Việt Nam có bờ biển dài, với vùng biển rộng. Biển và đảo suốt
tiến trình lịch sử luôn luôn giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội của đất nước.
|
||
Từ
thời kỳ tiền sử đến ngày nay, con người ở các vùng nội địa Việt Nam
liên tục tiến ra chiếm lĩnh, khai phá, sinh sống trên các đảo, quần đảo.
Bắt đầu từ các thời Lý - Trần - Lê, Biển Đông đã trở thành chiến lược
phát triển của quốc gia Đại Việt. Con đường mở mang bờ cõi xuống phía
nam của dân tộc Việt Nam cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh
biển, đảo. Đây chính là cơ sở hết sức quan trọng, một bước chuẩn bị
thiết yếu để trong bối cảnh lịch sử mới, các chính quyền Đàng Trong đã
thực hiện được kỳ tích tuyệt vời là xác lập và thực thi chủ quyền ở
Hoàng Sa và Trường Sa.
Chứng cứ không thể bác bỏ
Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Sách chép: “Phủ
Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù
Lao Ré...; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều
hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3
đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải.... Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng
Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2
nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu
nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá
mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc,
hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ,
đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân
rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp,
cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba,
hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về...
Họ
Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn
Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì
cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền
câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm
vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai
đội Hoàng Sa kiêm quản...
…
Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương
Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hoá nói rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10
tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm (Cát Vàng?) huyện Chương Nghĩa
phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm
các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt
dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về
nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu (Nguyễn Phúc Khoát?) sai cai bạ Thuận Hoá
là Thức Lượng hầu làm thư trả lời. (Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), T I, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 116).
Đại Nam Nhất thống toàn đồ 1834
Như
vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc, khách quan, xác thực và có
giá trị sử liệu cao, Lê Quý Đôn đã giớí thiệu tương đối đầy đủ vị trí,
đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức
năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải.
Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789)
là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê-Trịnh biên soạn, trong đó đoạn
ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê
Quý Đôn. Ý nghĩa của Đại Việt sử ký tục biên chính
là nó đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một
nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê
Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia.
Đại Nam thực lục tiền biên là
phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn
thành và khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội
Hoàng Sa, Bắc Hải không khác Phủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên.
Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo soạn năm 1686, phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và
ghi chú rõ mỗi năm đến tháng cuối đông Chúa Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền
đến đó nhặt vàng bạc. Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung Quốc
Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên đường trở về nước đã mô tả
khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: “các
Quốc vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc
theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào”. (Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, tr 125).
Thật
ra từ thế kỷ XVI trở về trước, các nhà hàng hải phương Tây đã có nhiều
ghi chép và vẽ bản đồ xác định vùng quần đảo giữa Biển Đông là Baixos de
Chapar (Bãi đá ngầm Chămpa)hay Pulo Capaa (Đảo của Chămpa). (Bản đồ Thế giới của Mercator xuất bản tại Amsterdam (Hà Lan) 1606, in lại trong cuốn Asia in Maps from Ancient time to the Mid-19th Century, Lepzig, 1989) và đoạn bờ biển tương đương với khu vực từ cửa biển Đại Chiêm (Quảng Nam) đến cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa) (Bản đồ Bartholomeu Lasso vẽ năm 1590 và 1592-1594, in trong cuốn sách Les Portugains sur les côtes du Vietnam et du Cămpa của P.Y.Manguin, Paris, 1972; Bản đồ Van Langren 1598, in trong cuốn Iconographie Historique de l’Indochine của P.Boudet và A.Masson, Paris, 1931).
Như thế từ rất lâu đời các nhà hàng hải phương Tây đã coi các quần đảo
giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng Trong. Bước sang
thế kỷ XVII, số lượng tầu thuyền của người phương Tây đi đến vùng biển
này thường xuyên hơn và nhận thức của họ về các quần đảo giữa Biển Đông
cũng phong phú và chính xác hơn. Nhiều tư liệu chép đến các vụ đắm tầu ở
Paracel được người Đàng Trong ra tận nơi cứu hộ rồi đưa các nạn nhân về
Quảng Nam. Chính quyền Đàng Trong đã dành cho mình quyền giải quyết hậu
quả và xử lý các hàng hoá tiền bạc trên các tầu bị đắm ở Hoàng Sa.
Chính vì thế mà vào năm 1701, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite
khẳng định: “Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam”
(Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr 7).
Bản đồ bán đảo Đông Dương của Công ty Đông Ấn - Hà Lan
Như
thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây thế
kỷ XVII đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của
đội Hoàng Sa.
Tuy
nhiên cũng cần phải xác định rõ trong thế kỷ XVII, đội Hoàng Sa được đề
cập đến sớm nhất vào thời điểm nào và trong nguồn sử liệu nào?
Sử sách nhà Nguyễn đều chép thống nhất đội Hoàng Sa được tổ chức ngay từ thuở quốc sơ, tức
là từ thời các Chúa Nguyễn đầu tiên. Tuy nhiên sách cũng không xác định
rõ là Nguyễn Hoàng hay Nguyễn Phúc Nguyên hoặc Nguyễn Phúc Lan?
Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi)
còn giữ được tờ đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm 1775, do Hà Liễu là Cai
hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng
Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế
Hương. Vào năm Tân Mùi (1631),
Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại
Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người...”. Tư liệu cho
phép suy đoán lúc đầu chúa Nguyễn chỉ cho tổ chức một đội Hoàng Sa 70
suất, sau lập thêm đội Quế Hương và đến năm 1631 lại có thêm hai đội Đại
Mạo Hải Ba và Quế Hương Hàm 30 suất nữa.
Năm
1636, nguời Hà Lan đuợc Chúa Nguyễn cho phép mở một thuơng điếm ở
Hội An, dưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6-3, tại Hội An
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã tiếp Duijcker và nhân đó, Duijcker
khiếu nại việc “chiếc tàu mang tên Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi
cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu
giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux”. Ông có
nhiệm vụ xin được bồi hoàn số tiền đó. Chúa Nguyễn Phúc Lan cho rằng
“những việc đó xảy ra từ thời Chúa trước (tức chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên),
không nên đề cập đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được
hoàn toàn tự do mang hàng hoá đến buôn bán, được miễn thuế. Nếu như sau
này có tàu Hà Lan bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu
hàng hoá được cứu hộ nữa". Phải chăng những người Việt cứu giúp tầu
Grootenbroeck bị đắm ở Hoàng Sa nói trên chính là người của đội Hoàng
Sa, và như vậy càng có cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa chí ít đã xuất
hiện từ đầu những năm 30 của thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc
Nguyên (1613-1635).
Bước
sang thế kỷ XVIII, hoạt động chủ quyền của chúa Nguyễn ở các vùng quần
đảo giữa Biển Đông càng trở nên nhộn nhịp thu hút sự chú ý nhiều người
trong nước và nước ngoài. Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa
và Trường Sa, bên cạnh các tài liệu chính thức của nhà nước, của các địa
phương còn có những ghi chép của các thương nhân, giáo sĩ, các nhà quân
sự, các phái bộ ngoại giao nước ngoài và các học giả trong và ngoài
nước.
Cũng đúng vào năm 1776, khi Lê Quý Đôn viết sách Phủ biên tạp lục khảo
tả rất cụ thể về vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, cũng như cơ
cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của đội Hoàng Sa, thì ở quê hương
của đội Hoàng Sa, dân phường Cù Lao Ré làm đơn nói rõ đội Hoàng Sa đã có
lịch sử lâu đời và bên cạnh chức năng thu lượm hoá vật, hải vật còn có
nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ an toàn vùng biển đảo: “Nguyên xã chúng tôi từ
xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương... Bây giờ chúng tôi lập hai
đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin
làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt
các vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu
như có tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng
chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm báu
vật cùng thuế quan đem phụng nạp...” (Đơn của phường Cù Lao Ré xã An
Vĩnh ngày 15 tháng Giêng năm 1776 (lưu tại nhà thờ họ Võ thôn Tây xã Lý
Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi).
Không
chỉ thống nhất với các nguồn tư liệu chính thức của Nhà nước mà nguồn
tư liệu này còn gắn liền với các di tích và truyền thuyết ở địa phương
như miếu Hoàng Sa, những bến bãi đội Hoàng Sa xuất phát, thậm chí cả
những ngôi mộ giả, những nghĩa địa giả với những nghi lễ hết sức đặc
biệt của làng quê đưa tiễn những người con quả cảm của mình đi làm nhiệm
vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa, nguyện dấn thân vào cõi chết vì một vùng biển
đảo thiêng liêng của Tổ quốc: “Hoàng Sa đi có về không/ Lệnh vua sai
phái quyết lòng ra đi”.
Khẳng định chủ quyền ở cả Hoàng Sa và Trường Sa
Dưới
thời Nguyễn, những ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa phong phú, đa dạng
với nhiều thông tin cụ thể trên cả hai khu vực tài liệu chính thức của
Vương triều và tài liệu của các học giả.
Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên.
Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm
đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: “sai mộ dân
ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa” năm 1803; “sai đội Hoàng Sa là bọn
Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển” năm 1815 và năm 1816;
nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817...
Hoạt
động thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã phát
triển lên trình độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh. Năm 1833,
ông lập kế hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng
cây. Các năm 1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập
bia đá và xây bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định
hàng năm phái người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản
đồ các đảo, hòn, bãi cát. Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa, đội thuỷ quân
Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10 bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ “Minh Mệnh
thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu
Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi
nhớ”. Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh thưởng công cho
những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối với những người
không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng trở về cũng có
thưởng; còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần phòng ngoài biển
thì bị phạt nặng...
Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soan bộ Minh Mệnh chính yếu,
trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt
vào bờ đã được cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước
Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã
được nhà vua “sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe,
đồng thời mở cuộc phát chẩn…”. Điều này không chỉ nói lên lòng nhân đạo
cao cả của người Việt, mà quan trọng hơn chính là nghĩa vụ, trách nhiệm
cứu hộ trên biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam với tư cách là chủ
nhân của vùng biển đảo này.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là
bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm
của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật.... được
hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851. Trong sách
có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo
sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so với Đại Nam thực lục chính biên.
Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục chính biên,
trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia, đo vẽ
bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định.
Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục.
Việt sử cương giám khảo lược là
bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài
những đặc điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo
Hoàng Sa, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như việc tuyển đinh
tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của đội Hoàng Sa...
Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục.
Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: “Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền
công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu
và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào
được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2.000 cân”.
Nhiều
công trình chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức,
học giả đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị.
Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép “đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm)”.
Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của
Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà
chính tác giả suýt mắc nạn. Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế
kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các
phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số
con thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng góp phần giải thích bản đồ khu
vực biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong cách vẽ truyền thống, nhưng
đã sớm cập nhật những thông tin mới và độ chính xác cao của bản đồ hằng
hải các nước phương Tây đương đại.
Cũng
thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có giá trị cao để khẳng định quá trình
các Nhà nước Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ quyền của mình ở
Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn.
Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị,
chúng tôi tìm ra được một số tư liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình
thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo
này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835 và 13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản tấu của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837),
về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà
không xuất phát được... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được...
Dưới
thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực tế ở Hoàng Sa, Trường
Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan trọng, trong đó
tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn
thành trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh.
Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung thành một cụm
hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở
phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách. Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.
Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục...
Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận một
thực tế là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa vào
sách giáo khoa dạy cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức để
mọi người dân Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của nước
Việt Nam thống nhất.
Ngay
từ khi mới bắt đầu thiết lập Vương triều, Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc
thám sát và phòng thủ biển nhằm củng cố chính quyền. Một người Pháp trở
thành một đại thần trong triều là Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825)
trong khi làm quan ở Huế xác nhận: "Xứ Đàng Trong mà Quốc vương ngày
nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ
Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao Miên, một vài đảo có người ở không
xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ, bãi đá ngầm và
mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua hiện nay mới chiếm
hữu được quần đảo này".
Các
tác giả phương Tây lúc đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công
nhận chủ quyền pháp lý của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.
Giám
mục Jean Louis Taberd người Pháp, người nhiều năm truyền giáo ở Đàng
Trong cho rằng: "Quần đảo Pracel… Vào năm 1816, nhà vua đã tới long
trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi đá
này, mà chắc là sẽ không có một ai sẽ tìm cách tranh giành với ông ta". Ông còn cho xuất bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ, trong đó ở khoảng vĩ tuyến 170 bắc và kinh tuyến 1100 đông, bản đồ có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.
Tiến sĩ Gutzlaff, hội viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn cuốn sách Geography of the Cochinchinese Empire cho
biết: "Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích có thể đem lại được nếu như
dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì những thuyền đánh thuế và một
đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế đối với tất cả những ai đến
đó, và để bảo vệ những dân chài của nước họ".
Năm
1850, M. A Dubois de Jancigny, cựu đại uý, phái viên của Chính phủ Pháp
ở Trung Quốc và Đông Dương đã viết sách nói rõ: "Chúng tôi chỉ muốn
nhận xét rằng đã từ 34 năm nay, (tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người An Nam gọi là Cát Vàng),
thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi
cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi và chỉ có thể kể đến
trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu, quần đảo do
đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ. Chúng tôi không rõ họ đã có đặt
một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc đánh cá),
nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá hoa độc
nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét thấy cần
thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và chính vì
thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên mảnh đất
đó".
Trong
những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam, triều đình Tự Đức không còn đủ sức chống lại đã lần lượt
để mất chủ quyền về tay Thực dân Pháp, trong đó có cả chủ quyền các vùng
biển đảo. Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ tông vẫn là niềm thôi thúc
các thế hệ con dân đất Việt đấu tranh đến cùng để giành lại chủ quyền
bằng mọi giá.
*
* *
Tư liệu về nguồn gốc, chức năng và hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải (trong đó đặc biệt là đội Hoàng Sa)
càng ngày càng được tập hợp phong phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta không
chỉ biết về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải trong chủ trương thành lập và chỉ
đạo hoạt động của các Chúa Nguyễn, của Vương triều Tây Sơn và các vua
nhà Nguyễn, mà còn biết khá cụ thể các chủ trương ấy đã được chính quyền
và nhân dân các địa phương tự giác chấp hành và thực hiện một cách đầy
đủ và hết sức nghiêm chỉnh. Đây không chỉ dừng lại ở những văn bản chính
thức của Nhà nước và những hoạt động phong phú đa dạng ở các địa
phương, mà còn được tập hợp trong những ghi chép của các học giả, các
nhà chức trách Việt Nam, các thương nhân và giáo sĩ phương Tây, thậm chí
đến cả nhà sư Trung Quốc đương đại, những người đã thông qua quan sát
trực tiếp hay khảo cứu công phu từ những văn bản gốc về hoạt động của
các đội Hoàng Sa, Bắc Hải mà ghi chép lại một cách khách quan, trung
thực.
Tất
nhiên các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ và
khai thác các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng có lúc thiên về công
việc khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo vệ, nhưng dù là
thiên về chức năng nào thì cũng không thể thay thế được các đội Thuỷ
quân. Vì thế trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường
Sa, có những lúc hoạt động của đội Hoàng Sa rất nổi bật, nhưng cũng có
những lúc bị lu mờ, thậm chí có khi bị ghép chung vào công việc của đôi
Thuỷ quân. Chúng ta từng biết có triều đình đã từng quyết định bãi bỏ
đội Hoàng Sa và chuyển công việc của đội Hoàng Sa cho đội Thuỷ quân,
nhưng ngay sau đó họ lại phải tính chuyện tái lập... Các đội Hoàng Sa,
Bắc Hải dù hoạt động độc lập hay phụ thuộc vào đội Thuỷ quân, thậm chí
có là hoạt động dưới danh nghĩa của đội Thuỷ quân đi nữa, thì cứ vẫn là
một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX
trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa
mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được.
Đến
giữa thế kỷ XIX trước cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, mặc
dù dân các đảo Lý Sơn, Phú Quý, các xã An Vĩnh, An Hải, Bình An... vẫn
tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hoá vật, hải sản dâng nộp
cho triều đình Huế - nghĩa là vẫn thực hiện một chức năng của đội Hoàng
Sa, Bắc Hải xưa, nhưng chức năng bảo vệ biển đảo đã chuyển hẳn cho các
đội Thủy quân. Đến khi triều đình Huế thất thủ, không còn khả năng tổ
chức lại quân đội, củng cố các đội Thuỷ quân để bảo vệ trực tiếp kinh
thành Huế, thì đương nhiên họ cũng không còn khả năng khôi phục hoạt
động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải nữa. Sự chấm dứt hoạt động của đội Hoàng
Sa, Bắc Hải, như thế, tuyệt nhiên không phải là do Nhà nước phong kiến
Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông.
Tư
liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình ở
Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như vãng
thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức thu
thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập
bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người
qua lại dễ nhận biết... Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa
không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân, Biền binh, Vệ
giám thành mà cả binh đinh, dân phu. Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa Trường
Sa đều phải có quyết định của Nhà nước dưới hình thức “tờ sai để thi
hành công vụ” và nhiều khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết
định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc công việc họ
phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp hoá
vật, hải vật. Nhà vua thông qua Bộ Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức
độ đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội, thưởng phạt công
minh. Những người hoàn thành nhiệm vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác
nhận. Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm,
nhiều trường hợp có đi mà không có về. Thậm chí có khi người ta phải làm
lễ truy điệu sống, làm đám tang trước để an ủi người đi. Ý thức được
đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước, nhiều người thản
nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là trách nhiệm của chính mình.
Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được viết
bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những con người như
thế.
Chủ
quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp
nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần
phải biết trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn
đời sau.
|
||
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
Quần đảo Hoàng Sa (Paracel), với tên gọi "Baixos de Chapar ou de Pulls Scir",
tức là Bãi cát Chămpa (bãi đá ngầm), nằm trong Vịnh Cochinchine (Golfe
de la Cochin Chine), phần phía đông bắc của bản đồ khu vực Đông Nam Á do
Jean-Baptiste Nolin (1657-1708) vẽ xong năm 1687
Quần đảo Hoàng Sa (Isles Pracel) cùng với tên gọi "Baixos de Chapar de Pullo Scir", trong bản đồ của Joachim Ottens (1663 - 1719) vẽ xong năm 1710.
Hoàng Sa (phía dưới, bên trái, ghi là "Bãi Cát Vàng"), trong tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá biên soạn năm Chính Hòa thứ 7 (1686) đời Lê Hy Tông
Hoàng Sa (Bãi Cát Vàng) trong bản đồ của sách Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn soạn năm 1776.
Bản đồ Biển Đông do người Hà Lan vẽ vào năm 1754 ghi nhận quần đảo Hoàng Sa dưới tên De Paracelles. (Trong giới hạn quần đảo De Paracelles,
có 2 nhóm đảo, nhóm đảo phía nam tách rời (không được ghi chú) có hình
dạng và vị trí tương đối giống với nhóm đảo Vạn lý Trường Sa (萬里長沙) của
Đại Nam nhất thống toàn đồ).
Trong An Nam Đại Quốc Họa Đồ
(do Giám mục Taberd (Tabula) vẽ năm 1838) có vẽ một góc của quần đảo
Hoàng Sa (rìa phía phải bản đồ) và chú thích bằng dòng chữ cái La tinh
(chữ viết tiền thân của chữ viết tiếng Việt hiện đại): "Paracel seu Cátvàng".
Các quần đảo Hoàng Sa (黄沙) và Trường Sa (tức Vạn lý Trường Sa, 萬里長沙) được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ (năm 1834-1840).
Hoàng Sa (Paracels) trong Đông Dương thuộc Pháp (French Indo-China) vào năm 1914.
|
Nhận xét
Đăng nhận xét