Bất
kỳ sự vật, hiện tượng nào trong cuộc sống cũng có quá trình sinh thành
và phát triển. Lối sống của người Công giáo Việt Nam qua gần 500 năm
truyền giáo cũng biến đổi với những cấp độ khác nhau. Trong bài viết
này, chúng tôi muốn tìm hiểu lối sống của người Công giáo Việt Nam với
quá trình từ theo đạo, giữ đạo đến sống đạo.
1- Muôn ngàn lý do theo đạo
Theo đạo hay còn gọi là đi đạo
chính là hiện tượng một người được chịu phép Rửa (Bí tích Thanh tẩy-
Sacrament of Purification) để gia nhập đạo Công giáo. Song cùng chỉ hiện
tượng này, trong từng trường hợp cụ thể cũng có những tên gọi riêng.
Trẻ em nhà có đạo đi chịu phép Rửa còn được gọi là “đi chịu đạo”. Còn
người lớn bất kể không tôn giáo hay là tín đồ của tôn giáo khác thì gọi
là “trở lại đạo”. Nhưng việc theo đạo Công giáo ở mỗi người lại có những
lý do riêng.
Số
khá đông người Công giáo Việt Nam theo đạo một cách thụ động vì gia
nhập đạo nhưng chưa hề biết gì về đạo Công giáo bởi họ chỉ là những đứa
trẻ mới sinh. Theo giáo luật, cha mẹ là người Công giáo phải lo liệu cho
con được Rửa tội ngay những tuần đầu sau khi sinh (khoản 867). Số lượng
trẻ em được Rửa tội bao giờ cũng chiếm đa số lượng người được chịu Bí
tích này ở bất kỳ giáo xứ, giáo phận ở bất kể thời kỳ nào. Ví dụ ở địa
phận Tây Đàng Ngoài năm 1790 số trẻ em được rửa tội là 3.224/3.913 người
được rửa tội. Năm 1890 con số này là 28.708/ 34.734. Giáo phận Hà Nội
năm 2004 có 4.375 trẻ em được rửa tội trong tổng số 5.385 người chịu
phép này. Còn cả nước số liệu năm 2004 là 111.730 trẻ em trên tổng số
141.043 người nhận Bí tích Thanh tẩy. Có không ít trẻ em khi mắc bệnh
nặng gần hấp hối cũng được rửa tội. Lịch sử giáo hội ghi lại nhiều
trường hợp như năm 1585, dưới thời nhà Mạc, linh mục Bartolome Ruiz sau
gần một năm ở Việt Nam cũng chỉ rửa tội cho một em nhỏ gần chết. Năm
1626, giáo sĩ J. Baldinotti người Italia sang Thăng Long, sau 6 tháng
phải quay về Ma Cao vì không biết tiếng Việt và chỉ rửa tội được cho 4
đứa trẻ hấp hối. Một báo cáo của Giáo hội Công giáo Việt Nam cho biết từ
năm 1902 đến 1944 số người xin làm phép Rửa để trở lại đạo Công giáo là
62.584 người thì số trẻ em sắp chết được làm phép Rửa cũng tương đương
là 62.692 em (1).
Người
ta vẫn thường nói “theo đạo, lấy gạo mà ăn”. Thật vậy, một lý do làm
cho nhiều người theo đạo là lý do kinh tế. Chính do cuộc sống khó khăn ,
cơ hàn mà nhiều người đã dễ dàng đến với đạo Công giáo. GS Trần Quốc
Vượng đã nhận xét: “Nhưng thoạt đầu kỳ thuỷ, đạo Thiên Chúa được truyền
bá vào Việt Nam thì nó lại được sự hưởng ứng trước hết của những người
nghèo, trước hết là dân chài, những người bị gạt ra ngoài lề của xã hội
quân chủ Nho giáo và những người bình dân nghèo khổ”(2).
Việt
Nam thường xuyên bị bão lụt, hạn hán đe doạ nhưng cứ sau mỗi thiên tai,
đạo Công giáo lại có cơ hội có thêm nhiều tân tòng. Thừa sai Panis ở
Qủang Nam đã viết báo cáo gửi về Bề trên ngày 7/3/1879 như sau: “Dân
chúng sẽ sống ra sao? Sau lụt, bây giờ là nạn đói…Giáo hội ban phát một
vài của bố thí và rao giảng về Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu chuộc thế
giới; Trong lúc xoa dịu thể xác, giáo hội có thêm một số linh hồn.. Chỉ
riêng tôi, từ tháng 12/1879 đã làm phép Rửa được cho 78 dự tòng. Nếu tôi
có gạo để cho người ta ăn trong lúc học đạo, thì tôi còn có nhiều trăm
người nữa”(3). Giám mục Galibert cũng viết trong phúc trình ngày
25/7/1880: “ Phong trào nhập đạo bắt đầu từ nạn đói vẫn tiếp tục và
không ngừng gia tăng. Thừa sai Geoffroy, năm vừa qua bị thử thách và
bách hại nặng nề do các quan tỉnh Khánh Hoà, vừa cho tôi biết rằng hy
vọng là sẽ có 400 tân tòng trong năm 1880.. Một linh mục bản quốc, cha
Mão, cũng viết cho tôi rằng: con đã làm phép Rửa được cho 300 người lớn,
ba làng ngoại xin cho các thày giảng tới dạy đạo bởi vì có nhiều người
dân trong làng xin theo đạo. Nếu Đức cha cho con tiền bạc và thêm một
vài thày giảng, con có thể hứa với Đức cha là sẽ có 600 người lớn chịu
phép Rửa trong năm 1880”(4).
Người
Kinh đã thế, người dân tộc càng thế. Tại Lạng Sơn- Cao Bằng, Đức thày
phủ doãn tông toà đầu tiên của giáo phận này là Cothonay nhận xét: “Cho
tới nay, các dân tộc miền núi của chúng ta vẫn tỏ ra rất kháng cự với
việc loan báo Tin mừng. Phương pháp tốt nhất để có người theo đạo là tập
hợp những người nghèo khổ và cho họ sinh sống trên đất đai của chúng
ta. Nhưng phải làm nhà cho họ, cho họ công cụ lao động như giống má,
trâu bò, cày bừa vv… và giúp cho họ ăn tới vụ mùa. Đó là một phương thức
truyền giáo tốn kém, nhưng nếu muốn gia tăng đoàn chiên, chúng tôi phải
làm như thế tuỳ theo phương tiện chúng tôi có”(5).
Hôn
nhân cũng là một lý do để nhiều thanh niên theo đạo Công giáo. Ai cũng
biết rằng nạn thê thiếp đã gây ra bao nỗi khổ đau cho người phụ nữ khiến
thi sĩ Hồ Xuân Hương phải thốt lên: “Chém cha cái kiếp lấy chồng
chung”. Trong khi đó, đạo Công giáo chủ trương “nhất phu, nhất phụ”. Đây
là điều hấp dẫn với nhiều người trước khi lập gia đình. Tuy nhiên,
trước đây, giáo hội không cho kết hôn với người khác đạo nên cũng buộc
nhiều thanh niên phải trở lại đạo. Sau Công đồng Vaticano II, giáo hội
cởi mở hơn, cho phép người Công giáo kết hôn với người khác tôn giáo
nhưng số người trở lại đạo vì lý do hôn nhân vẫn đông. Theo số liệu của
Giáo hội công bố năm 2006, số lượng người theo đạo để kết hôn với người
Công giáo là 31.576, chiếm 1/5 số người gia nhập đạo cả nước.
Vấn
đề chính trị, xã hội cũng ảnh hưởng tới việc một số người theo đạo.
Người ta thấy số người xin gia nhập đạo vào những năm 1930-1931 gia tăng
hơn 2000 người mỗi năm, đông nhất là vùng Nghệ Tĩnh. Tìm hiểu ra mới
rõ, là do phong trào Việt Minh bắt đầu nhen nhóm ở đây và chính quyền
thực dân thẳng tay đàn áp. Để yên ổn làm ăn, người dân thấy cách an toàn
nhất là gia nhập đạo Công giáo vì người Công giáo được chính quyền tin
tưởng, che chở hơn. Giám mục Tardieu năm 1931 đã có báo cáo về Roma như
sau: “Thử thách cuối cùng theo một dạng đe doạ mới đó là chủ nghĩa cộng
sản, đến từ Matxcova qua Trung Quốc đã len lỏi vào Trung Kỳ và gây tai
hoạ khắp nơi, nhiều hay ít tuỳ theo hoạt động của phong trào mạnh hay
yếu… đã không ngăn cản người ta theo Công giáo, ngược lại đã làm cho
người ta theo Công giáo nhiều hơn”(6). Cuộc di cư năm 1954 không chỉ làm
cho hàng triệu người Công giáo từ miền Bắc vào miền Nam mà còn làm cho
nhiều người theo đạo dưới các chế độ thân Công giáo ở Sài Gòn. Địa phận
Quy Nhơn năm 1956 có 16.323 người xin rửa tội, năm 1959 tăng lên 27.385
và năm 1960 là 37.429 người. Giám mục Ngô Đình Thục ở Huế cũng nói: “Có
những làng nguyên vẹn xin chịu phép Rửa. Người ta không làm sao dạy giáo
lý kịp cho họ”(7). Cũng dễ hiểu thôi vì chính quyền Sài Gòn lúc này
đang “Công giáo hoá”: 30% dân biểu là người Công giáo, 23/32 tỉnh
trưởng, 4/12 bộ trưởng, 3/16 tướng lĩnh là người Công giáo.
Sau
sự kiện đạo Vàng Chứ bị cấm ở khu vực miền núi phía Bắc những năm 80-
90 của thế kỷ trước, nhiều tín đồ đã vào Tây Nguyên sinh sống và sau đó
đã gia nhập đạo Công giáo làm cho số giáo dân ở đây tăng mạnh. Trước năm
1975, Tây Nguyên chưa đầy 13 vạn giáo dân, năm 2005 tăng lên hơn 30
vạn. giáo phận Kon Tum tỷ lệ tăng trưởng bình quân là 17,4%, năm 1988
tăng 137,7%. Tỉnh Gia Lai từ 1995 đến 2001 tăng 475%.
Hoạt
động từ thiện, bác ái của đạo Công giáo cũng thu phục không ít người
đến với đạo. Những làng phong cùi với sự phục vụ tận tuỵ của các nữ tu
đã làm cho nhiều bệnh nhân và bác sĩ cảm phục trở lại Công giáo như ở
trại phong Quy Hoà. Trong số 445 trại viên năm 1937 có tới 306 người
Công giáo. Có năm 70 bệnh nhân xin làm phép Rửa. Một linh mục ở Nha
Trang mở phòng khám từ thiện từ năm 2001, mỗi ngày cũng có 2-3 người xin
trở lại đạo.
Phương
pháp giảng thuyết hấp dẫn, đạo có nhiều điều mới lạ nên đã làm cho cả
những bậc thức giả trong triều đình, nho gia, những nhà sư và cả những
người trong hoàng tộc nhà vua cũng đi theo đạo ngay từ buổi đầu tôn giáo
này du nhập vào Việt Nam như công chúa Mai Hoa, em gái cúa Trịnh Tráng…
Trên đây là những lý do phổ biến làm cho người ta theo đạo, trở lại đạo. Còn với mỗi người thường lại có những lý do riêng nữa.
2- Giữ đạo là tuyên xưng đức tin
Nếu theo đạo chỉ hiện tượng một người được nhận phép Rửa để gia nhập Công giáo để trở thành tín hữu thì giữ đạo
nói về cuộc sống của người tín hữu từ khi được rửa tội cho đến khi
chết. Có thể chỉ ra quá trình xuyên suốt của người tín hữu khi giữ đạo
là tuyên xưng đức tin của mình ra cho mọi người biết. Vì vậy giữ đạo đòi
hỏi khó khăn, hy sinh hơn. Nếu Rửa tội là điều kiện cần thì giữ đạo nên
mới là điều kiện đủ để được cứu rỗi.
Người
tín hữu thể hiện niềm tin của mình bằng cách đeo ảnh tượng, tràng hạt
như là dấu hiệu của người có đạo. Tại nhà riêng thì lập bàn thờ trang
trọng theo khả năng kinh tế của gia đình. Nhà nào khá giả còn đắp tượng
Chúa, Đức Mẹ giữa sân, trên tường nhà. Cứ có một số gia đình Công giáo
là người ta lo làm nhà thờ, càng to càng tốt. Bởi vậy chỉ cần nhìn những
dấu hiệu này cũng biết ai, gia đình nào, làng nào theo đạo Công giáo.
Ngay từ buổi đầu truyền giáo ở Đàng Ngoài, người ta đã nhận thấy: “Bổn
đạo siêng năng đọc kinh chung sáng tối trong gia đình, không bao giờ bỏ
việc đọc kinh như thế, trừ khi quá bận rộn và vì những công việc đã hứa
hẹn. Vì thế gia đình nào cũng có bàn thờ được trang trí bằng những thứ
quý nhất tuỳ theo khả năng của họ. Bổn đạo sẵn sàng bớt một vài món cần
thiết cho cái ăn, cái mặc hơn là chịu thiếu bàn thờ”(8).
Trong
ba nhân đức tu luyện của người Công giáo thì nhân đức tin là quan trọng
nhất. Nhưng “ đức tin không có việc làm là đức tin chết” nên thể hiện
niềm tin theo đạo, trước hết là giữ luật đạo. Luật đạo thì mênh mông nào
là “10 điều răn”, “6 điều răn”, “8 mối phúc”, “7 mối tội đầu”, “ thương
người 14 mối”…nhưng tóm lại rất gọn là “mến Chúa, yêu người”. Những
người được gọi là “sùng đạo” là những người siêng năng đi lễ nhà thờ
sáng tối, xưng tội, rước lễ thường xuyên, đọc kinh hàng ngày và có lòng
bác ái, thương người nghèo khó.
Không
ít người nhận xét rằng, người Công giáo Việt Nam giữ đạo quá sốt sắng,
nhiệt thành so với thế giới. Một bản điều tra của Viện Nghiên cứu tôn
giáo năm 1992 cho biết số tín hữu đi lễ thường xuyên tại Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh từ 56,4 đến 96,3%, rước lễ thường xuyên từ 56 đến 94%.
Trong khi đó ngay tại Roma- kinh đô của Giáo hội Công giáo cũng chỉ có
15-20% giáo dân đi lễ thường xuyên. Tôn giáo cũng trở thành nhu cầu cần
thiết cho rất nhiều tín đồ. 71% trí thức Công giáo ở thành phố Hồ Chí
Minh và 84,6% người Công giáo Hà Nội đã khẳng định như vậy. Trong khi đó
chỉ có 59% ở Italia, 34% ở Pháp và 28% ở Đức cho tôn giáo là cần thiết
trong đời sống(9).
Người
Việt Nam sống thiên về tình cảm nên cách giữ đạo cũng ưa ồn ào, náo
nhiệt. Một nhà nghiên cứu và cũng là linh mục Công giáo nhiều năm làm
việc ở nước ngoài là GS.VS Trần Tam Tỉnh nhận xét: “Dân chúng Công giáo
Việt Nam thiết tưởng là quần chúng mộ đạo nhất thế giới. Hàng ngày họ đi
dự kinh lễ sớm chiều rất đông và thích rước kiệu, làm tuần tam nhật và
nhiều việc đạo đức sùng kính khác, không những vào ngày chủ nhật mà cả
các ngày trong tuần. Tại các họ đạo nông thôn, kinh lễ buổi mai kéo dài
2-3 giờ, cuộc rước lâu cả buổi”(10). Những biểu hiện sinh hoạt tôn giáo
sầm uất này vẫn giữ đến ngày nay nhất là khi đón tiếp các đấng bậc “nhân
danh Chúa mà đến”.
Do
để thuận tiện giữ đạo nên người Công giáo cũng hay co cụm lại thành
làng riêng lấy nhà thờ làm biểu tượng của làng, lấy tiếng chuông nhà thờ
làm đồng hồ báo thức, lấy ngày lễ làm lịch cấy trồng như: “Lễ các Thánh gánh mạ đi gieo, lễ sinh nhật giật mạ đi cấy hay lễ Rosa thì tra hạt bí, lễ các Thánh thì đánh bí ra…”,
lấy lễ hội Công giáo làm lịch năm, tháng. Họ kết hôn, giao du với người
đồng đạo. Nếu đi đâu vì một biến cố chính trị, xã hội nào đó thì đi cả
làng và tại nơi ở mới, họ vẫn giữ tên làng Công giáo cũ. Tại những làng
kinh tế mới vùng biển Nghĩa Hưng, Nam Định có những làng Công giáo như
Bùi Chu, Ngọc Cục, Kiên Lao còn ở miền Nam sau di cư năm 1954 có Hà Nội,
Bùi Phát, Thái Bình và ở Hoa Kỳ bây giờ cũng có nhà thờ La Vang…
Biểu
hiện ở mức độ cao nhất của đức tin tôn giáo là sẵn sàng “chết vì đạo”.
Do những điều kiện lịch sử khắc nghiệt nên ở Việt Nam cũng đã chứng kiến
được nhiều người Công giáo sẵn sàng đổi mạng sống để giữ niềm tin.
Trong thời nhà Nguyễn, không ít quan lại khi thi hành lệnh cấm đạo cũng
muốn nương nhẹ với người làng nên chỉ bắt làm hình thức như bước vòng
quanh Thánh giá thay vì bước qua nhưng có người cũng không chịu. Có nhà
cả cha mẹ, con cái đều tranh nhau chịu tử hình với thái độ vui mừng. Một
điều lạ là không có ai ra pháp trường vì đức tin mà lại chửi bới vua
quan. Trái lại họ còn cám ơn vua quan đã cho họ có cơ hội được làm
thánh. Giáo hội Công giáo đã tôn phong 118 thánh tử đạo, 1 vị chân phước
và nhiều chứng nhân đang được lập hồ sơ. Điều đó chứng tỏ, người Công
giáo Việt Nam không sợ hy sinh để minh chứng niềm tin.
Bác
ái là một yêu cầu của người có đạo nên ngay từ buổi sơ khai, người dân
kinh thành Thăng Long đã gọi những người theo Công giáo là “đạo của
những người yêu nhau”. Họ lập ra những nhà thương để săn sóc người bệnh
tật, giúp đỡ kẻ lang thang, mồ côi, chôn xác người chết. Bởi vậy, không
ngạc nhiên khi hầu hết các trại phong cùi ở Việt Nam đều do Công giáo
thành lập và phục vụ. Những tấm gương như nữ tu Nguyễn Thị Mậu với hơn
40 năm phục vụ bệnh nhân phong ở Di Linh (đã được Nhà nước phong anh
hùng lao động năm 2006), anh Tống Phước Phúc – một thợ xây nghèo đã thu
gom và mai táng chu tất cho cả chục ngàn thai nhi ở Nha Trang (đã được
Chủ tịch nước gửi thư khen năm 2008) …cũng không phải là cá biệt.
Truyền
giáo là một căn tính của đạo Công giáo vì thế những người có đạo cũng
tích cực khuyên bảo làm cho người khác cũng theo đạo giống mình. Họ đi
làm từ thiện, chăm sóc người ốm đau, giúp đỡ kẻ đau khổ…nhằm chứng minh
đạo Công giáo họ đang theo là tốt lành. A. Rhodes đã kể lại việc làm đám
tang trọng thể cho một người lính ở làng No năm 1627 : “Chúng tôi làm
đám tang hết sức linh đình và trọng thể, có tất cả người Bồ chỉnh tề
tham dự cùng các giáo dân tân tòng. Việc này chúng tôi làm công khai cho
tất cả lương dân trông thấy, không những họ cảm phục về bác ái người
giáo dân mà còn xúc động về tinh thần của đạo ta”(11).
Để
truyền giáo hiệu qủa, người ta cũng sáng tạo ra vô vàn phương cách từ
chuyển Kinh thánh ra văn vần, diễn tuồng, latinh hoá tiếng Việt, làm
báo, xây cô nhi viện, nhà dưỡng lão, Việt hoá đạo cho gần gũi với người
Việt…
Như
vậy có thể nói giữ đạo là đòi buộc cho tất cả mọi tín hữu mọi thời đại
chứ không phải chỉ là lối sống đạo của người Công giáo buổi sơ khai hay
trước công đồng Vaticano II. Tuy nhiên, đạo Công giáo cũng luôn canh tân
để theo kịp thời đại vì vậy lối sống của tín hữu phải được nâng lên tầm
cao mới đó là sống đạo.
3- Sống đạo là dấn thân để phục vụ cộng đồng và xã hội
Nếu
nói sống đạo là lối sống của người Công giáo thì bất kỳ người Công giáo
ở nước nào, thời kỳ nào cũng đều có sống đạo. Giữ đạo là một cách sống
đạo. Nhưng đây là kiểu sống đạo hướng nội, thiên về luân lý, phụng tự để
“cứu rỗi” chính bản thân người tín hữu và nếu có quan hệ với bên ngoài
cũng là để làm cho người khác biết đến đạo Công giáo mà thôi. Lối sống
đạo “tiền công đồng” này không chỉ phổ biến ở Việt Nam mà trên toàn thế
giới.
Việc
sống đạo có tính “xuất thế” như vậy làm cho đạo Công giáo ít gắn bó với
đời sống xã hội và khó gần gũi với cộng đồng. Người Công giáo bị co cụm
lại trong nhà thờ, chỉ chăm chú lo giữ linh hồn mình chứ không dấn thân
phục vụ xã hội và cộng đồng. Giáo hội chú ý nhiều đến phụng tự, nghi lễ
nên dễ rơi vào bệnh hình thức bên ngoài mà quên đào luyện nội tâm để
“nhập thế”. Công đồng Vaticano II đã tìm ra căn bệnh của việc phân chia
tách bạch đạo - đời, làm chia cách người Công giáo ra khỏi gia đình nhân
loại và môi trường họ đang sống. Hiến chế Gaudium et Spes viết: “Sự
phân ly giữa đức tin mà họ tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của nhiều
người phải kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất của thời đại chúng
ta” ( số 43).
Do
trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử nên quan hệ đạo - đời của Công
giáo cũng đi qua nhiều cung bậc. Có lúc lên án, loại trừ, có lúc bị thao
túng, lợi dụng xã hội trần thế. Trần gian được coi là biển khổ lưu đầy,
là đồng minh của tội lỗi. Người Công giáo luôn nguyện cầu để mau chóng
vượt biển trần gian, thoát nơi sống gửi, sống tạm để về nơi vĩnh hằng.
Lối sống đạo này đã làm cho đạo Công giáo bị mất nhiều thứ. Nhà thần học
pháp René Laurentin viết: “Giáo hội đã làm nản chí biết bao nhiêu người
muốn xây dựng xã hội trần thế, đến nỗi ai còn lý tưởng muốn hăng say
phục vụ đều phải chạy xa giáo hội để xây dựng”(12). Nhưng công đồng
Vaticano II đã khẳng định dứt khoát một lối sống đạo mới: “Vui mừng và
hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay nhất là của những
người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và
lo lắng của môn đệ Chúa Kitô và không có gì thực sự là của con người mà
lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (số 1).
Bây
giờ đạo không ly khai khỏi đời mà gắn bó với đời. Người Công giáo sống
đạo giữa đời chứ không chỉ sống trong nhà thờ, với Giáo hội. Người Công
giáo cũng ăn uống, sinh hoạt vui chơi, lao động với mọi người nhưng theo
tinh thần của Tin mừng. Họ vừa phải chấp hành luật pháp theo bổn phận
công dân nhưng còn tuân theo lương tâm đạo dạy nữa. Tại Việt Nam do hoàn
cảnh lịch sử nên tinh thần của công đồng Vaticano II du nhập và triển
nở ở miền Nam sớm hơn. Các giám mục miền Nam đã nhắc nhở giáo dân:
“Không đóng khung đạo lại trong một số sinh hoạt tôn giáo trong nhà thờ
hay trong nội bộ Công giáo với nhau nhưng sống đạo, sống tinh thần Phúc
âm trong mọi lĩnh vực đời sống”(13).Thư chung 1980 của các Giám mục Việt
Nam là văn bản chính thức đầu tiên hướng dẫn người Công giáo cả nước
đồng hành cùng dân tộc, cùng chia sẻ vận mạng với đồng bào, gắn bó với
quê hương: “ Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào đối với người Công giáo không
những là tình cảm tự nhiên phải có mà còn là một đòi hỏi của Phúc
âm…Lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực nghĩa là chúng ta phải ý
thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết đường lối chính
sách của Nhà nước và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ
và xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và hạnh phúc” (số 10).
Sau 10 năm miền Nam được giải phóng, Đức TGM Nguyễn Văn Bình đã nhận
xét: “Từ 10 năm qua, chúng ta đã cố gắng chứng tỏ được rằng người Công
giáo là người Việt Nam như tất cả đồng bào khác…Bởi đó chúng ta đã hăng
say làm tròn các bổn phận người công dân. Tín ngưỡng của chúng ta, đạo
Công giáo của chúng ta không làm cho chúng ta trở thành những người xa
rời Tổ quốc mà đạo Kitô còn khuyến khích thêm để chúng ta phấn khởi sống
lương thiện, thật thà ngay thẳng quên mình vì lợi ích chung”(14).
Để
người Công giáo ngày càng sống đạo gắn bó hơn với quê hương, Giáo hội
Công giáo đã không ngừng cổ vũ cho tiến trình hội nhập văn hoá dân tộc.
Các Giám mục Á châu mời gọi tín hữu ở châu lục này “Sống đạo theo cung
cách Á châu” để đạo không bị coi là xa lạ ngay chính quê hương của Đức
Kitô. Theo hướng dẫn này, các Giám mục Việt Nam trong Thư chung 2003 đã
kêu gọi người Công giáo Việt Nam “Sống đạo theo cung cách Việt Nam”.
Tiếp đó, ngày 27/6/2009, Đức Benedictô XVI còn cổ vũ lối sống “mỗi người
Công giáo tốt cũng là những công dân tốt”. Đây là những chỉ dẫn rất
quan trọng để người Công giáo Việt Nam sống đạo tốt lành trên quê hương
mình.
Nhờ
những chỉ dẫn này mà lần đầu tiên người Công giáo Việt Nam đã sám hối
xin lỗi đồng bào khi bước vào Năm thánh 2010: “Chúng tôi xin lỗi mọi
thành phần xã hội, tôn giáo vì chúng tôi chưa đủ hoà mình và đồng hành.
Chúng tôi xin lỗi người nghèo, người hẩm hiu xấu số, người khuyết tật
đau khổ vì chúng tôi chưa đủ quan tâm”. Một phong trào thi đua yêu nước
của người Công giáo như được thổi một luồng gió mới không chỉ làm thay
đổi những định kiến, mặc cảm nơi người Công giáo mà còn làm biến đổi bộ
mặt nhiều xứ họ. Xã Quỳnh Thanh (Nghệ An) mỗi năm đầu tư 2,9 tỷ đồng cho
xây dựng cơ bản thì dân đóng góp 30% (mà 100% là người Công giáo), các
linh mục quê hương góp 26,2%. Trường học, trạm xá đường giao thông, nhà
máy nước sạch cũng phần lớn do giới Công giáo địa phương đóng góp. Rất
nhiều gương điển hình là người Công giáo đã được xã hội tôn vinh. Chị
Trần Thị Mai (Quảng Bình) dũng cảm hy sinh cứu người bị lũ cuốn đã được
truy tặng liệt sĩ năm 2006. Anh Nguyễn Công Hùng- nạn nhân chất độc da
cam bị liệt từ nhỏ vẫn tự vươn lên thành “Hiệp sĩ công nghệ thông tin”.
Các trung tâm Mai Hoà, Thiên Phước trở thành những điểm sáng trong phong
trào thi đua “tốt đạo, đẹp đời”.
Rõ
ràng lối sống đạo hiện nay của người Công giáo Việt Nam đã vượt qua
kiểu giữ đạo hình thức, hướng nội mà vượt lên dấn thân phục vụ xã hội và
cộng đồng. Đúng như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi gặp Giáo hoàng
Benedicto XVI tại Vatican ngày 25/1/2007 đã nhận định: “Ở Việt Nam, cộng
đồng những người Công giáo là một cộng đồng năng động kính Chúa, yêu
nước và có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng và phát triển đất
nước”.
Thư
chung hậu Đại hội Dân Chúa năm 2010 viết: “Là công dân trong một đất
nước, người Công giáo Việt Nam có bổn phận yêu mến và xây dựng quê
hương. Đồng thời, chúng ta thi hành bổn phận này với tinh thần Phúc âm
…Theo ý nghĩa đó, Đức Benedicto XVI nhắn nhủ các tín hữu Việt Nam: “Bằng
đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích,
anh chị em phải chứng tỏ rằng là người Công giáo tốt cũng là người công
dân tốt” (số 33). Với những hướng dẫn này, lối sống đạo của người Công
giáo Việt Nam sẽ tiếp tục được nâng lên ở tầm cao mới.
TS Phạm Huy Thông
Chú thích:
1,3,4,5,6-
Trương Bá Cần ( chủ biên): Lịch sử phát triển Công giáo ở VN, Nxb Tôn
giáo 2008, tr.392; tr.367; tr. 368; tr.700; tr.378.
2- Trần Quốc Vượng : Trong cõi, USA 1991, tr. 284
7, 10- Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ, tr. 128-129; tr.208
8,11- A. Rhodes: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Tủ sách Đại kết 1994, tr.146; tr.90
9- Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb KHXH 1994, tr.68
12,13,14- Lm. Nguyễn Hồng Giáo: Một chặng đường giáo hội Việt Nam, Học viện Phan xicô 2008, tr42; tr.146; tr.144
|
Nhận xét
Đăng nhận xét