Nguyễn Tiến Văn
Sáng tạo là làm ra cái mới. Đó chính là quyền năng cao quý nhất,
vì nó là sức mạnh của toàn vũ trụ từ vô thuỷ đến vô chung. Không ai biết vì sao
có vũ trụ, thế gian, sự sống, con người, trí tuệ… Bởi thế người ta đành gọi là
tự nhiên thế đó, là trời, là thượng đế… và gán vai trò sáng tạo cho một đấng
tạo hoá, cho một đứa trẻ ngang ngược (hoá nhi = trẻ tạo).
Sáng tạo, như những câu thơ của Nguyễn Gia Thiều trong Cung
oán ngâm khúc: “Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán / Chết
đuối người trên cạn mà chơi / Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ
mờ nhân ảnh như người đi đêm”.
Năm 2009 này là kỉ niệm 200 tuổi của Charles Darwin và 150 tuổi
tác phẩm chấn động thế giới On the Origin of Species (Về nguồn
gốc của các chủng loại) (1859). Darwin lần
đầu tiên cắt nghĩa sự xuất phát của các loài sinh vật, cả thực vật và động vật,
chỉ bằng những nguyên nhân tự nhiên, không có sự can thiệp của thần linh hoặc
thế lực siêu việt nào.
Có thể lấy năm 1859 đó là khởi điểm của loài người đứng thẳng và
đảm nhiệm trách nhiệm với trái đất cũng như muôn loài, thoát khỏi sự nô lệ vào
thần quyền. Sự tiến hoá là tự nhiên, và sự sáng tạo là có thể hiểu được.
Đến 1898 nhà phát minh chất nổ người Thuỵ điển là Alfred Nobel
để lại gia tài đồ sộ và sám hối về việc muốn giúp thợ mỏ trong việc khai thác
quặng lại trở thành trợ thủ cho chiến tranh khi chất nổ dynamite bị dùng làm
cốt mìn để huỷ diệt con người. Chỉ kể những giải Nobel khoa học, người ta thấy
rằng trong 100 giải có đến 77 giải là phát cho những người khám phá (cái mới,
cái sáng tạo) chỉ có 23 giải cho người phát minh (tức ứng dụng những khám phá
kia vào thực tế).
Từ quyền năng sáng tạo gán cho thượng đế hay chư thần đó, thần
thoại Hi lạp cho rằng 9 nữ thần nghệ thuật (Muses) là nguồn gốc của mọi sự sáng
tạo, từ (1) Calliope tạo sử thi; (2) Clio tạo lịch sử; (3) Euterpe tạo sáo
địch; (4) Terpsichore tạo vũ khúc trữ tình; (5) Erato tạo thơ và tụng ca trữ
tình; (6) Melpomene tạo bi kịch; (7) Thalia tạo hài kịch; (8) Polyhymnia tạo
nghệ thuật bắt chước; và (9) Urania tạo khoa thiên văn. Tất cả 9 nữ thần này
chủ trì cả nghệ thuật, nhân văn, và khoa học và đều là con đẻ của tổng quản chư
thần trên đỉnh núi Olympia là Zeus, tức thần sấm chớp, qua sự phối hợp với nữ
thần Mnemosyne chủ trì kí ức (mà nhà thơ Bùi Giáng [1926-1998] thường gọi là
Môzin).
Sự sáng tạo của con người quả là kì diệu nên được cho là bắt
nguồn từ tuồng thần linh, gọi là thần nhập (enthousiasme) hay thần hứng
(inspiration). Thần nhập là cảm ứng với thần linh như người lên đồng, khi thần
mượn xác người phàm để làm phát ngôn và dạy bảo. Còn thần hứng là hít thở sinh
khí của thần để sáng tạo. Thời tiền chiến ở Việt Nam, Thế Lữ đã Việt hoá các nữ
thần của nghệ thuật (thực ra là cả của khoa học và nhân văn) là nàng Litao [Li
tao là tên tác phẩm của Khuất Nguyên [khoảng 343 – khoảng 289 trước
CN] nhà thơ đầu tiên để lại tên tuổi sau hàng ngàn năm và hàng ngàn bài ca dao
vô danh mà Khổng tử đã chọn lọc còn lại 305 bài trong Kinh Thi.].
Còn thần hứng tức inspiration thì
được vừa phiên âm vừa được dịch là “yên sĩ phi lí thuần”. Yên ở
đây tức là hơi khói thuốc phiện; yên sĩ là nghệ sĩ làm bạn với
ma tuý được thi vị hoá thành Ả Phù dung hoặc nàng Tiên Nâu như màu sắc của chất
mủ của trái cây hoa anh túc. Phi lí thuần là thuần chất vượt
thoát lí trí để là cõi tinh tế và cao siêu của nghệ thuật.
Các thập niên 1920, 1930 là thời gian sáng tạo đặc thù của Việtnam.
Chúng ta có tiểu thuyết hiện đại và phổ thông cả nước như Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách (1925); bài thơ mới đầu tiên của Phan Khôi là Tình già xuất
hiện năm 1932; tranh lụa đầu tiên của Nguyễn Phan Chánh năm 1928; tân
nhạc tức bài hát ta điệu Tây của những Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Thiện Tơ, Đặng
Thế Phong… trong thập niên 1930. Kịch mới như Uyên ương (1927)
và Hoàng mộng điệp (1928) của Vi Huyền Đắc; những tác phẩm
lịch sử và triết học như Việt Nam sử lược(1928) Nho giáo (1930)
của Trần Trọng Kim….
Tuy rằng Lục tỉnh Nam kì đã thuộc Pháp từ 1864 và 1867 nên nền
báo chí và văn học như truyện ngắn, tiểu thuyết, cũng như từ điển, kịch nghệ
chịu ảnh hưởng của phương Tây qua văn hoá Pháp phát triển ở miền Nam trước miền
Bắc và miền Trung, nhưng vì chính sách “chia để trị” của thực dân nên ba kì bị
cách biệt và phải đến sau 1884, khi chế độ bảo hộ mở rộng toàn quốc, ảnh hưởng
này mới lan đến miền Bắc.
Tiểu thuyết Thầy Lazarô phiền của Nguyễn Trọng
Quản ra đời từ 1887, nhưng hầu như cả nước không được biết cho mãi đến hơn 100
năm sau. Đại Nam quấc âm tự vị của Paulus Huình Tịnh Của xuất
bản ở Sài Gòn từ 1895 – 1896 nhưng không mấy người ở Hà Nội hoặc Huế có được và
mãi 1972 nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn cho chụp ảnh in lại mới phổ cập trong giới
học giới.
Đó là chưa nói rất nhiều tiểu thuyết thực thụ của Lê Hoằng Mưu,
Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản, Biến Ngũ
Nhy, Phạm Minh Kiên… đều ra đời trước 1925, phát hành rộng rãi, nhưng cũng do
cách ngăn và những người viết sử văn học như Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan đã
thiếu thông tin.
Xét lại thời kì sáng tạo bồng bột của Việt Nam 1925 – 1945
chúng ta rút được mấy bài học:
(1) Muốn
sáng tạo phải có tích luỹ, và muốn tích luỹ phải có thu thập và kí ức. Nói theo
ngôn ngữ của khoa tin học là phải có kho dữ kiện (data) được lưu trữ (storage)
trong bộ nhớ (memory).
(2) Khi
đã có lưu trữ thông tin (information storage ) lại cần phải có những phương pháp
để tiếp cận (access) và xử lí thông tin (information processing) theo những
diễn trình và thông lộ hữu hiệu.
(3) Cần
phải có kĩ năng để chuyển (transfer) và dịch (translation) để giải mã (decoding)
và thông diễn (interpretation / hermeneutics ) thông tin đó cho thích hợp với
trình độ và khả năng của người sử dụng.
Tất cả những kĩ năng này đòi hỏi khả năng phân tích và tổng hợp
để xử lí văn bản (text analysis & processing ).
Vậy, người Việt Nam có sáng tạo hay không?
Câu hỏi nhức nhối và bức xúc này thế hệ nhà Nho tiếp xúc với
phương Tây đầu tiên như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Cao Bá Quát, Phạm
Phú Thứ, Trương Vĩnh Kí… và thế hệ thứ hai, thứ ba như Trần Trọng Kim, Phan
Khôi, Phạm Quỳnh… đều đã đặt ra.
Tuy nhiên, không thể có sáng tạo nếu không có kí ức, tức là hiểu
biết và kính trọng quá khứ ngang bằng với việc thâu thái cái mới của thiên hạ.
Không có sáng tạo nào từ hư không cả. Con rồng là linh vật huyền thoại để tượng
trưng cho linh khí của vũ trụ, làm mưa nuôi mùa màng, có thể bò trên đất, chui
trong hang vực, bay trên trời… Nhưng con rồng không có trong thực tế; tất
cả những bộ phận và chức năng của nó đều phát xuất từ hiện thực và được thần
thánh hoá, cách điệu để thờ.
Muốn biết người Việt Nam có sáng tạo không thì ta phải
tra hỏi quá khứ. “Ôn cố tri tân”: ôn
là học lại bài cũ, thì mới biết sự mới, trước khi nói đến sáng tạo.
Trong mấy ngàn năm nay, người Việt Nam có ba đại sáng
tạo, phi thường nếu so sánh với cả toàn cầu. Đó là:
(1) Tạo một đất nước chung sống cho cả 15 bộ tộc khác nhau
về nguồn gốc, văn hoá thành một nhà nước thống nhất nhưng đa diện là Văn Lang
(cái làng văn hoá). Đây là truyền thống sống chung.
(2) Nền tảng nhà nước Văn Lang đó là tiền đề và cơ sở để
Hai Bà Trưng khởi nghĩa giành độc lập (năm 40-43 sau Công nguyên) tiếp đó là
những Bà Triệu, Phùng Hưng, Mai Thúc Loan, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh… trong suốt
cả ngàn năm Bắc thuộc để xác định nền tự chủ. Đây là truyền thống dân tộc yêu
nước của mấy ngàn năm anh hùng.
(3) Mở mang đất nước từ châu thổ sông Nhị đến châu thổ sông
Cửu long suốt ngàn năm qua, giữ vững bờ cõi sau thế kỉ bị phương Tây xâm lăng
và đô hộ để thành một đất nước thống nhất với số dân gần trăm triệu người và
một ngôn ngữ phổ thông đứng hàng thứ 13 trên thế giới. Đây là truyền thống mở
cửa.
Cả 3 sáng tạo này về mặt văn hoá xã hội là những kì tích, nhưng
bây giờ đều không được “ôn cố” và đều suy đồi nên gây bức xúc trong xã
hội, nhất là trong giới văn nghệ sĩ. Sở dĩ như vậy vì những người dân thường đã
làm hết sức mình để dựng nước và giữ nước, lại nuôi sống giới ưu tú về cơm gạo
áo quần và các nhu yếu phẩm khác. Nhưng giới ưu tú và trí thức không làm tròn
nhiệm vụ của mình, so với những nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái lan,
Myanmar, Indonesia, Malaysia, Philippines, Cambodia, và Lào nữa.
Đến Jakarta, Singapore, Kuala
Lumpur, Bangkok, Phnom Penh… chúng ta xấu hổ vì những kiến trúc hiện
đại của họ mang đầy tính dân tộc và tự hào đích thực. Văn học, hội hoạ, vũ đạo,
điện ảnh của họ làm cả thế giới quan tâm thăm viếng. Còn Việtnam theo
thông tin từ đài BBC của Anh, thì 2/3 du khách đến rồi thì thể không quay trở
lại vì bị vắt kiệt, bóc lột, như những con bò sữa.
Ta thường nói truyền thống 4 (hoặc 5) ngàn năm văn hiến – văn
hoá có những cơ sở thiết định là văn hiến. Khía cạnh quan trọng nhất của văn
hoá là tiếng nói và chữ viết. Tiếng nói của chúng ta có được khoảng 35 ngàn
năm. Chữ viết Nôm của chúng ta có được khoảng từ 2000 năm đến 100 năm về trước
và chữ viết abc chúng ta có được là nhờ các giáo sĩ phương Tây, nhất là giáo sĩ
dòng Tên Alexandre de Rhodes từ cuốn Từ điển Việt - Bồ - La xuất
bản ở Roma năm 1651.
Nguyên việc chính danh cho các văn tự chữ Việt đã là một chuyện
nhức nhối và ô nhục. Tổ tiên chúng ta không chịu nói theo người Trung quốc, dù
là đời Hán hay đời Đường đô hộ nước ta, mà phát minh một cách đọc riêng của
người Việt và gọi đó là chữ Nho, tức thứ văn tự chuyên chở đạo lí của nhà Nho
(Nho gồm bộ nhân là người và nhu là cần
thiết. Nhu lại gồm vũ là mưa cho lúa nước và nhi là
hàm râu chỉ người có tuổi có trải nghiệm).
Khi Pháp đô hộ muốn cách li dân tộc Việt nam, nhất là giới trí
thức, khỏi di sản tổ tiên và giao lưu với những nước đồng văn (cùng văn tự khối
vuông, tức chữ Nho) như Trung quốc, Hàn quốc, Nhật bản – nên gọi đó là les caractères
chinois và dịch là Hán văn để chỉ sở hữu của một chủng tộc, một quốc gia.
Năm 1960 nhà xuất bản Sự Thật in cuốn Từ điển Trung – Việt của
Văn Tân, như thế là coi chữ Nho như một thứ ngoại văn, chứ không phải một thành
tố quan trọng của cả tiếng nói và chữ viết Việt Nam.
Sau khi chế độ khoa cử bị Pháp bãi bỏ ở Miền Bắc (1915) và ở
Miền Trung (1919) chúng ta có những thế hệ trí thức xa lìa với văn hiến, di sản
của tổ tiên.
Trí thức Việt Nam thường hay tự hào là chỉ có tiếng Việt mới có
chữ viết abc theo mẫu tự La tinh của phương Tây tiện lợi cho việc bình dân giáo
dục và xoá nạn mù chữ, trong khi các nước thuộc khối chữ vuông tức chữ Nho như
Trung quốc, Hàn quốc, Nhật bản không làm được. Và có câu nói nổi tiếng: “Sự
thật là sự thật; nửa ổ bánh mì (hoặc nửa củ khoai lang) vẫn là bánh mì (hoặc
khoai lang); nhưng một nửa sự thật là điều dối trá”. Điều dối trá ở đây là Nhật
Bản đã có romaji (La mã tự) từ thế kỷ 17 và Trung quốc từ năm 1949, Mao Trạch
Đông muốn cách tân giản thể hoá chữ Nho và thành lập uỷ ban điển chế việc abc
hoá của tiếng Hoa nhưng đến năm 1956 phải bãi bỏ việc Latinh hoá vì tiếng Hoa
chỉ có 858 âm nhưng có đến 50 ngàn chữ khiến cho tiếng đồng âm quá nhiều, phiên
âm ra abc chỉ gây hoang mang. Lại thêm Trung quốc quá rộng lớn và có nhiều
phương ngữ, nếu lấy âm làm chính và chữ làm phụ thì sẽ xé nát đất nước và văn
hoá này thành nhiều mảnh: Bắc kinh, Thượng hải, Phúc kiến, Quảng đông, Khách gia
(tức người Hẹ)…
Chữ Nhật dùng hệ thống chữ kanji
mượn của Trung quốc, tiểu học học 881 chữ, trung học học thêm 1.000 chữ nữa để
có thể đọc được sách sử tiền nhân và các nước chung lịch sử văn hoá ở Á đông.
Vậy nên từ khi bãi bỏ chế độ khoa cử (cựu học) để theo Tây học
(tân học) người dân các nước kia không mất sợi dây kết nối với truyền thống,
còn người Việt thì trở thành mất gốc nhất trong các nước ở châu Á và cả thế
giới.
Nhận xét
Đăng nhận xét