Văn Hóa Việt bao gồm: Tộc Kinh,Tộc Chăm,tộc Khơ Me, các tộc Tây Nguyên (Sê Đăng, Bâhnar, Êđê, Jrai, Vân Kiều, Sơ Drá, Ca Tu, Brâu, Mnâm, Hrê, Ka Dong, K’Ho, Mạ….Mnông, Jẻ Triêng, Stieng) và các tộc phía Bắc từ tỉnh Quảng Bình trở ra.Các tộc phía Bắc gồm có các tộc nói ngôn ngữ Việt Mường (Mường, Thổ, Chứt), các tộc nói ngôn ngữ Môn – Khơ me ở miền núi từ Quảng Bình trở ra (Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu , Bru – Vân Kiều), các tộc nói ngôn ngữ Tày – Thái ( Thái, Lào, Lự, Bố Y, Giáy, Nùng, Sán Chay), các tộc nói ngôn ngữ Hmông - Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn), các tộc nói ngôn ngữ Hoa (Hoa, Ngái, Sán Dìu), Các tộc nói ngôn ngữ Tạng– Miến (La Hủ, Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, Cống và Si La), và Các tộc nói ngôn ngữ Ca Đai (Cờ Lao, La Chí, Pu Péo, La Ha)I- Nhà cửa truyền thống của tộc Kinh (Việt)
Trong nghệ
thuật kiến trúc, dân Việt lấy gỗ hay tre làm vật liệu căn bản.
Nhà
cửa
đều
là một hệ thống kèo cột rằng rịt lấy nhau có mái nặng đè xuống cho
vững. Lấy cột làm chỗ tựa cho mái, chứ không lấy tường, như lối kiến
trúc của nhiều dân tộc, vách và tường chỉ dùng để chắn gió mưa. Cột
nhà đều tựa chân trên tảng đá. Bộ phận chính của nhà là 3 gian và
hai hàng cột ở giữa. Nhà thì có 4 mái: hai mái chính và hai mái
chái. Nhà nào cũng ít cửa, nên trong nhà thường tối.
Mặt sau của
gian giữa thì không bao giờ có cửa vì đấy là nơi đặt bàn thờ Tổ
Tiên.
Nhà được cất
theo chữ nhất kiểu nhà của vùng Quảng Trị hoặc chữ nhị
gồm nhà trước nhà sau kiểu nhà vùng Quảng Nam hoặc chữ Đinh
kiểu nhà của vùng Quảng Ngãi. Nhà dù kiểu nào đi nữa thì kết
cấu vẫn gồm cột kèo, xiên, trính, đòn tay,rui mè.
Với thời gian,
gỗ và tre bị mối mọt không bảo quản được, nên từ từ những vật liệu
này được thay thế bằng xi măng và gạch ngói. Trong lối kiến trúc
nhà thường dân ngày nay thì cửa sổ là một khung vòng tròn có bông
sen. Vòng tròn biểu tượng bánh xe luân hồi và bông sen là hai âm
hưởng của Phật Giáo được đưa vào kiến trúc.
Nhà là nơi
diễn ra những sự kiện như
sinh,
hôn,
tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa đối
với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng xã hội, không
chỉ là nhu cầu về vật chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ nghỉ,
mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Người
Kinh rất trọng
hướng nhà, vì vậy, hướng nhà
phải do một thầy địa lý có tiếng chọn riêng theo tuổi của gia chủ.
Họ quan niệm làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc và may mắn đến
cho gia đình.
Nhà
cửa
thường quay về hướng Nam
để tránh thời tiết nóng và lạnh
Nhà cửa
thường tránh cổng ngõ hoặc lối đi, hoặc góc ao hoặc đao mái đình.
Cổng ngõ hoặc lối đi không đâm thẳng vào trung tâm gian giữa
. Nếu bất đắc dĩ, người ta không tránh được những điều kiêng kỵ đó,
người ta chôn hoặc con chó đá ở trước cổng, hoặc treo một cái gương
ở trên cửa
chính trừ tà khí .Tại thành thị, nếu nhà mình phải nhà
hàng xóm chiếu chính giữa, người ta thường treo cửa hình bát quái
hay một tấm gương con nếu nhà đối diện cũng treo gương hay hình bát
quái. Nhà lợp tranh vách đất vật liệu
bằng gỗ hay tre. Loại nhà này không cao vì tránh gió to và bão táp,
Bên trong nhà không rộng lớn, vì phải dành chỗ làm sân, ao và
vuờn. Người Việt quan niệm nhà lớn không tốt hơn là đủ thực phẩm
để ăn. Lối kiến trúc nhà cửa hòa hợp với môi trường sống thiên
nhiên
Nhà cửa
thì chung chung ba gian hai chái, có khác chăng chỉ là
chất liệu và
kiểu dáng trang trí nội ngoại thất căn nhà . Chẳng hạn đối với một
số người giầu có và chữ nghĩa thì nhà của họ có các gian ngoài được
trang trí bằng bao lam chạm khắc tinh tế cây trái như:
dưa, cà, cam,
xoài, lê, lựu (ước nguyện phồn thịnh ấm no) hoặc chạm khắc
chim trĩ quấn theo hoa dây hóa long ( tượng trưng cho tinh thần
phóng khoáng và trường tồn) hoặc chạm khắc hình tượng long
mã. Theo truyền thuyết, long mã là một linh vật mình
rồng, thân ngựa hiền lành biểu hiện sự thiện chân.
Còn
gian giữa nơi sinh hoạt thờ cúng thì được
trang trí bằng hai bao
lam, đường nét chạm trổ đơn giản, nổi bật chủ đề
con sóc chùm
nho, ( mong muốn được vui vầy ấm no) kết hợp với
hình tượng con dơi ( biểu hiện sự phúc đức đời đời). Những bao lam
này được xây dựng theo tứ thời (
mai lan, cúc, trúc) và tứ linh (
long lân qui phượng). Gian giữa cũng được trang trí bằng những tấm
gỗ gõ ghép lại, chạy chỉ nổi, có cưa lộng hình nấc thang tháp, lục
bình ( bắt chước trang trí của người Miên xưa) kết hợp với
chữ thọ
hình vuông và kết hợp với bức hoành nổi bật ba chữ Hán Phúc Lưu
Đường. Gian giữa là nơi thiêng liêng nhất
trong nhà vì được kê bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ được trang trí bằng
gỗ chạm hoa văn tỉ mỉ. Ngoài bàn thờ ra, còn kê tấm
phản gỗ, nơi quây quần của gia đình, nơi diễn ra những bữa cơm thân mật, nơi
thảo luận cả đến những chuyện đại sự. Gian giữa
cũng là phòng khách của gia đình nên nó
cần phải được trang hoàng, thường người Việt chữ nghĩa treo những
trướng câu đối đượm mầu tôn giáo, chẳng hạn câu:
Tổ
Tiên công đức muôn đời thịnh,
Con Cháu
thảo hiền vạn kiếp vinh
Ý tưởng
của câu đối này phản ảnh lòng sùng bái tổ tiên và đồng thời phản ảnh
niềm tin vào kiếp luân hồi. Ngoài trướng câu đối ra , người Việt còn
treo những hình ảnh lũy tre, cánh bèo hoặc trưng bày tượng các con
trâu, chim hạc. Đó là những nét đặc trưng của nền văn hóa nông
nghiệp của người Việt
|
||
II-
Nhà cửa
truyền thống
của tộc
Chăm
1/
Người Chăm ở Bình Thuận
Bộ khung
nhà của khá đơn giản.
Vì cột
cơ bản là vì ba cột ( kèo
được liên kết với cột hoặc không có vì kèo thì dùng tường thay
thế kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên
cây đòn
tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất
hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
Mặt trước
nhà quay về
hướng Nam hoặc
hướng Tây. Gian giữa là trung
tâm (ngườiChăm
gọi là
sang-yơ), phía phải là
phòng ngủ của bố mẹ, bên trái
là kho, sau là
phòng ngủ của con cái. Mặt trước
có một hiên ở giữa nhà.
Nhà bếp
được xây dựng riêng biệt với nhà chính và ở phía Tây
nhà chính, trong nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước
uống và kho chất đốt (củi, than, v.v.).
2/- Nhà người Chăm ở miền Nam.
Nhà
chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ.
Nhà ở là
nhà sàn, chân rất cao
để phòng ngập lụt. Chuồng trâu bò và lợn
được làm xa nhà ở.
Tộc người
Khmer ở Việt Nam theo
tổng điều tra dân
số năm
2009,
thì có dân số 1.260.640 người,
sinh
sống ở
đồng bằng sông Cửu
Long thuộc các tỉnh
Sóc Trăng,
Trà Vinh,
Bạc Liêu,Cà
Mau,
Kiên Giang,
An Giang,
Hậu Giang,
Cần Thơ,
Vĩnh Long,Đồng
Tháp,
Long An,Tiền
Giang,Bến
Tre
Nhà cửa là
nhà sàn bằng gỗ trên cọc gỗ , mái có thể bằng ngói hay bằng cọ
Nhà này khác nhà kia có thể vì khung mái nhà, vì vị trí cầu
thang, vì hiên nhà, vì số cột mặt tiền, vì số cột toàn diện. Nhà
cửa là nhà sàn trên cọc gỗ vì ở vùng nhiệt đới ẩm ướt hay ngập
lụt không thuận lợi nếu xây cất trên mặt đất và vì nhà sàn có cầu
thang nhiều bậc lẻ cản ngăn các ác thần đến làm hại.
Nhà cửa
không có chỗ
tắm và cầu
tiêu trên sàn. Bếp riêng biệt khỏi nhà. Nhà có gian riêng cho bố
mẽ, gian riêng cho con cái khôn lớn. Giường ngủ có thể chỉ là đệm
lằm bằng rơm rạ hay chỉ là một cái chiếu, nhưng luôn luôn phải có
mùng chống muỗi. Hiên nhà và gian chính là nơi xum họp gia đình và
khách .
Những cột
của hiên nhà dùng làm cột mắc võng. Ngoài nhà chính ra, còn có
làm thêm một cái nẫm đựng thóc gạo.
Dưới sàn
nhà là nơi sinh hoạt và làm việc, nơi chứa dụng cụ nông nghiệp hay
dụng cụ nghề nghiệp. Ở dưới sàn nhà thường có một cái phản gỗ lớn
cho nhiều người có thể ngồi. Cũng chính là nơi truyện trò thảo luận
bàn cãi mọi vấn đề. Ở đó không có bàn, không có ghế. Nấu ăn ở ngay
mặt đất chỉ cần nhóm lửa. Đến bữa ăn thì giải chiếu xuống đất.
Vật liệu
để xây dựng nhà cửa tuỳ vào mức độ làm ăn của gia đình. Cột dùng làm
nhà là loại gỗ cứng. Sàn nhà có thể là những lát gỗ lớn và quí hay
cũng có thể là tre nứa. Vách nhà cửa có thể là gỗ cũng có thể là
những lá dừa. Mái nhà cũng có thể lợp bằng ngói hay bằng lá cọ hay
dừa.
IV-
Nhà cửa
truyền thống
của
các
tộc
Tây
Nguyên
Các tộc Tây Nguyên gồm
có
Sê Đăng, Bâhnar,
Êđê, Jrai, Vân Kiều, Sơ Drá, Ca Tu,
Brâu, Mnâm, Hrê, Ka Dong, K’Ho. Mạ….Mnông, Jẻ Triêng, Stieng. dạng “ tạm dạng bán kiên cố dạng kiên cố
1/- Nhà dạng “ tạm ” :
Của nhóm các tộc người phía nam Tây Nguyên như Mnông, Jẻ Triêng,
Stieng… cũng là nhà dài nhưng do có tập quán du cư, nên
đều làm dạng nhà trệt bằng vật liệu không bền vững, như gỗ
làm cột nhà thường là loại cây chỉ bằng bắp tay. Mái nhà lợp tranh
rủ xuống sát đất, có hai cửa ra vào hình ovan. Dưới lớp tranh, trên
hệ thống các vì kèo – dưới lớp tranh - là một tấm phên đan thưa
thành các hình vuông, hoặc quả trám rất khéo léo.
2/- Nhà sàn thuộc dạng bán kiên cố ( nhà mu rùa ) :
Của nhóm Ca Tu, và một số tộc người khác như Brâu, Mnâm,
Hrê, Ka Dong, K’Ho. Mạ…. Cột bằng cây gỗ loại vừa . Mái lợp
tranh hình ovan. Hai đầu mái có thanh gỗ nhọn tượng trưng cho
chiếc sừng trâu. Sàn lát bằng nứa, đập dập. Sàn chân thấp.
3/-
Nhà sàn thuộc dạng kiên cố :
Kiến trúc nhà dài của các tộc người Êđê, Jrai
tiêu biểu
cho nhóm ngôn ngữ Nam Đảo.
Nhà sàn dài. Một căn nhà sàn có chiều dài thường từ 25-50m.Trong
những ngôi nhà thông thường, hệ thống cột gồm 6 cây gỗ ( ana) lớn
chạy song song hai bên lòng nhà. Đồng bộ với các cột (kmeh sang ) là
hai cây xà nhà (êyông sang) dài cũng suốt chiều dọc của căn nhà. Các
cột nhà đều là thân cây gỗ lớn.
Nhà ở làm theo hướng Bắc - Nam đón gió mát và không
bị hắt nắng chiều,
Sàn cao. .
Đập vào mắt du khách trước tiên là mái tranh ( hlang), với
hai đầu hồi nhọn nhô ra phía sàn hiên trước và sau nhà. Mái
thường lợp rất dày, đủ sức chịu đựng vài chục năm mưa liên miên ở
Tây Nguyên. Dột ở đâu, người ta gỡ tranh tại đó ra dặm lại, khiến
trên mái nhà có những khoảng tranh mới cũ khác nhau, tạo nên một ấn
tượng vui mắt. Cửa vào nhà ở hai đầu hồi.
Người Jrai với tập quán chọn địa điểm cư trú gần kề sông
nước ( sông A Yun Pa, Sông Ba, Sông Sa Thầy...), nên các cột nhà
thường có độ cao hơn nhà Êđê, gần như lênh khênh trên hệ
thống những cây gỗ nhỏ.Cửa vào nhà dài Jrai ở chính giữa hông nhà
Kiến trúc nhà dài của các tộc người Sê Đăng, Bâhnar,
tiêu biểu
cho nhóm ngôn ngữ Nam Á:Nhà sàn dài . Nhà ở cũng được làm từ những nguyên liệu truyền
thống vốn có sẵn ở núi rừng như: Gỗ, tranh, tre, nứa, lồ ô...
Nhà sàn có độ dài tuỳ thuộc vào số lượng thành viên trong từng gia
đình, từ mặt đất đến gầm sàn khoảng dưới 1m.
Mỗi ngôi nhà có hai cửa: Cửa chính cầu thang đặt ở khoảng giữa của
ngôi nhà dành cho mọi người trong gia đình và khách. Trước cửa có
làm sàn bằng ván gỗ hoặc tre nứa, không có mái che, để khách dừng
chân trước khi lên nhà và để giã gạo; cầu thang phụ đặt ở đầu hồi
phía nam dành cho trai gái đến tìm hiểu để không làm ảnh hưởng đến
sinh hoạt của gia đình
Kiến
trúc nhà cửa
truyền thống
của
các
tộc
Tây
Nguyên
Điểm
đặc biệt thứ nhất: Vật liệu hoàn toàn bằng gỗ, tre, nứa, tranh….những
loại cây cỏ hiện diện trong rừng. Không có bất cứ một vật
dụng nào bằng sắt thép hay những chất kết dính không mang tính tự
nhiên. Phương tiện dùng để dựng nên căn nhà cũng rất đơn giản,
chỉ với những chiếc rìu ( xagac).
Điểm đặc biệt thứ hai : các cột và xà nhà sàn hay nhà Rông
chỉ được đặt chồng lên nhau, hoặc ghép mấu ( theo dạng ngàm) vào
nhau rất trùng khít .
Điểm đặc biệt thứ ba : nghệ thuật tạo hình trên các thân cột, xà
ngang bằng chạm khắc nổi, vẽ những hình ảnh quen thuộc với cư dân
rừng núi, như chim, rùa, kỳ đà, hoặc các hình sao, hình dấu nhân,
mặt trời...
Hầu như tất cả các tộc người đều sử dụng một loại nguyên liệu làm
vách nhà bằng tre, nứa.Riêng với tộc người Tà Ôi & Ca Tu làm
vách nhà bằng vỏ cây achoong ( còn có tên gọi là cây ươi bay ), một
loại cây chỉ có ở rừng miền núi vùng huyện A Lưới ( Thừa Thiên – Huế
).
Kiến
trúc nhà cửa
truyền thống
của
các
tộc
Tây
Nguyên
Điểm
đặc biệt thứ nhất: Vật liệu hoàn toàn bằng gỗ, tre, nứa, tranh….những
loại cây cỏ hiện diện trong rừng. Không có bất cứ một vật
dụng nào bằng sắt thép hay những chất kết dính không mang tính tự
nhiên. Phương tiện dùng để dựng nên căn nhà cũng rất đơn giản,
chỉ với những chiếc rìu ( xagac).
Điểm đặc biệt thứ hai : các cột và xà nhà sàn hay nhà Rông
chỉ được đặt chồng lên nhau, hoặc ghép mấu ( theo dạng ngàm) vào
nhau rất trùng khít .
Điểm đặc biệt thứ ba : nghệ thuật tạo hình trên các thân cột, xà
ngang bằng chạm khắc nổi, vẽ những hình ảnh quen thuộc với cư dân
rừng núi, như chim, rùa, kỳ đà, hoặc các hình sao, hình dấu nhân,
mặt trời...
Hầu như tất cả các tộc người đều sử dụng một loại nguyên liệu làm
vách nhà bằng tre, nứa.Riêng với tộc người Tà Ôi & Ca Tu làm
vách nhà bằng vỏ cây achoong ( còn có tên gọi là cây ươi bay ), một
loại cây chỉ có ở rừng miền núi vùng huyện A Lưới ( Thừa Thiên – Huế
).
|
||
V-
Nhà cửa
truyền thống
của
các
tộc
phía Bắc từ tỉnh Quảng Bình
trở ra
Nhà
cửa của người
Mường
tiêu biểu
nhà
cho nhóm dân tộc ngôn ngữ Việt-Mường (Mường,
Thổ, Chứt)
Nhà
cửa của người
Tày – Thái
tiêu
biểu nhà
cho nhóm
tộc ngôn ngữ Tày – Thái (Tày,
Thái, Lào, Lự, Bố Y, Giáy,
Nùng, Sán Chay)
Nhà
cửa của người
Bru – Vân Kiều
tiêu biểu nhà
cho nhóm
tộc ngôn ngữ Môn – Khơ me
(Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu, Bru– Vân Kiều)
Nhà
cửa của người
Dao,
tiêu biểu nhà
cho nhóm
tộc ngôn ngữ Hmông
- Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn)
Nhà
cửa của người
Hoa,
tiêu biểu nhà
cho nhóm
tộc ngôn ngữ
Hoa
(Hoa, Ngái,
Sán Dìu)
Nhà
cửa của người
La Hủ
&
Hà Nhì
tiêu biểu nhà
cho nhóm
tộc ngôn ngữTạng–
Miến
(La Hủ, Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá,
Cống và Si La)
Nhà
cửa của người
Cờ Lao,
tiêu biểu nhà
cho nhóm
tộc ngôn ngữ
Ca Đai (Cờ Lao, La Chí,
Pu Péo, La Ha)
Có
nhiều nét tương đồng về loại hình, kiến trúc, cách thức sử
dụng, cũng như các kiêng kỵ, nghi lễ liên quan. Điều này không chỉ
các học giả ở các thế kỷ trước, mà còn đông đảo các nhà nghiên cứu
hiện nay thừa nhận. Với người Mường,
Thái, Tày
nhà
là nơi diễn ra và chứng kiến những sự kiện như
sinh,
hôn,
tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa đối
với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng xã hội, không
chỉ là nhu cầu về vật chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ nghỉ,
mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh. Theo quan niệm của họ, làm
nhà không được ngược hướng với đồi núi, chính vì vậy, bề ngoài, nhà
của họ có vẻ không theo một quy luật nào. Nhà dựng ở đồi gò
thì lưng dựa vào đồi gò, cửa hướng ra khoảng không thung lũng,
cánh đồng trước mặt. Nhà dựng ở ven sông thì mặt có thể hướng ra
dòng sông hay hướng vào trong...
|
A-Nhà
cửa của người
Mường,
Thái, Tày
Người Mường, Thái, Tày
rất trọng hướng nhà, vì vậy,
hướng nhà phải do một thầy địa lý có tiếng chọn riêng theo tuổi của
gia chủ. Họ quan niệm làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc và
may mắn đến cho gia đình
Nhà cửa của họ đều được làm bằng
gỗ, tre, nứa.
Họ dùng
con xỏ bằng tre, con then bằng gỗ, đinh kèo bằng gỗ… để đóng
thay cho đinh sắt. Họ dùng lạt
mây,
giang hoặc
tre bánh tẻ để buộc níu các
ngoàm đẽo hoặc cột kèo.
Tre nứa
dùng làm nhà phải không được cụt ngọn, không bị sâu hay bị đốt cháy
dở.
Gỗ làm
nhà
phải là loại gỗ chắc đảm bảo không mối mọt và thường là gỗ
lim xanh, mài lái… Người Mường,
Thái, Tày
đặc
biệt quan tâm đến những cây gỗ mọc ở núi đá như giống
gỗ heo vì giống gỗ này chặt
đốn thì mềm nhưng khi chôn xuống đất hàng trăm năm cũng không mục
mại. Có nơi đồng bào còn kéo gỗ ra ngâm bùn tại ngòi, suối khoảng
một hai năm mới vớt lên
làm.
Những cây gỗ được chọn làm cột,
sau khi lắp mộng, dựng khung, được chôn thẳng xuống những
hố đã đào sẵn sâu khoảng 20 – 30 cm. Tục chôn cột nhà, ngoài
dụng ý cho vững chắc khung nhà khi lợp mái, làm sàn, làm vách, còn
có ý nghĩa tâm linh, thể hiện cho sự hoà hợp âm dương,
một biến thể của
tín ngưỡng phồn thực. Cho đến
nay, đa số người Mường, Thái, Tày
đã thay đổi tục chôn cột nhà bằng cách nâng cột lên mặt đất và kê
lên những phiến đá chống mối mọt
Khung nhà sàn
của người Mường, Thái, Tày
được dựng hoàn toàn bằng cách đục đẽo ghép mộng,
hoặc
thiết kế theo kiểu vì cột, liên kết chủ yếu là buộc, gá
hoặc dùng ngoẵm.
Đòn tay (tôn thảy) được đặt dọc mái nhà. Đòn tay cái
có miếng tre kẹp chặt đòn tay vào đầu cột cái gọi là cái khoá kèo.
Khi bắc đòn tay thì ngọn phải quay về gian cuối, gốc ở
gian đầu nơi có cầu thang lên xuống. Gian này được gọi là
gian gốc.
Sào nhà gác lên thượng lương.
Gốc sào cũng phải quay về gian
gốc. Khung nhà sàn gồm
có một gian chính, hai chái, hai mái
chính hình thang cân và phẳng, hai mái đầu hồi nhỏ và thấp.
Mái nhà
lợp bằng lá
cọ hoặc bằng
cỏ gianh. Những cây
nứa ngộ (loại nứa to và dày)
vàng óng được lựa chọn kỹ để pha nan kẹp lá (như cái gắp dùng
để kẹp cá nướng). Cứ như thế, những kẹp lá cọ được đưa lên
mái buộc thẳng vào
dui mè. Đây là cách lợp mái
nhà theo tục truyền thống còn tồn tại phổ biến cho đến ngày nay. Tuy
vậy ở một số nơi, người Mường, Thái, Tày
đã
thay cách lợp nhà. Lá cọ được đưa lên lợp vào dui mè mà không cần
kẹp nữa. Mái nhà sàn khum khum hình mai rùa.
mái chảy xuống gần hết cửa sổ.
Cửa sổ
thường được thiết kế ở đầu hồi và vách phía sau, vách
làm bằng phên nứa. Đối với người
Mường, Thái, Tày
cửa sổ ở gian thờ tổ tiên
(voóng tông) rất linh thiêng, kiêng đưa đồ vật và
ngồi dựa vào đó.
Sàn nhà
được làm bằng những cây bương già thẳng pha thành mảnh dát xuống
lược bỏ mắt và cạnh sắc ghép liền với nhau, dùng lạt mây buộc chặt
kết thành từng mảnh buộc chặt vào khung sàn.
Nhà của
người Mường, Thái, Tày
thường ba đến năm gian. Những
gia đình đông con thì nhà lên đến bảy –
mười hai gian. Những ngôi nhà như vậy ngày nay còn rất
ít. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một
sàn bên trái để bắc cầu thang và máng nước sinh hoạt.Sàn
nhà thường
cách mặt đất
khoảng
2 đến 2,5 m
tuỳ từng nơi ẩm thấp hay cao ráo
.
Gầm sàn nhà người Mường, Thái, Tày thường được dùng phần lớn làm nơi nhốt trâu, bò, lợn và các loại gia cầm khác. Phần còn lại là nơi đặt các loại cối giã, để nông cụ, các công cụ sản xuất như cày, cuốc, liềm, nong, nia và các đồ dùng khác |
||
1/ Cách bố trí nơi ăn ở của nhà
người
Mường,Thái
tương đối thống nhất.
Tại hai đầu hồi, có cầu thang với số bậc lẻ. Cầu thang phía thờ tổ
tiên (voóng tông) dành cho nam giới, cầu thang phía bếp dành
cho giới nữ. Phía trên (voóng tông), là nơi ngủ, phía dưới
đặt bếp và là nơi sinh hoạt của gia đình. Tính theo chiều ngang sàn
nhà, phía thờ tổ tiên (voóng tông), dành cho nam giới, phía
giáp bếp là khu vực của phụ nữ, tiếp đó là sàn phơi và đồ đựng nước.
Gian đầu tiên từ cầu thang lên gọi là gian gốc.
Đây là gian quy tụ mọi tính linh thiêng của ngôi nhà, là nơi
xuất phát những tục lệ đối xử hành vi của con người với ngôi nhà.
Ở
gian gốc có một cây cột to hơn
các cây cột khác trong nhà gọi là cột gốc (còn gọi là cây cột
chồ) ở đầu góc nhà gần cầu thang. Cây
cột gốc được đồng bào trân trọng
đặt khám (bàn thờ) thờ tổ tiên.
Mọi người kể cả chủ hay khách đến nhà chơi đều không được bôi nhọ,
dựa lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo vào cột này. Phần
cột dưới sàn cũng không được buộc trâu bò hay dựng, treo
công cụ lao động. Người Mường quan niệm nếu phạm phải những điều
cấm trên thì bị coi là xúc phạm đến gia đình, tổ tiên và thần linh.
Gian nhà gốc
chỉ dành riêng cho nam giới.
Phụ nữ trong nhà không được ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các
ngày trọng đại như hôn lễ, ma chay thì chỉ nam giới có vai vế
trong dòng họ được ngồi ăn uống.
Tại gian
nhà linh thiêng này có một cửa sổ làm sát
đến sàn nhà gọi là cửa sổ “voóng” linh thiêng,
không ai được đưa vật gì hay chui qua. Cửa sổ voóng chỉ dành để
đưa quan tài ra ngoài khi gia chủ có tang ma. Đối diện
với cột chỗ ở gian gốc có một cột nhà tương đối quan trọng. Ở
chân cột này, người Mường để vào cum lúa đã tuốt hết hạt.
Đầu cột đội một cái
giỏ thủng biểu hiện cho âm
tính (đồng bào gọi là nường). Bên cạnh đó, người Mường
treo một đoạn tre tước xơ một đầu cho bông lên biểu hiện cho
dương tính (gọi là nõ). Điều này thể hiện đời sống tâm linh,
nói lên sự hỗn hợp, cân bằng âm dương,
sự ổn định và thuận hoà của cả gia đình.
Gian thứ hai
của ngôi nhà
(gian kế theo gian gốc) dành cho nam giới
ngủ nghỉ. Gian giữa
thường là gian để thóc và làm bếp.
Lúa gặt ở ruộng nương về phơi khô khi chuyển lên nhà được để ở đây.
Họ xếp lúa vào một cái quây như cái bồ thủng đáy đan
bằng nứa hoặc giang để gần bếp.
Bếp của người Mường là rất công phu. Khuôn bếp được
làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng, có đường viền xung quanh, đáy
lót bằng
bẹ chuối rồi rải bùn
lên trên. Khi chuyển bếp mới, người Mường tìm một số loại cỏ thơm
như
cỏ mật phơi khô để vào bếp
đốt lấy tro rồi mới bắc
kiềng nấu nướng. Bếp
thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi xuống. Có nhà bếp đặt
gần cửa sổ để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy, việc đặt
bếp ở cửa sổ ít được ưa chuộng hơn vì đồng bào quan niệm nếu đặt bếp
gần cửa sổ thì hơi ẩm từ bếp toả ra ngôi nhà không đều. Nhà người
Mường thường có hai bếp chuyên dụng. Một bếp để nấu nướng
thức ăn, và phụ nữ, trẻ em trong gia đình ngồi sưởi. Một
bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn
ông trong gia đình ngồi sưởi vào mùa đông và đun nước uống hàng ngày
hoặc tiếp khách. Bếp này người phụ nữ trong gia đình ít
khi được ngồi hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao tuổi như bà, cụ hay con
gái út được yêu quý nhất.Gian thứ hai
của ngôi nhà
(gian kế theo gian gốc) dành cho nam giới
ngủ nghỉ. Gian giữa
thường là gian để thóc và làm bếp.
Lúa gặt ở ruộng nương về phơi khô khi chuyển lên nhà được để ở đây.
Họ xếp lúa vào một cái quây như cái bồ thủng đáy đan
bằng nứa hoặc giang để gần bếp.
Bếp của người Mường là rất công phu. Khuôn bếp được
làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng, có đường viền xung quanh, đáy
lót bằng
bẹ chuối rồi rải bùn
lên trên. Khi chuyển bếp mới, người Mường tìm một số loại cỏ thơm
như
cỏ mật phơi khô để vào bếp
đốt lấy tro rồi mới bắc
kiềng nấu nướng. Bếp
thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi xuống. Có nhà bếp đặt
gần cửa sổ để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy, việc đặt
bếp ở cửa sổ ít được ưa chuộng hơn vì đồng bào quan niệm nếu đặt bếp
gần cửa sổ thì hơi ẩm từ bếp toả ra ngôi nhà không đều. Nhà người
Mường thường có hai bếp chuyên dụng. Một bếp để nấu nướng
thức ăn, và phụ nữ, trẻ em trong gia đình ngồi sưởi. Một
bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn
ông trong gia đình ngồi sưởi vào mùa đông và đun nước uống hàng ngày
hoặc tiếp khách. Bếp này người phụ nữ trong gia đình ít
khi được ngồi hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao tuổi như bà, cụ hay con
gái út được yêu quý nhất.
Gian cuối
cùng là nơi dành cho phụ nữ sinh hoạt
có chạn bát, để đồ dùng gia đình, nơi sửa soạn cơm nước. Gian
này được ngăn với các gian khác trong nhà bởi một tấm liếp.
Đây cũng là nơi người phụ nữ thay quần áo và ngủ nghỉ.
Đầu hồi nhà,
người
Mường, Thái
để một cái cối đuống và một cối tròn.
Cối đuống không chỉ dùng để
giã thóc gạo mà còn là phương tiện để gia đình báo nhà có việc
lớn như đám cưới mà tang ma. Bên cạnh đó, cối đuống còn là
một nhạc cụ sử dụng để gõ những bản nhạc vui trong ngày lễ
tết, hội hè với những bản đuống rộn ràng âm vang, người Mường gọi là
“đâm đuống” hay “châm đuống”.
Nhà của
người
Mường, Thái
thường chỉ có một cầu thang.
Song những ngôi nhà dài từ 7 - 12 gian thì phải làm hai cầu thang ở
hai đầu nhà. Những nhà có hai cầu thang như vậy khá hiếm vì
người
Mường, Thái
quan niệm đó
là sự xui xẻo, kiêng kị, của nả sẽ không giữ được trong nhà “vào đầu
này ra đầu kia”.
|
||
Nhà người
Mường
Nhà cửa
người Mường
chủ yếu ở những dải đồng bằng thung lũng hẹp, doi đất ven sông,
ngòi, dưới chân các dãy núi hay trên các đồi gò thấp. Vì lẽ
đó mà muốn vào nhà của người Mường thường phải băng qua con đường
nhỏ hoặc lội qua những con suối, ngòi.
Trong tổ hợp kiến trúc nhà ở truyền
thống của người Mường có chiếc lều nhỏ để thờ thổ thần,
được dựng ở dưới vườn, đối diện với mặt tiền ngôi nhà. Vai
trò tâm linh của chiếc lều này rất quan trọng. Tuy thế, việc dựng
lều thờ thổ thần, đối với người Mường, không phải bất cứ địa phương
nào cũng có. Xung quanh khuôn viên cư trú của họ thường bao bọc bằng
hàng rào tre, nứa hoặc các loại cây gai (dứa, xương rồng, găng,...
), có cổng ra vào. Trong khuôn viên cư trú của người Mường, ngoài
nhà ở thường là vườn trồng các loại cây ăn quả lưu niên, chè, mía,
và các loại rau, đậu khác.
Nhà người
Thái
Theo Robequain, nhà sàn người
Thái
hình chữ nhật.
sàn trước nhà để phơi phóng, rửa ráy.
Tại đây có vại nước để rửa chân trước khi vào nhà
2/
Cách bố trí nơi ăn ở của nhà
người
Tày
a/
Nhà
sàn
người
Tày
phía đông và đông bắc
- Phần dành tiếp khách: trước ban thờ gia tiên đặt một
cỗ phản.
Bên trái và bên phảiđạt 2 cỗ phản
khác, thấp hơn để làm nơi ngủ cho đàn ông.
- Phần dành cho trẻ con và đàn bà
được làm thành nhiều buồng kín.
- Chính giữa mỗi phần đặt 1 bếp.
Khung bếp làm bằng gỗ, lót đất sét. Trên bếp có gác, dùng để muối,
hong khô các đồ vật cần thiết.
b/
Nhà sàn người
Tày phía Tây vùng Đông Bắc
Cửa ra vào chính ở đầu hồi, tiếp theo đó là phòng đợi có
mái, phòng khách dành cho đàn ông, phòng cho phụ nữ, cuối
cùng là sàn rửa, phơi,... Mỗi khu vựcđặt một bếp.
|
Nhận xét
Đăng nhận xét