoạ nổi, với đủ loại đề tài, hoa văn, tuỳ theo
khiếu thẩm mỹ và chí hướng của chủ nhân. Nhiều ngóc ngách không ai để ý
đến có khi cũng được chạm trổ bằng những chi tiết nhỏ nhất mà mắt thường
có thể thấy được.
Người
Huế xưa không chuộng gỗ lim, vì họ cho rằng loại gỗ này rất độc, cả về
thể chất lẫn tinh thần. Thêm vào đấy lim là loại thiết mộc không thể tự
huỷ, trái với quy luật sinh lão bệnh tử của nhà Phật. Vì vậy lim được
coi là loại gỗ bất tường, không nên sử dụng trong việc làm nhà. Thay vào
đó, nhà rường ở Huế được làm từ các loại gỗ bản địa phổ thông như kiền,
gõ, và nhất là mít rừng từ Quảng Trị.
Thật
ra người Huế không dùng gỗ lim làm nhà có lẽ cũng chỉ vì phép vua. Từ
triều Minh Mạng đã có chỉ dụ cấm thường dân sử dụng gỗ lim. Về sau điều
này được khẳng định bằng một đạo dụ năm Tự Đức thứ 14 (1861). Nếu gỗ lim
thực sự độc hại như thế thì tại sao các cột trong Đại Nội, kể cả ở cung
hoàng thái hậu, đều dùng loại gỗ này? Có lẽ người xưa đã thêu dệt các
lí do độc hại nói trên, để làm cớ cho dân chúng tuân lệnh vua dễ hơn.
Phần
chính của một căn nhà rường ba gian hai chái ở Huế trung bình có 56
cột. Số lượng kèo, xà và đòn tay cần phải chạm khảm vì thế hết sức rất
nhiều. Từ đỉnh hàng cột nhất đến đỉnh hành cột nhì chỉ nên có 5 đòn tay,
để phù hợp với chữa Sinh của luật sinh, lão, bệnh, tử. Một toán 4 thợ
mộc và 4 thợ chạm gỗ sẽ phải tốn hơn hai năm để hoàn thành một ngôi nhà
loại ba gian. Đấy là trong trường hợp gia chủ có thể sắm sửa đầy đủ ngay
mọi vật liệu. Có nhiều người phải dành dụm cả đời, hoặc từ đời cha tới
đời con, mới có thể dựng nỗi một căn nhà rường. Hiện ở Huế vẫn còn một
số nghệ nhân, nhiều người rất trẻ, có thể chạm, khảm các loại hoa văn
trên kèo, vách nhà rường một cách tinh xảo, chẳng khác gì ngày xưa.
Khi
phần mộc và các chất liệu đã sẵn sàng để dựng nhà, gia chủ phải chọn
một ngày tốt để làm lễ thượng lương, tức là lễ dựng đòn nóc, tiếng địa
phương gọi là đòn đôông. Lễ vật chính trên bàn thờ là cái đòn đôông.
Giữa đòn treo một lá cờ bùa Bát quái trấn trạch, trên có ghi ngày làm lễ
và tuổi của gia chủ. Phần trên của bùa có gắn hai nhánh thiên tuế để
cầu cho sự trường tồn của căn nhà. Mép dưới lá cờ có gắn 2, 4, hoặc 6
đồng tiền cổ cầu việc tài lợi hanh thông cho chủ nha sau này. Ngoài
hương hoa trà quả, trên bàn thờ còn có một đĩa gạo, muối, hột nổ (các
viên bộ nhuộm ngủ sắc rồi rang phồng lên, chỉ để cúng tế), và bạc tiền
mã của gia chủ. Người thợ cả và các thợ khác mỗi người cũng đặt một đĩa
gạo tiền trên bàn thờ để xin lộc của lá bùa. Riêng thợ cả phải để một
cái khăn đầu rìu màu đỏ trên đĩa gạo của mình, và anh ta sẽ chít khăn
này khi dựng đòn.
Khi
hành lễ, gia chủ hoặc người chủ lễ phải khấn bài khấn thượng lương, với
năm câu phụng thỉnh các vị tiên, tổ sư của nghề xây nhà. Một trong các
vị ấy là Lô Ban, người Xuân Thu (770-475 trước CN), Trung Quốc. Ông chế
ra các dụng cụ của thợ mộc như đục, cưa, thước, và được đời sau tôn làm
tổ sư ngành xây dựng. Vị thứ hai không kém phần quan trọng là bà Cửu
Thiên Huyền Nữ, chúa tể của các mọi vật liệu trong thiên nhiên. Phải
khấn để xin bà cho phép lấy cây ở rừng về làm nhà. Mỗi câu khấn thật ra
có mục đích để trấn một gian hoặc chái của căn nhà. Nếu đây là nhà một
gian hai chái thì bài khấn chỉ cần có ba câu đầu. Sau khi lễ xong, gia
chủ phải là người đầu tiên đỡ tay vào đòn. Sau đó người thợ cả, rồi đến
các người thợ sẽ đỡ giúp tay đòn. Trong trường hợp gặp ngày tốt phải làm
lễ ngay mà chưa kịp có đủ ngói lợp, người thợ cả sẽ gói hai viên ngói
và treo bên cạnh cờ bùa bát quái. Lá bùa này được giữ trên đòn nóc vĩnh
viễn, hay ít nhất cũng đến ngày lễ tân gia.
Hướng
mặt tiền của căn nhà không nhất thiết phải là hướng nam, mà nhiều khi
được ấn định bằng việc xem tuổi của gia chủ. Nhưng xem hướng nhà không
quan trọng bằng việc đo lường ấn định kích thước của nhà, và nhất là
cửa, ngõ. Người Á Đông xưa dùng thước Lỗ Ban để đo đạc trong quá trình
dựng nhà. Hiện có nhiều loại thước Lỗ Ban khác nhau, thí dụ như thước
của Trung Quốc, Nhật, Lào và Việt Nam.
Theo các nghệ nhân lớn tuổi trong nghề dựng nhà xưa ở Huế, vua Gia long
đã ra lệnh sửa đổi các thước Lỗ Ban cổ, bằng cách thêm 4 phân (khoảng
2cm) vào mỗi loại thước, để cung điện được triều Nguyễn xây sau này sẽ
khác với các triều đại trước, cũng như với ngoại bang.
Có
hai loại thước Lỗ Ban được dùng trong việc xây nhà ở Huế ngày xưa. Loại
đầu tiên là Bát mộc xích, dài 42,7cm, để đo cột, kèo và mọi chiều dài
rộng trong nhà. Loại thứ hai quan trọng hơn, là Bát mộc xích, dài
28,4cm, để đo chiều rộng cửa, ngõ. Mỗi thước Lỗ Ban được chia làm 8
cung, trong đó có 4 cung cát (tốt lành) và 4 cung hung (xấu). Mỗi cung
lại chia làm 4 phần. Thí dụ như cung Phước Đức có 4 phần: Âm Đức, Thiên
Sanh, Lục Hạp, Nghênh Phước.
Đo
cửa là điều quan trọng nhất trong việc làm nhà. Kích thước của đất và
nhà có thể vì khả năng, tài lực của gia chủ mà thay đổi. Nhưng dù đất có
nhỏ đến đâu cũng phải có cửa, và cửa được coi là linh hồn, sinh lực của
căn nhà. Người xưa tin rằng chỉ xê xịch vài phân chiều rộng của cái cửa
cũng có thể đổi hẳn vận mệnh của chủ nhà.
Một
nhà 3 gian có 9 cửa ở mặt tiền, và các cửa phải được đo kỹ như nhau.
Chiều rộng tương đối của mỗi cửa do gia chủ chọn được đo bắt đầu từ cạnh
bên trái. Khoảng còn lại cuối cùng, không đủ một thước, sẽ được ứng vào
cung, phần mà gia chủ ấn định. Thí dụ nếu chủ nhà đứng tuổi và
mong trường thọ thì chiều rộng cửa sẽ được ứng vào phần Thiên Sanh của
cung Phước Đức. Nếu gia chủ muốn con cái sau này thi đậu, thành đạt, thì
sẽ đo cửa vào phần Đăng Khoa của cung Tài Lộc. Không đo kỹ mà để chiều
rộng rơi vào các cung hung, thí dụ như cung Lục Hại, thì sau này sẽ có
nguy hiểm. Cả ngõ vào nhà cũng phải được đo tương tự. Để tăng thêm phần
hiệu lực của thước Lỗ Ban, người thợ cả sẽ phải khấn ba lần một bài chú
Khai môn bằng chữ nho khi đo cửa, ngõ. Câu chú vẫn dùng ngày nay ở Huế
do Thượng thư bộ Lễ Phan Thanh Giản sao lại và ban ra ngày 20/5 năm Tự
Đức thứ 9 (1856). Hiện nay người Á châu ở khắp nơi, kể cả nước Âu Mỹ,
vẫn dùng thước Lỗ Ban để ấn định chiều rộng của cửa chính khi xây nhà.
Tục
truyền rằng trong khi xây nhà, gia chủ phải dùng lễ để đối đãi với các
thợ, nhất là thợ cả. Những người thợ nhà nghề nhưng ác tính thủa xưa có
thể dùng bùa Lỗ Ban để hại gia chủ nếu họ bị ngược đãi. Bùa Lỗ Ban có
ban hạng thượng, trung, hạ. Mỗi hạng lại có 16 cặp để yểm giải. Người
thợ xem cờ bùa thượng lương để biết rõ can, mệnh, tuổi gia chủ tuỳ theo
căn cơ cao thấp của chủ nhà mà chọn bùa. Thường thì người ta viết một lá
bùa nhỏ rồi dấu vào khe đòn tay, kèo, hay chân cột khi thuận tiện. Cũng
có khi người ta yểm thêm vào đấy một con ngựa và một cái kiếm khắn nhỏ.
Nhưng người thợ cao tay ấy chỉ cần dung tay trái vẽ bùa lên không rồi
vỗ tay vào cột chính là đủ.
Phức
tạp như thế nhưng vẫn chưa xong, người xưa còn phải rất cẩn thận khi
thiết kế đất vườn chung quanh nhà. Mỗi thứ cây đều có hàm một ý nghĩa
nào đó. Thí dụ như tùng, bách là cây Tiên Lão trường sinh, chỉ trồng ở
các lăng tẩm. Ngô đồng là cây quân tử, nên trồng trước nhà. Đào ngăn
quỷ, nhưng quỳnh chiêu gọi ma. Mít lấy từ chữ Phạn paramita, (phiên âm
Hán Việt là ba - la - mật - đa), có nghĩa là giác ngộ, giải thoát, cho
nên hay trồng bên chùa. Cây vã đem lại sự không may nếu trồng gần nhà,
vì “mỗi cây vả ngả một người’. Rồi lại còn các quy cách như “đông đào
tây liễu”, “cau trước chuối sau”... rất phức tạp.
Trên
đường vào trước nhà phải xây một bức trấn phong để ngăn chặn tà ma xâm
nhập. Sau đó lại có hòn giả sơn để phụ cho trấn phong. Bên cạnh mục đích
mỹ thuật trang trí, giả sơn thường được làm với những dạng có hình thức
Lão giáo, thí dụ như Tam sơn, Bồng Lai tam đảo, Ngũ nhạc, Lý ngư vượt
Vũ môn, để nếu có ác sự nào vượt được trấn phong thì sẽ bị lạc lối và ở
lại tiêu dao trong cácnơi núi non tiên cảnh này. Người xưa rất sợ trường
hợp thay vì một hòn giả sơn, vì không am hiểu họ lại có một "gò mã ma
ở” do thợ có ác ý đắp trước nhà.
Các tục lệ, tin tưởng, nghi lễ trong việc xây nhà rường trước đây là những yếu tố hình thành của nền văn hoá Việt Nam
nói chung và Huế nói riêng. Bao nhiêu công sức, bao nhiêu tâm nguyện
của người xưa được đặt vào mới tạo nên một ngôi nhà rường. Tất cả có lẽ
đều có mục đích để cho người ta trân trọng, gắn bó với căn nhà hơn.
Theo Trịnh Bách
|
Nhận xét
Dựng nhà rường Huế xưa thật không dễ. nhưng chắc chắn sẽ rất đẹp đây
Trả lờiXóa-----------------------------------MayCuaGoCongNghiep------------------------------------
nhà cung cấp máy cưa bàn trượt 2 lưỡi và máy dán cạnh tự động tốt nhất tại tphcm