Chuyển đến nội dung chính
- (1790)
- Plan de Saigon
1790 Repris
dans l'ouvrage d'Hilda Arnold, 1949
- Bản đồ Sài Gòn 1815 do Trần Văn Học vẽTrần Văn Học - không rõ năm sinh năm mất, người huyện Bình
Dương, thành Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh, là một võ tướng
nhà Nguyễn và là người Việt đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn - Gia Định xưa
theo phương pháp phương Tây. Ông cũng được xem là một công trình sư của
thành Gia Định.
Ban đầu (Đại Nam chính biên liệt truyện không cho biết năm), ông theo
giám mục Bá Đa Lộc đến yết kiến chúa Nguyễn Phúc Ánh tại Gia Định.
Năm 1783, quân Tây Sơn vào đánh phá, ông Học và Bá Đa Lộc đưa mẹ chúa Nguyễn cùng gia quyến chúa chạy sang Cao Miên.
Ở xứ người một thời gian, Trần Văn Học bàn cùng các tướng, nhờ người Cao
Miên hộ giá tất cả về Cần Thơ, để tìm Nguyễn Phúc Ánh, chỉ riêng giám
quân Nguyễn Hữu Thụy sang Xiêm cầu viện.
Khi quân Tây Sơn đến truy đuổi nữa, chúa Nguyễn phải dong thuyền chạy ra
biển Đông. Trần Văn Học theo Bá Đa Lộc đem quốc thư sang cầu cứu vua
nước Xiêm, nhờ vậy chúa Nguyễn được phép cư trú nơi Xiêm quốc.
Ngày 19 tháng 11 năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh sai ông Học cùng Bá Đa Lộc
đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Cuối tháng 2 năm 1785 thì đến
thành Pondichérey, một thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ, nhưng các nhà cầm
quyền Pháp ở đây, như toàn quyền Contenceau des Algrains, thiếu tá hải
quân De Souillac, từ chối trợ giúp.
Thấy công việc không suôn sẻ, năm 1786, Bá Đa lộc xin các quan Pháp ở Ấn
Độ cho mình cùng hoàng tử Cảnh quá giang trên thương thuyền Malabar, để
tiếp tục sang Pháp, còn ông Học trở về Vọng Các, nước Xiêm.
Nhưng khi thuyền ông Học đến đảo Thổ Châu, các tướng khác ở lại với chúa Nguyễn, còn ông lại theo thuyền ngoại quốc đi nữa.
Mùa thu năm ấy, nước Portugal (Bồ Đào Nha) sai tướng Antonio Vincente Da
Rosa mang quốc thư và lễ vật gặp Nguyễn Phúc Ánh mời sang nước họ để
bàn việc viện trợ. Triều đình Xiêm biết được tỏ ý không vui. Chúa Nguyễn
liền bảo sứ thần trở về, rồi chỉ phái quan Hộ bộ Trần Phúc Giai đi đến
nước Portugal đáp lễ.
Lúc thuyền Trần văn Học về lại Thổ Châu, vua lại sai ông Học đi sang
thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ, đem việc đó hiểu dụ Bá Đa Lộc và toàn quyền
Pháp.
Năm 1787, thuyền đưa Trần Văn Học từ Pondichérey về đến Malacca thì gặp
gió lớn thổi bạt qua Lữ Tống (Lucon), hơn một năm sau mới về đến Gia
Định.
Nhờ giỏi quốc ngữ và tiếng Latinh nên từ đó, ông Học ở bên Nguyễn Phúc
Ánh phụ trách việc thông ngôn, dịch sách, nhất là các sách kỹ thuật
Phương Tây và kiêm cả việc chế tạo hỏa xa (một thứ chiến cụ), địa lôi và
các loại binh khí khác.
Năm 1790, Nguyễn Phúc Ánh cho xây thành Gia Định (thành Bát Quái). Ông
Học được giao việc "phác họa đường sá và phân khu phố phường” đường
trong thành.
Tuy bố trí thành theo phương Tây, nhưng thành lại có 8 cạnh ứng với 8
quẻ của kinh dịch phương Đông. Ngoài phần xây cất thành lũy chủ yếu phục
vụ yêu cầu quân sự, thì Trần Văn Học còn chịu trách nhiệm quy hoạch phố
thị nằm ngoài thành lũy. Chính các trục đường do ông vẽ ra nay đang còn
là những trục lộ chính của thành phố hiện đại, hướng về miền Trung,
xuống miền Tây và đi Campuchia. Phố xá, khu nhà ở, khu buôn bán sắp đặt
uyển chuyển theo hệ thống sông nước vùng Sài Gòn thời cũ là những sáng
tạo của một nhà quy hoạch tầm cỡ...
Sau đó, ông Học học cách đóng tàu đồng theo kiểu mới của người Pháp và
ông còn cùng với Vannier chỉ huy các thuyền đồng này đi đánh quân Tây
sơn.
Năm 1792, Trần Văn Học xây và vẽ họa đồ thành Mỹ Tho.
Năm 1802, nhà Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy hiệu là
Gia Long. Năm 1803, ông Học được thăng chức Cai cơ, rồi thêm chức Giám
thành sứ Khâm sai Chưởng cơ. Đó là một trong những chức lớn trong hàng
tướng lãnh của thời bấy giờ.
Năm Gia Long thứ 14 (1815), vào ngày 4 tháng 12 âm lịch, ông Học vẽ bản đồ Gia Định.
Năm Minh Mạng thứ hai (1821), vua sai ông Học vẽ bản đồ núi sông, đường sá các trấn ở thành Gia Định cho đến địa giới Chân Lạp.
Lúc đó, ông Học đã già, nên nhà vua dụ rằng: Người cũng không sống được
mấy ngày nữa, há chẳng nghĩ đến việc lưu danh hậu thế sao?
Rồi vua ban cho ông 100 quan tiền, nhưng chẳng bao lâu sau, ông Học mất.
Vào ngày 23 tháng 4 năm 1998 tại thành phố Hồ Chí Minh, liên hiệp các
Hội Khoa học kỹ thuật thành phố đã tổ chức buổi báo cáo về "Vai trò khoa
học và kỹ thuật của Trần Văn Học trong lịch sử 300 năm thành phố".
Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu đã giới thiệu và minh họa các công trình về
bản đồ của ông Học. Cuối buổi, giáo sư Trần Văn Giàu đã tổng kết và đánh
giá cao vai trò của Trần Văn Học trong tiến trình xây dựng các công
trình ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là ở Sài Gòn cách đây mấy thế kỷ.
Sách Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (tập I) ghi nhận:
Ông được đánh giá là người rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ kỹ thuật. Đem so
sánh bản dồ Sài Gòn 1799 của Dayot với bản đồ Gia Định 1815 của Trần
Văn Học thì, về kỹ thuật đồ bản như trắc địa hay tỉ lệ, bản đồ của ông
Học chính xác hơn nhiều...
Trong bảng danh sách các di tích tại miền Nam Việt Nam do Học viện Viễn
Đông của Pháp (École Francaise d’ Extrême - Orient) đề nghị và đã được
toàn quyền Đông Dương phê chuẩn vào ngày 19 tháng 5 năm 1925, thì lăng
Trần Văn Học ở xã Bình Hòa, tỉnh Gia Định, được liệt vào hàng thứ 9.
Theo tờ trình của ông H. Mauger, quản thủ Viện Bảo tàng Sài Gòn và kỷ yếu của Học viện Viễn Đông của Pháp, Vương Hồng Sển viết:
Trước kia Pháp gọi là “tombeu du Maréchal Nguyễn Văn Học”. Nay truy ra
không có công thần nào triều Nguyễn có tên họ như vậy. Có chăng là ông
Trần Văn Học, tác giả bức địa đồ tỉnh Gia Định họa năm 1815?
Ngày trước ngôi mộ Nguyễn Văn Học ở chỗ khác, chủ đất xin dời nên tham
biện sai gỡ ra từng khối nguyên đem về ráp lại trong hoa viên gần tòa
hành chính như hiện nay ta thấy.
Mộ cải táng vào ngày 28 tháng 4 năm 1939, lấy được đồ trang sức phẩm
bằng vàng, mão, đai của nhất phẩm đại thần, về sau ông quản thủ Pháp dời
giấu ở Long Xuyên rồi bị cướp, chung một số kiếp với những đồ vàng đào
được tại đường Công Lý...(theo Sài Gòn năm xưa).
Ông Nghiêm Thẩm giải thích sở dĩ H. Mauger ghi Trần Văn Học họ Nguyễn,
vì ông nghe những người ở chung quanh ngôi mộ cổ nói vậy. Nhưng tra kỹ
trong Đại Nam chính biên liệt truyện, chỉ thấy có Giám thành Trần Văn
Học, và không thấy chép việc ông Học được phép vua cho mang họ Nguyễn
(quốc tính) bao giờ.
Ông Thẩm đúc kết, chắc vì ông Học không có con hay thân nhân và cũng vì
các người ở gần khu mộ nhớ lộn họ của ông, nên ông H. Mauger mới ghi
sai. (theo Nghiêm Thẩm, Công trình sư Tần Văn Học, tạp chí Văn hóa, số
61, 1962)
- Bản đồ Sài Gòn 1795"Plan de la ville de Saigon, fortifiée en 1790 par le Colonel Victor
Olivier. Réduit du grand plan levé par ordre du Roi, en 1795, par Mr
Brun, ingénieur de Sa Majesté par Mr Dayot, 1799."
Bản đồ thành phố Sài Gòn, được bố phòng vào năm 1790 bởi Đại tá Victor
Olivier. Theo bản đồ lớn do kỹ sư hoàng gia Brun vẽ năm 1795 theo lệnh
nhà vua, nay thu nhỏ lại bởi J.M. Dayot, 1799.
A. Palais du Roi = Hoàng cung.
B. Palais de la Reine = Mẫu hậu cung.
C. Palais des Princes = Cung các hoàng tử.
D. Hôpital = Bệnh viện.
E. Magasin des Troupes = Kho quân đội.
F. Arsenal et Forges = Kho võ khí và lò rèn.
G. Charonnerie = Nhà xe.
H. Magasin à Poudre = Kho thuốc súng.
I. Corps de Caserne = Trại lính.
K. Place d'Arme = Võ sảnh.
L. Remises pour les pièces de Campagne = Trại tân tạo võ khí hành quân.
M. Mât de Pavillon = Cột cờ.
N. Maison de l'Evêque = Dinh Tân xá dành cho Bá Đa Lộc (Pierre Foseph Georges Pigneau de Béhaine - Giám mục người Pháp).
O. La Monnoye = Trường đúc tiền.
P. Magasin aux Vivres = Kho lương thực (Kho Quản Thảo).
Q. Bazard = Phố chợ (Đa Kao).
R. Chantiers de Construction = Xưởng Chu sư.
S. Bassin = Bể sửa chữa tàu thuyền.
T. Briqueterie = Lò gạch ngói.
U. Pagode = Chùa (Cây Mai).
V. Bazard chinois = Chợ người Hoa (Chợ Lớn).
Bản đồ này do Le Brun, một sĩ quan người Pháp của Nguyễn Ánh vẽ năm
1795. Theo bản đồ này ta thấy một hệ thống đường bộ có hình bàn cờ và
nhiều cơ sở hành chính, sản xuất, tín ngưỡng nằm bao quanh thành Bát
Quái. Đó là kho hàng thực phẩm (P), xưởng gạch (T), xưởng đúc tiền (O),
xưởng đóng thuyền (R), chùa Cây Mai (U), Chợ Lớn (V). Ngoài khu dân cư ở
Sài Gòn còn có khu dân cư khá quan trọng ở Chợ Lớn. Quận 4 đông đúc
hiện nay vẫn còn là vùng đất hoang sơ, có một đoạn đường đất nối rạch
Bến Nghé đến đồn Vàm Cỏ.
Ngôi thành Bát Quái được xây dựng năm 1790, bản đồ Le Brun cho thấy một
con kênh khá dài nối liền thành Gia Định với sông Sài Gòn, tạo sự thuận
lợi cho giao thông và vận tải bằng đường thủy vào trong thành
Nguồn:
Sài Gòn xưa và nay, NXB Trẻ, 2006
100 câu hỏi đáp về GĐ - SG - TP.HCM (Nguyễn Đình Đầu)
Các bạn chắc cũng có thắc mắc là tại sao tôi lại không xếp bản đồ này
lên đầu tiên, dù nó thuộc hàng cổ nhất của Sài Gòn. Lý do cũng dễ hiểu,
thứ nhất vì bản đồ 1815 là do ông Trần Văn Học, một người Việt Nam vẽ!
Lý do thứ hai như các học giả đã nhận xét, bản đồ của ông Học vẽ chi
tiết, đẹp hơn, chính xác về tỉ lệ hơn bản đồ 1795 này. Chỉ tiếc là vẫn
không có được bản chính nguyên thủy của ông Trần Văn Học.
Trên tấm bản đồ này, chúng ta còn biết được độ sâu của sông Sài Gòn lúc
bấy giờ. Khu vực cảng Ba Son có độ sâu ven bờ từ 4-6m; khu bến tàu cánh
ngầm, nhà hàng nổi 6-8m; còn khu hầm Thủ Thiêm khá sâu, từ 8-10m.
Con kênh đào được đề cập đến trong bài viết, có lẽ là đường Nguyễn Huệ
ngày nay. Ven kênh có lò gạch ngói phục vụ cho việc xây dựng, như vậy ta
có thể thấy hệ thống giao thông vận chuyển thời này (1790) chủ yếu bằng
đường thủy.
Xưởng Ba Son từ xưa có lẽ đã là hải cảng với việc kho hàng thực phẩm nằm tại đây.
Khu vực sở thú, hồ bơi Yết Kiêu là xưởng đóng thuyền và bể sữa chữa tàu thuyền, cây cầu Thị Nghè cũng đã được bắc qua rạch.
Ngôi nhà cổ nhất Sài Gòn - Dinh Tân Xá đã xây dựng, nằm trong khuôn viện sở thú.
Đường hướng tây bắc của bản đồ là đường Cách Mạng Tháng 8, đường hướng tây nam, chắc là Nguyện Thị Minh Khai - Hùng Vương?
Con đường độc đạo nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn ứng với đường Nguyễn Trãi ngày nay.
Chùa Cây Mai vẫn còn hiện diện, những khu đất bạc tỷ khu vực đường
Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, khu "Tây balo" Phạm Ngũ Lão vẫn còn hoang
sơ, ko một ai ở.
Thành Gia Định (thành Sài Gòn, thành Phiên An).
Là tên một thành cũ ở Gia Định, tồn tại từ năm 1790 đến 1859, bao gồm
hai toà thành được xây lên ở đây rồi bị phá hủy hoàn toàn: thành Bát
Quái và thành Phụng.
THÀNH BÁT QUÁI (thành Qui, Gia Định phế thành):
Sơ đồ Thành Bát Quái Sài Gòn do Trương Vĩnh Ký vẽ, Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú giải.
Tháng 8 năm Đinh Dậu (7 tháng 9 năm 1788), lợi dụng khi quân Tây Sơn
đang bận tái lập trật tự Bắc Hà và đánh quân Thanh, Nguyễn Ánh đánh
chiếm được Sài Gòn và biến nơi đây thành cơ sở chống lại Tây Sơn.
Hai năm sau, 1790, Nguyễn Ánh chọn đất Sài Gòn làm kinh đô, tên là Gia
Định kinh; rồi ông nhờ hai người Pháp là Olivier de Puymanel (Việt danh
là "Ông Tín") và Le Brun, đều là sĩ quan công binh Pháp) vẽ họa đồ và
huy động 30.000 dân phu xây thành bảo vệ thật kiên cố theo kiến trúc
Vauban nhưng mang hình Bát Quái, theo định hướng phong thổ Á Đông, theo
mỹ thuật dân tộc Việt Nam, với tường thành cao mười lăm thước mộc, tính
ra lối bốn thước tây lẻ tám tấc (khoảng 4 m 8), toàn bằng đá ong Biên
Hòa kiểu "lục lăng", nhằm củng cố chân đứng của mình trên đất Gia Định.
Victor Olivier de Puymanel (1768 tại Carpentras- 1799 tại Malacca),
còn có tên là Nguyễn Văn Tín là một sĩ quan công binh và hải quân, một
nhà phiêu lưu người Pháp, người có một vai trò khá quan trọng trong lịch
sử Việt Nam. Ông đóng vai trò chủ chốt trong việc người Pháp giúp hiện
đại hóa lực lượng của Nguyễn Ánh.
Olivier de Puymanel là một người tình nguyện hạng hai trên chiến thuyền
Pháp Dryade. Năm 1788 ông bị bỏ rơi ở Pulo Condor. Sau đó ông được giám
mục Pigneau de Behaine vận động tham gia vào lực lượng tình nguyện của
người Pháp giúp Nguyễn Ánh.
Olivier de Puymanel là người giám sát thi công tòa thành Bát Quái theo thiết kế của kỹ sư người Pháp Théodore Lebrun.
Ông còn huấn luyện các lực lượng người việt cách thức sử dụng hỏa khí
hiện đại và đưa phương pháp tiến hành chiến tranh bộ binh châu Âu vào
trong lực lượng của Nguyễn Ánh.
Năm 1792, Oliver de Puymanel chỉ huy 600 quân được huấn luyện qua kỹ
thuật quân sự Châu Âu, ông còn là người xây dựng Diên Khánh để phòng thủ
chống Tây Sơn cùng với Pigneau de Behaine và hoàng tử Cảnh.
Năm 1793, ông tham gia vào cuộc tấn công giành lấy Nha Trang của quân Nguyễn.
Puymanel được ghi nhận là đã huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn, còn
Jean Marie Dayot thì lo về thủy quân. Kết quả của nó là việc du nhập kỹ
thuật quân sự Châu Âu vào Việt Nam.
Tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung Nguyễn Huệ của nhà Tây Sơn
băng hà, triều Tây Sơn lục đục nội bộ và rơi vào khủng hoảng, Nguyễn Ánh
nhanh chóng tổ chức phản công và ông đánh bại nhà Tây Sơn sau đó nhiều
năm. Sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, hiệu là Gia
Long, rồi dời kinh đô từ Gia Định kinh (Sài Gòn) về Huế.
Năm 1811, kinh thành Huế được làm xong thì Gia Định kinh được đổi thành
Gia Định thành (cao hơn cấp trấn) và trở thành thị sở của quan Tổng trấn
Nam Kỳ.Vị trí của thành Sài Gòn xưa so với các con đường của SG sau này. Màu đỏ
là thành Bát quái (hay thành Quy) xây dựng năm 1790, bị vua Minh Mạng
phá đi năm 1835. Màu xanh là thành Phụng, xây dựng năm 1836 dưới triều
Minh Mạng, bị quân Pháp san bằng năm 1859 khi Pháp tiến đánh Sài Gòn.
Màu đen là các con đường của SG sau này với tên đường trong thời Pháp
thuộc.
Đến đời vua Minh Mạng, năm 1830, Lê Văn Duyệt cho sửa thành Bát Quái.
Tiếc thay việc sửa thành, cộng thêm tư thù khi còn trẻ với Lê Văn Duyệt
(Lê Văn Duyệt đã cho xử chém Huỳnh Công Lý, cha đẻ một quí phi được vua
Minh Mạng sủng ái), vua Minh Mạng đã vu cho ông tội nhị tâm (hai lòng)
cho quân san bằng mồ mả sau khi Lê Văn Duyệt mất làm Lê Văn Khôi, con
nuôi của Lê Văn Duyệt, nổi loạn, đánh chiếm lấy thành Bát Quái và biến
nơi đây thành căn cứ chính cho cuộc nổi dậy của mình từ năm 1833 đến
1835.
Sau khi đánh bại Lê Văn Khôi rồi, vua Minh Mạng đã cho phá thành Bát
Quái để lập thành Gia Định mới năm 1837. Chính vì sự phá hủy này mà
thành Bát Quái còn bị gọi Gia Định phế thành.
Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) là một công thần trụ cột của nhà
Nguyễn. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng, trong đó có lần nhận mệnh tôn
vua mới, và hai lần làm Tổng trấn Gia Định Thành. Tuy nhiên, sau khi ông
mất, nhân cơ hội người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi khởi binh chống
Nguyễn, ông bị truy tội, mãi đến đời Tự Đức mới phục hồi danh dự cho ông.
Ngày nay vẫn còn lăng Ông ở khu Bà Chiểu, q. Bình Thạnh. Hằng năm vào
ngày rằm tháng giêng người dân vào thăm lăng rất đông, mọi người vẫn
thường gọi Lăng Ông Bà Chiểu.
THÀNH PHỤNG (Phụng Thành, Phượng Thành, thành Gia Định):
Là tên một tòa thành cổ của Việt Nam do vua Minh Mạng ra lệnh xây mới
sau khi thành Bát Quái bị phá dỡ. Thành tồn tại từ năm 1836 đến 1859 thì
bị phá hủy khi người Pháp chiếm được thành từ tay quan quân nhà Nguyễn.Được xây dựng ở Đông Bắc thành cũ.
Thành Gia Định mới cũng được xây dựng theo kiến trúc Vauban nhưng nhỏ
hơn nhiều, dễ bị bắn phá hơn và chỉ có bốn pháo đài bốn góc so với tám
pháo đài của thành Bát Quái cũ. Tường thành cao 20 m dài trên 475 m được
làm từ đá granite, gạch và đất. Xung quanh thành có hào nước bao bọc.
Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp mở cuộc tấn công thành thành Gia
Định và một ngày sau thì chiếm được thành. Án sát Lê Tứ, Hộ đốc Vũ Duy
Ninh tự vẫn, Đề đốc Trần Trí, Bố chánh Vũ Thực và Lãnh binh Tôn Thất
Năng đem quân rút về Tây Thái, huyện Bình Long.
Ngày 8 tháng 3 năm 1859, quân Pháp đốt cháy kho tàng, phá hủy thành Sài
Gòn và rút ra để tránh quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đánh chiếm
lại thành. Dấu tích duy nhất còn lại đến ngày nay là bức tranh vẽ ảnh
thực dân Pháp tấn công thành và những tàn tích dọc đường Đinh Tiên Hoàng
về phía gần xưởng Ba Son.
- Bản đồ Sài Gòn 1859:
Nguồn: http://my.opera.com/tahcm/blog/sg-qua-cac-ban-do
Sơ đồ Sài Gòn và vùng phụ cận (Saigon et ses environs) do thiếu úy De Larclause vẽ ngày 1.3.1859. Chú thích:
Thành Gia Định (Citadelle), xưởng Chu Sư đóng tàu (Chantier de
construction de jonquen), trại binh (caserne), dấu vết thành Bát Quái
(Anciennes for tifications).
Đây là một phác thảo của De Larclause vào ngày 1 tháng 3 năm 1859 khi quân Pháp đang tấn công Gia Định.
Bức phát thảo này không cho thấy được sự phát triển không gian đô thị
Sài Gòn, nhưng cũng để lại dầu vết của thành Bát Quái và sự hiện diện
của thành Quy, của xưởng đóng thuyền ở bên rạch Thị Nghè mà Nguyễn Ánh
lập trước đây được chú ý.
Sự chú ý này cho thấy tầm quan trọng của xưởng đóng thuyền này, mà sau
này người Pháp đã phát triển lên thành xưởng đóng tàu Ba Son.
Xin mời các bạn xem thêm trận chiến Gia Định:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%B...%BB%8Bnh,_1859
http://edu.go.vn/pages/hoc-truc-tuye...cid=4054&sid=0
http://duongkhue.multiply.com/journa...eplies=reverse
Trận chiến Gia Định:
Thành Gia Định thất thủ, trong thành lúc này có hơn 2.000 quân với 200
đại bác bằng sắt, bằng đồng, một hải phòng hạm, bảy chiến thuyền,
25.000kg thuốc súng, tiền bạc trị giá tương đương 130.000 francs, thực
phẩm đủ nuôi 8.000 quân trong một năm.
Tuy thắng trận, nhưng thực dân Pháp không đủ quân để giữ thành, không
nhận được sự hỗ trợ từ các giáo sĩ và giáo dân Thiên Chúa giáo và luôn
bị các đội nghĩa quân ngày đêm bám sát, tìm cách bao vây, nên quân Pháp
đã phải quyết định phá hủy thành Gia Định
Vào ngày 8 tháng 3 năm 1859, tướng De Genouilly cho đặt mấy chục ổ thuốc
nổ phá tung nhiều đoạn trường thành, đốt dinh thự kho tàng bên trong,
đốt cả thóc lúa. Kể lại vụ việc này, sách Địa chí TP. Hồ Chí Minh tập I,
có đoạn:
Kho thóc thành Gia Định cháy mãi hai năm mà khói còn nghi ngút. Hai mươi
bốn tháng nắng mưa không làm tắt được đám cháy nào. Quân Pháp cũng cướp
giật, đốt luôn nhiều phố xá thương mãi và thôn xóm dân cư.
Và nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã ghi:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuộm màu mây...
De Genouilly
Phá tan thành Gia Định xong, De Genouilly chỉ để lại một số quân đóng
giữ ở đồn Nam (đồn Hữu Bình), còn bao nhiêu rút hết xuống các tàu chiến.
Ngày 20 tháng 4 năm 1859, viên tướng trên giao quyền cho Đại tá hải quân
Jauréguibery chiếm giữ Gia Định, rồi lui tàu trở lại mặt trận Đà Nẵng,
vì lúc này quân Pháp ở đó đang bị nguy khốn vì thương vong và dịch
bệnh...
Tháng 02/1861, Pháp tấn công Đại Đồn Chí Hoà, Chí Hòa thất thủ, Pháp thừa thắng đánh chiếm Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long.
Trận Chí Hòa:
Trận Đại đồn Chí Hòa (Đại đồn Chí Hòa, Pháp gọi là Kỳ Hòa, gọi tắt là
Đại đồn) xảy ra vào 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, và đến khoảng 8
giờ tối ngày hôm sau thì kết thúc.
Xem thêm tại:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%B...C3%AD_H%C3%B2a
Với sự tấn công của quân đội Pháp, cuối cùng nhà Nguyễn đã ký "Hiệp ước
Nhâm Tuất" năm 1862, chính thức thừa nhận sự độ hộ của thực dân Pháp
trên đất nước ta, mở ra thời kỳ đô hộ 100 năm trong lịch sử dân tộc. Thế
là chỉ sau hơn 50 năm, hòa bình, thống nhất của đất nước, chúng ta lại
tiếp tục công cuộc trường kỳ kháng chiến.
Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký hiệp ước 5-6-1862 tại Sài Gòn
- Plan Ville Saigon Avant 1859
- Tại sao người Pháp lập "Phòng tuyến chùa chiền"?
Ngày 17 tháng 2 năm 1859, thành Gia Định
mất vào tay quân Pháp. Sau đó, họ nhanh chóng chiếm lấy các ngôi chùa
cổ để làm đồn gọi là "phòng tuyến chùa chiền" (lignes des pagodes),
gồm: chùa Khải Tường (pagode de Barbe), chùa Kiểng Phước (pagode des Clochetons), chùa Cây Mai (pagode des Pruniers), đền Hiển Trung (pagode de la Fidelite Eclatante, hay là pagode des Mares)...Phòng tuyến này trải dài từ Chợ Lớn đến Sài Gòn, chủ yếu là để bảo vệ con đường cái quan huyết mạch nối liền Gia Định-Chợ Lớn đồng thời lập thế trận bao vây và đánh Đại đồn Chí Hòa (quân Pháp gọi là "Kỳ Hòa").
Trung úy Hải quân Pháp Léopold Pallu là sĩ quan tùy viên Tổng hành dinh của Đề đốc Leonard Charner trong đoàn viễn chinh đánh Sài Gòn năm 1861, và là tác giả cuốn Histoire de L’Expédition de Cochinchine en 1961
(Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ 1861), do nhà xuất bản Hachette in tại
Pháp năm 1864, đã viết về mục đích ban đầu của phòng tuyến chùa chiền
như sau:
"Kể từ tháng 6 năm 1860, quan quân An Nam (chỉ quân đội nhà Nguyễn) có ý cô lập người Pháp với thành phố Tàu (tức vùng Chợ Lớn ngày nay), nơi tồn trữ gạo mà người Pháp đem xuất đi từ cảng Sài Gòn....(Cho nên) chúng ta bắt buộc phải giữ vững vị trí...
- "Hai chùa khác nằm giữa đồn Cây Mai và Sài Gòn
liền được ta chọn thêm để củng cố làm đồn và ta sẽ giữ vững bất cứ giá
nào. Việc sửa sang hai chùa để làm nơi phòng thủ bắt đầu ngay tức
thời. Chùa thứ nhất là chùa Ao (đền Hiển Trung),
sân chùa có tường gạch chung quanh, tạm có thể phòng thủ được ngay.
Chùa cách xa các tuyến phòng thủ của địch. Chùa thứ hai là chùa
Clochetons (chỉ chùa Kiến Phước) hoàn toàn trống trải và chỉ cách miệng
đường hầm của địch (chỉ quân đội nhà Nguyễn) có 400 mét. Ta liền lấy ngay đất ở mồ mả chung quanh đắp tường phòng ngự."
Nói chung, giặc Pháp chiếm hầu hết các chùa làm đồn, rồi sau
đó phá hủy cốt để xóa “dấu vết cựu trào” và cũng để gạt bỏ các “di
tích ngoại đạo”. Nói cách khác, làm một công để đạt cả ba việc: quân
sự, chính trị và văn hoá-tín ngưỡng.Chiến tuyến Chí Hòa của Nguyễn Tri Phương (màu cam) và chiến tuyến các ngôi chùa của quân Pháp (màu vàng)
- Bản dồ hành quân ngày 24/25 tháng 2 năm 1861. Bản đồ này chỉ ra vị trí
chùa Tháp canh nằm khá sâu trong cánh đồng Mả mồ. Khỏanh cách từ đường
cái quan (đường Nguyễn Trãi) đến đồn khỏang gấp rưỡi khỏang cách từ rạch
Bến Nghé đến đường cái quan. Vị trí đồn nằm ngay trên đường trục Bắc
Nam vẽ từ ngã ba rạch Bến Nghé và rạch Ụ cây. Chiếu theo bản đồ ngày nay
thì đồn nằm đâu đó phía Bắc ngã sáu Chợ Lớn khỏang 90-100 mét.
-
- Bản đồ dưới đây được ghi chú năm 1883 như vậy đến năm 1883 thì đồn Clochetons vẫn còn tồn tại? Tuy
vậy nhìn đường xá nhà cửa trên bản đồ này thì Va nghĩ bản đồ này vẽ
trước năm 1883 khá lâu, có thể khỏang đầu những năm 1870.
Người vẽ bản đồ ghi chú chữ Clochetons một cách cẩu thả bên cạnh một hồ nước hình thoi. Màu hồng là thành Phụng, xây 1836 bị Pháp phá 1858. Màu xanh là mộ Giám
mục Adran (GM Pigneau de Béhaine), tức lăng Cha Cả. Màu tím là đồng Mồ
mả chạy dài suốt từ SG vào Cholon.
Màu vàng là 4 ngôi chùa bị Pháp chiếm làm đồn lính (sau khi thành Gia
Định mất vào tay quân Pháp vào tháng 2-1859), nhằm tạo thành “chiến
tuyến các ngôi chùa” (lignes des pagodes) để chuẩn bị tấn công đồn Kỳ
Hòa của Nguyễn Tri Phương năm 1861.
Theo bản đồ trên, "chiến các ngôi chùa" từ trái qua gồm có:
(1) Chùa Cây Mai - Pagode de Caï-maï - (có tài liệu ghi là Pagode
Chinoise, pagode de prunier) là một chùa của người Hoa quanh chùa có
hồ nước bao bọc, phía Bắc của Chợ lớn xưa (trước 1975 nơi đây là trường
Quân Báo, nay là doanh trại quân đội). Tham khảo thêm tại đây:
vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3o_lu%E1%BA%A Dn:Ch%C3%B9a...
(2) Chùa Tháp - Pagode des Clochetons - tên do Pháp đặt cho ngôi
chùa mà ngày nay không còn dấu vết, nên không ai biết rõ vị trí của nó
mà chỉ có thể đoán hoặc căn cứ theo các bản đồ xưa.
Tham khảo thêm về chùa này tại đây:
vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Ki%E1%BB%83ng _Ph%C6%B0%E1...
(3) Chùa Ao - Pagode des Mares - nằm trong khu thành Ô Ma tức
trại lính Camp aux Mares của Pháp, ngày nay không còn dấu vết nên vị trí
cụ thể cũng chỉ đoán theo bản đồ xưa. Gọi như vậy vì khu này ngày xưa
có ít nhất hai ao sen. Trước 1975 là khu Tổng Nha Cảnh sát. Vị trí này
nhiều người đã biết rõ. Tham khảo thêm về chùa này ở đây:
vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_Hi%E1% BB%83n_Trung
(4) Chùa Khải Tường - Pagode Barbé (cũng có nơi viết là Barbet, pagode Advancee) - Vị trí chùa này nay là trường Lê Quý Đôn. Tham khảo thêm tại đây:
vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Kh%E1%BA%A3i_ T%C6%B0%E1%B... Nhận xét về vị trí chiến lược của các ngôi chùa trong phòng tuyến chùa chiền
Chùa Cây Mai
Dưới đây là hình vẽ đồn Cây Mai vào năm 1869. Bức họa này được vẽ
theo bức ảnh do Emile Gsell chụp trước đó. Emile Gsell có lẽ đã chụp ảnh
tất cả bốn chùa thuộc "phòng tuyến chùa chiền" và chúng ta hy vọng ngày
nào đó các bức ảnh này sẽ xuất hiện trên internet. Bức họa được ghi
chú "LA PAGODE SACREE DE CAÏ-MAI.EN COCHINCHINE".
Ảnh chụp từ hướng đông. Khỏang một trung đội đồn trú đang tập họp trước
sân đồn. Phía sau những hàng lính là một nhà bát giác có gác chuông,
chắc đây không phải là phương đình mà Nguyễn Tri Phương đã cho xây dựng.
Xa hơn nữa bên trái ta có thể thấy đường cái quan đi Mỹ Tho chạy giữa
hai hàng cây bên dưới đồi.Bên cạnh nhà bát giác có một cột hay bức tường
cổ có thể là phế tích của chùa trước đây.
Ngôi nhà bên trái cũng được xây dựng kiểu Việt Nam với hàng cột gỗ, mái
lá. Đây là ngôi nhà lớn nhất trong đồn Cây Mai nên chắc xưa là chỗ ở của
chư tăng. Ngày nay ngôi nhà bên trái đã được cất lại nhiều lần còn nhà
bát giác thì trước năm 1923 đã bị phá bỏ để xây dựng một ngôi nhà rồi
sau đó lại bị phá bỏ để xây một hầm trú ẩn (có thể trong giai đọan quân
Nhật chiếm đóng chùa?). Chỉ có cây bạch mai già bên rìa phải là vẫn còn
tồn tại tuy nhiên nghe nói nó không còn ra hoa nữa.
Ảnh lính Pháp chụp trong đồn Cây MaiTa thấy rằng ngoài chùa Barbe thì cả ba chùa khác đều nằm trên con đường
cái quan nối thành Gia Định và Chợ Lớn rồi sau đó đi Mỹ Tho. Một điểm
chung cho cả bốn chùa là nằm ở ranh giới giữa khu dân cư Bến Nghé -Chợ
lớn trãi dài theo sông Bến nghé (sông Sài gòn) và vàm Bến nghé (rạch Tàu
Hủ) và một bên là cánh đồng mồ mả.
Quân Pháp từ cánh đồng Mả mồ nhìn về đại đồn Chí HòaLính Pháp (trái), lính An nam và lính Tây Ban Nha (phải) trong trận chiến nám 1861
Quân Pháp tấn công phòng tuyến Chí Hòa
Phó đô đốc Bonard, kẻ chỉ huy quân Pháp-Tây Ban Nha trong chiến dịch hạ đồn Chí HòaĐồn Rạch Tra ở tây nam đại đồn Chí Hòa bị chiếm ngày 24/2/1861Cách đây hơn 100 năm cả vùng quận 10,11 ngày nay (và một phần quận
1,3, 5) được mệnh danh là "đồng mả mồ", dịch theo tên gọi Plaine des
Tombeaux của người Pháp.
Theo miêu tả của các tác giả Pháp vào thời kỳ này như Jean Bouchot, J.C.
Baurac, Silvestre..., đồng mả mồ là một vùng rộng lớn giới hạn bởi hai
con đường Nguyễn Thị Minh Khai (xưa là đường Chasseloup Laubat và
Jean-Jacques Rousseau) và Hai Bà Trưng (xưa là Impériale, rồi Nationale
và Paul Blanchy), chạy về hướng Chợ Lớn (phía Bắc đường Nguyễn Trãi)
với hàng trăm (có khi lên đến con số vài nghìn nếu kể cả mộ đắp bằng
đất) ngôi mộ nằm rải rác.
Chủ nhân của những ngôi mộ này là lưu dân Hoa-Việt, những người đã khai phá và xây dựng thành phố Sài gòn-Chợ lớn.
Sâu trong "cánh đồng mồ mả" là chiến lũy Chí hòa của Nguyễn Tri Phương.
Tứ đó quân triều đình đào những giao thông hào tiến sát vào đường cái
quan nhằm chia cắt Sài gòn-Chợ lớn.
Nếu đồn Barbe là tiền đồn để bảo vệ phía Bến Nghé và đồn Cây Mai bảo vệ
Chợ Lớn thì hai đồn chùa Ao (pagode aux mares) và chùa Tháp (pagoge des
Clochetons) vừa để bảo vệ dân cư phía Nam đường cái quan (như khu chợ
Quán, khu chợ cầu Kho, khu xóm Cải, khu buôn bán nhộn nhịp của người Hoa
ở đường Triệu Quang Phục ngày nay) mà quan trọng hơn là để bảo vệ sự
liên lạc thông suốt giữa Sài gòn và Chợ Lớn. Ta có thể thấy các cuộc tấn
công của quân triều đình đều nhằm vào hai chùa này mà trong đó chùa
Tháp là trọng tâm vì nó nằm khá sâu vào cánh đồng mồ mả.
Cánh đồng mồ mả
Cách đây hơn 100 năm cả vùng quận 10,11 ngày nay (và một phần quận 1,3,
5) được mệnh danh là "đồng mả mồ", dịch theo tên gọi Plaine des Tombeaux
của người Pháp.
Theo miêu tả của các tác giả Pháp vào thời kỳ này như Jean Bouchot, J.C.
Baurac, Silvestre..., đồng mả mồ là một vùng rộng lớn giới hạn bởi hai
con đường Nguyễn Thị Minh Khai (xưa là đường Chasseloup Laubat và
Jean-Jacques Rousseau) và Hai Bà Trưng (xưa là Impériale, rồi Nationale
và Paul Blanchy), chạy về hướng Chợ Lớn (phía Bắc đường Nguyễn Trãi) với
hàng trăm (có khi lên đến con số vài nghìn nếu kể cả mộ đắp bằng đất)
ngôi mộ nằm rải rác.
Chủ nhân của những ngôi mộ này là lưu dân Hoa-Việt, những người đã khai phá và xây dựng thành phố Sài gòn-Chợ lớn.Khu vực này cũng có một ngôi mộ tập thể gọi là “mả N gụy” chôn gần 1.250
người, trong cuộc nổi dậy của binh lính dưới quyền Lê Văn Khôi tại
thành Phiên An (Gia Định) những năm 1833 - 1835, đến nay không tìm ra
dấu vết. (những năm 60 khi lính Đại Hàn làm đường ở khu vực gần bệnh
viện Bình Dân ngày nay đã đào được rất nhiều xương người, đó là mả N
gụy?)
Trước thời Pháp thuộc, khu vực này có tên gọi đồng tập trận, nơi Tả
Quân Lê Văn Duyệt, tổng trấn Gia Định thành, thường xuyên thao dượt binh
sĩ (tập trận).
Theo học giả Vương Hồng Sển, tác giả Sài Gòn năm xưa, thời Pháp thuộc
đường xe lửa giữa nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn chạy xuyên qua cánh đồng mả
mồ, trong đó có đường Lý Thái Tổ ngày nay: “...Sách nói khi xưa, làm
con đường này, gặp nhiều mồ mả (ắt chốn đồng tập trận cũ), Lang sa (thực
dân Pháp - LN) có lệ phát ba quan tiền và một xấp vải cho mỗi ngôi mộ
và mả bị cải táng...” Một bức ảnh xưa do người Pháp chụp đề rõ cụm từ Plaine des Tombeaux cũng cho thấy nhiều ngôi mộ nằm cạnh đường xe lửa.
Căn cứ vào chút sử liệu trên, ngôi mộ bên đường Nguyễn Tri Phương là
một trong rất ít những ngôi mộ xưa còn sót lại trong số hàng trăm ngôi
mộ thuộc đồng mả mồ đã bị thực dân Pháp và chính quyền cũ giải tỏa vì
những việc công ích. Vào thời kỳ này, đa số mộ cổ đều được làm bằng ô
dước và được xây đắp khang trang. Phần đất xây dựng trường đua Phú Thọ
năm 1932 cũng là một phần của Cánh đồng mả mồ
Chùa Khải Tường
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tượng Phật A-di-đà do vua Gia Long dâng cúng năm 1804
Chùa Khải Tường là một ngôi cổ tự, trước đây tọa lạc trên một gò cao tại ấp Tân Lộc, thuộc Gia Định xưa. Đây có thể được kể là ngôi già lam cổ nhất nhì ở vùng đất ấy, nhưng đã bị phá hủy dưới thời Pháp thuộc[1].
Lịch sử
Vào khoảng năm Giáp Ngọ (1744), Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc (1725-1821, là người đem chi phái Lâm Tế dòng đạo Bổn Nguyên vào miền Nam Việt Nam trước tiên)[2], vâng lời thầy theo lớp người lưu dân từ Đồng Nai xuống phía Nam.
Trên đường đi, nhà sư gặp một tăng sĩ không rõ họ tên, cùng lứa tuổi và
họ đã kết thành huynh đệ. Đến nơi ở mới là làng Tân Lộc (có tư liệu
viết là làng Hoạt Lộc hay xóm Chợ Đũi), hai nhà sư cùng khai phá rừng và
dựng lên một am lá (khoảng năm 1744) thờ Phật. Vài năm sau, nhà sư vô danh kia tách ra lập am riêng, cách am cũ vài mươi mét, để tiện việc tu hành.
Đến năm Nhâm Thân (1752), Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc tu bổ am lá thành chùa, và đặt tên là chùa Từ Ân,
với ngụ ý là "nhờ lòng từ bi và ân huệ của đức Phật mà bá tánh được
bình an, tạo được cuộc sống ấm no và hạnh phúc nơi vùng đất mới". Cũng
khoảng thời gian đó, nhà sư vô danh cũng tu bổ am lá trước đây thành
chùa, và đặt tên là chùa Khải Tường, với ngụ ý là "mở rộng phước lành cho bá tánh" [3]. Vì thế khi thực dân Pháp tiến chiếm Gia Định, họ gọi chùa Khải Tường là chùa Trước (pagode Avancée) còn chùa Từ Ân là chùa Sau[4].
Căn cứ một số tư liệu, thì vào ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi (25 tháng 5 năm 1791), thứ phi Trần Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu) sinh Nguyễn Phúc Đảm (về sau là vua Minh Mạng) nơi hậu liêu chùa Khải Tường[5], khi chúa Nguyễn Phúc Ánh đến đây trốn tránh quân Tây Sơn. Năm 1804, để tạ ơn che chở, vua Gia Long (tức vị chúa trên) đã gửi vào dâng cúng một tượng Phật A-di-đà lớn, ngồi trên tòa sen, cao 2,5 m bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng.
Năm 1832, kỷ niệm nơi cha mẹ ông từng ở, và cũng là nơi sinh ra ông, vua Minh Mạng sai xuất bạc trùng tu chùa, đồng thời cho "mộ sư đến ở, cấp ruộng tự điền" để lo việc lễ tiết hàng năm [6].
Năm 1858, quân Pháp đánh phá cửa Hàn (Đà Nẵng). Năm sau (1859) lại vào tấn công Gia Định, Pháp chia quân đóng rải rác tại Trường Thi, đền Hiển Trung (pagode aux Mares) và các chùa: Khải Tường (pagode Barbé), Kiểng Phước (pagode des Clochetons), Cây Mai (pagode des Pruniers).
Riêng chùa Khải Tường, Đại úy Thủy quân lục chiến Pháp tên Barbé nhận nhiệm vụ dẫn quân vào chiếm giữ. Barbé cho đem tượng Phật bỏ ngoài sân, cưỡng bức các sư phải rời chùa. Khi ấy, quan Kinh lược Nguyễn Tri Phương được triều đình cử vào Nam lập Đại đồn Chí Hòa chống Pháp, và chiều ngày 7 tháng 12 năm 1860, quân Việt phục kích giết chết Barbé, khi viên sĩ quan này cỡi ngựa đi tuần đêm từ chùa Khải Tường đến đền Hiển Trung (trong vòng thành Ô Ma)[7].
Viên Trung úy Hải quân người Pháp là Léopold Pallu[8]đã sang Sài Gòn tham chiến, sau này kể lại:
- Buổi chiều hôm đó, Đại úy thủy quân Barbet cưỡi ngựa đi tuần tra như thường lệ. Bọn sát nhân rình rập trong một bụi cây...Ông bị đột kích bằng giáo té ngay xuống ngựa. Bọn An Nam liền cắt đầu, bò qua các bụi rậm và cỏ cao trở về giới tuyến cũ của thành Kỳ Hòa.
Sáng hôm sau, người ta thấy phần thân thể còn lại (của Barbet) bị kéo
bỏ bên vệ đường; con ngựa bị thương nằm bất động kế bên. Người ta kể lại
rằng khi cái đầu ông Đại úy đem đến đặt bên khay trầu của vị tướng An Nam,
thì ông này liền đếm tiền thưởng mà không nói gì, rồi sau đó mới thốt
ra một lời tiếc thương. Đại úy Barbet có thân hình và một sức mạnh lực
sĩ, nhiều người An Nam đều biết mặt ông...[9]
Năm 1867, theo nhà văn Sơn Nam, thì chùa Khải Tường trở thành trường học con trai nhằm đào tạo giáo viên. Năm 1880, chùa Khải Tường bị tháo dỡ, trường dời qua cơ sở mới là trường Chasseloup Laubat xây cất xong khoảng 1877.[10]. Khi tháo dỡ, tấm hoành phi “Quốc ân Khải Tường tự” [11] được chuyển về chùa Từ Ân (nay ở đường Tân Hóa, thuộc quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh) cất giữ, còn pho tượng Phật kể trên phải dời đi nhiều nơi, sau cùng được đem trưng bày trong Viện bảo tàng Quốc gia Sài Gòn, nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh.ên tuổi của chùa Khải Tường cùng viên quan ba Pháp Barbé, còn được loan truyền qua câu chuyện Nàng Hai Bến Nghé:[1]
Nàng Hai và Tri yêu thương nhau nhưng vì hoàn cảnh éo le nàng phải nhận lấy lãnh binh Sắc[2]
làm chồng. Một lần thua trận, Sắc bị quan trên khiển trách, sẵn mang
tâm trạng buồn bực, nên khi nghe quân mật báo việc Tri thường có cử chỉ
thân mật với vợ mình, Sắc rất ghen tức. Một hôm Sắc cho người giả danh
vợ mời Tri tới nhà bàn công việc gắp. Khi hai người gặp nhau, Sắc rời
khỏi nơi ẩn nấp bước ra tri hô, ghép họ vào tội lăng loàn và cho lính
đóng bè thả trôi sông cả hai người.
Một hai hôm sau viên quan ba Barbé, đóng binh ở chùa Khải Tường đang đi
săn, bất ngờ gặp một bè chuối trôi trên đó có một người đàn ông và một
người đàn bà. Theo dòng, hai con sấu lớn hung hãn, quẫy đuôi bám riết
đuổi theo bè. Barbé liền nổ súng, sấu sợ hãi lặn trốn mất. Khi bè được
vớt lên, người con trai tức Tri bị sấu cắn cụt mất một chân, đã chết.
Phần người con gái là nàng Hai còn thoi thóp thở. Sau khi được chăm sóc,
thấy cô trẻ đẹp nên Barbé ép cô phải chung sống với mình. Nàng Hai ưng
thuận với điều kiện là được trở về nhà để thu xếp việc riêng.
Gặp nàng Hai về, Lãnh binh Sắc cho bắt cô với lời cáo buộc: tội thông
đồng, mãi dâm với đối phương. Sắc cho giam nàng Hai dưới hố sâu, cho ăn
xương cá và cơm hẩm. Thời may Trương Định đi tuần ngang, lệnh cho đem cô lên và nghe hết mọi chuyện oan trái này...
Nơi chùa Khải Tường, hôm đó trời vừa sụp tối, nghe lính canh báo tin có
Nàng Hai đến xin gặp. Barbé mừng rỡ phóng ngựa ra đón. Còn cách cô gái
chừng mười thước, quân Việt mai phục hai bên đường ào ra. Ngựa bị giáo
dài đâm ngã quỵ, hất Barbé ngã xuống và lập tức bị chém chết. Hôm đó là
ngày 7 tháng 12 năm 1860.[3]
Hơn hai tháng sau, viện binh của Pháp từ Thượng Hải kéo đến Sài Gòn rầm rộ. Sau vài trận chiến ác liệt, đại đồn Chí Hòa
bị hạ. Sau những ngày mịt mù khói lửa ấy, không ai tìm thấy cô gái nơi
đâu, chẳng biết sống hay đã chết. Nhưng trong dân gian còn truyền tụng
mãi hình ảnh người thiếu phụ bị thả trôi sông và đã góp công chống Pháp [4].
Thông tin liên quan
Viên sĩ quan Barbé chết, quân Pháp rất tức giận. Bởi vậy, họ chiếm lấy tấm bia đá (trên có khắc bi văn của Phan Thanh Giản soạn năm 1858) do vua Tự Đức sai chở từ Huế về Gò Công, để dựng nơi mộ ông ngoại mình là Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, làm bia mộ Barbé ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (cũ). Mãi cho đến năm 1999,
tấm bia mới được dựng tại mộ ông Hưng, tính ra tấm bia đá mang tên hai
người chết một Pháp một Việt này đã luân lạc đúng 140 năm (1859-1999).Đây có thể là bức ảnh duy nhất còn lưu giữ được của chùa Khải tường xưa.
Bức ảnh do Emile Gsell chụp trong khỏang từ năm 1871-1874. Emile Gsell
tự tay chú thích: Nam Kỳ, chùa Barbe, hiện là trường sư phạm cho người
An nam (ngọai ô Sài gòn)
Trong ảnh ta thấy cổng tam quan và chính điện. Chùa được bao bọc bởi một
vòng tường thấp. Khỏang cách chụp cách cổng chùa khỏang 200 mét từ
hướng đường NKKN gần ngã tư Nam kỳ khởi nghĩa-Nguyễn Thị Minh Khai nhìn
vào
Đến cuối năm 1870, chính quyền địa phương không muốn lệ thuộc vào giáo
hội nữa, muốn tự tuyển chọn và đào tạo giáo viên hệ thống giáo dục phi
tôn giáo được triển khai.
Ngày 10-7-1871, Dupré ra ba quyết định quan trọng. Đó là thành lập
trường sư phạm thuộc địa, một trường tiểu học và thành lập một ủy ban có
nhiệm vụ soạn chương trình học và sách cho giáo viên. Đồng thời nâng
lương cho các giáo viên cùng nhiều biện pháp tài chính đối với học sinh.
Trường tiểu học có quy định "hiệu trưởng và ba giáo sư phải có bằng cấp
đại học hay chức vụ thông ngôn". "Hạn tuổi để thâu nhận vào trường là
16 tuổi tối thiểu, 25 tuổi tối đa. 60 học sinh của trường theo quy chế
nội trú và hoàn toàn được chính quyền thuộc địa chu cấp nuôi dưỡng ăn
mặc.
Chùa Barbet được giao cho trường làm cơ sở, mỗi thí sinh được nhận vào
trường lãnh 25 franc làm chi phí nhập trường" (Roucoules - Nền học chánh
Nam kỳ). Cũng theo Roucoules, "chùa Barbet được giao cho trường làm cơ
sở" chính là đất của chùa Khải Tường. Có lẽ vì vậy mà trường được gọi là
Trường Khải Tường.
Gia Định báo ngày 15-12-1874 có đăng danh sách 84 học sinh của Trường Khải Tường tốt nghiệp và được bổ làm thông ngôn các nơi.Bài trên cung cấp cho ta thông tin quý giá xác nhận chùa Khải Tường trở
thành trường sư phạm đầu tiên ở Việt Nam. Trường trên có liên quan đến
hai nhân vật nổi tiếng:
Ông Pétrus Ký được bổ nhiệm làm Đốc học đầu tiên (Giám đốc) trường Sư
phạm bản xứ này. Như vậy khóa học đầu tiên kéo dài ba năm, bắt đầu học
đầu năm 1872 và tốt nghiệp năm 1874. Năm đó ông Trương Minh Ký vừa tròn
19 tuổi, ông lấy bằng Tài năng thượng hạng (Brevet supérieur des instituteurs)
tại Trường Khải Tường. Sau khi tốt nghiệp, do thông Hán văn và giỏi
Pháp văn, ông được thầy TVK giữ lại để dạy chữ Nho và chữ Tây cho học
sinh lớp sau. Ông cũng được thầy Trương Vĩnh Ký giới thiệu làm thông ngôn cho các quan chức thuộc địa Pháp, đồng thời làm giáo viên của Trường Thông ngôn (Collège des interprètes), Trường Sĩ Hoạn (Collège des administrateurs stagiaires).
Ngày 14 tháng 1 năm 1874, Thống đốc Nam Kỳ, Chuẩn Đô đốc (Contre-amiral)
Pháp Jules François Emile Krantz (1821-1914) đã ký nghị định thành lập
một ngôi trường trung học tại Sài Gòn nhằm phục vụ nhu cầu đào tạo con
em những thực dân người Pháp tại Sài Gòn. Chương trình giảng dạy theo
chính quốc, dạy từ tiểu học đến tú tài (chương trình Pháp). Trường sở
được khởi công xây dựng ngay vào năm 1874 và hoàn tất vào năm 1877 trên
khu đất chùa Khải Tường. Do đó trường sư phạm bản xứ chỉ có thể hòan tất
khóa thứ hai trước khi phải dời đi hoặc đóng cửa.Chùa Ao
Ảnh dưới đây được cho là ảnh của miễu Hội Đồng. Ảnh này có thể do
Emile Gsell chụp vào khỏang thời gian ông chụp chùa Khải Tường tức là
khỏang những năm 1870. Miếu Hội Đồng được xây bằng gạch, cột gỗ, mái lợp
ngói theo kiểu phương đình hai mái. Rui mè chạm trổ tinh xảo. Trên có
biển ghi ba chữ "Đô Thiên Các".
Trong ảnh này có thể thấy tòa miếu đã bị bỏ hoang không ai chăm sóc, cỏ
dại. xương rồng mọc che kín lối vào. Hàng cột có vẻ như đã bị mối mọt
làm hư hỏng. Phía sau đền ta còn thấy bức tường thành của đồn với những
bệ đặt pháo.
Miếu Hội Đồng bị phá bỏ năm nào ta không biết rõ nhưng trên bản đồ chi
tiết Sài gòn Chợ Lớn 1923 vẫn còn thấy vẽ một ngôi nhà hình chữ nhật
ngay ở vị trí xưa trên bản đồ Trần Văn Học. Riêng cây si cổ thụ thì là
một chấm đen. Cây si ngày xưa chắc đã bị đốn bỏ nhưng không chết hẳn.
Ngày nay ta vẫn còn nhìn thấy một cây si con hay cháu của cây si ngày
xưa ở cách khúc cua ngoặt vào đường Nguyễn Văn Cừ khỏang 70 mét, ngay
ngã ba Nguyễn Trãi-Nguyễn Cảnh Chân ngày nay.
Ảnh dưới đây là trường học của bọn trẻ con lính trong thành Ô ma. Có
nhiều khả năng người Pháp lấy đền Hiển Trung làm kho chứa thuốc súng rồi
sau đó làm trường dạy cho đám con lính. Ngôi nhà kiểu phương đình khá
lớn và cao mà ông Sển nói từ phía đường Nguyễn Cư Trinh nhìn vào là thấy
ngay, chính giữa được ngăn ra chắc làm nơi để các bài vị còn sót lại.
Hai bên là các lớp học. Quanh đền Hiển Trung xưa kia có nhiều mộ to của
các quan lớn nhưng sau đó cũng bị phá bỏ.
Ảnh này chụp 16/12/1939. Chú thích: Ecole du camp des tirailleurs annamites au camp des Mares.
- Les Halles du marché Charner. Elles furent construites en 1860 et
constituèrent le 1er marché de la ville, alimenté par le grand canal.
Năm nhà lồng chợ Charner, được xây dựng vào năm 1860 và là
ngôi chợ đầu tiên của Sàigòn được thực dân Pháp xây dựng. Hàng hóa thực
phẩm cung cấp cho chợ này bằng con kênh đào chạy qua phía trước chợ gọi
là Kênh lớn, vị trí nằm ngay giữa đường Nguyễn Huệ ngày nay. Con đường
bên phải chợ là Rue Vannier, ngày nay là đường Ngô Đức Kế, đường bên
trái là Rue Phủ Kiệt, nay là Hải Triều. Đường phía sau chợ là Rue
Georges Guynemer (còn có tên khác trước đó là rue d'Adran), sau này là
Võ Di Nguy và sau 1975 là Hồ Tùng Mậu.
- Bản đồ Sài gòn năm 1867 cho thấy cấu trúc chùa Khải Tường bao gồm công
tam quan hướng về hướng Đông, chính điện ở giữa và hai nhà phụ tả hữu Bản đồ SG này ghi năm 1967, 9 năm sau ngày bị Pháp chiếm (1858), tuy vậy
nó có thể trễ hơn, khỏang năm 1869-1870. Vẫn còn thành Phụng (do Vua
Minh Mạng cho xây dựng năm 1936). Nhiều con đường trong khu vực trung
tâm vẫn còn là những con kinh được người Pháp đào để lấy đất tôn cao nền
thành phố và để thoát nước. Trục đường hơi nằm ngang xuyên qua giữa
Thành Phụng là Route Stratégique, sau này là Hồng Thập Tự, nay là Nguyễn
Thị Minh Khai. Trục đuuờng xuyên qua giữa thành Phụng theo chiều đứng
là Boulevard de la Citadelle, sau này là Cường Để, nay là Tôn Đức Thắng.
Vào lúc này Dinh Toàn quyền đang xây, còn dùng nhà gỗ trong khu vực
trường Taberd. Hai bản đồ 1867 này đều ghi vị trí chùa Barbé, nơi trước
kia là chùa Khải Tường, bị quân Pháp chiếm làm đồn lính trong trận tấn
công đồn Kỳ Hòa năm 1861. Đại úy Barbé là trưởng đồn này, đã bị nghĩa
quân VN phục kích giết nên Pháp lấy tên ông để gọi chùa này. Vị trí ngôi
chùa trên bản đồ đối chiếu với ngày nay là Nhà bảo tàng Chứng tích
chiến tranh, góc Lê Quí Đôn- Võ Văn Tần. Trong thời Pháp đường Lê Quí
Đôn cũng được đặt tên là rue Barbé. (Chú thích: một số tài liệu, hay bản
đồ cũng viết là Barbet, thay vì Barbé, vì phát âm giống nhau).
Như vậy có sự chênh lệch so với bản đồ của Fauvre. Bản đồ nào sai thì
vẫn chưa rõ ràng vì bản đồ Fauvre cũng từ một bản đồ chi tiết vẽ lên
thành 3D.
Midan thì cho rằng chùa nằm ngay sau trường CL trong phần đất cạnh hai
biệt thự xây trên đất chùa này, một quay mặt ra NKKN một quay ra đường
Nguyễn Đình Chiểu. Khuôn viên chùa theo Midan thì bao gồm 2 phần: chùa
và đồn. (có thể là chùa ở giữa còn hai nhà tăng hai bên được sửa lại
thành đồn?). Chùa được cất trên nên gạch cao 0.6 mét, tường gạch, lợp
ngói ta, rông 2.5 mét dài khoảng 16 mét.
Midan cũng nói trước khi chùa được chọn làm trường thì đây là đồn của
hiến binh. Midan bảo đến năm 1895 mọi dấu tích chùa xưa đều biến mất.
- (1867)
- (1870)
- Map of Cochin-china centered on Saigon and showing in red the French expedition of 1858, published in Paris 1875
- Carte de la Cochinchine
Revue Tour du Monde, 1875
- Toàn cảnh Saigon – 1881 (bản vẽ rất chi li chính xác của Đại úy hải quân Favre)Đây là bản đồ 3D đầu tiên và có lẽ là duy nhất đến nay của TP Sài gòn
Theo các chi tiết trên bản đồ ta có thể cho rằng bản đồ này được vẽ sớm
hơn năm 1881, có thể là vào năm 1874 hay 1875. Đại úy hay thuyền trưởng
Fauvre đã vẽ bản đồ này dựa trên bản đồ 2D trước đó. Ông đã lặn lội
khắp thành phố Sài gòn để hòan tất hình vẽ nhà cửa dinh thự một cách
chính xác
Chùa Khải Tường trong bản đồ này nằm bên trên của dinh Norodom đằng sau dãy nhà hai tầng đầu tiên của trường Collège Chasseloup Laubat nằm ở ngã tư NKKN và NTMK ngày nay.
- (1882)
- (1892)
- Plan de Saigon - 1893
- Cholon 1893
- Plan Cadastral de la Ville de Saigon - 1896
- Plan
de Saigon Edition John Bartholomew, vers
1896, contribution Rick Curia
- Plan
de Saigon Edition John Bartholomew, vers
1900, contribution Rick Curia
- Plan de Saigon en 1903, in mémoires de Paul Doumer
- CHOLON - Les Abords du Marché aux Poissons 1906
- Saigon - Le Gouvernement Général 1907
- Bản đồ Sài Gòn năm 1920
- Bản đồ Sài Gòn 1928
- (1928)Dịch các số thứ tự trên bản đồ:
1. Nhà đoan (quan thuế)
2. Bưu điện và điện tín
3. Nhà Thờ Lớn (Đức Bà)
4. Bảo tàng
5. Rạp hát
6. Thư viện
7. Sở thú
8. Vườn bờ-rô (Jardin Maurice Long)
10. Dinh Toàn quyền
11. Dinh Thống đốc
12. Tòa Đô Chánh
13. Dinh Đại tướng (Quan sáu)
14. Dinh Thủy sư (Chì huy Hải quâm)
15. Tòa Giám mục
16. Tòa án (pháp đình)
17. Chọ Chánh (chợ Bến Thành)
23. Bệnh viện nhà binh
24. Trại
25. Sở Pháo binh
26. Sở Ba Son.
- Bản đồ Sài Gòn năm 1931
- Rạch Bến Nghé năm 1931
- Plan de Cholon - 1931
- Plan de Saigon - Atlas des colonies françaises, Grandier, 1934
- (1947)
- Sài Gòn tháng 12 năm 1962
- Bản đồ SAIGON 1962
- Bản đồ Đô Thành Sài Gòn năm 1966
- Bản đồ SAIGON 1968
-
- Bản đồ Sài Gòn khoảng năm 1973
- vv
Nhận xét
Đăng nhận xét