Tháp: ý nghĩa và công dụngTiếng
Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược
dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công
đức, ngôi mộ lớn, lăng mộ, linh miếu v.v..
Ban đầu sthùpa dùng để chỉ cho những chỗ
được kiến tạo để thờ xá lợi của Phật, nhưng về sau nó được dùng lẫn lộn
với chi đề (cetiya - điện thờ). Ma ha tăng kỳ luật quyển 33, và Pháp
Hoa nghĩa sớ quyển 11 quy định rõ: Phàm nơi nào có xá lợi của Phật thì
gọi là tháp, không có xá lợi của Phật thì gọi là chi đề. Căn cứ vào đây
thì 8 ngôi tháp tôn trí xá lợi của Phật tại Câu Thi Na, Ma Kiệt Đà v.v..
mới đích thực là sthùpa (tháp). Ngoài ra, các ngôi tháp nơi Phật đản
sinh tại thành Ca Ti La Vệ, ngôi tháp chỗ Phật thành đạo dưới gốc cây bồ
đề, ngôi tháp chỗ Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, ngôi tháp
chỗ Phật hiện thần thông tại tinh xá Kỳ Viên, ngôi tháp có 3 cấp báu bên
thành Khúc Nữ, ngôi tháp chỗ để kinh Đại thừa trong núi Kỳ Xà Quật,
ngôi tháp tại rừng Am La Vệ, nơi Duy Ma Cật thị hiện bệnh, ngôi tháp chỗ
Phật Niết bàn trong rừng Sala, (8 linh tháp lớn này) đều thuộc về chi
đề. Nguyên uỷ về việc tạo tháp bắt đầu từ thời Đức Phật, Thập tụng luật
quyển 56 chép: Trưởng giả Tu Đạt từng xin tóc và móng tay của Phật về
xây tháp để cúng dường. Ngoài ra, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 33 chép: Vua
Ba Tư Nặc noi gương Phật, kiến tạo tháp Phật Ca Diếp để lễ bái, cúng
dường hằng ngày.
Sau khi Phật nhập diệt, Bà la môn Hương
Tánh chia xá lợi của Phật cho 8 nước; rồi các vị quốc vương rước xá lợi
ấy về nước xây tháp cúng dường. Đó là lịch sử xây tháp đầu tiên sau khi
Phật Niết bàn. Ngoài ra, theo A Dục vương truyện quyển 1 và Thiện kiến
luật Tì bà sa quyển 1 đều chép rằng: khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt,
vua A Dục trị vì nước Ma Kiệt Đà đã xây 84.000 ngôi bảo tháp trong vương
quốc của mình.
I. Vài ngôi tháp tiêu biểu tại những nước Phật giáo
Nếu căn cứ vào ý nghĩa rộng rãi của tháp
mà nói thì các nơi trên thế giới đã từng kiến tạo tháp rất nhiều. Chúng
ta có thể kể đến một số ngôi tiêu biểu tại những nơi theo Phật giáo như
sau:
1. Ấn Độ: Tại
Ba Hách Đặc (Bharhut) có một ngôi tháp di tích, thân tháp đã huỷ hoại
hết, nhưng còn nền tháp và những tảng đá. Thời gian xây tháp này khoảng
200 năm trước Tây lịch.
- Ngôi tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng kiến tạo khoảng 100 năm trước Tây lịch.
- Tháp thờ tại động A Chiên Đa (Ajanta) và tại hang Na Tây Khắc (Nàsik).
Vua Ca Nị Sắc Ca (kaniska) nước Kiền Đà
La thuộc Bắc Ấn Độ xây một ngôi tháp cao 32m dưới núi Tuyết Sơn, khoảng
thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Đồng thời nhà vua cũng xây một ngôi tháp khác,
gồm 13 tầng cao hơn 200m, mà theo sách Lạch Dương Già ký quyển 5 thì
đây là ngôi tháp đặc sắc nhất trong những ngôi tháp tại Tây Vức...
2.Tích Lan (SriLanka): Vua
Thiên Ái Đế Tu (Devànampiya Tissa) đã kiến tạo một số ngôi tháp tại
Tháp Viên (Thùpàràma). Đó là những ngôi tháp xuất hiện sớm nhất trên
Tích Lan. Ngoài ra, trên núi Vô úy (Abhayagiri) có một ngôi tháp cao
120m, kiến tạo vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Đây là một trong
những ngôi tháp cổ rất nổi tiếng tại Tích Lan.
3. Miến Điện (Myanmar): Nước
này có tháp Phật Đoan Đức Cung (Shwedagon) tại Ngưỡng Quang (Rangoon)
cao 118m; tháp Tu Mã Đổ (S'emaudau) tại Tí Cổ (pegu) cao 102m. Toàn bộ
mặt ngoài của tháp đều được thếp vàng và có 10 ngôi tháp nhỏ ở xung
quanh.
4. Thái Lan:
Tại cố đô Du Địa Á (Ayuthia) còn lưu lại không ít những ngôi tháp Phật
cổ xưa. Ngoài ra, tại Băng Cốc (Bangkok) còn có tháp Phỉ Lạp thác mỗ ma
yết đề (Phra - Thomma - Chedi) cao 125m, và ngôi tháp Thanh Tự (Wat
Ching) đều là những ngôi tháp nổi tiếng thế giới.
5. Lào: Nước
Lào có tháp Duy Ân Thường (Chom - Vien chang), tháp Khoa Ma Nghinh
(Chom - yong), đều là những ngôi tháp cổ trọng yếu hiện còn.
6. Trảo - Oa (Java):
Nơi đây có Bà La phù đồ (Borobudur) là một ngôi tháp quy mô, bề thế;
nền tháp hình tứ giác, chính giữa là một ngôi tháp lớn đứng thẳng lên
tới đỉnh, và chu vi thân tháp gồm có 72 ngôi tháp nhỏ. Trong mỗi ngôi
tháp nhỏ đều đặt tượng phật, toàn bộ kiến trúc có nhiều tầng cấp, hình
dáng tương tự kim tự tháp. Chiều dài, chiều rộnh mỗi bên 123m, và chiều
cao 42m. Đó là thánh địa Phật giáo Đaị thừa hiện còn, rất to lớn và rất
trang nghiêm.
7. Ni Bạt Nhĩ (Nepal): Xứ
này có tháp Ô nhã mỗ bố na đức (Snuyambhunàth) tại Gia Đức Mãn Đô
(Katmandu) rất lớn, hình dạng như cái bát úp, ở trên có 10 tầng tướng
luân, đỉnh tháp để thiên cái (lọng báu).
8. Tây Tạng: Tháp ở Tây Tạng thường được gọi là Lạt ma tháp, và đa số tháp ở đây đều có hình dáng nhỏ.
9. Trung Quốc: Tại
Trung Quốc, thời đại tạo tháp được ghi nhận sớm nhất là thời Tam Quốc.
Tương quyền vào năm Xích Ô thứ 3 (năm 240), vua Đông Ngô là Tôn Quyền
sai Khương Tăng Hội đã chí thành cầu nguyện, cảm được xá lợi xuất hiện.
Do đó, nhà vua rất thán phục, cho xây tháp để cúng dường, gọi nơi này là
chùa Kiến Sơ. Thế nhưng, theo Phật Tổ thống kỷ quyển 54 thì ngôi tháp
tại chùa Bạch Mã được xây vào năm Vĩnh Bình thứ 10 (năm 67) đời vua Hán
Minh Đế, mới là ngôi tháp sớm nhất của Trung Quốc. Về sau, sự tích các
triều đại xây tháp vẫn còn tiếp tục. Vào năm Thái Khang thứ 2 (năm 281),
đời vua Võ Đế nhà Tây Tấn, Huệ Đạt ở huyện mậu, tỉnh Chiết Giang trông
thấy một bảo tháp từ dưới đất hiện lên, cao độ 45m, rộng khoảng 22m. Do
thế, ông bèn xây tháp tại ấy. Năm Huy Bình nguyên niên (năm 516) đời Bắc
Ngụy, Linh thái hậu là Hồ thị sai thợ thiền nghệ kiến trúc một ngôi
tháp gỗ tại chùa Vĩnh Ninh, Lạc Dương, gồm 9 tầng, cao 320m, đứng cách
xa một trăm dặm vẫn có thể trông thấy. Nhưng đáng tiếc là ngày nay ngôi
tháp này không còn.Vào đời nhà Tùy, vua Tùy Dạng Đế đã vì Đại sư Trí
Khải mà xây một ngôi bảo tháp bằng gạch tại chùa Quốc Thanh, núi Thiên
Thai. Ngôi tháp này hình lục giác, gồm 4 tầng, cao độ 74m. Vua Đường
Thái Tông cũng từng theo lời thỉnh cầu của Đường Tam Tạng Huyền Trang mà
xây một ngôi tháp gạch tại chùa Từ Ân, Tây An, cao 58m.
10. Nhật Bản: Vào
tháng 2 năm Kính Đạt Thiên hoàng thứ 14 (mă, 585) viên quan đại thần Tô
Ngã Mã Tử tạo một ngôi tháp ở phía Bắc Đại Dã Khâu. Ở trên đầu chóp
tháp tôn trí ngọc xá lợi mà ông đã thỉnh được. Đến năm Suy Cổ Thiên
hoàng thứ 15 (năm 606), Thánh Đức thái tử tạo một ngôi tháp 5 tầng tại
chùa Pháp Long, đến nay vẫn còn. Đây là ngôi tháp gỗ cổ nhất thế giới.
II. Hình dáng của tháp:
Về chủng loại của tháp rất phong phú,
nếu dùng hình dáng để phân loại thì ta có:tháp phú bát, tháp khám, tháp
trụ, tháp nhạn, tháp lộ, tháp ốc, tháp vô bích, , tháp Lạt ma, tháp
nhiều tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình bát
giác, tháp đại, tháp đa bảo, tháp du kỳ, tháp Ngũ luân, tháp hình trứng,
tháp vô phùng, tháp lâu các, tháp mật diêm, tháp kim cương bảo tòa,
tháp mộ...
Trong các hình thức của tháp thì hình
thức tháp phú bát (bát úp) là xưa nhất. Theo luật Ma ha tăng kỳ quyển
33, và hữu bộ tùy nại da tạp sự quyển 18 thì tháp phú bát gồm có các bộ
phận sau đây cấu thành: thân tháp hình bát úp, đầu bằng có trụ hình bánh
xe, tướng luân và bảo bình. Luật quy định, nếu dựng tháp thờ Phật thì
phải có đầy đủ hình thức kể trên.Nếu dựng tháp cho Độc giác Phật thì
không được an trí bảo bình. Nếu xây tháp cho vị A la hán thì tướng luân
không được nhiều hơn 4 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Bất Hoàn thì
tướng luân không quáv 3 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả nhất lai,
thì tướng luân không quá 2 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Dự lưu
thì tướng luân không quá 1 tầng.Nếu xây tháp cho người thiện trong phàm
phu thì phải xây bằng trên đầu và không được dùng hình thức tướng luân.
Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 41 còn ghi rõ: Vị chuyển luân thánh vương
(như vị nguyên thủ của một đại cường quốc) cũng được xây tháp, nhưng
không được dùng tướng luân (tầng tháp hình lục giác hay bát giác), và
chỉ xây bên ngoài khuôn viên chùa. Vì vị này tuy có phước đức lớn nhưng
chưa đoạn trừ hết 3 độc tham, sân, si.
Nền của tháp theo thể thức Ấn Độ thời
xưa thì phần lớn làm hình tròn. Nhưng Trung Quốc, Nhật Bản, Việt
Nam...thì thường dùng tứ giác hoặc bát giác để cấu trúc.Thân tháp càng
về sau, càng biến thành nhiều tầng. Vào khoảng thế kỷ thứ 3, thứ tư có
tháp 3 tầng xuất hiện, sau đó lại có 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng, 13 tầng, 15
tầng, 17 tầng, thậm chí đến 37 tầng.Nhưng theo Tỳ nại da tạp sự quyển
18 (Đ.24, tr.291c) qui định thì số lượng các tầng tướng luân hoặc là
1,2,3,4 cho đến 13 tầng là tối đa. Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn một số
tháp nhiều tầng nổi tiếng, như tại chùa Tung Nhạc, núi Tung Sơn (Trung
Quốc)có ngôi tháp gạch cao 15 tầng. Ở chùa Tiến Phúc, tại Tây An có ngôi
tháp tiểu nhạn cao 15 tầng; và chùa Hương Tích, tại Tây An có ngôi tháp
gạch cao 13 tầng
III. Chủng loại của tháp
Nếu căn cứ vào những vật được tôn trí
trong tháp mà phân loại, thì chúng ta có: tháp xá lợi, tháp tóc, tháp
móng, tháp răng, tháp y, tháp bát, tháp chân thân, tháp tro thân, tháp
toái thân, tháp bình, tháp hải hội, tháp tam giới vạn linh, tháp nhất tự
nhất thạch...
1. Tháp xá lợi: Tức là ngôi tháp được kiến tạo tôn trí xá lợi của Phật - những chất kết tinh sau khi nhục thân đã được trà tì.
2. Tháp tóc: Ngôi tháp lập ra để cúng dường tóc Phật.
3. Tháp móng:
Ngôi tháp được xây dựng để cúng dường móng tay, móng chân của Phật. Hai
vật này do trưởng giả Tu Đạt xin Phật đem về nhà xây tháp cúng dường.
4. Tháp răng: Ngôi tháp dùng để cúng dường răng của Phật.
5. Tháp chân thân: Tháp dùng để tôn trí chân thân (nhục thân) của cao tăng.
6. Tháp khôi thân: Tức ngôi tháp tàng trữ tro của bậc cao tăng sau khi đã hỏa thiêu.
7. Tháp toái thân:
Tức ngôi tháp an trí một phần tro thân sau khi hỏa thiêu còn lại, như
ngôi tháp Từ Ân ở gần đầm Nhật Nguyệt là ngôi tháp toái thân của Đại sư
Huyền Trang.
8. Tháp phổ đồng: Còn gọi là tháp phổ thông, tháp hải hội; tức ngôi tháp tập trung di cốt của chúng tăng các nơi về tàng trữ vào một chỗ.
9. Tháp tam giới vạn linh: Tức ngôi tháp tập trung những di cốt của hạng người hữu duyên với Phật pháp.
10. Tháp mễ cốc: Ngôi tháp tàng trữ lúa thóc dùng để cầu nguyện cho ngũ cốc được mùa.
11. Tháp nhất tự nhất thạch: Cứ mỗi viên đá nhỏ khắc một chữ trong kinh Pháp Hoa, rồi chôn vào lòng đất, xây tháp lên trên để cúng dường.
Ngoài ra, kinh Quán Hư Không Tạng Bồ tát
còn cho biết trên cung trời Đao Lợi có 4 ngôi tháp tôn trí 4 di vật của
Đức Phật, thường gọi 4 tháp của Đế thích, đó là:
1) Tháp tóc;
2) Tháp y;
3) Tháp bát;
4) Tháp răng.
IV. Chất liệu dùng làm tháp
Phân tích về những chất liệu dùng làm
tháp, ta có: tháp gỗ, tháp gạch, tháp đá, tháp bùn, tháp đất, tháp sắt,
tháp đồng, tháp vàng, tháp bạc, tháp thủy tinh, tháp pha lê, tháp lưu
ly, tháp ngọc, tháp châu báu và tháp hương.
1. Tháp gỗ: Tại
Trung Quốc hiện còn ngôi tháp gỗ xưa nhất, đó là ngôi tháp Thích Ca tại
chùa Phật Cung, huyện Ứng, tỉnh Sơn Tây, làm năm Thanh Ninh thứ 2
(năm1056) triều vua Liêu Đạo Tông, hình bát giác, gồm 5 tầng cao 115m,
kiến trúc rất kiên cố. Năm Nguyên Thuận Đế, tại huyện Ứng bị động đất 7
ngày ngôi tháp này vẫn đứng yên bất động. Ngoài ra còn phải kể đến ngôi
tháp do vua Ca Nị Sắc Ca kiến trúc và ngôi tháp ở chùa Vĩnh Ninh, thành
Lạc Dương cũng đều là tháp gỗ.
2. Tháp gạch:
Hiện nay các nước Thái Lan, Miến Điện, Lào, Việt Nam, Tây Tạng, những
ngôi tháp hiện còn phần lớn là tháp bằng gạch. Tại chùa Tung Nhạc, Trung
Quốc có ngôi tháp gạch 12 cạnh, cao 15 tầng, nền tháp rất cao, mái che
trùng điệp, tráng lệ, hùng vĩ. Đây là một ngôi tháp kiến trúc rất nghệ
thuật, cực kỳ giá trị.
3. Tháp đá: Tại
Ấn Độ ngày xưa thường xây tháp bằng đá như ngôi Sơn Hà đại tháp. Ngoài
ra, trong hang đá ở Vân Cương Trung Quốc hiện còn một số ngôi tháp bằng
đá.
4. Tháp cát: Trong
phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa cũng như kinh Luật Dị Tướng quyển 44
đều có đề cập đến cố sự "Đồng tử vun cát làm tháp".
5. Tháp đất: Trong Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa cũng có kể đến loại tháp làm bằng đất dùng để cúng dường Phật.
6. Tháp sắt: Sách
Nhập Đường cầu pháp tuần lễ ký chép: Tháng 9 năm Lân Đức thứ 2 (năm
665) đời Đường Cao Tông, tại chùa Pháp Vân có tạo một ngôi tháp bằng sắt
gồm 7 tầng, cao 1 trượng.
7. Tháp đồng:
Ngô Việt Vương là Tiền Hoàng Thục noi gương vua A Dục ngày xưa, khoảng
năm Hiển Đức thứ 2 (năm 955) cho đúc 84.000 cái tháp bằng đồng, cao
chừng 2 tấc Tây, mọi người đều ngợi khen là rất đẹp.
8. Tháp vàng: Phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa từng đề cập đến loại tháp này.
9. Tháp bạc: Loại
tháp cũng giống như tháp vàng ở trên, tương đối cũng ít thấy. Theo sách
Xuất Tam Tạng ký tập quyển 8 cho biết một người Bà la môn từng tạo một
ngôi tháp bạc trong nhà, cao 3 trượng, rộng 8 thước.
10. Tháp thủy tinh: Ở
Nhật Bản, tại phường Phản Bản Thực Tạng có ngôi tháp thờ xá lợi bằng
thủy tinh, được kiến trúc rất nghệ thuật; đó là quốc bảo của nước Nhật.
11. Tháp pha lê, xa cừ, mã não, lưu ly: Các loại tháp này cũng đều thấy có đề cập đến trong phẩm Phương Tiện và phẩm Bảo Tháp của kinh Pháp Hoa.
12. Tháp ngọc: Loại
tháp này còn lại hiện nay rất ít. Năm Khang Hy thứ 49 (năm 1709) đời
nhà Thanh, vua Thánh tổ từng sai thợ chuyên môn dùng 3 màu thạch ngọc
vàng, xanh, trắng phối hợp điêu khắc một tòa tháp ngọc 8 tầng, cao độ 3
thước Tây, nghệ thuật điêu khắc rất tinh vi. Ngôi tháp này được xem như
một thứ quốc bảo. Trải qua thế cuộc biến thiên, bảo vật này lưu lạc đến
nước Mỹ và hiện nay nó được tàng trữ tại Đại học Áo Lập Cương.
13. Tháp hương: Tức
dùng hương tán nhỏ hòa với nước mà nắn thành ngôi tháp nhỏ, cao chừng
1,2 tấc Tây trở lên, trong tháp tôn trí những bản kinh chép tay để lễ
bái cúng dường, gọi là "Pháp xá lợi"
V. Mục đích của tháp:
Nếu phân tích về phương diện ý nghĩa, mục đích thì có: tháp kỳ phúc, tháp báo ân, tháp pháp thân và tháp thọ.
1. Tháp kỳ phúc: Các tín đồ Phật giáo xem việc tạo tháp là một công đức lớn, nên dựng tháp để cầu phúc.
2. Tháp báo ân: Vì mục đích báo đáp ân đức của Phật mà xây tháp để thờ Phật, nên gọi là tháp báo ân.
3. Tháp pháp thân: Vì để an trí pháp thân xá lợi (những bản kinh quí được chép tay) nên tạo tháp.
4. Tháp thọ: Tức là bia, mộ của các cao tăng dự tạo lúc còn sống, giống như người đời xây sinh phần.
VI. Cách bài trí tháp:
Về cách bài trí tháp thì có các hình
thức: tháp cô lập, tháp đối lập, tháp bài lập, tháp phương lập, tháp
cũng lập, tháp phân lập v.v...
1. Tháp cô lập: Tức ngôi tháp đứng đơn độc một mình. Hình thức này phổ biến nhất.
2. Tháp đối lập: Như tại Trường An ở Thiểm Tây (Trung Quốc) có 2 ngôi tháp Đại Nhạn và Tiểu Nhạn đứng đối diện nhau.
3. Tháp bài lập: Như
3 ngôi tháp ở trong vườn chùa Gia Hòa ở tỉnh Chiết Giang, kiến tạo từ
đời Đường và được tu bổ vào năm Quang Chử thứ 2 (năm 1876)
4. Tháp phương lập: Như tại thành Thẩm Dương ở Liễu Ninh có 4 ngôi tháp đứng ở 4 cửa thành.
5. Tháp cũng lập: Như 5 ngôi tháp ở chùa Ngũ Tháp ở ngoài cửa Tây của Bắc Bình.
6. Tháp phân lập: Như 7 ngôi tháp tại Kim Cương Bảo Tháp viện ở phía Tây Bắc Bình.
VII. Công đức tạo tháp
Các kinh điển cũng như các giáo huấn xưa
nay đều nói rõ về công đức rất lớn của việc tạo tháp. Kinh Thí Dụ nêu
ra 10 phước báo thù thắng của việc tạo tháp:
Không bị sinh vào những quốc độ biên địa.
2. Không bị nghèo khốn.
3. Không mang thân ngu si, tà kiến.
4. Có thể làm nguyên thủ những nước lớn.
5. Thọ mạng lâu dài.
6. Có thể được sức mạnh như lực sĩ Kim Cang Na La Diên.
7. Được phước đức to lớn không gì sánh bằng.
8. Được nương nhờ đức từ bi của chư Phật, Bồ tát.
9. Đầy đủ tam minh, lực thông, bát giải thoát.
10. Được vãng sinh Tịnh độ của 10 phương chư Phật.
VIII. Công đức nhiễu tháp
Kinh Đề Vị cũng nêu lên 5 công đức của sự nhiễu tháp như sau:
1. Đời sau được sắc đẹp, đoan chính.
2. Được âm thanh trong trẻo, êm dịu.
3. Được sinh lên cõi trời.
4. Được sinh vào nhà các vương hầu.
5. Đạt được đạo quả Niết bàn.
Khi nhiễu tháp phải đi theo chiều phía
tay phải, và phải cúi đầu nhìn xuống đất, không được dẫm đạp những côn
trùng nơi tháp, không được nhìn ngó 2 bên, không được khạc nhổ trên đất
tháp, không được dừng lại nói chuyện với người khác. Không những tạo
tháp, nhiễu tháp mới có công đức, mà sửa chữa tháp, quét tháp, lễ tháp
v.v.. cũng đều có công đức rất lớn.
Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu khái
quát ý nghĩa, mục đích, diễn tiến hình thành ngôi tháp thờ Phật tại
những quốc gia theo Phật giáo. Mặc dù sự giới thiệu này chưa đầy đủ, quí
độc giả vẫn có thể mường tượng được hình ảnh ngôi tháp thờ Phật từ lúc
bắt đầu xuất hiện cho đến ngày nay trên thế giới. Riêng tình hình tháp
tại Việt Nam, chúng tôi sẽ trình bày trong một bài khác, để đáp ứng yêu
cầu của những vị nào muốn tìm hiểu về lịch sử Phật giáo nước nhà.
* Ghi chú:
- Theo Phật Quang đại từ điển tr. 5421 - 5432. Lạc Dương già tam ký quyển 1;
- Đại Đường Tây Vức ký quyển 2;
- Lương cao tăng truyện quyển 1;
- Quảng Hoằng Minh tập quyển 15, 17; và một số tư liệu khác. (bấm vào hình nhỏ để xem hình lớn)
Bảo Tháp Nepal
Bảo Tháp Ấn Độ
Bảo Tháp Tích Lan
Bảo Tháp Borobudur Trảo - Oa (Java)
Bảo Tháp Miến Điện
Bảo Tháp Lào
Bảo Tháp Thái Lan
Bảo Tháp Tây Tạng
Bảo Tháp Nhật Bản
Nhận xét
Đăng nhận xét