I. LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt"[3], từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa[3], Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".
II. NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ "chiền" (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏)... Một số người cho rằng từ "chiền" có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật.
Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa.
Đây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúc chính. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sư và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan.
Chùa kiểu chữ Công (工) là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một Cột ở Hà Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh mang trong mình cả những nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu của kiến trúc. Nhưng những ngoại lệ như vậy không nhiều.
Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác chuông lại ở trên nhà tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang...
Ngoài công trình chính, chùa Việt Nam thường có vườn cây, vườn hoa được trồng và chăm chút cẩn thận. Nhiều chùa có cả giếng, ao, hồ sen...
III. CÁC KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
So với những ngôi chùa cổ khác ở Hà Nội, chùa Cầu Đông được biết đến là ngôi chùa còn lưu giữ được 60 pho tượng Phật cổ có giá trị. Cổ vật quan trọng nhất của chùa là ba pho tượng Tam Thế, thể hiện ở ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai. Cả ba pho đều được tạo tác vào nửa đầu thế kỷ XVIII. Đây là ba pho tượng đẹp, quý hiếm, đạt giá trị nghệ thuật cao, được thể hiện các nét trang trí như vòng đeo cổ, khuôn mặt nữ, mang đầy đủ quy chuẩn của tượng Phật thế kỷ XVII - XVIII ở Việt Nam. Trong thập điện còn có pho tượng Tuyết Sơn được điêu khắc đẹp, tinh tế. Đây là một pho tượng quý hiếm trong nghệ thuật tạo tác của người Việt.
Phong cách kiến trúc của chùa Kim Liên, có lẽ do ảnh hưởng từ nguồn cội là một vị trí cung điện và thờ một tôn thất nhà Lý, nên đượm dáng vẻ cung đình. Bố cục của chùa bao gồm một trục đối xứng từ tam quan đến nhà Tổ. Từ tam quan đi vào một khoảng sân dẫn vào ba nếp chùa xếp song song theo hình chữ "tam" (三), thứ tự từ chùa Hạ, chùa Trung quay mặt về hướng Tây đến chùa Thượng quay mặt về phía Đông. Ba lớp chùa được liên kết với nhau bằng tường gạch để trần có trổ cửa sổ tròn lồng chữ nhà Phật.
13. CHÙA BÀ ĐANH - Tây Hồ
Chùa Bà Đanh là một ngôi chùa lâu đời có thật ở tây nam Hà Nội. Khi mới thành lập chùa rất đông đúc nhưng sau khi bị người Pháp di dời từ vị trí cũ (trường Chu Văn An-Hà Nội) thì trở nên vắng vẻ ít khách chiêm bái (vắng như chùa Bà Đanh).
Chùa Bà Đanh được xây dựng từ đời vua Lê Thánh Tông. Theo sách Tây Hồ chí, vua Lê Thánh Tông đã cho xây dựng một thiền viện (vừa là chùa, vừa là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ nam hồ Tây để cho người Chăm hành đạo gọi là thiền viện Châu Lâm.Chùa Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được cất lên cùng với viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở làng Thụy Chương, Hà Nội. Vì để tránh húy miếu vua Thiệu Trị nên sau này Thụy Chương phải đổi thành Thụy Khuê. tức ở quận Tây Hồ. Vào thời đó, viện Châu Lâm được dùng làm chỗ ở cho những người Chiêm Thành được đưa về sau các cuộc chiến tranh, còn chùa Châu Lâm là nơi dành cho họ cúng lễ (vì hầu hết những người này đều theo đạo Phật).
Sau khi người Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ đã chiếm khu vực đất này để lập trường Trung học bảo hộ (1907) - nay là trụ sở của trường trung học Chu Văn An, vì thế chùa Châu Lâm phải dời về phía Tây Nam, ở cuối làng và đổi sang tên mới là chùa Phúc Lâm.
Dấu tích của chùa Phúc Lâm hiện vẫn còn giữ lại được tấm bia ghi rõ: Bà Đanh tự (chùa Bà Đanh). Theo tục truyền, Bà Đanh là một người đàn bà đã có công dựng lên chùa này, vì thế mà ngôi chùa mang tên bà. Từ khi viện Châu Lâm bị bãi bỏ, số người đến lễ bái chùa này ngày một ít đi. Chính vì thế mà không khí ngôi chùa này ngày càng trở nên vắng vẻ. Trong bài "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng có ghi lại cảnh vắng của chùa này:
Dấu bố cái rêu in nền phủ
Cảnh Bà Đanh hóa khép cửa chùa.
Cảnh vắng vẻ, thiếu người đến lễ bái của chùa Bà Đanh dần dần đã trở thành một hình ảnh để so sánh với bất cứ một cảnh vắng vẻ nào. “Vắng như chùa Bà Đanh” là một sự vắng vẻ yên tĩnh gợi nên vẻ lạnh lẽo, cô quạnh, thiếu hơi ấm của con người. Ca dao Hà Nội có câu:
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh.
Đến năm Thành Thái thứ 4 (1892), chùa một lần nữa lại được dời về ngõ 199 phố Thụy Khuê, hợp nhất với chùa Phúc Lâm thành chùa “Phúc Châu Tự”. Trên đại tự của chùa có tấm biển đề “Phúc Châu Tự”.Nay chùa thuộc số nhà 199B phố Thụy Khuê, chung với chùa Châu Lâm.
Là 1 trong 4 chùa nổi tiếng của Hà Nội xưa: chùa Bà Đá ở Nhà Thờ, chùa Bà Nành và Bà Ngô ở Nguyễn Khuyến, Trần Quý Cáp, chùa Bà Đanh ở Thụy Khuê (Wikimapia)
Chùa Tam Thanh nằm trong động núi đá (nên còn được gọi tên khác là Động Tam Thanh) thuộc địa phận phường Tam Thanh Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Theo sử sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì chùa Tam Thanh có từ thời nhà Lê, thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, Châu Thoát Lãng.
Chùa Tam Thanh có một tượng phật A Di Đà màu trắng với nét mềm mại, uyển chuyển được tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ 15. Pho tượng này mang phong cách nghệ thuật thời Lê - Mạc (thế kỷ 16-17) tạc theo thế đứng trong hình một lá đề. Tượng cao 202 cm, rộng 65 cm, mặc áo cà sa buông chùm xuống tận gót, hai tay chỉ xuống đất trong thế ấn cam lộ[1].
Ngoài ra, Chùa còn có hồ Âm Ti với làn nước trong xanh bốn mùa với muôn trùng nhũ đá thiên tạo từ ngàn năm rất đẹp. Tam Thanh là quần thể 3 động Nhất Thanh, Nhị Thanh, Tam Thanh nằm trong Chùa Tam Thanh. Ðộng Tam Thanh nằm trong một dãy núi có hình đàn voi phủ phục trên mặt cỏ xanh. Hang động Tam Thanh ở lưng chừng núi. Cửa hang nhìn về hướng đông cao chừng 8m có lối lên là 30 bậc đá đục vào sườn núi, có nhiều cây cối um tùm che khuất ánh nắng. Vách động bên phải có khắc bài thơ của Ngô Thì Sĩ (1726-1780) khi ông làm đốc trấn Lạng Sơn.
Tam Thanh được mệnh danh là "Đệ nhất bát cảnh Xứ Lạng" (gồm 4 điểm là: động Nhị Thanh, động Tam Thanh, thành nhà Mạc và Nàng Tô Thị
15. CHÙA QUỲNH LÂM-QuảngYên
Ở sân trước chùa có nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ Thiền sư Chân Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý cao 2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung cổ. Chùa hiện được Đại đức Thích Đạo Quang tổ chức trùng tu mở rộng. Năm 1995, chùa đã xây nhà bia và nhà thờ Trúc Lâm Tam Tổ. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
16. CÁC CHÙA TRÊN NÚI YÊN TỬ - Quảng Yên
Chùa Đồng
Khu vực Yên Tử bao gồm một số địa điểm và kiến trúc Phật giáo chính như:
Chùa Bí Thượng
Chùa Bí Thượng xưa được khởi dựng từ thời Hậu Lê, trên mặt nền kiến trúc hình chữ Nhất, từng được trùng tu, tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Trong thời kỳ 1945- 1954, chùa bị phá hủy hoàn toàn. Năm 1993, chùa được dựng lại trên mặt nền kiến trúc hình chữ Đinh, quay hướng Tây Nam, hệ khung bằng bê tông, tường xây gạch, mái lợp ngói Tây. Tiền đường gồm ba gian, hai chái nối với ba gian hậu cung. Hai dãy tả vu, hữu vu mỗi bên 9 gian, kiến trúc đơn giản, thờ Thập bát La Hán. Nhà tổ ở phía sau chùa chính, được dựng trên mặt nền hình chữ Nhất, gồm năm gian, mái lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi bít đốc, vì kèo nóc kiểu giá chiêng chồng rường con nhị.
Chùa Suối Tắm
Được dựng dưới chân núi, sát bên bờ suối Tắm, bố cục mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm ba gian hai chái bái đường và một gian hậu cung, mái lợp ngói mũi hài, có đầu đao ở bốn góc mái trang trí hình mây cuộn và rồng, trên bờ nóc trang trí hình rồng. Kiến trúc nhà tổ được bố trí trên mặt nền hình chữ Nhất, gồm ba gian hai chái, mái lợp ngói mũi hài, đầu đao bốn mái. Hai dãy Tả vu, Hữu vu mỗi bên có mái lợp ngói mũi hài, đầu đao ở bốn góc mái trang trí hoa văn mây xoắn.
Chùa Cầm Thực
Nằm về bên trái con đường vào Yên Tử. Chùa cũ được dựng từ thời Trần, bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm 6 gian, nay chỉ còn nền móng.
Chùa Cầm Thực
Dựa trên những dấu tích còn lại, chùa (mới) đã được xây dựng lại vào năm 1993, gồm các hạng mục: chùa chính, nhà Mẫu và các công trình phụ trợ. Chùa chính có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái, mái lợp ngói vẩy. Nhà Mẫu có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm ba gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói vẩy.
Chùa Lân
Chùa Lân xưa được dựng từ thời Trần. Đây vốn là một ngôi chùa lớn, với những công trình đồ sộ nhưng đã bị hủy hoại theo thời gian, nay chỉ còn lại một vài dấu tích trên mặt đất. Năm 2002,
Toàn cảnh Thiền viện Trúc Lâm (chùa Lân)
Chùa Lân (Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử) đã được xây dựng lại, gồm các hạng mục chính điện, nhà tổ, lầu trống, lầu chuông, tam quan, nhà trưng bày, nhà khách, nhà tăng, nhà ni... Chính điện được xây theo khối vuông, chồng diêm hai tầng tám mái, lợp ngói vẩy. Nhà tổ ở phía sau chính điện, cao hơn tòa chính điện.
Chùa Giải Oan
Chùa Giải Oan xưa được dựng vào thời Trần. Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, chùa đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1994, nhân dân công đức xây dựng lại chùa, gồm các hạng mục: chùa chính, nhà Mẫu, nhà tổ, nhà tu lễ, nhà bếp và một số công trình khác.
Chùa chính được dựng trên
mặt nền kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái tiền đường và một
gian hậu cung. Nhà Mẫu nằm bên phải chùa chính, dựng trên mặt bằng kiến
trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái bái đường và một gian hậu
cung. Nhà tổ nằm bên trái chùa chính, dựng trên mặt bằng kiến trúc kiểu
chữ Nhất, gồm ba gian, mái lợp ngói vẩy, đầu kìm nóc đắp nổi hình rồng.
Từ chùa Giải Oan, chúng ta đi sang các chùa khác.Tiếp đó tới chùa Hoa Yên (các tên gọi khác: chùa Cả, chùa Phù Vân, chùa Vân Yên) nằm ở độ cao 543 m với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu hành trên Yên Tử. Phía trên độ cao 700 m là chùa Vân Tiêu lẩn khuất trong mây bên triền núi. Sau điểm này là chùa Đồng, tọa lạc trên đỉnh Yên Tử cao 1.068 m. Chùa được khởi dựng vào thời nhà Hậu Lê với tên gọi Thiên Trúc tự (天竺寺). Đầu năm 2007, chùa Đồng mới được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất (cao 3 m, rộng 12 m², nặng 60 tấn) đã được đưa lên đỉnh Yên Tử.
Cụm tháp Hòn Ngọc
Cụm tháp Hòn Ngọc nằm trên một gò đất khá rộng, bằng phẳng, gồm ba tháp đá và một tháp gạch. Các tháp đá được làm bằng đá gạo, một tầng, do các phiến đá được tạo mộng ghép lại với nhau. Bệ tháp làm theo kiểu thót ở giữa, giật cấp ra hai bên. Một mặt thân tháp có cửa vòm, bên trong đặt bát hương và bài vị. Mái tháp đua ra so với thân tháp, bốn diềm mái cong. Trên đỉnh tháp đặt một bình nước cam lồ.
Vườn tháp Huệ Quang (khu tháp Tổ)
Vườn tháp Huệ Quang nay chỉ còn 64 ngọn tháp và mộ, trong đó có 40 tháp mới được trùng tu năm 2002, 11 tháp đá, 13 tháp gạch, một số ngôi tháp đã bị đổ chỉ còn lại dấu tích.
Toàn cảnh tháp Huê Quang
Tháp Tổ Trần Nhân Tông hay còn gọi là Tháp Huệ Quang mặt bằng rộng khoảng 180m2, cao 10m, với 6 tầng, được ghép từ các phiến đá xanh, đặt ở vị trí trung tâm của vườn tháp. Sân tháp hình vuông, có tường bao quanh. Nền tháp xòe rộng, hình lục lăng, mặt ngoài chạm nổi hình sóng nước. Tầng bệ tháp tạc đài sen 102 cánh, chạm nổi trang trí hoa dây. Trong lòng tầng 2 của tháp đặt tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông, cao 62cm, bằng chất liệu đá cẩm thạch, trong tư thế một nhà sư ngồi thiền định, mình khoác áo cà sa hở ngực phải, các nếp áo chảy tràn ra mặt bệ tượng.
Am Thiền Định
Am Thiền Định xưa vốn là một ngôi tháp cổ đặc biệt ở Yên Tử, đứng đơn lẻ một mình, phía sau chùa Hoa Yên. Tháp xây bằng gạch đỏ tráng men xanh, bề mặt đúc nổi nhiều hoa văn và mặt thú lạ. Am Thiền Định nay chỉ còn lại dấu vết của nền móng cũ.
Chùa Một mái
Chùa Một Mái nằm nép mình bên sườn núi cao. Một nửa chùa ẩn sâu trong hang núi, nửa còn lại phô ra bên ngoài và chỉ có một mái. Không gian trong chùa rất hẹp. Kiến trúc chùa được làm bằng gỗ, mái lợp ngói ta. Xung quanh là hệ thống ván bưng, có hai cửa sổ chấn song, được bố trí ở giữa để tạo độ thoáng cho không gian bên trong.
Am Thung, Am Dược
Am Thung và Am Dược hiện nay chỉ còn là các phế tích. Dấu vết kiến trúc còn lại cho thấy, các am này được xây bằng đá. Am Dược có mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh, gồm ba gian chính điện và một gian hậu cung. Am Thung có mặt nền kiến trúc gồm ba gian bái đường và một gian hậu cung.
Chùa Bảo Sái
Chùa Bảo Sái nằm trên sườn núi, quay hướng Tây Nam. Chùa chính có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái bái đường và một gian hậu cung.
Đường lên chùa Bảo Sái
Nhà tổ có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Nhất, gồm ba gian, thấp hơn
so với chùa chính khoảng 1m, mái lợp ngói vẩy.
Chùa Vân Tiêu
Chùa Vân Tiêu toạ lạc trên sườn núi. Hai bên chùa có 2 dãy núi cao, tạo thành thế tay ngai bao bọc lấy chùa. Bên phải chùa có một dòng suối.
Toàn cảnh chùa Vân Tiêu, Yên Tử
Các hạng mục kiến trúc chính của chùa gồm: chùa chính, thiêu hương, nhà tăng, nhà bếp và một số công trình phụ trợ khác. Chùa chính có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái.
Chùa Đồng
Chùa Đồng nằm trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử, được đúc từ chất liệu đồng. Mặt bằng kiến trúc của chùa dạng chữ Nhất, kết cấu vững chắc, được đặt trên sập đồng, dạng chân quỳ, dạ cá. Dáng chùa như một bông hoa sen nở, ngự trên sập đồng.
Chùa Đồng, Yên Tử
Chùa quay hướng Tây Nam, diện tích khoảng 20m2, chiều cao từ mặt nền đến mái là 3,35m. Chùa được làm thành khối vuông bốn mái, lợp ngói mũi hài, bờ nóc và bờ giải không trang trí, hai đầu bờ nóc cùng bốn đầu đao là hình đầu rồng.
Mỗi năm, có hàng ngàn lượt du khách về với chùa Đồng. Ai cũng muốn chà tiền vào chuông chùa, cột kèo... để lấy hên.
Những giá trị lịch sử - văn hóa đặc biệt của khu di tích đã đưa Yên Tử trở thành một chốn thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt.
+ Chùa Hoa Yên - Núi Yên Tử
Từ Hà Nội có thể đi xe ô-tô vượt quãng đường 125 km, qua thành phố Uông Bí thì rẽ vào đường Vàng Danh, đi tiếp khoảng 9 km thì rẽ trái. Có thể lên núi Yên Tử bằng hai cách.Chùa Hoa Yên được dựng từ thời Lý và được tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam, gồm có các hạng mục: chùa chính, nhà tổ, tả vu, hữu vu, nhà khách, nhà ni, nhà bếp và một số công trình phụ trợ khác.
Chùa Hoa Yên
Dọc đường còn có một số điểm tham quan như Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá Yên Kỳ Sinh,
am Ngọa Vân, bàn cờ tiên, các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác
Bạc. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử xây trên nền dấu tích của chùa Lân mà
đức Điếu Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông từng thuyết giảng chúng sinh. Đây là công trình thiền viện lớn nhất Việt Nam.
17. CHÙA VĨNH NGHIÊM – BẮC GIANG
Tương truyền chùa Vĩnh Nghiêm có từ đầu thời Lý Thái Tổ (1010-1028), tên chữ là Vĩnh Nghiêm Tự (永嚴寺). Thời vua Trần Thánh Tông (1258-1278) đều có các vị cao tăng tu hành nên được tu tạo nguy nga, tráng lệ. Khi vua Trần Nhân Tông (陳仁宗; 1258-1308), từ bỏ ngôi vua thành người tu hành đến chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Ngoạ Vân (Yên Tử) thụ giới, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, sáng lập lên phái Thiền tông của Phật giáo Việt Nam. Hương Vân cùng hai đệ tử Pháp Loa (法螺), Huyền Quang (玄光) sáng lập, hoàn chỉnh phái Thiền tông Việt Nam gọi là Tam tổ.
Nguyên chùa Ngoạ Vân do sư Hiện Quang trụ trì, khi Hiện Quang viên tịch thì không còn nữa. Do Yên Tử là quê hương nhà Trần và nơi vua Trần Thái Tông lập phái Trúc Lâm ở đây nên Hương Vân Trần Nhân Tông thụ giới cả chùa Vĩnh Nghiêm và ở đây. Pháp Loa được ngài Hương Vân truyền pháp đã đi khắp nơi thuyết pháp, giảng bộ sách “Thiền Uyển Truyền Đăng Lục”. Khi Hương Vân viên tịch, Pháp Loa làm lễ hoả táng, xây tháp mộ ở núi Yên Tử, dâng tôn hiệu là “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật” gọi là Trúc Lâm đệ nhất Tổ. Rồi Pháp Loa về chùa Vĩnh Nghiêm trụ trì, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo, đào tạo Tăng đồ và xếp đặt Tăng chức, chỉ đạo các chùa trong cả nước. Pháp Loa cho đúc 1.300 pho tượng, được đặc trách định Tăng đồ, đã có hơn 15.000 tăng ni, đệ tử, trong đó có hơn 3.000 đắc pháp, mở 200 sở đường… Cho soạn lại các sách “Đoạn Sách Lục, Tham Thiền, Yếu Chỉ”. Năm 1330, Pháp Loa giao lại cho Huyền Quang đã sang chùa Quỳnh Lâm trụ trì, vài tháng sau thì viên tịch, được phong là “Tĩnh Chi Tôn Giả”, làm Trúc Lâm đệ nhị Tổ.
Sau này có một số vị sư từ Bắc vào Sài Gòn đã cho xây dựng một ngôi chùa Vĩnh nghiêm thứ hai tại số 339, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 7, Quận 3,Saigon. Đây là một ngôi chùa rất nổi tiếng tại Việt Nam. Hiện, ngôi chùa này còn nổi tiếng hơn cả ngôi chùa gốc - chùa Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).
18. CHÙA BỔ ĐÀ- BắcGiang
Đây cũng là nơi sơn thủy giao hòa, nhìn sông tựa núi, cảnh sắc, không gian nhuốm màu huyền thoại, xung quanh là đồi núi xóm làng bao bọc. Chùa thờ Tam giáo, trong đó có Quán Thế Âm Bồ Tát, Trúc Lâm Tam tổ (gồm Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang), Khổng Tử. Quần thể chùa Bổ Đà là một tập hợp di tích gồm: chùa cổ có tên là Bổ Đà Sơn (gọi tắt là chùa Bổ Đà, chùa Bổ; còn gọi là chùa Quán Âm), chùa chính Tứ Ân Tự, Am Tam Đức (xây dựng sau, vào thời Hậu Lê). Ngoài ra trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Đức Thánh Hóa (tức Thạch Tướng Đại Vương - có công giúp vua Hùng thứ 16 chống giặc ngoại xâm).
Câu chuyện truyền thuyết về sự ra đời của chùa Bổ Đà mang nhiều huyền bí. Tương truyền, vào khoảng thế kỷ thứ XI, dưới chân núi có một gia đình tiều phu tuy nghèo nhưng rất tốt bụng, chăm chỉ hiền lành, dân trong làng ai cũng quý mến. Hiềm một nỗi đã ngoài 40 tuổi mà họ vẫn chưa có con. Một hôm người chồng vác búa cắp dìu lên núi kiếm củi bỗng gặp một gốc cây thông già, mỗi nhát bổ ông lại niệm: “Quan thế âm Phật”.
Sau đó được 32 đồng tiền ở gốc cây, tự lấy làm lạ bèn đến vị cao tăng hỏi thì cao tăng bảo rằng: “Đức phật quan âm có 32 điều ứng”. Người tiều phu khấn cầu rằng: “Nhược bằng đức Phật quan âm phù hộ cho tôi sinh con trai, tôi xin dựng chùa thờ”.Quả nhiên sau đó người tiều phu có con trai thực, rồi dành dụm được ít tiền bèn dựng một ngôi chùa ngay gốc cây thông già, lợp gianh và tô một pho tượng Quan âm Tống Tử để hương khói phụng thờ. Sau dần dần nhiều người qua lại lễ bái, cầu việc gì cũng đều biến ứng, bèn trở nên nơi danh lam thắng cảnh, vì thế gọi tên là chùa ông Bổ. Vì là chùa thờ vị Phật Đà (Bụt Đà, có nguồn gốc từ chữ Buddha) đã ứng hiện giúp ông tiều phu (ông bổ củi) nên gọi là chùa Bổ Đà.
Vườn tháp
Dấu vết vật chất và thư tịch còn lại ở chùa cho biết Chùa có từ thời nhà Lý thế kỷ 11 và được xây dựng lại vào thời Lê Trung hưng, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1705-1728).
Kho mộc bản kinh Phật
19. CHÙA NON NƯỚC-Ninh Bình
Tại Việt Nam có ba chùa Non Nước tại các núi: Sóc Sơn ( Phú Thọ), Dục Thúy sơn ( Ninh Bình) và Ngũ Hành sơn ( Đà Nẵng)
Núi Non Nước (tên cổ là Dục Thúy Sơn), là một ngọn núi nằm ngay trên ngã ba sông Vân với sông Đáy, kẹp giữa 2 cây cầu Non Nước và cầu Ninh Bình. Núi là một tiền đồn nằm ở cửa ngõ phía đông thành phố Ninh Bình. Lối lên đỉnh Non Nước qua 72 bậc gạch đá, chia làm 5 cấp. Đỉnh núi tương đối bằng phẳng, cây cối xanh mát, rất thuận tiện nghỉ ngơi, giải trí cho khách tham quan.
Bên núi có chùa Non Nước và đền thờ danh sĩ Trương Hán Siêu đời Trần. Trên núi có hàng trăm bài thơ của các tao nhân mặc khách như: Trương Hán Siêu, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Thiệu Trị, Tự Đức, Phạm Sư Mạnh, Tản Đà, v.v.
Từ thời Lý, ngôi chùa này đã xuất hiện tháp là nơi thờ Phật. Trong tháp đặt một tượng Phật chính và một số tượng phụ. Sang thế kỷ XIII, tháp được tách ra, thành hai kiến trúc riêng: chùa và thápNhờ lắng đọng bề dày trầm tích gắn với lịch sử hình thành vùng đất Ninh Bình, núi Thúy -sông Vân trở thành hình ảnh biểu tượng độc đáo đặc trưng của thành phố Ninh Bình.
20. CHÙA BÁI ĐÍNH – Ninh Bình
Quần thể chùa Bái Đính hiện có diện tích 539 ha[3] bao gồm 27 ha khu chùa Bái Đính cổ, 80 ha khu chùa Bái Đính mới, các khu vực như: công viên văn hoá và học viện Phật giáo, khu đón tiếp và công viên cảnh quan, đường giao thông và bãi đố xe, khu hồ Đàm Thị, hồ phóng sinh...[4] vẫn đang được tiếp tục xây dựng.
Quần thể chùa Bái Đính gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư. Kiến trúc chùa mới hoành tráng, đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt Nam thời nay.[5] Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng. Khu chùa Bái Đính mới được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á.[6][7][8]
21. CHÙA THẦY -Sơn Tây
Chùa Thầy là một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật tích.
Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, còn chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông
đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi
và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng.
Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa
vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài
Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao
Rồng). Sân có hàm rồng.
Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền. Ống muống
để tượng Bát bộ Kim Cương. Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai
tượng Hộ pháp,
tượng Thiên vương. Chùa Thượng hay chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí
cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà tam tôn, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh, tượng cha mẹ Từ Đạo Hạnh.
Xung quanh chùa có hai dãy hành lang, phía sau có lầu chuông, lầu trống.
Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa miệng rồng. Đây
cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh được cho là ông tổ của
hình thức biểu diễn dân gian này.
Chùa thượng của chùa Thầy, Đại Hùng bảo điện Tại chùa Hạ có các pho tượng Đức Ông khá đẹp, và một bức bình phong lớn mô tả cảnh địa ngục.
Các pho Kim Cương đứng trong những tư thế võ mạnh mẽ, sống động. Tại chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp được cho là lớn nhất trong các ngôi chùa Việt Nam, cao gần 4m. Tượng Hộ pháp đắp bằng đất thó, giấy bản giã nhỏ trộn với mật, trứng,..., nên sau hơn ba trăm năm vẫn còn rất tốt.
22. CHÙA TÂY PHƯƠNG- Sơn Tây
30. CHÙA ĐÀO XUYÊN - Bắc Ninh
Chùa còn giữa được pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhân có niên đại thế kỷ 16. Tượng bằng gỗ mít, cao 1,35m (không kể bệ) ngồi trên bệ sen hình lục giác (nếu kể cả bệ thì cao 2,31m). Tượng có 42 tay lớn và 610 tay nhỏ. 42 tay lớn chìa ra phía trước và xung quanh với nhiều động tác, hình dáng khác nhau, tay thì cầm vật báu, tay thì bắt quyết, không tay nào giống tay nào. Còn 610 tay nhỏ thì xếp thành nhiều lớp hai bên sườn và phía sau, xếp vào nhau như những nan quạt, tạo nên một quầng tròn phía sau tượng, như một vòng hào quang tỏa sáng quanh người. Đầu tượng đội mũ pháp sư, được trang trí những hạt tròn, sơn son thếp vàng óng ánh góp phần làm tăng thêm uy linh và đức độ của Phật Bà Quan Âm.
Mặt tượng đầy đặn, đôn hậu, mắt lim dim nhìn xuống như đang tập trung tinh thần vào điều gì đó. Mũi tượng thẳng, má bầu, miệng nhỏ, tai dài đeo hoa, tóc chảy dài ra phía sau. Dáng mặt của tượng là một phụ nữ Việt Nam. Tấm áo cà sa khoác trên người chảy dài xuống hai bên lẫn trong các nếp áo. Tượng trong tư thế ngồi yên tĩnh, thế “tham thiền nhập định” nhưng vẫn toát lên vẻ động của một tâm hồn sôi nổi. Những cánh tay sinh động với nhiều dáng, những nếp áo mềm mại chạy dài, phủ trên một tấm thân cân xứng, nở nang… đã thể hiện sức sống của mỗi con người, có những nét gần gũi với bóng dáng hiền dịu của các cô gái nông thôn khỏe mạnh. Tượng được tạc ngồi trên một tòa sen do con rồng đội, nổi lên trên mặt biển sóng nhấp nhô.
Tòa sen cao 0,50m gồm 13 cánh sen chính, 13 cánh sen phụ và 20 cánh cách điệu, bố trí xen kẽ thành 2 lớp trên, dưới. Rồng được thể hiện với bộ mặt dữ tợn, những cánh tay gân guốc với những chiếc móng sắc nhọn, mắt lồi nhìn thao láo ra phía trước, mồm rộng, mũi to căng phồng (Rồng ở dây tượng trưng cho loài ác quỷ ma vương, thế lực đen tối).
Việc đội tòa sen của rồng biểu hiện sự quy phục Phật pháp. Về mặt thẩm mỹ, điều đó tạo nên sự tương phản giữa cái ác và cái thiện, góp phần làm tăng thêm vẻ nhân hậu, dịu dàng, thiện tâm và sự huyền diệu của Quan Âm. Bệ tượng cao 0,5m có mặt lục giác, được chia làm 3 phần, phần giữa thu hẹp. Trang trí trên bệ tượng là các hình mây lửa, sóng nước,… chính nhờ các trang trí này mà có thể đoán định tượng được tạo tác vào cuối thế kỷ 16. Chùa cũng còn nhiều tượng tạo tác vào thế kỷ 18 - 19.
31. CHÙA KEO -Bắc Ninh.
Tọa lạc: quốc lộ 181, phố chùa Keo, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Làng Keo, có tên cổ là “Cổ Giao” thuộc huyện Long Biên, quận Giao Chỉ ngày xưa, nay thuộc xã Kim sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Bởi làng xưa có nghề truyền thống nấu keo da trâu và nghề làm sơn gỗ, đặc biệt là sơn son thếp vàng, nên dân làng thường gọi là làng Keo, khi dân làng xây chùa lấy tên là chùa Keo, có tài liệu nói rằng ( trước kia thôn Giao tự và thôn Giao tất hợp nhất và gắn bó với nhau như keo, nên tên làng gọi là làng Keo). Chùa Keo còn có tên chữ là “Báo Ân Trùng Nghiêm tự” thờ bà Keo bà Pháp Vân là một tứ đại Phật Pháp thời xưa.
Chùa có tất cả 47 pho tượng Phật, đều mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ 17 – 18, trong đó tượng bà Keo là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Chùa còn giữ 6 tấm bia đá, 1 cổ chuông được đúc thời Cảnh Thịnh (1794), 1 Khánh đồng, 8 Đạo sắc phong cùng nhiều đồ thờ tự, có một số cổ vật mang phong cách thời nhà Lê.
Chùa trải qua nhiều đời trụ trì song sách sử trong chùa không còn. Năm 1995, Thành hội Phật giáo Hà Nội bổ nhiệm Đại đức Quảng Thiện trụ trì chùa Keo. Năm 1997, sư trụ trì trùng tu khu tháp Tổ, năm1998 Thượng điện, năm 2002, Nhà Tổ, năm 2006, nhà Mẫu và Tam bảo. Tháng 3/2009, tất cả các hạng mục công trình đều hoàn tất.
32. CHÙA TRĂM GIAN -Bắc Ninh
Chùa Cảm Ứng hiện còn lưu giữ được nhiều pho tượng Phật, cổ vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc sắc như Khánh đá tạo tác năm 1672, cây hương đá dựng khắc năm 1697, chuông đồng đúc năm 1826 và tấm bia đá “Tam Sơn xã đăng khoa bi kí" dựng khắc năm 1902.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sư dân tộc, chùa Cảm Ứng đã được bảo quản, trùng tu, tôn tạo với đầy đủ dáng vẻ cổ xưa. Chùa là báu vật của người Bắc Ninh-Kinh Bắc, quê hương của Vương triều Lý, một vương triều vàng son bậc nhất trong các thời kỳ phong kiến Việt Nam.
33. CHÙA TRĂM GIAN- Chương Mỹ (Hà Đông)
Toàn bộ công trình nhà Tổ, gác Khánh và bậc cấp từ gác chuông lên sân tiền đường đã bị nhà chùa dỡ bỏ hoàn toàn và đang được xây mới. Nhà Tổ cơ bản đã được lợp mái, gác Khánh đã lắp dựng xong bộ khung gỗ, ngổn ngang gạch, đá, ngói từ trong ra ngoài chùa.
Đây là hình ảnh cận cảnh ngôi chùa bị phá dỡ, xây mới:
Toàn bộ gác Khánh và nhà Tổ cổ kính bị đập bỏ, thay bằng những công trình mới.
Ngôi chùa giờ ngổn ngang gạch, đá và ngói.
Cả lối đi lên các bậc đá dẫn vào chùa Trăm Gian cũng vậy.
Nền nhà bị đào lên, lớp ngói cũ rêu phong mang đậm nét cổ kính xưa giờ thay bằng ngói mới đỏ chót.
Các bức phù điêu La Hán này đã được sơn vẽ lại từ hơn chục năm nay… Hiếm
hoi lắm mới tìm thấy những bức phù điêu của ngôi chùa còn nguyên nét
xưa cũ, chưa có dấu vết của sự tô vẽ như thế này.
Ngôi chùa giờ lẫn lộn cũ-mới, mái ngói rêu phong cổ kính hàng trăm năm lẫn lộn giữa màu gạch, ngói, sơn mới nguyên, đỏ chót..
34. CHÙA DÂU - Hà Đông
35. CHÙA BỐI KHÊ -Hà Đông
Chùa Bối Khê còn có tên là chùa Đại Bi, tọa lạc ở làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông nay là thành phố Hà Nội. Chùa được dựng năm 1382, dưới thời Trần, đã qua nhiều lần tu sửa. Chùa Bối Khê không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị về kiến trúc. Ngoài chư Phật, chùa còn thờ Minh Đức chân nhân đời Trần. Ngài họ Nguyễn, húy là Nữ, tự Bình An, tu hành đắc đạo, tăng đồ theo thụ giáo rất đông. Cũng có tài liệu nói chùa được xây dựng vào năm 1338, trong chùa có thờ Đức Thánh Bối tức vị tướng công Nguyễn Đình An là người địa phương đã có công đánh bại quân xâm lược phương Bắc.
Kiến trúc chùa rất đặc biệt, trên diện tích khoảng 5.000m2, xung quanh có tường bao..khác với các ngôi chùa ở miền Bắc Tiền đường, hành lang tả hữu, nhà tam bảo đều bằng gỗ dựng theo hình chữ Quốc. Hậu đường được kết hợp với điện thờ Thánh có hình chữ Công. Toàn bộ kiến trúc được sắp xếp cân xứng hai bên theo một trục chính.
Trước cổng chùa là sân đất rộng rãi, có cây đề, cây đa cổ thụ, đường kính sát gốc, ba vòng tay người ôm không xuể. Cổng chùa có 5 cửa. Phía trên cửa chính có dòng chữ 大悲寺 - Đại Bi Tự. Qua cổng chùa là chiếc cầu bằng gạch vắt qua hào nước hẹp, dấu tích của dòng sông Đỗ Động. Đi qua cầu là tam quan cao hai tầng tám mái. Tầng trên treo quả chuông lớn, đường kính 60cm, cao 1m.
Qua khỏi gác chuông là sân gạch rộng chừng 400m², trong sân có trồng cây đại, móng rồng, cây cảnh và hai voi đá chầu. Hai bên sân là hai hồ nước, một trồng sen và một làm giếng nước sinh hoạt cho dân làng trước đây, nay trở thành nơi biểu diễn văn nghệ trên mặt hồ trong dịp hội chùa.
Toà
Tam Bảo còn gọi là Thượng điện, thờ Phật, Pháp, Tăng, có diện tích
10x15 m, cấu tạo theo 4 hàng cột, mỗi hàng 4 chiếc, riêng thềm điện có 6
cột đỡ mái, chia thành 7 gian. Hai vì kèo giữa mang đậm phong cách nghệ
thuật thời Trần. Các đầu bẩy đỡ mái phía ngoài được chạm khắc hình
rồng. Đầu bẩy góc trái phía ngoài chạm hình chim thần Garuda. Bên phải
Tam Bảo là nhà bia dựng năm 1450 ghi sự tích Đức Thánh Bối. Bên trái là
nhà bia ghi tên những người góp của để trùng tu chùa trong từng thời kỳ.
Tam Bảo được trùng tu nhiều lần mới được lộng lẫy như hôm nay, còn để
lại dấu vết trang trí kiến trúc của các thời đại từ thế kỷ 15, 16, 17,
18.
Đầu bảy góc mái đao có hình con phượng (hay chim thần) từ thời Trần, đã bị hư hỏng.
Hình dáng, đường nét là đẹp.
Lan can gạch đắp trang trí cũng đẹp, nhưng nếu đừng quét vôi nhem nhuốc thì đẹp hơn
Khi trùng tu, họ giữ lại bức cốn cũ hình chữ Thọ, mang đặc trưng kiến trúc thời Nguyễn.
Có thể thấy hình rồng đời Mạc có những nét đặc trưng: uốn khúc ít, thân mảnh, nhịp điệu dứt khoát. Đời Lê Trung Hưng sau đó và Nguyễn thì con rồng cuộn khúc nhiều hơn, nhiều râu ria và mây hơn.
Cái hiên này cao ráo và sáng sủa chứ không tối và thấp, đó là nhờ xây trên một nền cao.
Cốn ở bờ thoải tam bảo, có thể thấy các đời gỗ trùng tu khác nhau.
Hệ thống tượng này thấy có cả tu sĩ, võ sĩ lẫn quan. Hình thức thô mộc mang đậm nét bình dân.
Dãy tượng Tổ đặt rải ra mỗi vị một gian, trông hơi hiu quạnh.
Vị này trông thật trẻ, dáng ngồi rất nho nhã.
Nơi đây là bến Bồ Đề, nơi Lê Lợi đóng quân đánh thành Đông Quan, đánh đuổi quân Minh xâm lược.Chùa Bồ Đề có tên chữ là Thiên Sơn. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ “đại công đức Bồ Đề” của vua Lê Thái Tổ. Chùa chỉ còn tòa thượng 5 gian xây trên nền cao, dáng bề thế, cổ kính. Bồ Đề hiện nay là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Sở dĩ gọi là “Bồ Đề” vì xa xưa trong làng có hai cây bồ đề cao, nổi bật giữa những làng quê ven sông Hồng, ngang đỉnh tháp chùa Báo Thiên ở trong Kinh thành Thăng Long ở bên kia sông. Chùa Bồ Đề còn có tên gọi là Thiên Sơn tự. Chùa toạ lạc tại thôn Phú Yên, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, cách bờ Bắc cầu Chương Dương khoảng 500m về hướng Nam, nay thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Đây là một ngôi chùa nữ và cũng là mái ấm tình thương đùm bọc, cưu mang trẻ mồ côi.
Tương truyền chùa được xây trên đất dinh Bồ Đề của Lê Lợi khi vua bao vây thành Đông Quan năm 1472. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại là: "Vua làm lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày ngự trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc làm gì". Thế nhưng, cũng có nhiếu ý kiến cho rằng chùa được xây từ cuối đời nhà Trần, trên một gò đất cao gọi là Núi Trời (nên còn có tên gọi là Thiên Sơn). Sau này, do bị chiến tranh tàn phá nên năm 1614, chùa được trùng tu tôn tạo trên nền chùa cũ và công đức khắc in vào hai quyển Pháp Hoa kinh để lưu hành. Đến giữa thế kỉ XVIII, chùa lại tiếp tục bị chiến tranh huỷ hoại. Năm Giáp Tuất đời Tự Đức 27 (1874), đại sư Thích Nguyên Biểu, tự hiệu Nhất Thiết đại sư (1835 - 1906) đến trụ trì và ngài đã trùng tu, tôn tạo trên nền chùa cũ gồm thượng điện rộng 5 gian, cho thỉnh thêm tượng Phật mới, chùa Hộ, nhà Thiêu hương, nhà Pháp bảo và cửa Tam quan.
Chùa được tôn tạo lại năm 2002, hoàn thành vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mùi (2003). Hoàn thành nhà Tổ ngày 15 tháng 11 năm Quý Mùi (2003).
38. CHÙA KHUYẾN LƯƠNG- HàĐông
39.QUẦN THỂ CHÙA HƯƠNG- Hà Đông
Chùa Hương là tên tắt của Hương Tích hay Hương Sơn. Tại Việt Nam có hai chùa trùng tên.
- Chùa Hương Tích ở tỉnh Hà Tĩnh toạ lạc trên đỉnh núi Hồng Lĩnh thuộc xã Thiên Lộc huyện Can Lộc.
- Chùa Hương Tích ở Hà Đông thật ra chỉ là một "phiên bản" đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh. Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Đông từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.
Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây
hơn hai nghìn năm .
Đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh đất chùa Thiên Trù. Theo sách "Hương Sơn Thiên Trù thiên phú" thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, (1680-1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686.
Các ngôi chùa chính được xây dựng với quy mô lớn vào khoảng cuối thế kỷ 17. Cho đến đầu thế kỷ 20, trong khu vực này đã có hơn 100 ngôi chùa.
Chùa Hương Tích- Hà Đông
Có bốn con đường đến chùa Hương, và trên bốn tuyến này có nhiều chùa:
+ CHÙA THIÊN TRÙ :
+ Chùa Giải Oan:Vẫn trên đường vào chùa Trong, rẽ tay trái là chùa Giải Oan. Chùa do Sư Tổ Thông Dụng huý Thám pháp danh Cương Trực đời thứ 2 khai sáng. Chùa được dựng ở lưng chừng núi Long Tuyền, lúc đầu chỉ là một thảo am nhỏ bằng tre gỗ đơn sơ. Chùa đã qua trùng tu vào các năm 1928, 1937. Năm 1995, chùa được tu bổ thêm am Từ Vân, kè lại sân chùa.
Chùa Hương
Chùa là nơi thờ phụng đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Hiện nay am Từ Vân còn lưu giữ được pho tượng Tứ Tý Quan Âm được đúc vào thế kỷ 18. Trong chùa có giếng Thanh Trì trong suốt không bao giờ cạn. Tương truyền đây chính là nơi đức Chúa Ba (Bồ Tát Quan Âm Diệu Thiện) đã dùng để tắm, tẩy sạch bụi trần ai, trước khi đi vào cõi phật. Từ đó giếng này được gọi là giếng Giải Oan, khách đi lễ thường múc nước nước uống để cầu mong giải thoát khỏi mọi nỗi oan ức trên đời.
Chùa Giải Oan có kiến trúc hài hoà, nằm giữa cảnh thiên nhiên thanh tao u tịch, càng làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm, huyền bí. Du khách đến đây được uống dòng nước mát lạnh của giếng Thanh Trì, như quên đi những ưu tư của đời thường khi hành hương về cõi Phật.
+Động Hương Tích
Từ chùa Giải Oan, du khách lại tiếp tục cuộc hành trình khoảng 2,5km lên động vào chùa Hương Tích (còn gọi là chùa Trong). Ðường lên động có nhiều chỗ quanh co, lúc lên dốc, lúc xuống dốc. Càng gần tới động thì dốc càng cao. Lên tới bậc đá cao nhất đứng nhìn xuống, du khách sẽ nhìn thấy một vòm hang rộng, sâu, hun hút trông giống như hàm của một con rồng, đó là động Hương Tích.
Qua cổng, đi xuống 120 bậc đá là vào tới lòng động. Ngay ở khoảng giữa, gần cửa ra, vào, có một nhũ đá gọi là "đụn gạo". Ði sâu vào một chút có một lối lên Trời và một lối xuống âm phủ. Trong động, những măng đá, nhũ đá rủ xuống tạo thành muôn hình vạn dạng, người xưa thoả sức để đặt tên: nong tằm, né kén, chuồng lợn, ao bèo, cây vàng, cây bạc, đầu cô, đầu cậu... Bên cạnh những công trình điêu khắc thiên nhiên còn có những công trình điêu khắc nhân tạo, giá trị nhất là pho tượng Phật Bà Quan Thế Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn.
Hương Tích là một động đẹp nổi tiếng và đã được chúa Trịnh Sâm (thế kỷ 17) tự tay đề năm chữ Hán lên cửa động: "Nam Thiên đệ nhất động" (Ðộng đẹp nhất trời Nam).
* Tuyến Long Vân: Gồm có động và chùa Long Vân, động Tiên, động Người Xưa, chùa Cây Khế, Hinh Bồng Tự.
Chùa Long Vân:
Sau khi vào đặt lễ ở đền Trình, xuống đò đi tiếp, du khách sẽ thấy dòng suối rẽ đôi, phía phải là đường vào Hương Tích, phía trái là đi vào động và chùa Long Vân.
40. CHÙA LONG ĐỌI- Hà Nam
Tên chữ là Sùng Thiện Diên Linh Tự, được xây dựng từ đời vua Lý Thánh Tông, nằm trên đỉnh núi Đọi, với độ cao 79m so với mặt nước biển. Ban đầu, chùa chỉ được xây dựng với quy mô nhỏ. Đến năm 1118, đời vua Lý Nhân Tông, chùa được xây dựng bề thế, với tháp Sùng Thiện Diên Linh đã được xây dựng với ý nghĩa cầu thiện.
Chùa “Long Đọi Sơn” còn có tên
chữ là “Diên Linh tự” nằm trên núi Đọi thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên,
tỉnh Hà Nam, cách Phủ Lý khoảng 8 km về phía Bắc. Căn cứ vào các tư
liệu còn lại thì thời nhà Lý đã sớm chú ý đến ngọn núi án ngữ ở mặt Nam
kinh thành Thăng Long, cũng lại mang ý nghĩa phong thủy trấn yểm. Vì
thế, khoảng thời gian những năm 1054-1058, triều vua Lý Thánh Tông và
Vương phi Ỷ Lan chủ trì xây dựng từ năm 1054 do tể tướng Dương Đại Gia
và mời thiên sư Đàm Cứu Chỉ đến trụ trì và tham gia xây dựng.
Tuy nhiên, chùa “Long Đọi Sơn” chỉ thực sự nổi tiếng kể từ khi nhà vua Lý Nhân Tông cho tiếp tục phát triển và xây cây tháp Sùng Thiện Diên Linh từ năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (năm 1118), đến năm 1121 thì hoàn thành. Tháng 3 năm Nhâm Dần (1122) nhà vua mở hội khánh thành chùa. Đến nay, Chùa được trùng tu qua nhiều lần vào các năm 1591, năm 1860, năm 1864, và lần tu sửa lớn là vào năm 1958.
Đây là ngôi chùa cổ có nhiều nét văn hoá nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, mang đậm dấu ấn qua các thời kỳ lịch sử. Năm 1992, chùa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
Chùa “Long Đọi Sơn” còn lưu giữ các pho tượng các vị Kim cương có kích thước xấp xỉ nhau, cao bằng người thực, khoảng 1m60, đứng chống gươm trước bụng. Tượng được tạc bằng đá khối, phục trang theo lối võ quan. Tượng đứng thẳng, hai chân hơi dõng theo thế đứng vững chãi của người lính gác, hai tay khuỳnh chống gươm trước bụng, đầu đội mũ trùm tai, mặt tròn trặn, nhẹ nhõm. Các pho tượng này có mối liên quan mật thiết với các công trình tôn giáo và đã có những đóng góp quan trọng về mặt thẩm mỹ cho công trình.
41. CHÙA VỌNG CUNG-Nam Định
Chùa tọa lạc ở số 28 đường Trần Phú, thành phố Nam Định. Chùa được dựng vào thời Gia Long (1802-1820). Xưa chùa là nơi đón tiếp nhà vua và các quan văn võ đi kinh lý. Chùa bị hư hỏng nhiều lần qua các cuộc chiến tranh. Từ năm 1983 đến 1986, Hòa thượng trụ trì Thích Thuận Đức đã tổ chức xây dựng lại ngôi chùa quy mô như ngày nay. Chánh điện được xây dựng rộng thoáng, bài trí tôn nghiêm. Chùa đang được tiếp tục mở rộng. Chùa hiện đặt văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Nam Hà, là nơi đón tiếp hàng vạn Phật tử, du khách đến tham quan, chiêm bái hàng năm.
Chùa Vọng Cung nằm giữa phố phừờng sầm uất của thành phố Nam Định (tỉnh Nam Định). Vào thời Gia Long (1802 – 1820), công trình đựơc xây cất để đón tiếp vua và các quan đi kinh lý. Năm 1950, nhà sư Thích Tâm Tri từ chùa Quán Sứ (Hà Nội) về Nam Định mở lớp Phật học và xin được tu tạo hành cung xưa thành ngôi chùa. Vì thế, chùa Vọng Cung có nét riêng không giống một ngôi chùa nào ở Việt Nam: chính điện có thể một lúc chứa hàng trăm người.
Ngôi chùa lớn trên khuôn viên rộng gần 3.000 m2 thu hút rất đông khách du lịch gần xa, cùng bà con trong vùng đến ngoạn cảnh, thắp hương, nhờ chùa Vọng Cung ở giữa phố Hà Huy Tập sầm uất, quả là hiếm quý ở thành phố Nam Định. Chùa lại có lai lịch cùng kiến trúc khác thường. Các tòa nhà hai tầng ngang dọc đã được sửa sang, tô điểm, với kiến trúc mái chồng diêm, đầu đao cong vút vốn là hành cung được xây cất vào thời Gia Long (1802 – 1820). Xưa chùa là nơi đón tiếp nhà vua và các quan đi kinh lý.
Năm 1950, nhà sư nổi tiếng Thích Tâm Tri, pháp danh Tuệ Lạng, từ chùa Quán Sứ (Hà Nội) về Nam Định mở lớp Phật học, xin được tu tạo hành cung xưa thành ngôi chùa. Từ năm 1983 – 1986, Hòa Thượng trụ trì Thích Thuận Đức đã tổ chức xây dựng lại ngôi chùa quy mô như ngày nay. Trải nhiều thế hệ sư tổ, nay trụ trì là Hòa thượng Thích Tâm Thông, đã ngoại tám mươi. Nơi cửa thiền này được chính quyền giúp đỡ và dân thành phố góp công, góp của tu tạo, dần dà trở thành ngôi chùa lớn và một trung tâm đào tạo tăng ni.
Khách thăm qua hai cổng tả, hữu, đã gặp khoảng sân rộng, rợp bóng cây to và cây cảnh bôn-sai. Tĩnh mịch và xanh mát làm dịu lòng khách giữa nơi phố xá ồn ào. Cầu thang rộng đặt dưới mái hiên dẫn khách lên gác hai là chùa chính năm gian rộng (chẳng gặp ở bất cứ chùa nào trên đất nước). Đại bái có thể chứa một lúc hàng trăm người thăm. Bàn thờ Phật trang nghiêm, u tĩnh đặt ở hậu cung hương khói ngày đêm. Tượng thờ sơn son thếp vàng, mang dấu ấn thời Nguyễn, kỹ lưỡng, mềm mại. Đẹp nhất là những pho Tam thế Tây phương: Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, A Nan, Ca Diếp, Cửu Long… Tầng dưới chùa là nhà tổ, nhà trai, bên cạnh nhà giảng rộng, đủ chỗ cho hai trăm sễ trẻ học kinh.
Nghệ thuật chạm, khắc gỗ điêu luyện thế kỷ 19 cũng để lại dấu ấn trên nhiều mảng kiến trúc và trang trí. Các tác phẩm điêu khắc không nhiều, nhưng lạ mắt. Đôi câu đối là hai tác phẩm độc đáo chạm lộng rồng nổi, thếp vàng trên toàn bề mặt, chữ thì đặt nổi trên hình. Hai bức cửa võng ở hậu cung, viền chạm trổ đôi rồng chầu mặt nguyệt; trong chạm “mai-điểu” với bố cục lạ mắt mà hài hòa.
42. CHÙA MỄ SỞ- Hưng Yên
Chùa thường gọi là chùa Mễ Sở, tọa lạc ở thôn Mễ Sở, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Có thề nói cả pho tượng mang một giá trị nghệ thuật rất cao, rất độc đáo góp phần thu hút du khách khắp nơi về viếng thăm ngôi chùa này.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
43. CHÙA TƯ PHÚC - Hải Dương
Chùa Côn Sơn còn có tên là chùa Hun,
vì tọa lạc trên núi Hun, và tên chữ là "Thiên Tư Phúc Tự", nghĩa là chùa
được trời ban cho phước lành. Chùa Côn Sơn, tọa lạc ở chân núi Kỳ Lân
hay núi Hun, cao khoảng 200m, thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa ở chân núi Côn Sơn, phía đông huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, gần làng Chi ngại, quê hương của dòng họ nhà Nguyễn Trãi.
Chùa là một Tổ đình của Thiền phái Trúc Lâm. Thiền sư Huyền Quang viên tịch
vào ngày 22tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), Trần Minh Tông đã cấp cho
ruộng để thờ và cho xây bảo tháp Đăng Minh, thờ Xá lợi ngài ở lưng chừng
núi Kỳ Lân. Hiện nay, giới khảo cổ đã tìm thấy di vật của một ngôi tháp
gạch thời Trần cao gần 3m, phủ kín bằng 13 loại hoa văn tinh tế và sinh
động. Đến đầu thế kỷ XVIII, do tháp bị đổ, chùa đã dựng lại tháp Đăng
Minh bằng đá, 3 tầng, cao hơn 5m, đặt xá lợi và tượng Huyền Quang tôn
giả.
Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa, đặc biệt có tượng của ba vị tổ Thiền phái Trúc Lâm : Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang. Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia, đặc biệt là bia "Thanh Hư Động" tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét chữ của vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng . Sau chùa có hồ non bộ, Giếng Ngọc (mắt Kỳ Lân) nước trong vắt không lúc nào vơi.
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa được trùng tu vào năm 1995.
Sau chùa có Giếng Ngọc (mắt Kỳ Lân) nước trong vắt, có đường lên Bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi với trên 600 bậc đá. Cuối thế kỷ XV, Lê Thánh Tông đến Côn Sơn, nhớ Nguyễn Trãi, xúc động viết :
Tịch thổ lâu đài cảnh trí kỳ
Cổ nhân trầm tích, dĩ y hy !
Lúc
ngài Huyền Quang mất (1334), Vua Trần Minh Tông cúng 10 lạng vàng để
xây tháp thờ xá-lợi ngài ở lưng chừng núi Côn Sơn (còn gọi là núi Kỳ
Lân). Điện Phật được bài trí thoáng, tôn nghiêm. Trước chùa có tấm bia
khắc 3 chữ "Thanh Hư Động" là bút tích của Vua Trần Nghệ Tông
(1322-1395) và tấm bia do Chiêu Dương Nguyễn Đức Minh soạn năm 1607 nói
việc trùng tu chùa vào đầu thế kỷ XVII do nhà sư Thích Pháp Nhẫn thực
hiện. Chùa được trùng tu vào năm 1995
Trong chùa hiện còn nhiều di vật có giá trị như 8 bia thời Trần và Lê.
Một bia bốn mặt niên hiệu Thiệu Phong thứ 18 (1397)
Một bia có 3 chữ "Thanh Hư động" thời Long Khanh (1373-1377) năm Hoằng Định thứ 4 (1603).
Một bia niên hiệu Hoàng Định thứ 14 (1633) - vua Lê Thế Tông
Một bia niên hiệu Thịnh Đức nguyên niên (1653) - vua Lê Thần Tông
Một bia niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7 (1712) - vua Lê Dụ Tông.
Mộtbia niên hiệu Bảo Thái thứ 2 (1721) vua Lê Dụ Tông.
Chùa Côn Sơn
Năm Hưng Long thứ 12 (1304) nhà sư Pháp Loa cho xây dựng một liêu (chùa nhỏ) gọi là Kỳ Lân. Đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329) chùa được xây dựng mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, giao cho Huyền Quang chủ trì.
Ngay từ thời nhà Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm cùng với chùa Yên Tử và chùa Quỳnh Lâm, Quảng Ninh. Nơi đây đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và người anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.
Chùa Côn Sơn
Vào đời nhà Lê, lúc Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhãn trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng. Khi đó chùa có đến 83 gian, bao gồm các công trình như : tam quan, thượng hạ điện, tả hữu vu, lầu chuông, gác trống. Nhưng do bị chiến tranh tàn phá, ngày nay chùa Côn Sơn chỉ còn là một ngôi chùa nép mình dưới tàn lá xanh của những cây cổ thụ.
Chùa Côn Sơn
Chính điện chùa Côn Sơn Trước sân tiền đường chùa Côn Sơn có những cây đại cổ, làm tăng cảnh đẹp và tôn nghiêm của chùa.
44. THIỀN VIỆN TRÚC LÂM - Vĩnh Phúc
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên nằm trên ngọn đồi rộng khoảng 4,5 ha, cao khoảng 300 m so với mực nước biển. Công trình này mang đậm dấu ấn kiến trúc Phật giáo đương đại. Trước thiền viện là một cánh đồng rộng, phía sau là dãy núi cao với rừng thông xanh ngắt.
Nằm trên quả đồi với diện tích rộng khoảng 4,5ha, rừng ngoại vi rộng 50ha, nằm trên độ cao khoảng 300m so với mực nước biển, công trình mang đậm dấu ấn một ngôi chùa Việt Nam với phong cách kiến trúc đương đại. Phía sau chùa là núi rừng xanh tươi, trước là một cánh đồng thẳng cánh cò bay.
45. CHÙA TÙNG VÂN- Vĩnh Phúc
Hình thành cách đây hơn 1.000 năm, làng Thổ Tang xưa, nay là thị trấn Thổ Tang thuộc huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc, nổi tiếng là vùng đất nhiều nghề, giỏi giao thương buôn bán; là nơi sản sinh ra nhiều danh nhân của Vĩnh Phúc nói riêng và cả nước nói chung mà tên tuổi còn mãi lưu truyền trong sử sách. Đây còn là nơi có cụm di tích lâu đời, tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc mang nhiều ý nghĩa lịch sử, như đình làng Thổ Tang, chùa Tùng Vân.
Chùa Tùng Vân - Vĩnh Phúc
Chùa Tùng Vân nằm ở giữa trung tâm thị trấn, gần với đình Thổ Tang. Đây là ngôi chùa lớn với lịch sử hơn 320 năm tuổi được xây dựng từ đời vua Lê Huy Tông vào năm Chính Hòa thứ 7 (1686) để phục vụ đời sống tôn giáo của người dân địa phương và cả một vùng rộng lớn. Chùa được xếp hạng di tích Văn hóa quốc gia năm 1964 và nhận bằng di tích văn hóa quốc gia năm 1992. Trải qua những thăng trầm biến cố chùa được nhiều lần trùng tu và lần gần đây nhất là vào năm 2008. Cùng với quá trình trùng tu, tôn tạo, chùa đúc Đại hồng chung nặng 1,1 tấn.
Chùa
được xây dựng trên địa thế đẹp, bố cục theo kiểu chữ “quốc” có cây cối
bao bọc xum xuê, với các hạng mục: Tam quan, tiền đường, thiêu hương,
thượng điện, nhà tổ, hành lang. Chùa Tùng Vân không bề thế, nhưng có
kiến trúc đẹp, gồm 7 gian 2 dĩ, với hệ thống kết cấu hàng trăm cột gỗ và
đá. Đây là kiểu kiến trúc hình chuôi vồ, 3 gian hậu cung, 7 gian tiền
đường; là một trong những kiến trúc phật giáo tiêu biểu của vùng Đồng
bằng Bắc Bộ.
Chùa Tùng Vân xưa xây kiểu cửa cuốn, có những đường nước chảy xuống hai đường mái hai bên tựa như giếng trời; xưa các sư trong chùa dùng nước này để sinh hoạt, đến thời kháng chiến chống Mỹ đã bị mai một đi. Ngày nay, chùa đã khôi phục lại theo lối tứ trụ trồng cột; khác với vẻ rêu phong của chùa trước đây, chùa Tùng Vân ngày nay có lối kiến trúc đẹp hơn với nhiều hoa văn, họa tiết tinh xảo hơn. Mái chùa lợp ngói mũi hài, uốn cong bốn góc, trên nóc có bàn tay vươn ra từ hoa sen đỡ bánh xe pháp luân của nhà Phật.
Chùa Tùng Vân
Tam quan ngôi chùa dựng theo lối cổ xưa với trên đỉnh có bánh xe pháp luân, ở giữa là chữ vạn, ở trên các đầu mái uốn cong của các góc đều là những linh vật gắn với bầu trời như: Rồng, phượng, mây.
Đình làng Thổ Tang
Qua cổng Tam Quan là khuôn viên sân chùa với lầu quan âm tọa lạc ở góc bên trái. Quanh sân trồng nhiều cây cau cao vút (Hình ảnh quen thuộc của vùng Bắc Bộ) tạo cho phật tử và du khách đến đây cảm thấy sự gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người dân.
Theo con đường nhất chính đạo đi vào bên trong tiền đường, phía bên phải lối vào là tượng ông Khuyến Thiện, đầu đội kim khôi, tay cầm đại đao nhưng gương mặt hiền từ, với ý nghĩa khuyên mọi người nên làm những điều thiện (chánh tâm). Phía bên trái lối vào là tượng ông Trừng ác, cũng mặc khôi giáp, nhưng gương mặt dữ dằn, một tay cầm búa, một tay cầm Ngọc ấn tỷ phù, với ý nghĩa nhắc nhở người làm điều ác sẽ bị trừng phạt (vọng tâm).
Tượng Phât bằng đất nung trên 300 năm
Nhà thờ tổ là nơi lưu giữ nhiều pho tượng bằng đất nung có giá trị (trong đó có pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đất nung, có niên đại cách đây gần 300 năm), được bài trí theo phong cách của dòng Phật giáo Đại Thừa - Bắc Tông. Ngoài ra chùa còn lưu giữ nguyên vẹn nhiều hiện vật quý như chuông đồng, khánh đồng. ở gian hậu cung có khán thờ về đức Khổng Tử cho thấy ở nơi đây có truyền thống hiếu học lâu đời. Cũng ở khán thờ này, còn tạc hai thị nữ hai bên cánh cửa rất mềm mại, thể hiện sự khéo léo trong nghệ thuật tạc tượng từ xưa. Không chỉ vậy, chùa Tùng Vân còn lưu giữ được hệ thống văn bia cổ, đây là những tài liệu quý có giá trị nghiên cứu lịch sử, văn hóa.
Tượng phật ngọc tại Chùa Tùng Vân
Cũng giống như rất nhiều ngôi chùa khác ở Miền Bắc, chùa Tùng Vân xây dựng theo lối tiền phật, hậu mẫu. Chùa có gian thờ mẫu ở phía sau, gồm mẫu Thiên, mẫu Thoải, mẫu Thượng ngàn cùng hệ thống các quan, các cô, cậu lập nên một bàn thờ tương đối đầy đủ về tín ngưỡng thờ Mẫu.
46. CHÙA TỪ ĐÀM
Năm 1703, Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung cho trùng tu chùa. Cũng trong năm này, chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa tấm biển Sắc Tứ Ấn Tôn Tự. Sau khi Sư viên tịch, theo lời phó chúc, học trò của Sư là Thiền sư Thiệt Vinh - Bửu Hạnh làm Trụ trì chùa[5].
Năm Thành Thái thứ 9 (1897), nhà vua cho mở đường lên đàn Nam Giao.
Vì đường này đi xuyên qua khuôn viên chùa Từ Đàm, nên vua ban lệnh cho
Trụ trì là Thiền sư Thanh Hiệp - Tường Vân dời 5 bảo tháp chứa di cốt
của chư Tổ sang khuôn viên chùa Báo Quốc ở gần đó. Có lẽ nhân dịp này,
vị Trụ trì ấy lại cho trùng tu chùa [9].
Từ những năm 1920 trở về sau, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam được phát triển ở cả ba miền. Trong quãng thời gian ấy, chùa Từ Đàm là trung tâm của phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Kỳ[10].
Ban đầu, chùa Từ Đàm chỉ là tịnh thất nhỏ làm bằng cây lá, sau nhiều lần trùng tu mới có diện mạo như ngày nay.
Ngôi chính điện chùa cũ gồm ba gian, lợp ngói, rộng 7,4 m, dài 18 m, và mặt tiền ngó về hướng Đông Nam [16]. Đến ngày 4 tháng 7 năm 2006, chùa đã tổ chức tái thiết ngôi chánh điện, và khánh thành vào sáng ngày 30 tháng 3 năm 2010. Công trình mới có chiều dài 42 m, chiều ngang 35,9 m, gồm hai phần (dưới là tầng hầm làm hội trường, trên là ngôi chánh điện), được kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, gồm ba gian hai chái, và hai bện có lầu chuông, lầu trống. Đây là kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế (ảnh 1)[17]. Sau đó, Đại lễ An vị Phật đã được tổ chức trọng thể vào ngày rằm tháng 11 năm Đinh Hợi (24 tháng 12 năm 2007).
Nhà thờ Tổ
Tháp 7 tầng ở sân chùa
Vào thời Tây Sơn, chùa đã bị chiếm đóng và trưng dụng làm kho chứa diêm tiêu. Sau đó vào năm 1808, Hoàng Hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây tam quan, đúc đại hồng chung, bảo khánh và đổi tên là chùa Hàm Long Thiên Thọ tự và mời thiền sư Phổ Tịnh làm trụ trì.
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo vào những năm 1930, chùa đã có nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, trường Sơ đẳng Phật giáo được mở tại chùa. Đến năm 1940, trường Cao đẳng Phật giáo cũng lại được mở tại đây. Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng Thích Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì chùa, đã có những đóng góp to lớn cho Phật giáo nói chung và cho việc tái thiết ngôi tổ đình trang nghiêm với những nét kiến trúc cổ kính nói riêng.
Em thương anh rày có bụt chứng tri.
Trước đây, chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ...về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.
Chùa Quốc Ân (寺恩國) là một trong những ngôi tổ đình danh tiếng và lâu đời bậc nhất tại cố đô Huế. Hiện tại chùa Quốc Ân vẫn còn bảo lưu nhiều dấu ấn văn hóa Phật giáo trong các thời kỳ từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và Huế ngày nay.Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông, do tổ sư Tạ Nguyên Thiều khai sơn vào khoảng những năm 1682-1684 với tên ban đầu là thảo am Vĩnh Ân.
Tổ sư Nguyên Thiều, pháp tự là Hoán Bích, người ở Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc sang hoằng hóa ở Việt Nam vào năm 1677 ở tại phủ Quy Ninh (nay là Bình Định) lập chùa Thập Tháp-Di Đà.Vào khoảng năm 1682-1684, dưới thời chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) sư Nguyên Thiều ra Phú Xuân ở xứ Thuận Hóa, sư chọn chân đồi Hòn Thiên (chân núi Bân), phía trái núi Ngự Bình để dựng chùa Vĩnh Ân và tháp Phổ Đồng. Chúa Nguyễn Phúc Tần đóng góp ngân khoản xây chùa.
Sư Nguyên Thiều là người được chúa Nguyễn Phúc Thái trọng vọng, năm 1689, chúa cho miễn thuế đất và đổi hiệu chùa là Quốc Ân và ban tấm biển "Sắc tứ Quốc Ân Tự".[2]
Một góc khuôn viên chùa
Gian bên trái thờ Bồ Tát Quan Thế Âm, hai bên là Hộ pháp, phía trước thờ Bồ Đề Đạt Ma, gian bên phải thờ Quan Vân Trường, các tượng khí này đều do Tổ Nguyên Thiều mang đến từ Trung Hoa. Hậu liêu thờ chân dung Tổ Nguyên Thiều và nhiều long vị của chư tổ và chư vị trú trì kế thế..
50. CHÙA THIÊN MỤ
Chùa Thiên Mụ (��天姥) hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này.
Người dân địa phương cho Nguyễn Hoàng biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn 2.
Chùa Thuyền Tôn là một tổ đình lớn ở Huế, lúc đầu chỉ là một am tu của ngài Liễu Quán được dựng vào khoảng năm 1708 ở núi Thiên Thai, ngày nay thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thuỷ An. Tổ Liễu Quán quê ở Phú Yên, ra Thuận Hoá tầm sư học đạo. Ngài đã tham học với ngài Giác Phong, chùa Báo Quốc, ngài Thạch Liêm chùa Thiên Mụ, và ngài Tử Dung, chùa Ấn Tôn (các vị này đều từ Trung Quốc sang), và sau khi đắc pháp với ngài Tử Dung đã khai sinh thiền phái Lâm Tế - Liễu Quán, một dòng thiền có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Huế, cả miền Trung và nhiều vùng trong Nam, với nhiều danh tăng thuộc nhiều thế hệ đắc pháp và một sự nghiệp hoằng pháp độ sanh rất lớn.
Năm 1843, sau khi từ chức "Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự" và trao quyền điều hành chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, Hoà thượng Nhất Ðịnh đã đến đây khai sơn, dựng "Thảo Am An Dưỡng" để tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ già [1].
Hoà thượng Nhất Ðịnh nổi tiếng là người con có hiếu, tương truyền có lần mẹ già bị bệnh rất nặng, hàng ngày ông lo thuốc thang nhưng bà vẫn không khỏi. Có người ái ngại khuyên ông nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, có làm được điều đó mới mong bà chóng hồi sức. Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, thiền sư vẫn chống gậy băng rừng lội bộ xuống chợ cách đó hơn 5 km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ già ăn.
Câu chuyện vang đến tai Tự Đức vốn là vị vua rất hiếu thảo với mẹ, vua rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. Trong tấm bia ghi lại quá trình xây dựng chùa giải thích:
Xung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố Huế nên nơi đây trở thành thắng cảnh ở nơi ngoại ô điền dã của dân thành phố Huế.
Bên cạnh đó toàn vùng lãnh thổ là núi non trùng điệp với núi Cấm, Lộ
Sơn, Tùng sơn và Kiếm Sơn. Vì thế mà các công trình Phật giáo thường
được xây dựng trên núi cao, kín đáo như chùa Đại Tuệ, tọa lạc trên núi
Đại Huệ; chùa Bà Bụt nằm gần núi Hội; chùa Phổ Nghiêm nằm trên núi Làng
Kho. Nhà Nguyễn xưa nay khi chọn thế đất để xây dựng lăng tẩm hay cung
điện thì luôn chú ý đến các điểm như có núi án tiền làm bình phong, núi
chắn hai bên làm tay ngai, phía trước có lạch ngòi uốn lượn, tụ thủy làm
minh đường. Thế đất như vậy mới được coi là vững chắc.
Toàn cảnh chùa Phổ Nghiêm
Chùa Phổ Nghiêm cũng theo quan niệm đó mà chọn thế đất đứng chân cho mình. Phía sau chùa là một sườn đồi kéo dài hai bên trái và phải của ngôi chùa. Phía trước tuy không có núi án ngữ nhưng chùa đã dựng một bức bình phong, xa xa là những cánh đồng của nhân dân trong làng.
Về kiến trúc tạo hình thì các ngôi chùa thời Nguyễn có xu hướng nâng cao các bộ phận thanh mảnh và chuyển dần sang tiết diện vuông .
56. CHÙA HƯƠNG TÍCH ( Hà Tĩnh)
Chùa tọa lạc trên đỉnh núi Hồng Lĩnh thuộc xã Thiên Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh là một ngôi chùa có từ thế kỷ 13 [1] Có một chùa Hương không phải ở Hà Tây Chùa Hương Tích. Tuy nhiên, chùa ban đầu đã bị hỏa hoạn làm cháy trụi vào năm 1885. Kiến trúc chùa hiện này được Đào Tấn cho xây vào năm 1901. Năm 2003, chùa được trùng tu. Hội chùa diễn ra vào ngày 18 tháng 2 âm lịch. Cứ 3 năm lại tổ chức hội lớn một lần. Chùa thờ Phật Quan Âm và có cả một am thờ Mẫu.
Chùa Hương Tích ở Hà Tây thật ra chỉ là một "phiên bản" đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh. Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Tây từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.
57. CHÙA TƯỢNG SƠN (Hà Tĩnh)
Chùa Tượng Sơn tọa lạc giữa một khu đất bằng phẳng bốn phía có núi sông, khe suối, làng mạc, ruộng đồng bao bọc ở làng Yên Hạ, xã Sơn Giang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.Trước mặt Chùa là dòng sông Ngàn Phố, sau lưng là ngọn núi Voi đứng sừng sững, có khe suối chảy quanh năm tạo âm thanh rộn rã nơi của thiền tĩnh mịch. Chính vì vậy mà chùa có tên gọi là Tượng Sơn tự hay còn gọi là chùa Ầm Ầm. Chùa do thân mẫu của đại danh y Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác sáng lập hồi thế kỷ 18.
Chùa Tượng Sơn có: Chùa Thượng chính điện thờ Phật Thích Ca, bên tả thờ ông bà Tham đốc quân công (ông bà ngoại của danh y Lê Hữu Trác) và bà Bùi Thị Thưởng (thân mẫu của danh y); bên hữu thờ tổ tiên họ Lê Hữu. Nhà Tổ: thờ tượng Tổ Đạt Ma, lịch đại Tổ sư, có pho tượng lớn Bồ Tát Chuẩn đề 18 tay. Về phía góc trái vườn chùa có 07 am mộ của các nhà sư trụ trì viên tịch tại đây. Chùa Hạ là một lầu chuông 8 mái được chạm trổ tinh xảo theo hoa văn kiểu tứ linh, tầng trên để gác chuông, tầng dưới làm nơi lễ bái.
Trải qua thời gian Chùa Tượng Sơn đã trở thành ngôi chùa cổ, một di tích lịch sử gắn liền với Đại danh y Lê Hữu Trác, một di tích văn hoá nghệ thuật độc đáo.
Hàng năm tại chùa Tượng Sơn ngoài những ngày lễ của nhà Phật như lễ Phật Đản, Vu Lan còn có những ngày lễ hội như Lễ Thượng nguyên và lễ cầu yên, lại có lễ Quan Âm ngày 19 tháng 2 âm lịch là ngày lễ vía đức Bồ Tát quan thế âm.
58. CHÙA KIM DUNG (Hà Tĩnh)
Chùa Kim Dung tọa lạc lương chừng núi Bằng Sơn thuộc xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà, Tỉnh Hà Tĩnh. Chùa Kim Dung được xây dựng vào thời Nhà Trần. Hiện tại chùa còn nhiều dấu vết thời Trang Vương và một số cấu trúc của thời Trần - Lê. Chùa Kim Dung là khu di tích trên núi duy nhất còn sót lại của Xã Thạch Bằng sau cuộc đập phá Chùa chiền vào những năm 60 của thế kỷ trước. Chùa Kim Dung nằm ngang lưng chừng núi ngoảnh mặt hướng Tây Nam. Hai bên là hai khe suối, dưới chân chùa có hồ sen. Bên trái chùa có tượng Phật bà quan âm cao 18 mét sừng sững giữa trời mây như đất trời hòa làm một trong tiên cảnh.
Tượng Quan Âm Bồ Tát 18m
Cổng chùa
59. CHÙA THANH QUANG (Quảng Bình)
Đó là từ thời Nhà Trần gã công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân để đổi về hai châu Ô Lý rồi tiếp sau đó là thời nhà Lê mà điển hình là thời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đã có kế hoạch mở rộng đất nước về phương Nam. Vào thời kỳ chúa Nguyễn chọn "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" thì Phật giáo tiếp tục là điểm tựa tâm linh chính để bình ổn nhân tâm và mở mang bờ cõi, một loạt những ngôi chùa đã được các thiền sư và người dân làng dựng lên tại Quảng Bình trong đó có chùa Thanh Quang.
Thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, chùa bị phá sập hoàn toàn. Sau khi nhà Nguyễn bình định đất nước thì Phật giáo Quảng Bình cũng được phục hưng, chùa Thanh Quang cũng được trùng tu.
Từ thập niên 1990 trở lại đây, khi đời sống người dân Quảng Bình đã khá lên thì dân làng mới có điều kiện tìm hiểu chùa chiền và Phật pháp. Có nhiều người rất có đạo tâm đã vào Huế, ra Hà Nội...để tìm hiểu và trở về làng tìm cách vận động bà con dựng lại những ngôi chùa đã mất để làm nơi tu học hướng thiện cho bà con.
60. CHÙA NON (Quảng Bình)
Từ Chùa Hang, trèo hết thang đá là lên đến đỉnh Chùa Non - Chùa Kim Phong, thuở xưa nằm ở nơi đây. Trên đỉnh núi, ba mặt Bắc, Tây, Nam lổm nhổm nhiều hòn đá nhỏ, với nhiều dáng hình khác nhau. Ở đầu thang đá có một cái bia đá lập vào năm Minh Mạng thứ 11 (1830), chép về Chùa Kim Phong Đại lược, bia chép rằng:
"Niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1697) Hậu Lê, chùa có tám gian, sư thầy An Khả tu ở đó. Về sau, trong cơn binh hỏa, chùa bị cháy, các sư bỏ đi nơi khác. Năm Minh Mạng thứ sáu (1825) một nhà sư ở Chùa Thiên Mụ ra lập một am tranh ở núi Chùa Non. Tháng giêng năm Minh Mạng thứ 10 (1829) ông hưu quan ở làng Phan Xá tên là Lê Văn Trúc, quyên tiền xây thang đá, và đến tháng sáu cùng năm thì xây chùa bằng gạch ở chân núi. Vào tháng 7 năm ấy, ông Đặng Văn Tiêm, một lái buôn người Bố Trạch kéo được một cái chuông đồng ở cửa Nhật Lệ và đem cúng cho chùa."
Theo tác giả "Ô châu Cận lục" thì núi Chùa Non có thời còn được gọi là núi Bất Nghĩa, bởi tương truyền, thuở trước, vua Lê đi kinh lý phương Nam, qua đây, thấy các núi đều quay về hướng Tây chỉ có núi Chùa Non quay trái hướng mà thôi, nên sai lực sĩ dùng roi quật vào núi và đặt tên núi là như vậy.
61. QUAN ÂM TỰ ( Quảng Bình)
Cổng chùa Quan Âm Tự
Chùa được khởi công xây dựng năm 1843. Sau hơn 2 năm lao động miệt mài của những người thợ và nghệ nhân tài hoa, ngày lễ vu lan (15/7 năm Ất Tỵ (1845) chùa được khánh thành. Chùa Quan Âm Tự tọa lạc trên một khu đất cao khoảng 15m, rộng 10.000m2 trông giống như một bông sen khổng lồ, sát bờ biển và ngã ba sông Lý Hòa thuộc xã Đức Trạch, huyện Bố Trạch, rất thuận tiện cho khách tham quan cả bằng đường thủy lẫn đường bộ.
Chùa hoàn thành năm 1845, là ngôi chùa có quy mô khá lớn. Chùa làm bằng gỗ lim, theo phong cách kiến trúc Phương Đông, có hàng rào xung quanh. Chùa có tiền đường, thượng điện, nhà thờ tổ, tam quan, gác chuông. Khác với chùa khác của Việt Nam, phần nhiều do giai cấp quý tộc hay đồng minh của nó xây dựng, nên thể thức kiến trúc không có tính chất dân gian. Chùa Quan Âm Tự do nhiều cánh thợ ở các nơi đến làm. Mỗi cánh thợ làm một bộ phận. Vì thế các nhóm thợ thi nhau làm cho đẹp để lấy tiếng. Thợ làm chùa Quan Âm Tự là những người tự do, không bị quyền lực nào khống chế gò bó, câu thúc. Bởi thế những tác phẩm điêu khắc ở chùa trang trí đầy óc sáng tạo. Hình rồng, phượng ở chùa mỗi con mỗi vẽ. Xung quanh chùa là vườn cây trái, một không gian thoáng đảng yên tỉnh.
Buổi đầu chùa chỉ thờ tượng quan âm vớt được ở dưới biển. Dần về sau, do có nơi thờ phụng trang nghiêm nên tăng ni, phật tử trong chùa đã thỉnh về và nhiều vị cao tăng phật tử các nơi đã tiến cúng nhiều tượng cho chùa. Phật điện dần đông lên. Hiện nay, trong chùa có tượng hộ pháp, bộ tượng tam thế, a di đà, quan âm bồ tát, đại thế chí, được sư lưu ly, địa tạng, thích ca sơ sinh, ngọc hoàng, nam tào, bắc đẩu, hộ pháp long thiên, đạt ma tổ sư...Tất cả có 30 pho tượng. Các tượng được làm bằng chất liệu khác nhau như đá, đồng, gỗ và có niên đại từ thế kỷ 18 đến 19. Các hoành phi, câu đối sơn son thiếp vàng đa phần nói về phật pháp nhiệm màu và có nhiều bức đại tự. Chùa Quan Âm Tự có một số hiện vật rất quý như: Hai chiếc cối đá và 2 chiếc chày đá, có, niên đại khoảng thế kỷ thứ 7, thứ 8. 2 chiếc đại hồng dung được đúc vào thời Tự Đức, chuông nặng 200 kg, tăng ni, phật tử ở đây coi như một báu vật. Trên chuông khắc một bài văn bia ca ngợi chốn danh lam thắng tích, nhắc lại truyền thuyết vớt được tượng Quan âm.
62. CHÙA AN XÁ (Quàng Bình)
Chùa tọa lạc ở thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.Đây là ngôi chùa làng có từ năm 1900, chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1994. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông.
Chùa tọa lạc ở thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Đây là ngôi chùa làng có từ năm 1900, chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1994. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông.
63. CHÙA TỊNH QUANG ( Quàng trị)
Sách Du lịch Bắc miền Trung (NXB. Thuận Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, 2001) cho biết chùa có tên là Am Tịnh Độ. Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hựu thứ 5 (1739), Chúa Nguyễn Phúc Khoát trong một dịp ngự giá ra Quảng Trị, cảm khái với cảnh trí chốn Phật đường và tiếng tăm của chùa trong dân chúng, Chúa thân thân hành ngự bút viết năm chữ "Sắc tứ Tịnh Quang Tự", cho làm bảng sơn son thếp vàng để tặng cho chùa.
Trong Kỷ yếu lễ khánh thành Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang (2001), nhà nghiên cứu Phật học Lê Mạnh Thát cho biết, nếu không ra đời trước năm 1558 thì đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm tại Ái Tử, chắc chắn ngôi chùa này đã xuất hiện rồi. Đến khoảng những năm 1600 – 1650, chắc hẳn đã có nhiều vị thiền sư nổi tiếng đến trụ trì ở đây, mà hiện nay ta chỉ biêt tên hai vị. Đó là Lục Hồ Viên Cảnh, bổn sư của Thiền sư Minh Châu Hương Hải và Đại Thâm Viên Quang, vị thầy đã dạy về thiền lý cho Minh Châu Hương Hải.
Chùa đã qua 9 lần đại trùng tu. Năm 1997 là lần trùng tu lớn nhất với kinh phí gần 2 tỷ đồng do Hòa thượng Thích Chánh Liêm làm Trưởng ban Tái thiết. Lễ đặt đá trùng tu được cử hành vào ngày 26-3-1997. Ngôi chùa hiện nay có chiều sâu 31m, rộng 27m, cao gần 15m, đã tổ chức khánh thành trang nghiêm trọng thể vào ngày 12 – 3 – 2001 (18 – 2 năm Tân Tỵ).
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Điện chính giữa thờ Tam Thế Phật. Chùa có pho tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng nặng 2700 kg, đúc năm 1997 và chiếc trống lớn bằng da trâu, đường kính mặt trống là 165 cm.
64. CHÙA CHÂU QUANG ( Quảng Trị)
Chùa tọa lạc ở số 31 đường Trần Hưng Đạo - thị xã Đông Hà - tỉnh Quảng Trị. Chùa được xây dựng từ năm 1925, là chùa của hội Phật học tỉnh Quảng Trị
Chùa đã qua nhiều lần trùng tu: mặt tiền được sửa chữa năm 1954, chánh điện sửa chữa năm 1978 và nhà khách sửa chữa năm 1994. Chùa nguyên đặt văn phòng Ban trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Trị. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa đón tiếp đông đảo du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hàng ngày.
66. CHÙA NON NƯỚC - Đà Nẵng
Đà Nẵng có nhiều điểm tham quan du lịch nổi tiếng như Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, Bán đảo Sơn Trà, các bãi biển…, trong đó chùa Non Nước – Ngũ Hành Sơn là điểm khá nổi tiếng, được ví như “Hòn nam bộ” của Đà Nẵng. Ngũ Hành Sơn nằm gần trung tâm thành phố Đà Nẵng, cách khoảng 8 km đi về hướng Đông nam (hướng đi Hội An). Khá nổi tiếng, lại gần trung tâm, đường sá được đầu tư xây dựng rộng rãi, sạch đẹp nên Ngũ Hành Sơn thu hút sự quan tâm của nhiều du khách khi đến Đà Nẵng.
Ngũ Hành Sơn gồm có 5 ngọn: Thủy Sơn và Mộc Sơn ở phía Đông, Thổ Sơn, Kim Sơn, Hỏa Sơn ở phía Tây, nằm trên một dải cát vàng chiều dài khoảng 2 km, rộng khoảng 800m thuộc quận Ngũ Hành Sơn.
Lên thăm chùa chiền và hang động Thủy Sơn, du khách có thể đi bằng hai đường: đường tam cấp phía Tây nam dẫn lên chùa Tam Thai có 156 bậc hoặc tam cấp phía đông dẫn đến chùa Linh Ứng có 108 bậc. Hoặc đi bằng thang máy hiện đại, thả tầm mắt ngắm nhìn biển Đà Nẵng cũng như được bao quát toàn cảnh non nước Ngũ Hành Sơn.
Ngũ Hành Sơn không cao, nhưng sườn núi dốc đứng cheo leo, cây cỏ lơ thơ.
Đến với chùa non nước, thăm quan khám phá những ngọn Thổ Sơn, Hỏa Sơn,
Mộc Sơn, Thủy Sơn, Kim Sơn, rồi ghé thăm những hang động, những ngôi
chùa gắn liền cùng lịch sử nơi đây như chùa Từ Tâm, chùa Tam Tâm và Phổ
Đồng ra thăm Vọng Giang Đài. Đứng ở đây có thể nhìn thấy bao quát cả một
vùng đồng ruộng mênh mông của Đà Nẵng và các con sông Trường Giang, Cẩm
Lệ bao quanh.
Vòng ra sau lưng chùa Tam Thai theo một con đường đất sẽ gặp một cổng vôi cổ kính không biết xây từ bao giờ, trên có 3 chữ Hán “Huyền Không Quan”. Đây là cửa vào động Hỏa Nghiêm và động Huyền Không.
Trong động Huyền Không có đường dẫn sâu xuống lòng đất. Lần mò trong
bóng tối khoảng 10m trước mặt bỗng bừng lên một khoảng không gian rộng,
cao vòi vọi, ánh sáng mờ ảo, êm dịu. Động Huyền Không là hang lộ thiên
nằm gọn trong lòng núi. Núi hình tròn nên mái động cũng hình vòm, nền
bằng phẳng, không có măng đá và nhũ đá, trên vòm có 5 lỗ lớn nhỏ có thể
trông thấy bầu trời bên ngoài. Vách động có bọt đá tạo nên những hình
thù kỳ thú.
Từ sau chùa Tam Thai, đi về phía Đông sẽ gặp cụm hang động Trung Thai.
Cụm này có động Thiên Phước Địa, hang Vân Nguyệt và động Vân Thông. Động
Vân Thông nằm gọn trong lòng núi, hình tròn như đường ống chếch lên
phía ngọn núi. Trong động có một tấm bia cổ, khắc 3 chữ “Ngũ Uẩn Sơn”,
giữa động có một tượng Phật rất lớn.
Sau lưng là đường đi lên động, càng vào sâu càng hẹp và hướng lên đỉnh
núi, phải bám vào các tảng đá mới bò lên được, cuối động là miệng thông
ra ngoài to bằng cái nong (đường kính khoảng hơn 1m). Ánh sáng từ đỉnh
dọi vào trong động tạo ánh hào quang rực rỡ. Đứng trên đỉnh động có thể
bao quát cả một vùng đồng ruộng, sông biển, xóm làng.
Cụm chùa chiền hang động Hạ Thai gồm có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng,
động Tàng Chân, động Ngũ Cốc, động Âm Phủ, Giếng Tiên. Vọng Hải Đài là
điểm cao bên phải chùa Linh Ứng. Đứng ở đây du khách có thể phóng tầm
mắt ra một vùng trời, biển bao la với các hoạt động nhộn nhịp của ghe
thuyền trên biển. Ở đây cũng có một tấm bia bằng đá Trà Kiệu, kích thước
như ở Vọng Giang Đài, dựng vào năm Minh Mạng thứ 18 (1837).
Trở lại Linh Ứng tự ở phía đông Thủy Sơn, theo 108 bậc đá cẩm thạch để xuống núi. Nếu có thời gian thì có thể đi thăm các ngọn núi khác. Tuy nhiên, các ngọn núi sau này đều nhỏ, ngoại trừ hòn Hỏa Sơn cốc - một hang đá mang tên động Quan Thế Âm thì không có di tích nào đặc biệt.
Một điều đặc biệt khác bản thân Ngũ Hành Sơn mang lại là loại đá cẩm thạch có nhiều màu: sáng đục, trắng sữa, hồng phấn, xám vân đỏ, nâu đen, xanh đậm..., không cứng lắm và là chất liệu rất tốt cho tạc tượng và đồ mỹ nghệ trang trí. Chính vì vậy, các khu vực dân cư quanh Ngũ Hành Sơn hình thành các làng nghề mỹ nghệ khá đông đúc và xôm tụ. Rất nhiều hàng quán, cơ sở trưng bày đa dạng mặt hàng mỹ nghệ về đá dọc theo đường Huyền Trân Công Chúa đi vào Ngũ Hành Sơn. Và khi tạm biệt “Hòn non bộ khổng lồ” giữa lòng thành phố Đà Nẵng, mỗi du khách không quên mua cho mình một món quà mỹ nghệ đá làm kỉ niệm.
67. CHÙA CẦU NHẬT BẢN
Cầu Nhật Bản hay chùa Cầu là cái cẩu bắc ngang con lạch chảy ra sông Thu Bồn giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú, thị xã Hội An..Chùa Cầu - tên gọi chung cho tổ hợp kiến trúc gồm ngôi chùa nhỏ gắn kết vào sườn phía Bắc cây cầu cổ trong khu đô thị cổ Hội An (nay là thành phố Hội An), thuộc tỉnh Quảng Nam. Cùng với Cầu Ngói Phát Diệm (Ninh Bình), Cầu Ngói Thanh Toàn (Thừa Thiên-Huế), Chùa Cầu Hội An là một trong 3 cây cầu lợp ngói ở Việt Nam, được nhiều du khách biết đến.Chùa Cầu là công trình kiến trúc do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 17. Cây cầu còn có các tên khác là cầu Nhật Bản hay cầu Lai Viễn do chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An năm 1719 đặt tên, với hàm ý sẵn lòng đón đợi bạn phương xa đến.
Trình chống trụ đội
Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về Con Cù (mamazu) - một loại thuỷ quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản. Cứ mỗi lần Con Cù cựa quậy là gây ra lũ lụt, động đất... Chùa Cầu được coi như một thanh kiếm chằn ngang lưng Con Cù, "trấn yểm" loài thuỷ quái, giữ cho cuộc sống yên bình.
68. CHÙA VẠN ĐỨC
Chùa tọa lạc tại thôn 2B, phường Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. ĐT: 0510.861054. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Khởi thủy, chùa là một thảo am do Thiền sư Minh Lượng, hiệu Nguyệt Ân, tự Thành Đẳng, quê ở huyện Triều Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) khai sơn vào năm 1676. Tài liệu của chùa cho biết, năm 1690, chùa được mở rộng thành chùa Lang Thọ, người dân quen gọi là chùa Cây Cau. Thiền sư Phổ Triêm khi trùng tu chùa đã đổi tên là Vạn Đức. Khi viên tịch, Ngài ngồi an nhiên trên giàn hỏa, để lại ngón tay cái để làm tin cho đời, vào ngày 25 tháng Chạp năm Nhâm Thìn (1856), thọ 98 tuổi.
Toàn cảnh chùa
69. CHÙA CHÚC THÁNH (Hội An)
Chùa tọa lạc tại đường Hai Bà Trưng, phường Cẩm Phô, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. ĐT : 0510.950024. Mặt chùa hướng Tây Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo khai sáng vào khoảng cuối thế kỷ XVII.
Chánh điện bài trí tôn nghiêm. Ở đây có bộ Thập bát La hán bằng đất nung cao 0,70m, phần tượng cao 0,45m, ngang 0,28m rất đẹp. Chùa đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1845, 1849, 1892, 1894, 1934. Hòa thượng trụ trì Thích Trí Nhãn đã tổ chức trùng tu liên tục trong những thập niên gần đây. Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng ở Hội An, ngôi Tổ đình của chi phái Thiền Chúc Thánh ở miền Trung và miền Nam.
70. CHÙA LONG TUYỀN
Chùa tọa lạc tại khối 1, phường Thanh Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chùa tọa lạc tại khối 1, phường Thanh Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. ĐT: 0510.861491, 0510.922334. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Hòa thượng Phổ Thoại khai sơn vào năm 1909. TT. Thích Chơn Phát trong bài viết Chùa Long Tuyền (Báo Giác Ngộ ngày 07 – 8 – 1999) cho biết cảnh trí thiên nhiên của chùa rất đẹp. Khe Ồ Ồ phát nguyên từ hướng Tây Bắc, lượn khúc qua trước chùa, rồi chảy đến chùa Cầu, nhập vào sông Hội. Nước suối chảy mạnh và có hình dáng như một con rồng nên Hòa thượng khai sơn đã đặt tên cho chùa là Long Tuyền. Câu đối ở chùa đã nói lên ý nghĩa này :
Long mạch vững bền truyền chánh pháp
Tuyền lưu bao bọc lợi quần sanh
Tam Quan Chùa
Mặt tiền chùa
71. CHÙA PHƯỚC LÂM ( Quảng Ngãi)
Chùa Phước Lâm tại xóm Cây Thị, thôn Thuận Phước, xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.Tương truyền chùa có vào năm Tân Dậu (1861), Tự Đức thứ 14. Nguyên thủy tọa lạc trên đất Cửa Chùa, xóm Cây Thị, do một Thiền sư Lâm Tế khai sơn, không rõ đích danh, không còn dấu tích nào để lại. Có lẽ chùa trong quá khứ đã hoàn toàn hư hoại theo biến động thời gian. Chỉ còn trong tâm tưởng cái tên chùa Phước Lâm và ngày giỗ chính 18 tháng 5 âm lịch, lấy đó làm ngày hiệp kỵ.
- Đến năm Kỷ Hợi (1959) chùa được tái lập, nhưng không tái lập trên đất Cửa Chùa nguyên thủy, mà xây dựng trên đất Cửa Đình, cùng một xóm Cây Thị, nay vẫn còn giữ nền tảng Dinh thần di tích. Bổn đạo cử ông Nguyễn Quang Cư làm Khuôn trưởng Phật giáo điều hành sinh hoạt.
Chùa Thiên Ấn tọa lạc trên núi Thiên Ấn, thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Chùa nằm phía Bắc sông Trà Khúc, cách thị xã Quảng Ngãi khoảng 3 km. Chùa Thiên Ấn được khởi công xây dựng vào năm 1694 và hoàn thành vào cuối năm 1695 ( năm Chính Hòa thứ 15 ), đời Lê Huy Tông ( chúa Nguyễn Phúc Chu đàng trong ). Tổ khai sơn chùa là Thiền sư Pháp Hóa ( 1670 - 1754 ), tục danh Lê Diệt, hiệu Minh Hải Phật Bảo, gốc người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, trụ trì tại tổ đình 41 năm, viên tịch giờ ngọ ngày 17 tháng 01 năm Giáp Tuất, thọ 84 tuổi, thuộc dòng thiên Lâm Tế. Lúc đầu chùa chỉ là một thảo am tĩnh mịch, sau được dần trùng tu mở rộng thu hút được nhiều tăng ni Phật tử và trở nên nổi tiếng.
Năm Vĩnh Thịnh thứ 11 ( 1717, đời vua Lê Dụ Tông ), chúa Nguyễn Phúc Chu, là một một người rất sùng đạo Phật, đã ban cho nhà chùa biển ngạch Sắc Tứ Thiên Ấn Tự. Tấm biển này sau đó bị hư hại và được thiền sư Hoàng Phúc tái tạo vào năm 1946.
Thiên Ấn tự được khai sơn từ năm 1716 đến nay. Từ năm 1695 đến nay ( 1995 ), trải qua 300 năm chùa đã có 15 đời sư trụ trì, trong đó có 6 vị được suy tôn là sư tổ, gọi chung là lục tổ. Chùa cũng trải qua 5 lần trùng tu vào các năm 1717, 1827[1], 1910[2], 1918[3], 1959[4]. Hòa thượng Thích Huyền Đạt, vị sư trụ trì gần nhất cũng đã viên tịch ngày 1 tháng 12 năm Quý Dậu ( 1 - 1994 ) thọ hơn 80 tuổi.
So với các ngôi chùa cổ trong nam ngoài bắc, kể cả chùa Ông Thu Xà, chùa không nổi bật lắm về kiến trúc nội thất, trừ nhà phương trượng được xây dựng theo kiến trúc nhà rường, vốn là bộ khung mua lại của đình làng Phú Nhơn ( đình làng này nằm trong thành Phú Nhơn - thành Quảng Ngãi đầu tiên được các chúa Nguyễn xây dựng tại làng Phú Nhơn nay là thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh về sau vua Gia Long đã dời về làng Chánh Mông nay thuộc địa phận thành phố Quảng Ngãi ). Bù lại, chùa được xây dựng ở một vị trí có một không hai, đó là đỉnh đồi Thiên Ấn, một thế đất thiêng trong tâm tưởng người dân Quảng Ngãi.
73. NGUYÊN THIỀU ( Bình Định )
Chùa mang tên Thiền sư Nguyên Thiều (1648-1728) là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Ông là vị Tổ truyền phái Lâm Tế vào Miền Trung Việt Nam đầu tiên, và đã đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong[1].
Thích ca Phật đài
Rồng đá ở bậc lên xuống Thích ca Phật đài
74. CHÙA THẬP THÁP DI ĐÀ (Bình Định)
Đến 1680, chùa chính thức mới được xây dựng bề thế, với tên gọi lúc bấy giờ là Di-Đà-Tự. Chất liệu xây chùa tương truyền dùng gạch của 10 ngọn tháp đổ của người Chăm nằm ở phía sau đồi Long Bích. Hiện nay quanh chùa còn thấy dấu vết các nền tháp, và rải rác còn có một số mảnh đá trang trí.
Phía sau chùa hiện còn có 4 giếng vuông xây bằng đá ong. Kiến trúc chùa
Thập Tháp Di Đà theo hình chữ khẩu, được chia thành 4 khu vực: chánh
điện, phương trượng, tây đường và đông đường. Các khu này nối liền với
nhau bằng một khoảng sân bên trong, còn gọi là sân Thiên Tỉnh (giếng
trời) có tác dụng điều chỉnh sánh sáng cho 4 khu kiến trúc trên.
Trong 4 khu kiến trúc, Chánh điện là khu được kiến trúc bề thế nhất, gồm
5 gian bằng gỗ, bên trong là bộ khung có 4 hàng cột cái, 4 hàng cột
quân, 8 cột con và 16 cột hiên. Bộ sườn kết cấu theo kiểu kẻ chuyền, ở
đầu đỡ thượng lương là trụ lỏng (chày cối) thô, trang trí họa tiết hoa
sen, xếp sách… Những đoạn trích cấu tạo kiểu giá chiêng, hai đầu chạm
hoa cuộn; ở những điểm như đầu kèo, vật kê đều được chạm hình rồng cách
điệu, nét trơn uốn lượn trang nhã…
Trong lòng chánh điện được bài trí các khám thờ; khám chính chiều cao 5m, bên trên được chạm lưỡng long tranh châu, hai bên trang trí kiểu long phụng cách điệu mây là, giữa đề chữ Phúc, phía dưới khám là đề tài bút sách, tất cả đều được sơn son thếp vàng. Hai khám thờ trái và phải của khám chính, cũng được bố cục như vậy, mô típ chạm khắc cầu kỳ hơn được chạm lộng hai lớp, hình rồng cuộn xoáy phức tạp, mang dáng dấp của mỹ thuật thời Lê.
Ngoài ra còn có 3 khám thờ khác nhưng bố cục 3 khám này khá đơn giản
không có gì đặc biệt. Mặt trước hành lang là bộ cửa bàn pha, được ghép
liền với nhau tất cả 14 cánh, trên tạo song tiện, dưới lấp kín chữ Phúc
và hoa văn kỹ hà. Bên trên ngưỡng là dải ô sen chạy theo rui cửa chạm
bài lệ của Tổ sư Đạo Nguyên có tất cả 24 chữ, các đầu kèo đưa ra đoạn
này trang trí nhẹ nhàng bằng những hoa văn hình rồng, nét thanh thoát
uyển chuyển.
Bên ngoài hai đầu hồi xây gạch, hệ thống cửa cấu tạo đơn giản. Chánh điện lợp ngói âm dương, mái thẳng, các góc không cong, bờ nóc chạy thẳng, nay được tạo hình lưỡng long tranh châu. Kế tiếp sau chánh điện là khu Phương Trượng, được kiến trúc theo kiểu nam Trung Quốc, được cải tạo và nâng cấp vào năm 1973, mái ngói âm dương, bên trong kết cấu bộ sườn gỗ và dạng khám thờ được lắp ráp, chạm trổ khá đẹp. Khu vực tây đường và đông đường cũng được kiến trúc giống như phương trượng. Ngoài 4 khu vực trên phía tây còn có một nhà chánh thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Công, Thập Điện….
Hình thái kiến trúc chùa Thập Tháp hiện nay là kết quả của nhiều lần trùng tu, gần đây nhất là vào năm 1997, chùa được nâng cao lên so với mặt bằng cũ 0,60m nhưng khuôn viên kiến trúc vẫn giữ được nguyên như cũ. Tuy được kết hợp hòa quyện giữa cái cũ và cái mới, nhìn chung hệ thống liên kết của chùa Thập Tháp vẫn tuân thủ theo nguyên tắc truyền thống của kiến trúc Việt Nam - hoàn toàn dùng mộng, không dùng đinh hoặc lạt buộc.
Ngoài giá trị về kiến trúc, ở đây còn có nhiều tác phẩm điêu khắc, hiện
vật có giá trị về nhiều mặt còn được lưu giữ cho đến ngày hôm nay. Mặc
dù kiến trúc mới được làm lại gần đây, nhưng những gì còn lại ở nơi đây,
đã đưa Thập Tháp lên hàng đầu trong các ngôi chùa có kiến trúc, điêu
khắc đẹp nhất ở vùng Bình Định.
Chùa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch và câu đối vào năm 1691.
75. CHÙA LINH PHONG (Bình Định)
Trên sườn phía Đông Nam núi Bà, cách thành Trà Bàn (Đồ Bàn) hơn 30 dặm; nay thuộc địa phận thôn Phương Phi (xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định), trước đây có một ngôi chùa cổ có tên là Linh Phong Thiền Tự.
Đây là một danh lam thắng cảnh của tỉnh, sách Đại Nam nhất thống chí chép:
Năm Quí Sửu (1733), chúa Nguyễn Phúc Chú vì mộ đức nhà sư nên ban hiệu là Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư, và lệnh xây cất lại Dũng Tuyền tự thành một ngôi chùa lớn lợp ngói, đặt tên là Linh Phong Thiền Tự.
Theo "Linh Phong tự ký" của danh thần Đào Tấn, thì thiền sư viên tịch "trong thời loạn lạc" (ám chỉ thời Tây Sơn). Sau đó, các đồ chúng lập tháp thờ ở bên phải chùa vào năm Thái Đức (niên hiệu của Nguyễn Nhạc) thứ 8 (1785).
76. CHÙA SẮC TỨ HỘI PHƯỚC- Nha Trang
Chùa Hội Phước được truyền thừa qua các đời tổ sư trụ trì như sau: Tế Điền(1716-1741),Đại Thông(1741-1810),Đạo An(1810-1841),Tánh Minh(1841-1853),Như Huệ (1895-1905),Thanh Minh (1905-1914), Chơn Hương (1915-1917). Thanh Chánh - Phước Tường (1917-1920), Thị Thọ (1920-1929), An Ngân (1929-1949), Đồng Kỉnh (1949-1978). Trụ trì hiện nay là Hòa thượng Thích Quảng Thiện-Người có công lớn trong việc trùng tu đại quy mô qua thời gian hơn 30 năm kể từ năm khởi công 1994.
Hiện nay, chùa Hội Phước được xếp vào Di Tích Lịch sử văn hóa là một
trong những danh lam có một chiều dài lịch sử trên 300 năm truyền
thừa.Chùa hiện còn lưu giữ nhiều tượng Phật và Chuông cổ từ thời Hậu Lê
và Minh Mạng.
77. CHÙA HẢI ĐỨC- Nha Trang
Địa chỉ: Số 51 đường Hải Đức, Tp. Nha Trang. Tỉnh Khánh Hòa.
Trụ trì hiện nay là: Thượng tọa Thích Minh Châu
81.CHÙA DIỆU QUANG- Nha Trang
Ni viện Diệu Quang tọa lạc ở số 38B đường Lê Hồng Phong, phường Phước Hải, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. ĐT: 058.871735. Khu đất này do Hòa thượng Thích Tương Ưng hiến cúng cho Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa vào năm 1960 để xây dựng cơ sở đào tạo ni tài. Ni viện thuộc hệ phái Bắc tông.
Tam quan chùa
Phật học ni viện Nha Trang được thành lập vào năm 1961 dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Thích Trí Thủ, Giám viện Viện Phật học Trung phần tại Nha Trang. Sau đó, Ni viện lấy tên của Ni cô Thích Nữ Diệu Quang, người đã vị pháp thiêu thân tại Khánh Hòa năm 1963. Ban Quản trị đầu tiên của Ni viện do Sư cụ Thích Nữ Đàm Hương làm Giám viện, và hiện nay, Ni trưởng Thích Nữ Viên Minh kế tục.
Cổng chùa
Ni viện là cơ sở 2 của Trường cơ bản Phật học tỉnh Khánh Hòa, là trung tâm sinh hoạt Phật sự của Ni giới Khánh Hòa. Địa điểm Ni viện rất thuận tiện cho việc tu học và hoằng pháp. Ở giữa thành phố, Ni viện vẫn giữ được sự trang nghiêm, thanh tịnh của chốn già lam.
82 . THIỀN VIỆN TRÚC LÂM - Đà Lạt
Ngoài việc chiêm bái và tham quan các công trình, kiến trúc, các bức tích đầy ý nghĩa của nhà Phật. Tại đây, du khách còn có dịp chiêm ngưỡng hàng trăm loại hoa khác nhau, đặc biệt là những loại hoa lạ như hoa hồng sa mạc…. Ngoài ra, du khách còn có thu vào tầm mắt toàn cảnh hồ Tuyền Lâm thơ mộng ẩn sâu những triền thông bạt ngàn, những con đường nhỏ uốn lượn.
83. CHÙA LINH SƠN (Đà Lạt)
Chùa được dựng vào năm 1938, đã trải qua các đời trụ trì là Hòa thượng Thích Trí Thủ, Hòa thượng Thích Diệu Hoằng, Hòa thượng Thích Từ Mãn, Hòa thượng Thích Bích Nguyên và từ năm 1964 đến nay là Hòa thượng Thích Từ Mãn.. Chùa tọa lạc số 120 đường Nguyễn Văn Trỗi, phường 2, thành phố Đà Lạt, cách Hòa Bình hơn 700m về hướng Tây Bắc.
Chùa được xây dựng trên một ngọn đồi rộng khoảng 4 ha trồng các loại hoa, trà, cà phê, thông... nên vừa trang nghiêm, cổ kính vừa thanh binh, dễ chịu. Chùa được thiết kế theo phong cách Á Đông với hai mái xuôi, với trên đỉnh mái có đắp đôi rồng uốn lượn theo thế "lưỡng long triều nhật".
Rồng ở chùa Linh Quang
85. CHÙA LINH PHƯỚC - Đà Lạt
Chùa Linh Phước hay còn gọi là chùa Ve Chai. Chùa do một số tăng ni, phật tử từ Thừa Thiên - Huế đến xây dựng từ năm 1949, nhưng chỉ sau khi trùng tu và làm cổng tam quan từ ngoài đường để mọi người dễ nhìn vào năm 1990 mới được nhiều người biết đến.
Gọi là chùa ve chai vì ở đây có con rồng dài 49m, vây được đắp bằng các mảnh vỡ của 50 nghìn vỏ chai. Đến với Linh Phước tự, ngoài việc dâng hương lễ Phật, du khách còn được thưởng ngoạn những kiến trúc được xây dựng công phu.
Trước hết phải kể đến chánh điện và Tiền đàn bảo tháp, một công trình kiến trúc đồ sộ và độc đáo như: chánh điện dài 33m, rộng 22m; Tiền đàn bảo tháp cao 27m được chạm trổ hình rồng. Lầu 1 có gian thờ 108 tượng "Thiên thủ thiên nhãn". Trong nội điện, tượng Phật Thích Ca cao 4,9 m kể cả tòa sen, phía trước được làm bằng bê-tông cốt thép, bên ngoài thiếp vàng, phía trước là bức Cửu long môn uốn mình chầu Phật.
Ở Linh Phước tự hình tượng con rồng gần như bao quát toàn bộ kiến trúc của ngôi chùa, được chạm khắc, bài trí rất công phu trên các hàng cột, trên mái chùa cong…
Hòa thượng Thích Viên Định lên tiếng về việc Cộng sản bắt trái phép LS Cù Huy Hà Vũ
Không chỉ ngăn chặn những người trẻ tham dự cuộc picnic dã ngoại bàn về nhân quyền, hàng chục tên Công an đã kéo đến phong tỏa chùa Giác Hoa, ngăn cấm tất cả chư Tăng không được rời khỏi chùa hôm chủ nhật vừa qua 5-5-2013. Theo bản Tường thuật của Thượng tọa Thích Viên Hỷ cho biết thì một số chư Tăng phải rời chùa Giác Hoa tham gia Phật sự đều bị Công an ngăn cản, lệnh phải quay vào chùa không cho đi. Đặc biệt vào lúc 8 giờ sáng chủ nhật khi Hòa thượng Thích Viên Định, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, dự tính lên Thanh Minh Thiền Viện để vấn an Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Hoà thượng Thích Quảng Độ đến chùa Giác Hoa dự lễ
Từ năm 1744 đến năm 1774, chưa rõ có vị tăng sĩ nào đến trụ trì chùa hay không, vì thiếu tài liệu [4]. Chỉ biết vào năm 1774, Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc (trụ trì chùa Từ Ân) đã cử đệ tử của mình là Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang (gọi tắt là Viên Quang) về trụ trì chùa, đồng thời đổi tên chùa thành Giác Lâm.
Dưới thời thiền sư Viên Quang, chùa Giác Lâm trở thành một trung tâm đào tạo về kinh điển, giới luật đầu tiên cho chư tăng ở Gia Định và cả Nam Bộ. Đến năm 1873, dưới sự trụ trì của Thiền sư Minh Khiêm, chùa còn là nơi in ấn, sao chép kinh sách, khắc bản gỗ kinh, luật và diễn Nôm một số sách Phật giáo[5].
Danh sĩ Trịnh Hoài Đức trong quyển Gia Định thành thông chí đã miêu tả cảnh chùa lúc bấy giờ như sau: "Chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!"...
Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ nên được đặt tên là chùa Xá Lợi. Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường.Chùa nổi tiếng là nơi có tháp chuông cao nhất Việt Nam gồm 7 tầng, cao 32m, khánh thành vào năm 1961.
Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, P. 7, Q. 3,Saigon
90. CHÙA ẤN QUANG- Saigon
Tổ đình Ấn Quang được xây dựng cách nay không lâu, nhưng lại giữ một vị trí rất đặc biệt trong lịch sử Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nơi đây đã từng chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong những bước thăng trầm và phát triển của đạo Phật ở miền Nam.Tổ đình Ấn Quang được xây dựng trên 50 năm qua do công hạnh của cố Hoà thượng Thích Thiện Hòa, một vị Hòa thượng đức hạnh khiêm cung, trọn đời hiến thân cho Đạo pháp với mật hạnh: Kiến tạo xây dựng chùa, tháp, tiếp dẫn chúng sanh. Tổ đình Ấn Quang là cái nôi đào tạo nhiều danh tăng thạc đức qua từng thời kỳ, đóng góp nhiều trí tuệ cho việc hoằng truyền Chánh pháp, xây dựng ngôi nhà Phật giáo Việt Nam vững mạnh ở thế kỷ XX và XXI.
Trong giai đoạn 1960-1964, chùa Ấn Quang đã tranh đấu chống chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Pghật giáo.Vào ngày 07-3-2006, chùa đã tổ chức lễ khởi công xây dựng Tổ đường và nhà Tăng với sự chứng minh của chư tôn đức giáo phẩm : HT. Thích Từ Nhơn, HT. Thích Quảng Liên, HT. Thích Hiển Pháp, HT. Thích Trí Quảng ...
Tam quan chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa được khởi công năm 1964 tại khu đất thấp nằm bên rạch Thị Nghè, và người ta phải chuyển khoảng 40.000 m³ đất từ xa lộ Hà Nội về san lấp mặt bằng. Kinh phí xây dựng chùa khoảng 98 triệu đồng tiền lúc bấy giờ, hoàn toàn do các Phật tử đóng góp. Năm 1971, chùa Vĩnh Nghiêm cơ bản hoàn thành với các hạng mục, gồm tòa nhà trung tâm (tầng trên có ngôi Phật điện), Bảo tháp Quán Thế Âm, cơ sở dành cho hoạt động xã hội. Về sau, chùa lần lượt xây thêm các công trình khác, như Bảo tháp Xá Lợi Cộng Đồng, Tháp đá Vĩnh Nghiêm, Phương trượng đường, khách đường, v.v...
Tháp đá chùa Vĩnh Nghiêm được ghi nhận là tháp đá cao nhất và công phu nhất Việt Nam.
Chùa Quảng Hương Già Lam Thành Phố Hồ Chí Minh
Tam quan chùa
Hòa thượng Thích Thiện Hoa đã đến giảng dạy ở đây từ năm 1953. Năm 1957, Hòa thượng mở những khóa huấn luyện trụ trì khắp lục tỉnh lấy tên là “Như Lai Sứ Giả” tại hai chùa Pháp Hội và Dược Sư. Chùa còn mở thường xuyên các lớp giáo lý Phật học phổ thông cho Phật tử.
Tượng Đức Phật Dược Sư
Năm 1968, học viện Dược Sư trực thuộc Tổng vụ Giáo dục do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Vụ trưởng và mở các lớp học về Phật pháp cho chư ni và Phật tử.
Chánh điện thờ Phật theo dạng tam cấp. Tầng cao nhất thờ Xá lợi Phật (do ngài Narada ở Tích Lan dâng cúng vào năm 1953), các tầng dưới thờ đức Phật Thích Ca thuyết pháp, đức Phật tọa thiền và đức Phật nhập níp bàn. Phía dưới có bộ bàn thờ sơn son thếp vàng do quân đội Hoàng gia Thái Lan hiến tặng, tôn trí những pho tượng Phật loại nhỏ và chưng bông hoa. Bức tường phía sau vẽ nhiều ngọn tháp ẩn trong mây thật đẹp.
Phía sau chánh điện là trai đường, tầng trên là tăng xá. Trước tăng xá là một phòng họp nhỏ của chư tăng, ở đây có một tủ thờ rất nhiều tượng Phật trên thế giới do Hòa thượng Bửu Chơn hiến tặng sau mỗi lần dự hội nghị Phật giáo ở các nước.
Một góc chùa Nam Thiên Nhất Trụ
Phía sau Nam Thiên Nhất Trụ là chánh điện được bài trí tôn nghiêm với kết cấu ba gian, gian giữa thờ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, hai gian bên thờ Đức Quán Thế Âm Bồ-tát và Đức Địa Tạng Bồ-tát.
Cây Bồ-đề có nguồn gốc từ Ấn Độ, được trồng từ năm 1963
Chánh điện chùa Nam Thiên Nhất Trụ
Tôn tượng Đức Phật A Di Đà từ bi
Chùa thuộc hệ phái Phật giáo nguyên thủy (Nam Tông) do cư sĩ Võ Hà Thuật thành lập năm 1942, đến năm 1958, ông dâng cúng cho thiền sư Hộ Tông, vị tăng thống đầu tiên của Phật giáo nguyên thủy Việt Nam, lập thành thiền viện Bửu Long và ông xuất gia với pháp danh Lão Tâm.
Lối đi trong chùa
Đặc biệt, chùa Bửu Long có bảo tháp Gotama Cetiya thờ xá lợi Đức Phật và Chư Thánh Tăng, rộng trên 2.000 mét vuông, cao 70m, một kiến trúc vừa hoành tráng hiện đại vừa biểu hiện nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á.
Chính điện ngày nay được trùng tu từ di tích cũ nơi tổ sư và Đại Đức Lão Tâm để lại, chủ yếu là tôn tạo cho khang trang và tiện nghi hơn nhưng vẫn giữ lại hình dáng như cũ, chỉ thêm phần tiền đường và một vài chi tiết phối hợp giữa kiến trúc Phật giáo Đông Nam Á với kiến trúc triều đại nhà Nguyễn.
Tọa lạc trên một ngọn đồi nên không khí nơi đây mát mẻ quanh năm, kết hợp với khuôn viên rộng rãi, cây xanh phủ bóng làm cho du khách cảm thấy tâm hồn thanh tịnh dịu dàng khi bước chân đến nơi này. Ngước mắt lên bầu trời xanh, ngắm nhìn tòa bảo tháp uy nghiêm lộng lẫy, văng vẳng bên tay là tiếng chuông gió phát ra từ trên đỉnh bảo tháp, một không gian lý tưởng để bạn gột rửa tâm hồn, tìm về chốn bình yên sau bao bộn bề của cuộc sống.
98. CHÙA VẠN ĐỨC- Thủ Đức
Khuôn viên chùa khá rộng, có nhiều tháp cổ. Tam quan chùa và đài Quan Âm ở sân trước chùa được xây vào năm 1990. Chánh điện được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí). Bàn thờ kế tiếp thờ Thích Ca Tam Tôn (đức Phật Thích Ca, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền). Trước có tượng Thích Ca Đản sanh và bảy vị Phật Dược Sư. Bàn thờ hai bên thờ Bồ tát Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn và Bồ tát Di Lặc. Sau điện Phật, có bàn thờ linh vị chư Tổ và bàn thờ bà Nguyễn Thị Hiên cùng chư vị Phật tử quá cố.
F. CÁC CHÙA Ở CÁC TỈNH MIỀN NAM
Trải qua bao thế kỷ, ngôi chùa được khang trang như hiện nay đã phải qua ba lần trùng tu. Lần thứ nhất vào năm 1748, đời tổ Phật chiếu dòng Lâm tế thứ 35 xây dựng thêm chánh điện bằng gỗ ba gian, hai chái, có thêm nhà Tổ làm bằng vách ván. Gần một thế kỷ sau, vào năm 1842, đời tổ Tiên Đức dòng Lâm tế thứ 37 trùng tu chùa lần thứ hai. Lần này, Tổ đường được tu bổ lại, cất thêm khách đường và nhà trù (nhà bếp), tường xây gạch, nền lót gạch tàu, nóc vẫn lợp ngói âm dương. Diện mạo chùa khang trang, nghiêm kính được đông đảo Phật tử gần xa đến chiêm bái.
Hơn một trăm năm sau, chùa được trùng tu lần thứ ba do hòa thượng Thích Huệ Thành dòng Lâm tế thứ 40 chủ trì. Nguyên do trùng tu lần này là chùa bị ảnh hưởng nặng nề bởi trận bão lụt năm 1952 (Nhâm Thìn) . Năm ấy, hơn một tuần lễ, thành phố Biên Hòa chìm trong biển nước mênh mông, chùa Long Thiền chỉ còn cái nóc nhô trên mặt nước và có nguy cơ sụp đổ.
Lần trùng tu thứ ba đã đem lại cho ngôi chùa diện mạo mới. Giảng đường, khách đường, tăng đường được xây, mở rộng thêm. Mái lợp ngói tây, riêng nhà trù lợp tôn xi măng. Tường được xây dựng lại hoàn toàn bằng gạch thẻ với chất liệu mới vững chắc. Nền lót gạch tàu và gạch bông, giảng đường có thêm gác lửng. Chánh điện được tôn cao thêm 1 mét, với hành lang, sảnh mở rộng thêm ra hai bên.
Vườn tháp
Truyền thuyết kể lại rằng cách đây hơn một trăm năm có đoàn ghe chài lưới từ miền trung vào đánh cá ở Bãi Trước. Trong khi kiếm củi ở Núi Lớn tình cờ họ phát hiện hai pho tượng Phật bằng đá vùi dưới đất trên sườn núi gần Bãi Dâu. Họ cùng đào lên rồi cùng chờ đến hôm sau xin mang về.
Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1969 và khánh thành vào năm 1974 bằng tiền quyên góp của đồng bào phật tử. Thượng Tọa Thích Thiện Huệ đại diện đứng ra lo toan việc xây dựng. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại.
Ở phía trước chùa là một cột cờ cao 21m, được chia làm thành 42 bậc biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ II. Cổng chùa có 04 chữ "Niết Bàn Tịnh Xá" tức là nơi thanh cao nhất của đạo Phật.
Tượng Phật nằm ở Niết Bàn tịnh xá
Hai bên cổng chùa là 02 pho tượng "Thần Thiện" và "Thần Ác".
Khu điện thờ chính của chùa đựoc bày trí thành một vườn hoa Sa La theo cảnh Đức Phật nhập Niết Bàn. Nổi bật trong khu chánh điện này là bức tượng "Phật Nằm", dài 12m tượng trưng cho"Thập nhị nhân duyên" và được đặt lên bộ thờ 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có đắp hình tượng các đồ đệ của Phật Thịch Ca đang chứng kiến lúc Ngài nhập điện.
Hậu điện dùng
làm nơi thờ Phật Thích Ca và các vị tổ có công truyền bá Đạo Phật. Sau
tượng Phật Thích Ca có treo một bức tranh vẽ hình " Đạt Ma Sư tổ " là vị
cao tăng truyền bá giáo lý nhà Phật. Pho tượng nghìn mắt, nghìn tay
biệu tượng thần thông phi thường của nhà Phật
Tầng
hai có chiếc thuyền rồng còn gọi là Thuyền Bát Nhã, dài 12m. Đó là
con thuyền Bát Nhã sẽ cứu vớt mọi người ra khỏi khổ ải rồi đưa đến chốn
vĩnh cửu bất diệt.
Phía sau thuyền Bát Nhã là điện thờ Phật Quan Âm Bồ Tát. Tượng Phật được thể hiện theo hình dáng một phụ nữ hiền hòa đức độ, tay đổ bình nước cam lộ xuống để chữa bệnh cho dân chúng và làm cho cõi trần thêm sạch.
105. CHÙA THÍCH CA PHẬT ĐÀI -Vũng Tàu
Thích Ca Phật Đài là khu di tích kiến trúc Phật giáo của phái Nam tông, nằm trên triền núi Lớn, thuộc thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Men theo con đường Trần Phú, đi qua Bến Đá, Bến Đình, du khách sẽ trải qua nhiều cảm xúc khác nhau với cảnh quan tuyệt đẹp của nơi đây: ba phía là biển, thuyền tàu đầy bến, ban đêm rực ánh đèn.
Chùa tọa lạc trong khuôn viên rộng khoảng 5ha, bao gồm hai khu vực: phía dưới là Thiền Lâm tự, phía trên là Thích Ca Phật Đài.Ngay dưới chân núi Lớn, sát đường đi du khách sẽ thấy một cổng tam quan to lớn với 4 trụ cột vươn lên vững chắc, thanh thoát. Trên cổng có biểu tượng pháp luân, tức bánh xe luân hồi trong pháp lý nhà Phật. Tám chiếc căm xe tượng trưng Trung đạo. Vòng ngoài có bốn núm tiêu biểu cho Tứ Diệu Đế. Trên bốn cột của tam quan là bốn búp sen biểu tượng cho sự trong sạch, tinh khiết, thanh cao của Nhà Phật.
Qua cổng tam quan, men theo từng bậc đá quanh co trên sườn núi, du khách có thể vừa đi vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp hai bên. Một bên vách núi nhẵn nhụi như tường thành, một bên là lũng sâu soải dài ra phía biển. Gần đến đỉnh là một khu rừng thưa ríu rít tiếng chim trong các tán cây.
Cảnh tượng đầu tiên mà du khách nhìn thấy là toà Bảo tháp. Đây là nơi ghi nhớ và tưởng niệm người đã có công khai sơn tạo tự: nhà sư Giác Pháp tức quan phủ Lê Quang Vinh. Tiếp theo là khu Vườn tượng, ở độ cao 25m. Đây là khu vực của những công trình điêu khắc được xây dựng dựa theo những sự tích cuộc đời Đức Phật Thích Ca, từ khi Người ra đời đến khi nhập cõi Niết Bàn.
106. CHÙA PHƯỚC HẢI- Vũng Tàu
Chùa tọa lạc tại số 65 Nguyễn Bảo (số cũ : 54/7 đường Tự Do), phường 6, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. ĐT: 064.562323.
Theo tài liệu của Bảo tàng Bà Rịa – Vũng tàu, chùa được dựng vào năm 1886. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, kiến trúc dạng tứ trụ của chùa cổ miền Nam.
Năm 1956, chùa được đại trùng tu, mặt tiền xây lầu. Năm 1993, chùa tiếp tục trùng tu, tạo cảnh quan thoáng đãng.
Qua tam quan, ở ngay sân sau chùa có đài Quan Âm. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Hai pho tượng lớn được tôn trí ở trung tâm là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo và tượng đức Phật nhập niết bàn. Chùa còn giữ pho tượng cổ Visnu (thế kỷ thứ VII).
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1992.
107. CHÙA ĐẠI TÒNG LÂM- Vũng Tàu
Là một trong những ngôi chùa rộng, đẹp với cảnh quan thiên nhiên tươi xanh bốn mùa, chùa Đại Tòng Lâm tọa lạc ở xã Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nằm bên trái Quốc lộ 51 hướng đi Vũng Tàu, cách Saigon 70km.
Chùa do hòa thượng Thích Thiện Hoa và hòa thượng Thích Thiện Hòa khai sơn vào năm 1958, sau đó được trùng tu lại vào năm 1982, cổng tam quan vững chãi xây bằng đá vào năm 1974. Với khuôn viên sân chùa rộng đến gần 100ha, du khách ngay khi vừa bước qua cổng chùa sẽ được chiêm ngưỡng, thưởng thức một không gian xanh mát, hai bên lối đi trồng rất nhiều loại cây thẳng tắp, chánh điện được đặt ở phía đối diện vườn hoa mai, phía trước là tượng Quan âm bồ tát thanh thoát. Ngay bên cạnh chánh điện còn có tượng Phật nằm với chiều dài gần 2,5m, cao chín tấc. Nối dài ra khoảng đất trống phía sau chùa, cảnh quan thiên nhiên lại càng xinh đẹp, yên ả hơn nữa. Vòng ra bên trái chánh điện là con đường trải sỏi dẫn tới một không gian bát ngát cây cỏ. Ngay giữa khoảng đất rộng phía trước hồ nước bên trong chùa là bức tượng đứng Quan âm Nam Hải cao 17m. Đứng ở đây, khách vãn cảnh nghe gió lộng mênh mông, tiếng chim hót ríu rít trên những cành cây và còn có thể ngắm cảnh trời xanh ngắt một màu.
108. THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU -Vũng Tàu
Thiền Viện Thường Chiếu rộng hơn 50 hecta nhưng bây giờ còn hơn 20 hecta vì phân chia ra nhiều Thiền Viện và một số thất riêng của qúy Thầy Cô và Hòa Thượng Thích Nhật Quang quản lý chung tất cả các Thiền Viện trong khuôn viên Thường Chiếu. Thiền Viện Thường Chiếu có mười ban ngành với tổng số lượng hơn 200 vị Tăng và hơn 70 chú tiểu độ tuổi từ 6-16, ngoài ra có một Hoa Viên hơn 70 vị Ni dành riêng cho các cô các bà từ độ tuổi ngoài 40 - 60 muốn đi xuất gia khi tuổi về già.
Trụ trì: HT Thích Nhật Quang.
Địa chỉ: ấp 1C, huyện Long Thành, tỉnh Ðồng Nai
Ðiện thoại: 061.3542.631, 061.3841.
Chùa Phước Lâm tọa lạc tại số 65, đường Nguyễn Bảo, Phường 6, thành phố Vũng Tàu là một trong số ít những ngôi chùa cổ của tỉnh Bà Rịa – Vũng TàuChùa Phước Lâm được xây dựng ở chân núi lớn (núi Tương Kỳ) lúc đó có tên Phước Sơn Tự Vào khoảng năm 1944, thực dân Pháp lấy khu vực ở gần chùa làm trường bắn cho Trường thiếu sinh quân, nên chùa được dời xuống vị trí hiện nay. Từ ngày chuyển vị trí, chùa đã qua 4 đợt trùng tu vào các năm 1944, 1956, 1965 và 1993. Chùa Phước Lâm Tự có diện tích trên 6.000m2, Tổng thể chùa gồm 04 khu chính: Tam quan, chùa Phước Lâm, Tượng Phật Bà Quan Âm, nhà ở của tăng ni và khu vực vườn tháp. được xây dựng theo phong cách kiến trúc Ấn Độ.
Ngôi chánh điện Phước Lâm Tự rộng 500m2, được bài trí các bàn thờ: Thờ 03 pho tượng Tam Thế, tượng Thích Ca Mâu Ni tọa thiền trên tòa sen, hai bên có Anan và Ca Diếp; tượng Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và Thích Ca sơ sinh. Phía trước chánh điện thờ tượng Quan Âm Chuẩn Đề 12 tay, Phật bà Quan Âm, Tượng Quan Âm Bồ Tát ngồi trên đài sen. Bên trái tòa chánh điện thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, hai bên có ông Khuyến Thiện và Trừng Ác. Bên Phải tòa chánh điện thờ tượng thần Vishnu bằng đá có 04 tay, tượng cân đối, tạc khá công phu, kỹ lưỡng sơn màu son.Nguồn gốc pho tượng này là do người dân khóm Bỉnh Sơn, thuộc phường Thắng Nhì phát hiện trong lúc đào giếng. Niên đại của pho tượng bước đầu được các nhà bảo tàng học BR-VT được xác định vào khoảng thế kỷ VII-VIII.
109.CHÙA GIÁC NGẠN -Tây Ninh
Vào năm 1925, hoà thượng Thích Từ Phong (tên huý là Như Nhãn), đệ tử của hoà thượng Thích Trí Lượng cùng các tín đồ Phật giáo đã xây dựng ngôi chùa lại kiên cố trên một khuôn viên rộng 20.000m2 (ngày nay diện tích này đã bị thu hẹp lại).
Chùa do Hòa thượng Thích Từ Phong sáng lập, được khánh thành vào năm 1925. Chùa nằm trên một gò đất mang tên gò Kén, cạnh quốc lộ 22, cách thị xã Tây Ninh 5km, nên thường được gọi là chùa Gò Kén. Kiến trúc chùa do kiến trúc sư Học Đình vẽ kiểu. Chiều dài ngôi chùa khoảng 30m, chiều rộng khoảng 15m, hai mái lợp ngói móc.
111. CHÙA PHƯỚC LƯU -Tây Ninh
Chùa Phước Lưu nằm cạnh Quốc lộ 22A, đối diện với bệnh viện và sân vận động Trảng Bàng. Chùa tọa lạc ở 259 quốc lộ 22, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. ĐT: 066.880093. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa trước đây là am Bà Đồng, đến năm 1900, hình thành chùa Bà Đồng. Tổ Trừng Lực thuộc chi phái Thiền Liễu Quán đã tổ chức xây lại ngôi chùa và đặt tên Phước Lưu.
Chùa Phước Lưu được xây dựng vào giữa thế kỷ 19. Ban đầu chỉ là một cái am nhỏ, gọi là am Bà Đồng, sau này được xây dựng thành chùa nên cò tên gọi là chùa Bà Đồng.
Năm 1900, Tổ Trừng Lực thuộc đời thứ 42, phái Liễu quán đã quyên góp tài chính của phật tử địa phương và cộng đồng người Hoa ở Trảng Bàng sửa chữa và mở rộng chùa, đặt tên là chùa Phước Lưu.
Từ lúc xây dựng đến nay đã qua bốn lần trùng tu, sửa chữa vào các năm 1943, 1946, 1975 và 1990. Đây là một ngôi chùa được xây dựng bề thế, khang trang. Hệ thống tượng phật và các đồ thờ tự có giá trí cao so với các chùa phật ở Tây Ninh. Ngoài tượng phật Di Lặc, có tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm thếp vàng được mang từ Trung Quốc sang (gốm sứ đời Thanh). Với 15 tượng Phật được làm bằng chất liệu đất nung thành gốm sứ đời Thanh (chế tác từ Trung Quốc).
Chùa Phước Lưu là nơi có nhiều tượng phật cùng nhiều hiện vật cổ được tạo tác có giá trị nghệ thuật cao như: 4 bàn tủ khảm trai, bộ tràng kỷ mặt đá. Đặc biệt có 2 đĩa lớn (đường kính 55cm), 2 chóe lam lớn. Với những họa tiết, hoa văn đường phủ men lam là những hiện vật cổ có giá trị độc đáo.
Với lối kiến trúc đẹp, hòa với tổng thể thiên nhiên. Một ngôi chùa đã được giới thiệu trong “Việt Nam danh lam cổ tự”.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1945, 1946, 1968, 1975, 1990. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, như bộ tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm, thếp vàng; bộ tượng Thập bát La hán; bộ tượng Thập Điện Minh Vương và các bao lam với nét chạm khắc tinh xảo.
-CHÙA LINH SƠN (Điện Bà)
Chùa thường được gọi là chùa Bà, tọa lạc trên núi Bà Đen, thuộc ấp Ninh Trung, xã Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Núi Bà Đen ở Tây Ninh, cách Saigon 110 km. Từ xa nhìn núi Bà Đen như một chiếc nón lá úp trên đồng bằng. Đây là ngọn núi cao nhất ở Miền Nam.
Núi Bà Đen còn gọi là núi Điện Bà, còn có tên là Vân Sơn, vì thường có mây phủ. Và còn có tên là núi Một. Núi Bà Đen Tây Ninh là một quần thể miếu chùa, tổng hợp đạo Phật và Tiên Thánbh, trong đó điện Bà lớn hơn hết, thờ một vị nữ thần là Linh Sơn thánh mẫu.
Tương truyền kể rằng: xưa kia có một người con gái là Lý Thị Thiên Hương ở Trảng Bàng, nhan sắc lộng lẫy, do tình duyên trắc trở, người con gái này bỏ lên núi và bị bọn phỉ giết chết, xác khô đen. Tên núi là Bà Đen có từ đó. Bà Đen có núi đá gập ghềnh, cây cối xanh tốt, trên có chùa Vân Sơn trông xuống hồ nước, nước hồ trong lặng. Đường lên đỉnh núi quanh co, có rất nhiều cảnh trí do thiên nhiên tạo ra. Lên trên cao, hướng về phía đông nam là ngọn núi Cậu. Hướng về phía tây bắc là ngọn núi Heo và núi Phụng.
-CHÙA HANG, CHÙA THƯỢNG, CHÙA HẠ
Tại núi Bà Đen, trước kia có nhiều chùa, nhưng từ khi có chiến tranh thì các chùa bị hư hại. Hơn nữa, nơi này là chiến khu cộng sản, chẳng ai dám lên cúng tế, thăm viếng. Sau 1975, Việt Cộng thấy tôn giáo cũng là phương cách làm giàu, và cũng là phương cách bảo vệ an ninh, tình báo. Do đó, một số cán bộ, bô đội phục viên cho vào ở các chùa và lập các chùa. Bà. Bà Nguyễn Thị Định (1922), quê tỉnh Long Xuyên (An Giang ngày nay) là cán bộ cộng sản, nay trở thành Thích Nữ Diệu Nghĩa, Viện chủ cai quản các chùa trên núi Bà Đen.
Tại Bà Đen có ba khu triển lãm bảo tàng được hình thành. Đó là động Kim Quang, khu chùa Hang và Chân Núi. Toàn bộ quần thể núi Bà rải rác có nhiều chùa, nhưng chỉ có ngôi chùa chính có quy mô lớn. Ngoài chùa Thượng (chùa Bà) còn có chùa Hạ, chùa Trung. Những ngôi chùa này đã được xây dựng từ lâu đời, nhưng qua các cuộc chiến tranh ác liệt, bom đạn tàn phá nên đổ nát. Những ngôi chùa hiện nay được xây dựng lại từ các năm 1995, 1997.
Từ những ngày đầu tiên xây dựng chùa có các vị tổ sư: Chủ tổ Thiệt Diệu, Tế Giác, Đại Cơ, Đạo Trung, Tánh, Thiền Hải Hiệp (nay còn tháp ở chùa). Tiếp đến là Thánh Thọ Phước Chí (tại vị 1871 - 1880). Tổ Trừng Tùng Chơn Thoại kiến thiết chùa phật, nhà giảng đường (tại vị 1880 - 1910). Tổ Tâm Hòa Chánh Khâm (tại vị 1910 - 1937) xây cất chùa tổ bằng đá (1922 - 1924), nhà tổ bằng đá (1937). Tổ Nguyên Cơ Giác Phú, Nguyên Cần Giác Hạnh lập tháp cho bổn sư và sư huynh (1939), Sư Nguyên Bộ Giác Ngọc (tự DiNa) trụ trì từ 1946 - 1957. Hòa Thượng Nguyên Chất Giác Điền (tại vị 1952 - 1957) thay mặt hàng năm lo liệu lễ vía Bà và khai trường hương, trường kỳ. Từ năm 1956, lập ra Hội núi Điện Bà do bác sĩ Nguyễn Văn Thọ giữ chức danh Hội trưởng.
113 . CHÙA VĨNH TRÀNG -Mỹ tho
Chùa Vĩnh Tràng tọa lạc ở đường Nguyễn Trung Trực, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.873427. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Cổng chùa được trùng tu năm 2005, phía trên được tôn trí tượng Đức Phật A Di Đà
Chùa vốn là một thảo am do ông Tri huyện Bùi Công Đạt xây cất vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Đến năm 1849, Hòa thượng Thích Huệ Đăng trụ trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Tràng. Kế vị trụ trì là Hòa thượng Thích Thiện Đề. Khi ngài viên tịch, ngôi chùa hương tàn khói lạnh.
Năm 1890, bổn đạo đến chùa sắc tứ Linh Thứu thỉnh Hòa thượng Quảng Ân – Chánh Hậu về trụ trì. Năm 1895, ngài đã tổ chức xây lại ngôi chùa. Chùa lại bị hư hỏng nặng vì trận bão năm 1904. Từ năm 1907 đến năm 1911, ngài đã khuyến giáo tín đồ đóng góp công của đại trùng tu ngôi chùa và mời điêu khắc gia Tài công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các tượng thờ trong chùa.
Hòa thượng Chánh Hậu gốc người Minh Hương, sinh năm 1852 tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường (cũ). Năm 1876, ngài quy y thọ giới với Hòa thượng Thích Minh Phước tại chùa Bửu Lâm. Ngài đã được cử làm Thủ tọa chùa sắc tứ Linh Thứu từ năm 1880, trụ trì chùa Vĩnh Tràng từ năm 1890, và đã thường xuyên mở các lớp gia giáo để đào tạo tăng tài. Ngài viên tịch vào năm 1923. Hòa thượng Tâm Liễu – An Lạc (tức HT. Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên) kế tục, cho xây cổng tam quan, mặt tiền, chánh điện và nhà tổ.
Cổng
giữa của tam quan làm bằng sắt theo kiểu Pháp. Hai cổng hai bên làm
bằng xi măng, dạng cổ lầu, được ghép toàn mảnh sành sứ với nhiều đề tài
bông hoa, thú vật, truyện tích... do thợ Huế làm, trong đặt tượng chân
dung HT. Chánh Hậu và HT. Minh Đàng do nhà điêu khắc Nguyễn Phi Hoanh
thực hiện vào năm 1933.
Chùa rộng khoảng 2 hecta. Trước có sân kiểng và tượng đức Phật Thích Ca tham thiền dưới cội bồ đề. Bên phải có ao sen, tượng đài Bồ tát Quan Thế Âm, hai bên có nhiều ngôi tháp cổ của các vị Hòa thượng tiền bối, phía sau có hội trường và phòng phát hành kinh sách. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều cây cao bóng mát và vườn cây ăn trái. Mặt tiền chùa được xây bằng bê tông nửa Á nửa Âu. Đây là môtíp La Mã xen với môtíp Phục Hưng, bông sắt Ấn Độ, gạch men Nhật Bản. Những câu chữ Hán viết theo thể truyện xen với những câu niệm Phật chữ quốc ngữ. Đứng xa trông vào nóc chùa mường tượng như năm tháp Ăngkor.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Tượng Phật Trung Tôn, bộ tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí), tượng Đản sanh, tượng Di Lặc và tượng Thất Phật Dược Sư được tôn trí ở án giữa. Hai bên án thờ có tượng hai vị Hộ Pháp, tượng chân dung Hòa thượng Chánh Hậu và Hòa thượng Minh Đàng. Chùa còn đặt thờ nhiều tượng như Quan Âm, Địa Tạng, Ngọc Hoàng, Minh Vương... Đặc biệt, hai bên vách có thờ bộ Thập bát La Hán, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, cỡi trên các con thú như trâu, ngựa, lạc đà,... là những tác phẩm tượng tròn độc đáo của Nam Bộ.
Chùa có nhiều bao lam và hoành phi, câu đối. Các bao lam ở đây được chạm trổ công phu, như bộ bao lam Bát tiên kỵ thú đặt ở gian giữa.Vĩnh Tràng là ngôi cổ tự danh tiếng bậc nhất ở miền Nam.
114. CHÙA THANH TRƯỚC -Gò Công
Chùa tọa lạc tại ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Chùa được dựng vào năm 1826, có tên là chùa Phật Linh. Tương truyền chùa do các mục đồng dựng lên vào năm 1826. Lúc đầu, đây chỉ là một thảo am nhỏ có tên là Phật Linh. Đến khi Thiền sư Ngô Thiện, thuộc dòng Lâm tế chính tông đời thứ 39 về trụ trì, chùa mới được xây cất tôn nghiêm và lấy tên là Thanh Trước. Năm 1851, hoà thượng Chân Hội về làm trụ trì đã cho trùng tu và mở rộng ngôi chùa. Năm 1896, hoà thượng Hải Tràng cho trùng tu chùa. Hoà thượng Hoằng Thông đã cho sửa chữa vào các năm 1946, 1958 và 1989.
115. CHÙA PHƯỚC LÂM- Cai Lậy
Ngôi chùa ngày nay tọa lạc trong một khuôn viên rộng 2ha, được xây dựng bằng vật liệu kiên cố.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca tọa thiền trên Kim Cang tòa. Tượng đức Phật cao 3,5m, nặng hơn 1 tấn, đúc tại chùa năm 1998. Hai bên điện Phật là phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, cùng sáu bức phù điêu về lịch sử đức Phật Thích Ca: Đản sanh, xuất gia, cắt tóc, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Chùa còn lưu giữ nhiều tấm biển, câu đối, tượng thờ, long vị cổ.Phước trạch khánh do tâm hòa hiệp thập phương tâm thành tâm đồng chú nguyện.
Lâm tùng huy tại giác thượng kỳ tứ chúng giác viên giác phổ hương triêm.
(câu đối năm 1923)
116. CHÙA PHÁP BẢO- Mỹ Tho
Chùa có nhiều công trình xây dựng như giảng đường, tăng xá, cốc tu, tháp mộ Hòa thượng Pháp Lạc (cao 13m), cùng vườn tượng Phật lộ thiên như: vườn Lâm Tỳ Ni, tượng Thái tử tu khổ hạnh, tượng Phật thành đạo và tượng Phật nhập niết bàn.Cảnh chùa thoáng đãng, thanh tịnh, trang nghiêm.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca tọa thiền trên Kim Cang tòa. Tượng đức Phật cao 3,5m, nặng hơn 1 tấn, đúc tại chùa năm 1998. Hai bên điện Phật là phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, cùng sáu bức phù điêu về lịch sử đức Phật Thích Ca: Đản sanh, xuất gia, cắt tóc, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Chùa còn lưu giữ nhiều tấm biển, câu đối, tượng thờ, long vị cổ.
117. CHÙA LINH PHONG- Mỹ tho
Chùa tọa lạc tại 178/1, thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.831489. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Ngôi chùa nhỏ được xây cất vào cuối thế kỷ XIX.
Trước đây, chùa do Hòa thượng Thích Minh Giám trụ trì. Năm 1940, ông Hộ Thông tổ chức trùng tu và thỉnh Hòa thượng Thích Đạt Hương về trụ trì. Năm 1988, Hòa thượng viên tịch. Sư cô Thích Nữ Tắc Hoa trụ trì hiện nay.
Chùa đã được trùng tu vào các năm 1916, 1940, 1955,1989. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn, Thập bát La hán, Thập Điện Minh Vương... Chùa giữ được một số pho tượng cổ.
118. CHÙA HỘI THỌ- Cái bè
119. CHÙA BỬU LÂM -Mỹ Tho
Chùa tọa lạc tại đường Anh Giác, phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.876613. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do bà Nguyễn Thị Đạt xây dựng vào năm 1803. Chùa đã trải qua 10 đời truyền thừa, trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Từ Lâm, nguyên ở chùa Hội Tôn (Bến Tre). Hòa thượng Thiên Trường đã cho trùng kiến ngôi chùa vào năm 1905.
Hòa thượng Thích Huệ Thông cho sửa lại mặt tiền năm 1994 – 1995 và tiếp tục tôn tạo ngôi chùa khang trang. Hòa thượng hiện là thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa bảo tồn nhiều pho tượng và bộ tượng cổ, nhiều bao lam chạm trổ tinh xảo. Chùa nay vẫn giữ nét đẹp cổ kính, là ngôi cổ tự danh tiếng ở miền Nam.
120. CHÙA PHƯƠC LONG-Gò Công
Ngôi chùa tọa lạc ở ấp 7, xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.Chùa do thiền sư Vô Đại - từ miền Trung vân du vào Nam hoằng đạo - lập nên vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Lúc đầu, chùa có kết cấu rất đơn sơ. Từ khi thành lập đến nay, chùa đã trải quà nhiều lần trùng tu, sửa chữa.
Ngôi chùa hiện nay gồm 3 gian 2 chái, được nâng
đỡ bởi các cột tròn bằng danh mộc. Chánh điện tuy không đồ sộ nhưng tập
trung rất nhiều tượng quý. Sau chánh điện là hậu tổ - nơi đặt bài vị các
tổ truyền thừa dòng Liễu Quán trong đó, có bài vị của tổ Chánh Niệm Hải
Hội và tổ Bảo Tạng Hải Bình - 2 danh tăng có nhiều công sức hoằng
truyền dòng Liễu Quán vào Nam Bộ, tuy 2 ngài không trụ trì tại chùa. Các
vì kèo của gian hậu tổ còn ảnh hưởng khá đậm phong cách Huế kiểu giả
thủ.
.
Tọa lạc tại ấp 8 - xã Quới Sơn (Châu Thành), Hội Tôn cổ tự được biết đến là ngôi chùa cổ nhất và có giá trị lịch sử văn hóa ở Bến Tre. Theo danh bộ lịch sử những ngôi chùa do Ban Đại diện Phật giáo huyện Châu Thành biên soạn, Hội Tôn cổ tự được thành lập vào năm 1740, do bà Cù Thị Báo và con gái Trần Thị Mỗi ở ấp Quới Hòa Đông tạo lập. Với thảo am ban đầu, những người mộ đạo quanh vùng thỉnh mời hòa thượng để tụ tích hoằng dương Phật pháp. Sau khi tụ tích, ngoài việc truyền dạy giáo lý Bắc tông, Hòa thượng Long Thiền còn dạy cho bổn đạo và cư dân trong vùng cách đóng thuyền bè, cách ươm tơ, dệt lụa, võ nghệ… Đến nay, Hội Tôn cổ tự trải qua 18 đời trụ trì.
Theo lời kể của ông Hồ Ngọc Sánh, cháu đời thứ 6 của người lập Hội Tôn Tự, những năm 1804-1805, chùa được cất lại bằng gỗ, gồm chánh điện, sân khấu, nhà Tổ, phòng sư sãi, tăng ni, lẫm lúa, nhà đãi, nhà trù… Xung quanh trồng cây ăn quả, sao, dầu, gõ và 2 cái ao nuôi cá phóng sinh. Năm 1884, chùa được trùng tu một lần nữa nhưng vẫn giữ gần như nguyên vẹn nếp xưa. Do chiến tranh tàn phá, năm 1947, chùa được xây dựng lại, còn giữ nhiều cột gỗ nhưng vách bằng tường, mái lợp ngói. Tuy không còn hình dạng của chùa cũ nhưng vẫn đậm nét văn hóa Việt theo kiến trúc dạng chữ đinh. Năm 1973, chùa một lần nữa được trùng tu và vẫn giữ nét cổ kính của một ngôi chùa mái ngói âm dương vốn có.Chùa hiện nay còn giữ một số bản gỗ khắc kinh (chữ Hán), nhiều pho tượng cổ như: Hộ Pháp, Tiêu Diện, Minh Vương...Trong vườn chùa có 15 bảo tháp các ngài Bảo Chất, Quảng Giáo, Tâm Định, Chánh Hòa...
Trên đây là hình chùa mới xây. Ngày nay, cộng sản tái thiết chùa, phá chùa cũ làm chùa mới, họ lấy tiền bạc nhưng đã làm mất dấu vết cổ tích.
Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa có nhiều tượng Phật, Bồ tát là những tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật. Thượng tọa Thích Phước Tú đang tiếp tục trùng tu, trang trí ngôi chùa.
Chùa Giác Thiện phát gạo cho dân
123. CHÙA PHÁP HẢI- Vĩnh Long
124. TỊNH XÁ NGỌC VIÊN - Vĩnh Long
Tinh xá tọa lạc tại số 14/20/2 đường Xóm Chài, phường 2, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.823827. Chùa thuộc hệ phái Khất sĩ, Giáo đoàn 1.Tịnh xá được dựng vào cuối năm 1948, là một trong những dấu tích đầu tiên khai mở giáo pháp của Tổ sư Minh Đăng Quang. Năm 1949, Đại lễ Tự tứ Tăng và Vu lan bồn được tổ chức với quy mô lớn tại tịnh xá đã ảnh hưởng rộng khắp trong sinh hoạt Phật giáo của toàn sơn môn hệ phái.
Tổ đình Tịnh xá Ngọc Viên
Ban đầu, ngôi chánh điện hình chữ nhật (tượng trưng thuyền Bát nhã), dài 16m, rộng 8m được dựng bằng cây lá đơn sơ trên mảnh đất do ông Lê Quang Nhiêu cúng dường, giữa đặt pháp tháp tôn trí đức Phật Thích Ca. Đến năm 1971, đức Trị sự Thích Giác Như đã tổ chức trùng tu ngôi chánh điện với những vật liệu bán kiên cố. Phía sau pháp tháp thờ Phật là bàn thờ ảnh chân dung Tổ Sư cùng tủ kinh Chơn Lý, là bộ sách ghi những bài thuyết pháp của Ngài trong 10 năm hành đạo (1944 – 1954).
Với diện tích đất 6.193m2, ngoài ngôi chánh điện, Tịnh xá đã tôn tạo, xây dựng nhiều công trình khác như: cốc Tổ Sư (lập năm 1948, trùng tu năm 1999) bên cạnh cây bồ đề do chính Tổ Sư gieo trồng, nhà thờ Cửu huyền thất tổ, nhà Tỳ kheo, nhà Sa di, nhà khách nam Phật tử, nhà khách nữ Phật tử, các cốc nhỏ dành cho các sư tĩnh tu, thư viện, trai đường, nhà bếp...
Nhiều vị cao đồ của Tổ sư đã đến trụ xứ, tu học tại tịnh xá như: Trưởng lão Nhị Tổ Giác Chánh, Trưởng lão Giác Tánh, Trưởng lão Giác Như...
Cây Bồ Đề do đích thân Tổ sư trồng tại Tổ Đình Ngọc Viên
Các sinh hoạt tín ngưỡng, hướng dẫn Phật pháp cho giới cư sĩ và chương trình tu học hàng ngày của chư Tăng được duy trì thường xuyên, nghiêm túc. Bên cạnh đó, Hòa thượng trụ trì Giác Giới cũng động viên chư Tăng và Phật tử tịnh xá tích cực đóng góp trong các mặt phát triển của Phật giáo tỉnh nhà, đặc biệt là công tác giáo dục và từ thiện xã hội.
Giờ học Pháp tại Giảng đường Pháp Vân
Tịnh xá hiện còn lưu giữ nhiều di vật của Tổ Sư như: giường nằm bằng gỗ, hai bồ đoàn, một biển ghi Đoàn Du Tăng thường treo trên xe khi hành đạo, một giá để kinh...
Giờ Thọ Trai
Chùa được trùng tu năm 1995. Chùa có hai ngôi tháp đẹp nổi tiếng, là tháp Thiện Hoa và tháp Đa Bảo. Năm 1972, Hòa thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, Thượng tọa trụ trì Thích Hoàn Phú đã cho xây tháp Thiện Hoa, thờ linh cốt của Ngài.
Tháp Đa Bảo được kiến tạo vào năm 1966, gồm ba tầng. Tầng trên thờ tượng đức Phật nhập niết bàn và Xá lợi Phật. Tầng giữa thờ Pháp Bảo (một bộ kinh Pháp Hoa). Tầng dưới: Phía Đông thờ linh cốt Tổ Khánh Anh, phía Nam thờ linh cốt HT Thích Quảng Đức, phía Tây thờ linh cốt Tổ Khánh Hòa, phía Bắc thờ linh cốt Tổ Huệ Quang, trung tâm thờ đất Phật tại tám Phật tích ở Ấn Độ.
Lễ giỗ tổ Khánh Anh hàng năm vào ngày 29 và 30 tháng giêng Âm lịch trở thành ngày hội của đông đảo Tăng Ni, Phật tử và dân chúng địa phương.
Nói về chùa Tiên Châu, trong sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn:
Vào khoảng năm 1945, quân đội Pháp đến tái chiếm Vĩnh Long. Từ dưới tàu chiến dàn ở sông Cổ Chiên, họ đã nã đại bác lên bờ. Đạn bay tới tấp vào chùa, nhưng chỉ trúng các cột kèo, còn các tượng Phật chẳng xây xát gì[8]. Đến sau Tết Mậu Thân (1968), chùa lại bị chiến tranh làm cho hư hại nhiều.
Vì thế, ông Đốc phủ Võ Văn Châu đã đứng bán 5 cây sao của chùa đồng thời vận động tín đồ và khách thập phương, để có tiền trùng tu lại chùa, theo bản thiết kế của Hòa thượng Thiên Hương từ Sài Gòn đem về. Nội điện vẫn giữ như cũ, dựng lại mặt tiền bằng vật liệu bê tông. Sau đó, chùa có chiều dài 46 mét, rộng 20 mét. Trên nóc có 5 ngọn tháp, tháp ở giữa là lớn hơn cả, chánh giữa tháp treo biển Tiên Châu Tự.
Ngôi chùa Xiêm Cán này do chính tay các nghệ nhân địa phương xây dựng bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Bên trong chánh điện của chùa đã phản ánh tính thẩm mỹ rất cao của người Khmer với những hoa văn độc đáo. Ở vị trí trung tâm trên nóc sala trang trí hình ảnh đền Angkor Wat, nơi khởi nguồn của phong cách kiến trúc Khmer. Người Khmer tu theo thuyết của Phật Thích Ca nhưng theo hướng của Phật giáo Tiểu Thừa nên trong Chánh điện thờ Phật Thích Ca là chính.
Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này.
Với hai màu chủ đạo là đỏ và vàng, kiến trúc ở đây lúc nào cũng rực rỡ dưới nắng, dường như không chịu sự chi phối của thời gian
Bên trong điện thờ trưng bày nhiều bức vẽ về quá trình khổ luyện của Đức Phật, có thể coi là tư liệu quý báu cho những người theo đạo Phật.
Khu mộ tháp yên bình dưới bóng cây
Chùa Tam Bảo là một ngôi chùa cổ tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Chùa Tam Bảo được lập bởi bà Dương Thị Oán, ban đầu có kết cấu đơn sơ, vật liệu chính là tre nứa. Trong thời gian bị Tây Sơn truy đuổi Nguyễn Ánh đã từng trú ẩn tại đây và được bà tặng những cuộn tơ tằm quý giá để làm quai chèo không đứt khi vượt biển[1]. Chính vì thế sau khi lên ngôi, năm 1803, vua đã ban biển Sắc tứ cho chùa, từ đó, chùa được gọi là Sắc tứ Tam Bảo - 敕賜三寳[2].
Sau khi Hòa thượng Trí Thiền và Sư Thiện Ân bị bắt, chùa Tam Bảo bị đóng cửa, không ai được lui tới. Sau 1945 chùa mới được mở cửa lại. Tăng tín đồ Phật tử và nhân dân tổ chức một lễ cầu siêu lớn tại chùa để cầu nguyện cho Hòa thượng Trí Thiền, Sư và các đồng chí đã chết.
Chùa tọa lạc nơi cao ráo, thoáng mát, trước cửa chùa có ao sen rộng và hòn non bộ. Trước chánh điện là những tượng Phật lớn trang nghiêm, trầm mặc. Chánh điện được thiết kế theo kiểu thượng lầu hạ hiên. Các bàn thờ được chạm trổ công phu, thếp vàng rực rỡ theo dạng “Lưỡng Long triều Nguyệt”, “Song Phụng Triều Châu”, “Bát Tiên”… với màu sơn son thếp vàng còn rực rỡ. Các tượng phật, bồ tát bằng gỗ như Di Lặc, Chuẩn Đề, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm Thế Chí… được điêu khắc với trình độ mỹ thuật cao.
129. CHÙA HẢI SƠN - Hà tiên
Chùa này còn có tên là Chùa Hang. Chùa Hải Sơn tọa lạc ở xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. ĐT: 077.854544. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Đây là một di tích nằm trong khu Du Lịch Hòn Phụ Tử cách Ba Hòn 18km, và cũng là điểm hành hương và cũng là điểm tham quan của Hà Tiên-Kiên Giang. Chùa nằm nơi chân núi An Hải Sơn. Vì là núi đá vôi bị xâm thực hàng ngàn năm, nên phía sau chùa có một hang rộng ăn thông ra tới biển, nơi có Hòn Phụ Tử.
Chùa được thành lập vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Thời bấy giờ, một vài nhà sư Xiêm La theo đoàn ngư dân đánh cá đến vùng đất Hà Tiên đã đưa hai pho tượng đức Phật Thích Ca đến thờ phụng trong một hang núi tự nhiên tại hòn Chông. Ngôi chùa do các vị sư Xiêm La quản lý đến năm 1770. Sau đó, do chiến tranh, các vị sư Xiêm La về nước, chùa bị bỏ hoang một thời gian. Cư dân địa phương đã thỉnh các vị sư gốc Khmer đến trụ trì chùa, nhưng không bao lâu, các vị sư này chuyển sang xây dựng ngôi chùa Ba Trại (gọi Ba Trại vì chùa nằm trong vùng căn cứ nghĩa quân Ba Trại dưới chân núi Hòn Chông của Lãnh binh Nguyễn Trung Trực).
Hang đá phía sau chùa Hải Sơn chạy theo trục Đông Bắc - Tây Nam, chiều dài hơn 50m, cửa động nhìn ra biển. Chiều dài hang ăn thông 40m, chỗ hẹp nhất chỉ khoảng 3-4 người đi lọt. Phía trong hang, có các hình dáng kỳ quái do nước ăn mòn tạo nên.
130. CHÙA LONG QUANG -Cần Thơ
Chùa Long Quang (tên chính thức là Long Quang Cổ Tự, chữ Hán: 隆光古寺) là một ngôi cổ tự bên bờ sông Bình Thủy; hiện tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, thuộc phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, Việt Nam.
Chùa Long Quang do Thiền sư Thiện Quyền [2] lập vào năm Minh Mạng thứ 5 (Giáp Thân, 1824). Lúc đầu, chùa chỉ là một am nhỏ bằng cây lá. Đến năm 1829, Thiền sư Thiện Quyền cho cải tạo lại thành một ngôi chùa bậc trung. Có thể, trong khoảng thời gian này chùa được đặt tên là Long Trường với ý nguyện cầu mong ngôi chùa được vững bền [3]. Năm 1835, Thiền sư lại cho trùng tu chùa.
Năm 1963, Thiền sư Trí Thới viên tịch. Năm sau (Giáp Thìn, 1964), thầy Thích Chơn Khánh [6] đến trông coi chùa. Lúc bấy giờ ngôi nhà chùa đã xuống cấp, lại được Phật tử và nhân dân trong vùng ủng hộ, nên thầy Chơn Khánh đã tiến hành xây cất lại chùa Long Quang trên nền cũ.
Đến năm Nhâm Thân (1992), nhận được lời thỉnh cầu của các Phật tử tại địa phương, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Cần Thơ bổ nhiệm Đại đức Thích Bình Tâm[7]. Tháng 12 năm 1994, các ban ngành chủ quản hiệp cùng Trụ trì và các Phật tử đã tái thiết lại ngôi chùa Long Quang với dáng vẻ như hiện nay [1].
Ban đầu, các vị sư của chùa tu theo phái Lâm Tế có nguồn gốc từ Trung Quốc. Hiện nay nhà chùa đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và chuyển thành hệ phái Bắc tông.
Chùa Long Quang tọa lạc trong một khuôn viên rộng khoảng 7.000 m2 nằm cạnh con đường nhỏ trải nhựa và một con rạch nhỏ. Từ ngoài vào trong, có các hạng mục đáng chú ý sau:
132 .CHÙA PHẬT HỌC NAM VIỆT -Cần thơ
Chùa tọa lạc ở số 11 đại lộ Hòa Bình, thành phố Cần Thơ. ĐT: 071.827685. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa trước đây là trụ sở của Hội Phật học Nam Việt tỉnh Cần Thơ, được Hội Phật học kiến tạo vào năm 1951.
Chùa Hội Linh, còn có tên gọi khác Hội Linh Cổ Tự, thuộc hệ phái Bắc tông - tọa lạc trên diện tích 6.500m2 tại số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Ban đầu chùa được cất đơn sơ bằng cột cây, vách và mái lợp lá, cửa chùa quay ra hướng (Đông Bắc) sông Hậu, đặt tên “Hội Long Tự”. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn có tên là chùa Xẽo Cạn. Vị trí chùa trên một diện tích đất khá rộng gần 1ha ở địa phận thôn Thái Bình, tổng Định Bảo (thời Pháp thuộc); đến năm 1958 đổi lại thành xã An Bình, tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh; đến năm 1992 được đổi lại phường An Thới, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ; Và hiện nay tọa lạc tại số 314/36 đường Cách mạng tháng Tám, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Mặt tiền chùa
Hòa thượng Thích Khánh Hưng trụ trì chùa từ ngày khởi lập đến ngày mùng 5 tháng 3 năm Giáp Dần – 1914 viên tịch. Sau khi Hòa thượng Khánh Hưng mất, Hòa thượng Thích Hoằng Đạo, thế danh Võ Văn Nhuận sinh năm Mậu Dần – 1878 thay thế trụ trì cho đến ngày mùng 7 tháng 6 năm Nhâm Tuất – 1922 thì thâu thần thị tịch, hưởng dương 45 tuổi. Mặc dù thời gian trụ trì chùa chỉ 8 năm, nhưng hòa thượng Khánh Hưng là người được bà con phật tử tin tưởng. Theo 2 bảng khắc gổ còn lưu tại chùa, ghi công đức của 75 thiện nam, tín nữ phật tử đồng hỷ cúng 2078 đồng, để hòa thượng xây cất mới ngôi chùa bằng vật liệu kiên cố - tường gạch mái lợp ngói. Mặt tiền chùa được điều chỉnh quay ngược lại về phía đường Cách mạng tháng Tám, hướng Tây Nam và đổi tên thành “Hội Linh Cổ Tự”.
134. TÂY AN CỔ TỰ -Châu Đốc
Chùa tọa lạc ở ngã ba núi Sam, xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Chùa được Tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng vào năm 1847. Năm 1861, chùa được trùng tu chánh điện và hậu tổ. Kể từ đời Phật thầy Minh Huyên trụ trì đến nay, chùa đã trải qua 7 đời truyền thừa. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa ngày nay được tôn tạo dưới thời Hòa thượng Bửu Thọ vào năm 1958. Ngài cho xây 3 ngôi cổ lầu,mặt tiền chùa và sửa lại chánh điện, tạo nét kiến trúc phương Đông kết hợp với kiến trúc Ân Độ.
Ở chánh điện và hậu điện, có khoảng 200 pho tượng, đa số bằng danh mộc. Chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối. Chùa là ngôi danh lam bậc nhất ở An Giang và Nam Bộ. Hàng năm có hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Năm 1847, Tổng đốc An-Hà (An Giang và Hà Tiên) là Doãn Uẩn (1795-1850) vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân Xiêm La, bình định được Chân Lạp, nên đã cho xây dựng một ngôi chùa bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và đặt tên là Tây An tự với hàm ý trấn yên bời cõi phía Tây [2].
Năm 1861, Hòa thượng Hoàng Ân (Nguyễn Nhất Thừa) cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Năm 1958, Hòa thượng Thích Bửu Thọ (1893–1972) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Vị sư trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Nguyễn Văn Giác (1788–1875), pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái Lâm Tế, nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế [3].
Cũng trong khoảng thời gian này (tức vào những năm 1850) ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856), người sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (1849) đến tu tại chùa, nên chùa càng nổi tiếng.
Vườn tháp chùa Tây An Các vị sư trụ trì chùa Tây An gồm: Hải Tịnh (thế danh Nguyễn Văn Giác), Hoàng Ân (thế danh Nguyễn Nhất Thừa), Huệ Quang (thế danh Nguyễn Trang Nghiêm), Thuần Hậu (thế danh Huỳnh Văn Đắc), Thiện Pháp (thế danh Ngô Văn Hòa), Thích Bửu Thọ (thế danh Nguyễn Thế Mật), Huệ Châu (thế danh Hồ Thạch Hùng), Định Long (thế danh Phạm Văn Trực), Huệ Kỉnh (thế danh Trần Văn Cung).[4]
Sách Đại Nam nhất thống chí viết về chùa Tây An như sau:
Chùa ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy[5].[6] Chùa Tây An tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, trong khuôn viên có diện tích 15.000 m2. Phía sau có núi Sam như bức bình phong nổi bật lên với màu xanh thẫm. Điểm ấn tượng nhất của chùa là mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hòa.
Chùa cất theo lối chữ “tam”, có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc Việt. Chùa được xây dựng với các vật liệu bền chắc như gạchngói, xi măng. Nơi cổng tam quan là tượng Quan Âm Thị Kính, bên trong cổng là một sân chùa nhỏ có một cột phướn cao 16 m.
Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng tứ linh (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm Tự Đức thứ 32 (1879).
Chùa thường được gọi là chùa Truông, tọa lạc ở tổ 24, ấp Châu Long 6, xã Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.Chùa thường được gọi là chùa Truông, Chùa được dựng vào giữa thế kỷ XIX, đại trùng tu vào năm 1934 và những năm gần đây. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, kiến trúc chùa mang cả phong cách A-Âu. Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng ở Châu Đốc.
136. TỊNH XÁ NGỌC GIANG -Long Xuyên.
Tịnh xá tọa lạc tại số 80B đường Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Xuyên, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang.Tịnh xá tọa lạc tại số 80B đường Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Xuyên, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tịnh xá được xây dựng vào năm 1960. Sư Giác Thảo đã tổ chức trùng tu, mở rộng vào năm 1992. Tịnh xá thuộc Giáo đoàn 1 của hệ phái Phật giáo Tăng già Khất sĩ Việt Nam.
137. CHÙA LONG HƯNG-Châu Đốc
Sau khi lựa được đất Long Sơn (trước đây thuộc Tân Châu Bảo) là nơi ở về thượng du, địa thế cao ráo, qua lại tiếp ứng, thiệt là chỗ hình thế hiểm trở, bèn đem việc ấy tâu lên, được nhà vua chấp thuận[2]. Năm 1834, thành Châu Đốc bị triệt phá. Tuy nhiên chưa rõ lý do gì, nhà vua lại thay đổi quyết định, tức cho xây dựng lại ở nơi cũ, còn công trình ở Long Sơn thì bị bỏ dở dang (hào thành chỉ đào được một số đoạn và chưa xây một viên đá hay viên gạch nào).
Một bên chùa
138. CHÙA LINH SƠN- An Giang
Chùa Linh Sơn (Ba Thê) còn được gọi là chùa Phật bốn tay núi Ba Thê, tọa lạc tại xã Vọng Thê (nay là thị trấn Óc Eo), huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một trong những địa điểm hành hương nổi tiếng của tỉnh. Chùa Linh Sơn được xây dựng vào năm 1913 (và được trùng tu mấy năm gần đây), cách chợ Vọng Thê khoảng 2 km về hướng đông. Ngôi chùa nằm trên nền một gò đất cao, bên những đại thụ râm mát, nơi triền núi Ba Thê, cạnh Khu di tích Nam Linh Sơn thuộc nền văn hóa Óc Eo.
Vào năm 1913, dân địa phương phát hiện một pho tượng Phật bốn tay ở tư thế đứng, cao 1,7 m, nằm sâu trong lòng đất khoảng hai mét, tại khu vực dân cư gần chợ Ba Thê. Trước đó, người dân cũng đã tìm thấy hai tấm bia được làm bằng đá bùn có chiều cao khoảng 1,80m, dày khoảng 0,22m, khắc chữ cổ mà nhiều nhà nghiên cứu nói có thể là chữ viết của dân tộc Phù Nam xưa. Đặc biệt, khi đặt tượng Phật vào giữa hai tấm bia này thì rất khít khao. Do sự linh ứng ấy, dân chúng quanh vùng góp công của xây dựng chùa Linh Sơn để thờ phụng và cũng từ đó, chùa có tên dân gian là chùa Phật Bốn Tay cho đến ngày nay. Vì vậy, dân quanh vùng khi ấy bèn góp công, góp của dựng lên một ngôi chùa đặt tên là Linh Sơn Tự để tôn thờ tượng Phật và gìn giữ bia cổ.
Từ thành phố Long Xuyên, theo tỉnh lộ 943, băng qua những cánh đồng lúa chín vàng mơ mênh mang tận chân trời, du khách đến thị trấn núi Sập, thủ phủ của huyện Thoại Sơn. Vượt dòng Thoại Giang đi thêm hơn 10 cây số nữa, ta sẽ tới thị trấn Óc Eo, nơi đây được các nhà khảo cổ xem như là “cái rốn”, trung tâm của nền văn minh, văn hóa Óc Eo.
Văn hoá Óc Eo là tên gọi chung của một nền văn minh gắn liền với vương quốc Phù Nam huyền thoại, có địa bàn trải rộng từ Tây đến Đông Nam bộ ngày nay. Trải qua trên dưới một ngàn năm trăm năm với bao biến động của thiên nhiên và lịch sử, nền văn hóa ấy đã bị mai một và dần rơi vào quên lãng. Ở thị trấn Óc Eo, có một ngôi chùa được người dân gọi bằng cái tên rất ấn tượng là chùa Phật Bốn Tay, tên chữ là “Linh Sơn cổ tự”.
Sân chùa Linh Sơn.
Chánh điện chùa Linh Sơn ở Óc Eo thờ pho tượng Phật Bốn Tay. Pho tượng nầy có hình thể và nét mặt không giống như những tượng Phật thường gặp ở đa số các chùa chiền thuộc hệ phái Bắc tông. Tượng Phật Bốn Tay mặc y tiểu thừa, vẻ mặt và hình dạng ngài phốp pháp, sắc màu lam nhã, mắt mở lớn, ngồi kiết già và mỗi tay cầm một linh vật nhỏ. Tay phải trên cầm xâu chuỗi. Tay trái trên bắt ấn, tay phải dưới cầm chuông nhỏ, tay kia cầm trái châu. Đặc biệt ngài có đội chiếc nón như các vị Lạt Ma Tây Tạng. Nguyên tượng bằng đá đen, bán thân, về sau được gia cố thành tư thế ngồi.
Theo lời kể của sư trụ trì Thích Thiện Trí và lời truyền tụng trong dân gian thì vào năm 1913, khi người Pháp cho xe ủi đất làm đường và xây bót Ba Thê dưới chân núi, gần chợ, người ta phát hiện một pho tượng bằng đá đen có bốn tay, cao 1,7 mét, còn nguyên vẹn, nằm sâu dưới mặt đất khoảng 2 mét. Người Khmer quanh vùng tập họp thanh niên trai tráng khỏe mạnh khiêng tượng về núi để thờ, vì cho đó là tượng Neata Phrom tức thần Núi - theo tín ngưỡng thờ ông Tà của người Campuchia. Nhưng không hiểu vì sao tượng quá nặng, không sao di chuyển nổi. Sau nhờ những bô lão người Kinh đứng ra lập bàn thờ khấn vái. Thật lạ lùng, lúc ấy pho tượng mới được khiêng đi nhẹ nhàng.
Bàn thờ trong chánh điện chùa Linh Sơn.
Tượng Phật có 4 cánh tay.
Chùa Phật Lớn được xây dựng năm 1912, trên một khoảng đất rộng bên triền, gần đỉnh núi (ở độ cao 526 m so với mặt nước biển)[1]. Sở dĩ có tên như thế là vì trong chùa có thờ một tượng Phật cao 1,8 m. Vào thời điểm ấy, pho tượng này cao lớn hơn các tượng thờ khác ở trong vùng. Và gọi vậy, còn để phân biệt với chùa Phật Nhỏ ở hướng đông, cũng trên núi này.
Sau khi ông Bảy Do (Cao Văn Long), người đầu tiên xây dựng và tu ở chùa, bị thực dân Pháp bắt, chùa Phật Lớn trở nên hoang vắng. Mãi đến năm 1914, ông cựu hương quản làng An Khánh [2] đến núi Cấm thấy cảnh chùa hoang phế quá, bèn đến chùa Linh Sơn (Sài Gòn) nhờ Cò Mi Chấn (Phó Hội trưởng Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học) đứng ra xin phép để được tái thiết chùa.
Toàn cảnh chùa Phật lớn
Hiện nay (tháng 7 năm 2008), chùa Phật Lớn đang được tôn tạo lại trên nền cũ có mở rộng diện tích lên đến 13,6 ha
gồm khu chánh điện, nhà chuông, khu nhà nghỉ, hệ thống điện, nước... để
phục vụ cho việc thờ cúng và cho khách đến hành hương hay vãng cảnh.
Tượng Phật Di Lặc lớn nhất châu Á trên núi Cấm
Cao gần 34 m, đặc tả rõ nụ cười an
nhiên, từ bi, hỉ xả, tượng Phật Di Lặc màu trắng sáng trên đỉnh núi Cấm
(An Giang) vừa được tổ chức Kỷ lục châu Á công nhận là tượng Phật lớn
nhất châu Á.
Tượng có chiều cao từ chân đến đỉnh là 33,6 m, diện tích bệ 27x27 m, khuôn viên tượng Phật rộng 2,2 ha. Bức tượng đặc tả rõ nét nụ cười an nhiên, từ bi, hỉ xả và bụng to đặc trưng của Phật Di Lặc. Chân đế bệ tượng làm bằng đá gắn kính phản xạ cao cấp màu xanh ve mang ý nghĩa một khối kim cương.
-CHÙA VẠN LINH
Chùa Vạn Linh, thường được gọi là chùa Lá, tọa lạc ở ấp Vồ Đầu, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Chùa nằm trên núi Cấm vùng Thất Sơn, nơi có bảy ngọn núi nổi tiếng là núi Két (Anh Vũ sơn), núi Giài Năm Giếng (Ngũ Hồ sơn), núi Tượng (Liên Hoa sơn), núi Nước (Thủy Đài sơn), núi Dài (Ngọa Long sơn), núi Tô (Phụng Hoàng sơn) và núi Cấm (Thiên Cẩm sơn).
Thượng
tọa trụ trì Thích Hoằng Tri cho biết chùa nằm ở độ cao 550m, còn núi
Cấm cao 716m, dài 7.500m. Chùa do Hòa thượng Thích Thiện Quang khai sơn
năm 1927, bấy giờ chỉ là một am tranh. Hòa thượng khai sơn thuộc dòng
Lâm Tế Gia Phổ đời 40, đệ tử của Hòa thượng Viện chủ tổ đình Phi Lai
Thích Chí Thiền.
Do đức độ và tài trị bệnh của Hòa thượng khai
sơn, Phật tử và bệnh nhân đến chùa mỗi ngày một đông, Ngài đã cho xây
dựng ngôi chùa quy mô to lớn vào năm 1941. Ngài viên tịch vào ngày 26
tháng 11 năm Quý Tỵ (31-12-1953).
Ngôi chùa do chiến tranh đã bị hư hỏng từ những năm 1945-1946.
Đến năm 1976, ông Hai, pháp danh Thiện Thới, đệ tử của Hòa thượng Thiện Quang đã cho xây ngôi chùa nhỏ, được người dân địa phương gọi là chùa Lá.
Chùa Vạn Linh
Mặt tiền chùa
Chùa Vạn Linh - nhìn từ phía sau
Chùa Âng (tên Khmer là Angkorajaborey) là một ngôi chùa cổ trong hệ thống chùa Khmer của tỉnh Trà Vinh; hiện tọa lạc bên quốc lộ 53, thuộc khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Chùa nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5 km, nằm trong khuôn viên thắng cảnh Ao Bà Om, và đối diện với Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer của tỉnh.
Đây là một trong những ngôi chùa tiêu biểu trong hệ thống 141 ngôi chùa Khmer ở Trà Vinh [1]. Theo Bảng Di tích lịch sử chùa Âng, thì chùa có từ năm 990... Đến năm 1695, ngôi chính điện được xây dựng lại bằng tre lá. Năm 1842, chùa được xây dựng lại bằng gỗ quý (rui, mè và 60 cây cột), lợp ngói và tường xây. Sau đó, chùa còn được trùng tu vài lần nữa [2].
Cổng chùa được xây dựng với ba ngọn tháp ở trên, có đắp hình chằn. Hai bên trụ cổng là hình vũ nữ Kẽn naarr và tượng người đầu chim (Krũd).
Chính điện chùa Âng (chính diện)
Chánh điện quay về hướng Đông, tọa lạc nên một nền cao 2 m [3]. Mái của chính điện được cấu tạo gồm ba cấp, hai mái trên cùng thì dốc và cao hơn mái còn lại. Các gò mái có thần rắn Naga, đuôi cong vút, tượng trưng cho sự dũng mãnh vĩnh cửu.
Ở các đầu cột là những tượng vũ nữ Kẽn naarr và tượng người đầu chim (Krũd) với hai tay chống đỡ mái.
Quanh chính điện có trụ cột, hàng rào với đầu thần Bayon bốn mặt. Ngoài
ra ở đây còn có tượng chằn Yeak mặc áo giáp với khuôn mặt dữ dằn…[4].
Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có các hạng mục công trình khác như: trai đường, giảng đường, các Tăng xá và các tháp chứa di cốt...
Các tượng Phật Thích Ca trong chính điện Như bao ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer khác, bên trong chính điện chùa Âng cũng chỉ thờ duy nhất là Phật Thích Ca. Bệ thờ Phật rộng gần 30 m² gồm bốn bậc. Tượng Phật chính cao 2,1 m.
Xung quanh có khoảng 50 tượng Phật khác nhỏ hơn. Ba phía vách chính điện có các bức tranh vẽ kể lại cuộc đời đức Phật Thích Ca. Trần chính điện được trang trí bốn bức bích họa lớn theo chủ đề: Phật Thích Ca đản sinh, xuất gia, đắc đạo và nhập niết bàn.
Một trong số bức tranh tường vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca trong chính điện
Và cũng như nhiều ngôi chùa Khmer khác, chùa Angkorajaborey không chỉ là nơi tu hành của các vị sư, là nơi thanh niên Khmer đến tu học, mà còn là một trung tâm văn hóa. Hàng năm, lễ hội Ok Om Bok (rằm tháng 10 âm lịch) là lễ hội lớn nhất của chùa.
144. SẮC TỨ QUAN ÂM CỔ TỰ - Cà Mâu
Chùa tọa lạc ở số 84/14 đường Rạch Chùa, phường 4, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. ĐT: 0780.831370. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Hòa thượng Tô Quang Xuân dựng vào giữa thế kỷ XIX, bấy giờ chỉ là một am nhỏ để ngài tu hành và chữa bệnh cho dân. Sau ngài về tu ở chùa Kim Chương (Gia Định) lấy pháp hiệu là Thượng Trí hạ Tâm. Vua Thiệu Trị đã sắc phong Hòa thượng cho ngài năm 1842 và sắc tứ chùa Quan Âm.
Kiến trúc chùa hiện nay được các Hòa thượng Thích Thiện Tường và Thích Thiện Đức xây dựng năm 1936.
Năm 1842 năm Thiệu Trị thứ II, Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, triều Nguyễn đã xuống chiếu sắc phong cho ngôi chùa của ông sáng lập với tên gọi là "Sắc Tứ Quan Âm Cổ Tự". Hiện nay nhiều hiện vật như tượng, hoành phi, câu đối và nhiều đồ thờ phụng khác như những di vật văn hóa Phật giáo của thời kỳ khẩn hoang. Đó là những hiện vật có giá trị về mặt lịch sử và mỹ thuật độc đáo còn được gìn giữ đến ngày nay.
Tưởng cũng nên nhắc lại Chiếu vua ban thuở nào :
Chiếu rằng :
Trẫm nghĩ chốn kỳ duyên mậu thạnh trăm hoa đua nở đầy cành, cảnh sắc ta bà.
Hương thủy bao trùm hoa tạng muôn xưa không diệt không sanh,
Bờ bỉ vơi vơi từng nghe nương một cành lau mà đến trời Tây vời vợi sang qua nhờ chiếc thuyền Từ đã trưng việc cổ để nghiệm đời nay,
Vừa đọc tố chương bỡ ngỡ ve vang trước mắt,.
Duyệt xem văn sớ từng ngày đã cỡi hạc quy tiên.
Người linh địa cảnh nên linh, vương pháp tâm đồng Phật pháp.
Triều đình không có chi hơn kính phong hòa thượng và ân ban gấm vóc,
Lễ kỳ siêu cho người quan thân nơi cảnh lạc ban.
Giờ đây người đã viên tịch nơi chùa danh thắng Kim Chương.
Hỡi ơi !
Tiên cảnh không trần thiên đường có nẻo,
Vinh hạnh thay ! Kính tỏ tấm lòng.
Hoàng thượng ân ban một đạo và gấm vóc đôi cây gọi là ân huệ triều đình làm sáng tỏ công đức của ngài.
Khả kính thay !
Hoàng triệu Thiệu Trị đệ nhị niên
Nhâm Dần niên 1842 Tháng 6 mùng 3.
Trong khuôn viên chùa có tháp mộ của Hòa thượng Thích Trí Tâm, một danh tăng ở miền Nam, với nhiều truyền thuyết về ngài, biết trước những việc sắp xảy ra và chữa lành những bệnh nan y cho nhiều người và thú vật.
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên thủy
và Phật giáo của các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có
ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2005, hiện có gần 10 triệu tín đồ Phật giáo [1], còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử[2] và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường...
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189[3].
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt"[3], từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa[3], Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20,
mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát
triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan
trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu [4].
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
- từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
- thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
- từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
- từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông.
(WIKIPEDIA)
(WIKIPEDIA)
II. NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Tuy nằm trong khu vực Đông Nam Á cũng như thuộc về những nước Phật giáo Nam truyền về mặt địa lí, nhưng Việt Nam được xếp vào những nước theo Phật giáo Đại thừa, nghĩa là Phật giáo Bắc truyền. Từ thế kỉ thứ nhất đến thế kỉ thứ 9, Bắc Việt trực thuộc Trung Quốc và đã thừa kế truyền thống Nho giáo và Phật giáo Đại thừa từ xứ này - và cùng với Phật giáo, nghệ thuật Phật giáo cũng được truyền bá tại Việt Nam.
Tại miền Nam Việt Nam hiện nay - thời xưa một phần thuộc về vương quốc Phù Nam, một phần thuộc về vương quốc Champa - chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ du nhập trực tiếp bằng đường biển. Vì vậy, Phật giáo Đại thừa đã được biết đến rất sớm, nhưng tôn giáo chính ở đây vẫn là Ấn Độ giáo.
Phong cách nghệ thuật "Ấn Độ hóa" tại miền Nam - vốn có nhiều điểm giống với nghệ thuật Khmer thời kì Angkor. Cả hai đều chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Java (Indonesia) - tồn tại đến thế kỉ 15, khi Champa bị Việt Nam xâm chiếm (1471), và cuối cùng, bị tiêu diệt hoàn toàn vào khoảng 1720. Nhiều di tích nghệ thuật của vương quốc Champa còn tồn tại, ví dụ như một số đền thờ (tháp Chàm) và hình tượng bằng đá cát. Ngoài ra, gỗ cũng sớm được dùng cho những tác phẩm nghệ thuật. Di tích cổ nhất là một bức tượng Phật bằng gỗ, được tạc trong thế kỉ thứ 6 và hiện đang được lưu giữ trong viện Bảo tàng Lịch sử tại Saigon.
Đời nhà Mạc (1527-1592) và nhà Hậu Lê (1533-1788) được xem là thời kì vàng son của nghệ thuật Phật giáo. Tượng Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt tại chùa Bút Tháp được nghệ nhân Trương Thọ Nam đúc vào năm 1656 là một trong những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo quan trọng nhất của Việt Nam. Tuy có khác chút ít về chi tiết, nhưng tượng Quán Thế Âm tại chùa Bút Tháp có thể được xem là được đúc theo một mô hình Ấn Độ. Đây là bức tượng được triều đình cung tiến cho chùa, nên có sự đầu tư lớn và là bức tượng duy nhất trong hệ thống tượng cổ Việt Nam có ghi niên đại năm tạc, danh tính người tạc. Trên tượng có ghi: "Tuế thứ Bính Thân niên, thu nguyệt, cốc nhật doanh tạo. Nam Đông Giao Thọ nam tiên sinh phụng khắc". Tượng phối hợp cả hai dạng xuất hiện của Quán Thế Âm, đó là Quán Thế Âm Thập nhất diện đại bi thế tự tại (zh. 十一面大悲世自在, sa. ekādaśamahākāruṇika-lokeśvara) với 8 tay và Thiên thủ thiên nhãn thế tự tại (zh. 千手千眼世自在, sa. sahasrabhuja-lokeśvara) với gần 1000 cánh tay, đồng thời, trong lòng mỗi bàn tay đều có chạm một con mắt, làm cho bức tượng mang ý nghĩa kép.
Những cánh tay ở đây vừa là ánh hào quang độ lượng của Phật, vừa tượng trưng cho những bàn tay dang ra cứu vớt đời, vừa là những con mắt thấu suốt coi sóc đến chúng sinh. (Riêng tượng Quan Âm ở chùa Mễ Sở, Hưng Yên thì có hơn 1000 cánh tay và mắt). Truyền thuyết kể lại rằng, khi nhìn nỗi khổ của chúng sinh trong địa ngục, ngài kinh hoảng đến mức đầu vỡ tung thành 10 mảnh. A-di-đà, vị Phật đỡ đầu của ngài, biến mỗi mảnh đầu vỡ đó thành một đầu (hoặc gương mặt) nguyên vẹn. 9 gương mặt hiền hậu, gương mặt thứ 10 là hung tợn vì người ta cho rằng, với một gương mặt hung tợn Bồ Tát dễ xua đuổi các loại tà ma.
Gương mặt thứ 11 (hoặc nguyên hình tượng) là Phật A-di-đà. Trong tượng "nghìn tay nghìn mắt" (một con số lí tưởng không thể thực hiện được) thì mỗi tay của Quán Thế Âm cầm một con mắt, tượng trưng cho lòng đại bi của ngài, vốn không loại chúng sinh nào ra; cho biết là lòng quan tâm của ngài đi đến mọi nơi và ngài có đủ phương tiện để cứu độ tất cả chúng sinh đúng theo lời nguyện của một vị Bồ Tát. (Xem chi tiết bài Tượng Quan Âm chùa Bút Tháp).
Việt Nam hiện có 14.775 ngôi chùa, chiếm 36% tổng số di tích Việt Nam. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, một số chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần (điển hình là thờ các vị thiền sư: Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Trần Nhân Tông và Lý Thần Tông), thờ tam giáo (Phật – Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam tổ ...[1]Tại miền Nam Việt Nam hiện nay - thời xưa một phần thuộc về vương quốc Phù Nam, một phần thuộc về vương quốc Champa - chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ du nhập trực tiếp bằng đường biển. Vì vậy, Phật giáo Đại thừa đã được biết đến rất sớm, nhưng tôn giáo chính ở đây vẫn là Ấn Độ giáo.
Phong cách nghệ thuật "Ấn Độ hóa" tại miền Nam - vốn có nhiều điểm giống với nghệ thuật Khmer thời kì Angkor. Cả hai đều chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Java (Indonesia) - tồn tại đến thế kỉ 15, khi Champa bị Việt Nam xâm chiếm (1471), và cuối cùng, bị tiêu diệt hoàn toàn vào khoảng 1720. Nhiều di tích nghệ thuật của vương quốc Champa còn tồn tại, ví dụ như một số đền thờ (tháp Chàm) và hình tượng bằng đá cát. Ngoài ra, gỗ cũng sớm được dùng cho những tác phẩm nghệ thuật. Di tích cổ nhất là một bức tượng Phật bằng gỗ, được tạc trong thế kỉ thứ 6 và hiện đang được lưu giữ trong viện Bảo tàng Lịch sử tại Saigon.
Đời nhà Mạc (1527-1592) và nhà Hậu Lê (1533-1788) được xem là thời kì vàng son của nghệ thuật Phật giáo. Tượng Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt tại chùa Bút Tháp được nghệ nhân Trương Thọ Nam đúc vào năm 1656 là một trong những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo quan trọng nhất của Việt Nam. Tuy có khác chút ít về chi tiết, nhưng tượng Quán Thế Âm tại chùa Bút Tháp có thể được xem là được đúc theo một mô hình Ấn Độ. Đây là bức tượng được triều đình cung tiến cho chùa, nên có sự đầu tư lớn và là bức tượng duy nhất trong hệ thống tượng cổ Việt Nam có ghi niên đại năm tạc, danh tính người tạc. Trên tượng có ghi: "Tuế thứ Bính Thân niên, thu nguyệt, cốc nhật doanh tạo. Nam Đông Giao Thọ nam tiên sinh phụng khắc". Tượng phối hợp cả hai dạng xuất hiện của Quán Thế Âm, đó là Quán Thế Âm Thập nhất diện đại bi thế tự tại (zh. 十一面大悲世自在, sa. ekādaśamahākāruṇika-lokeśvara) với 8 tay và Thiên thủ thiên nhãn thế tự tại (zh. 千手千眼世自在, sa. sahasrabhuja-lokeśvara) với gần 1000 cánh tay, đồng thời, trong lòng mỗi bàn tay đều có chạm một con mắt, làm cho bức tượng mang ý nghĩa kép.
Những cánh tay ở đây vừa là ánh hào quang độ lượng của Phật, vừa tượng trưng cho những bàn tay dang ra cứu vớt đời, vừa là những con mắt thấu suốt coi sóc đến chúng sinh. (Riêng tượng Quan Âm ở chùa Mễ Sở, Hưng Yên thì có hơn 1000 cánh tay và mắt). Truyền thuyết kể lại rằng, khi nhìn nỗi khổ của chúng sinh trong địa ngục, ngài kinh hoảng đến mức đầu vỡ tung thành 10 mảnh. A-di-đà, vị Phật đỡ đầu của ngài, biến mỗi mảnh đầu vỡ đó thành một đầu (hoặc gương mặt) nguyên vẹn. 9 gương mặt hiền hậu, gương mặt thứ 10 là hung tợn vì người ta cho rằng, với một gương mặt hung tợn Bồ Tát dễ xua đuổi các loại tà ma.
Gương mặt thứ 11 (hoặc nguyên hình tượng) là Phật A-di-đà. Trong tượng "nghìn tay nghìn mắt" (một con số lí tưởng không thể thực hiện được) thì mỗi tay của Quán Thế Âm cầm một con mắt, tượng trưng cho lòng đại bi của ngài, vốn không loại chúng sinh nào ra; cho biết là lòng quan tâm của ngài đi đến mọi nơi và ngài có đủ phương tiện để cứu độ tất cả chúng sinh đúng theo lời nguyện của một vị Bồ Tát. (Xem chi tiết bài Tượng Quan Âm chùa Bút Tháp).
Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ "chiền" (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏)... Một số người cho rằng từ "chiền" có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật.
Khái quát
Theo câu tục ngữ Việt Nam "đất vua, chùa làng", các ngôi chùa đa số là thuộc về cộng đồng làng xã.[2] Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối bởi quan niệm phong thủy.
"Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi
bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ (hay tay
hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu hoặc có hình rồng, phượng, quy, xà
chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Nước thì
nên chảy quanh sang trái. Nếu đảo ky, thì mạch nước lại vào ở phía
trước. Trước mặt có minh đường hay không có đều được cả.
Các Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre, tranh cho đến gỗ, gạch, ngói...
Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốt nhất có thể
được. Vật liệu cũng như tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được
quyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là của "công đức". Người ta
tin là sẽ được hưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc
xây dựng chùa. Trên những cột gỗ lim
không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ tên người đóng góp. Ngoài ra các
tên này cũng được ghi ở các bàn thờ bằng đá hoặc trên các đồ sành, sứ như bát hương, bình hoa, chân đèn... trong một danh sách dài.
Ngày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là những
thời điểm có ý nghĩa trong đời sống nhân dân làng quê Việt Nam. Thường
có những nghi lễ đặc biệt trong những ngày này.Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa.
Phân loại theo cấu trúc
Chùa chữ Đinh
Chùa chữ Đinh (丁), có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường ở phía trước. Một số chùa tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Hà, chùa Bộc (Hà Nội); chùa Nhất Trụ, chùa Bích Động (Ninh Bình); chùa Trăm Gian (Hà Nội); chùa Dư Hàng (Hải Phòng),...Chùa chữ Công
Chùa chữ Công (工) là chùa có nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống. Tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Cầu (Hội An); chùa Keo (Thái Bình),...Chùa chữ Tam
Chùa chữ Tam (三) là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Chùa Kim Liên, chùa Tây Phương ở Hà Nội có dạng bố cục như thế này.Chùa kiểu Nội công ngoại quốc
Chùa kiểu Nội công ngoại quốc là kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường (có thể là nhà tổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía trong hình chữ Công (工), còn phía ngoài có khung bao quanh như chữ khẩu (囗) hay như ở chữ Quốc (国).Đây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúc chính. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sư và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan.
Chùa kiểu chữ Công (工) là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một Cột ở Hà Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh mang trong mình cả những nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu của kiến trúc. Nhưng những ngoại lệ như vậy không nhiều.
Kiến trúc
Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và không gian khác nhau, ở các phong cách kiến trúc địa phương. Chùa kiểu chữ Tam phổ biến hơn miền Nam hơn ở miền Bắc. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa của người Khmer xây theo kiến trúc của Campuchia và Thái Lan - vốn ảnh hưởng văn hóa của đế chế Khmer. Chùa của người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng.[3]Tam quan
Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt Nam, là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông.Sân chùa
Qua Tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng chùa. Trong sân chùa, đôi khi có các ngọn tháp được xây dựng ở đây như ở chùa Dâu, chùa Thiên Mụ.Bái đường
Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường có thể đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông. Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào qui mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.Chính điện
Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của điện thờ Phật ở Việt Nam.Hành lang
Chạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường là hai gian hành lang, tạo thành một nhà ba gian.Hậu đường
Qua nhà chính điện, theo đường hành lang ta đến nhà tăng đường (còn gọi là nhà hậu đường), cũng còn gọi là nhà tổ. Nhà hậu đường ở một số chùa trong miền nam Việt Nam liền sát sau nhà chính điện, ngay sau phía bàn thờ Phật.Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác chuông lại ở trên nhà tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang...
Ngoài công trình chính, chùa Việt Nam thường có vườn cây, vườn hoa được trồng và chăm chút cẩn thận. Nhiều chùa có cả giếng, ao, hồ sen...
Bài trí tượng thờ trong chùa
Do lịch sử truyền nhập Phật giáo ở Việt Nam, phần lớn chùa Việt Nam là chùa Đại thừa. Do đó, ở nhà chính điện cũng như các tòa nhà khác trong chùa, chúng ta thấy có nhiều tượng Phật, Bồ Tát cùng với các tượng thuộc những hệ phái Phật giáo khác.Tượng bày trong chính điện
Chính điện bao giờ cũng là nơi trung tâm của sự thờ cúng trong chùa. Ở đây có nhiều lớp bàn thờ làm thành bậc từ cao xuống thấp. Vị trí các tượng được thay đổi linh hoạt theo từng chùa. Có những chùa có rất nhiều tượng như chùa Mía ở Hà Tây, có tới 278 pho tượng, chùa Trăm Gian ở Hà Tây có 153 pho tượng... Các lớp bàn thờ được sắp xếp theo nguyên tắc sau: lớp bàn thờ cao nhất ở sâu trên cùng giáp mái chùa, sau đó các lớp bàn thờ đặt tượng cứ thấp dần, tiếp sau lớp bệ thờ cuối cùng bao giờ cũng là hương án. Nguyên tắc bài trí khá uyển chuyển và linh hoạt đối với mỗi chùa. Tuy vậy, một số nét chung thường thấy như sau[cần dẫn nguồn]:- Tầng cao nhất của bàn thờ ở chính điện, sát vách, thường có 3 pho tượng gọi là "Tam thế Phật", tức là các vị Phật của ba thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Một trong các Phật quá khứ là Phật A Di Đà, Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mầu Ni, Phật tương lai là [Phật Tổ Như Lai]. Ba tượng Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc, tai dài, ngực có chữ vạn (+), mình có sắc hoàn kim sáng rực, mặt nguyệt. Ba pho tượng Tam thế được đặt ngồi trên tòa sen.
- Phía dưới ba pho tượng trên thường xếp ba pho tượng gọi là "Di Đà tam tôn" (còn gọi là "Tây phương tam thánh") gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm (tiếng Phạn: Avalokiteśvara) ở bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải. Tượng Phật A Di Đà thường có kích thước lớn hơn các tượng khác. Tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích cao 1,82 m, trong tư thế ngồi toạ thiền, không kể bệ và đài sen; tượng này ở chùa Bần Yên Nhân (Hưng Yên) cao tới 2 m, không kể bệ và đài sen. Hai tượng còn lại là hai vị thị giả giúp việc cứu thế cho Phật A Di Đà nên thường được tạc kiểu đứng chầu bên cạnh. Bộ "Di Đà tam tôn" được đặt ở tầng thứ hai để tỏ ý là mặc dù các ngài ở cõi Cực lạc nhưng vẫn có duyên và gần gũi với cõi Sa bà này, gần gũi với chúng sinh.
- Dưới ba pho tượng "Di Đà tam tôn", đã nói bên trên, thường là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni (còn gọi là Thích ca giáo chủ) ngồi giữa với tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải. Thích Ca ngồi trên tòa sen, còn Văn Thù và Phổ Hiền đứng trên tòa sen. Bộ ba tượng này thể hiện cảnh Phật Thích Ca Mầu Ni đang thuyết pháp. Có nhiều nơi, thay vào vị trí của Văn Thù và Phổ Hiền là hai đệ tử của Thích Ca là Ca Diếp và A Nan Đà khi Phật Thích ca còn đang ở thế gian.
- Ở lớp ban thờ thứ tư, chiếm vị trí ở giữa là tượng Cửu Long. Hai bên là tượng Đế Thích và Phạm Thiên. Tượng Cửu Long diễn tả Phật Thích Ca Mầu Ni lúc mới sinh. Theo truyền thuyết, khi ngài mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm. Tắm xong, ngài tự đi được bảy bước về phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn" (trên trời, dưới trời chỉ có một ta), xong ngài lại nằm xuống theo kiểu con trẻ. Đế Thích là vua chủ tể cõi trời dục giới, còn Phạm Thiên là vua chủ tể cõi trời sắc giới. Vì là vua nên tượng các vị được tạc theo chân dung hoàng đế: đội mũ miện, ngồi trên ngai.
Trên bàn thờ chính ở nhà thượng điện, ngoài tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, ở một số chùa còn có tượng Phật Di Lặc. Tượng được tạo với bộ mặt tươi cười, áo phanh, để hở cái bụng to. Thường hai bên tượng này, người ta còn đặt ở bên trái tượng Pháp hoa lâm Bồ Tát, bên phải là Đại diệu tướng Bồ Tát, gọi chung là Di Lặc Tam Tôn. Ngoài ra, ở một số chùa, sau lớp tượng Cửu long, người ta còn bày bốn pho tượng Tứ Thiên Vương.
Đó là bốn vị Thiên Vương phân nhau cai quản bốn cõi ở bốn phía núi
Tu-di, nơi ngự trị của Đế Thích. Có chùa lại bày tượng Tứ Bồ Tát vào vị
trí của Tứ Thiên Vương. Những chùa rộng rãi còn bày thêm tượng tám vị
Kim cương (Bát bộ Kim cương) ở hai bên sát chính điện, mỗi bên bốn vị, mặc giáp trụ và cầm vũ khí.
Tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay cũng thấy được bày bổ sung vào điện
chính. Cần lưu ý là các tượng Đức Quan thế âm có nhiều biến thể nhất
trong các chùa ở Việt Nam[cần dẫn nguồn] và các biến thể này hầu hết lại được diễn tả bằng hình tướng nữ: Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, Quan Âm Thị Kính. Cũng ở nhà chính điện, ở hai bên dãy bàn thờ chư Phật có thể gặp lại tượng thờ Thái thượng Lão quân ở bên phải và Khổng Tử ở bên trái. Đây là hai vị tổ của Đạo giáo và Nho giáo được thờ trong điện thờ Phật của các chùa để diễn tả tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" của xã hội Việt Nam xưa.
Tượng bày trong bái đường
Trong nhà tiền đường (gian bên cạnh của nhà bái đường) thường có hai tượng Hộ Pháp là những vị thần bảo vệ Phật Pháp, mặc giáp trụ, cầm vũ khí, đứng hoặc ngồi trên lưng sấu, một loại sư tử
huyền thoại. Kích thước của tượng rất lớn, đắp bằng đất thó. Dân gian
vẫn nói "to như ông Hộ Pháp" là cách nói so sánh với hai tượng này. Còn
một số thuyết khác, đã thành phổ biến, cho rằng tượng vị bên trái là
Khuyến thiện (gọi tắt là ông Thiện), tượng vị bên phải là Trừng ác (gọi
tắt là ông Ác). Theo thuyết này thì việc bày đối xứng hai tượng ông
Thiện-Ác nói lên sự tồn tại biện chứng của hai bản nguyên Thiện-Ác.
Ở phía Đông nhà bái đường có ban thờ tượng Thổ địa thần, có một số chùa đưa tượng này ra thờ riêng ở một miếu bên cạnh chùa. Ở một số chùa, bên cạnh thờ Thổ địa thần ta gặp bàn thờ Long thần.
Theo truyền thuyết, Long vương vốn lúc đầu định hãm hại Phật tổ, phá
hoại sự nghiệp của Phật, không cho thành chính quả nhưng đã không phá
nổi nên đã quy Phật và hộ trì Phật pháp.
Phía Tây nhà bái đường thường có pho tượng Thánh tăng. Tượng này được
bày nhiều nhất ở nhà tăng đường (nhà tổ). Ở nhà tổ, ngoài tượng các vị
sư từng trụ trì ở chùa, còn có bàn thờ đặt tượng Bồ Đề Đạt Ma, nhà sư Ấn Độ đến Trung Hoa vào khoảng đầu thế kỷ 6, được coi là người sáng lập Thiền Tông ở đó.
Ở nhà bái đường, đôi khi còn có các bàn thờ mười vị Diêm Vương, được gọi là thập điện Diêm Vương, tức mười vị vua cai quản mười tầng địa ngục.
Tượng bày ở nhà hành lang
Nhà hành lang có thể là hai dãy nhà chạy song song ở hai bên nhà
chính điện. Cũng có thể là hai dãy như vậy mà chung mái với nhà điện
chính và mang đúng nghĩa là hành lang, theo hai lối hành lang này có thể
đi tiếp vào hậu đường. Người ta thường bày tượng 18 vị La Hán, mỗi bên 9 tượng. Có chùa như chùa Keo ở Thái Bình, các tượng La Hán được bày ngay ở tiền đường. Còn ở chùa Tây Phương, Hà Tây lại là các tượng Tổ (trong 28 vị) người Ấn Độ mà Thiền tông Trung Quốc
thừa nhận. Kích thước tượng La Hán tương tự như người thực, các vị ngồi
trên tảng đá hay gốc cây, mỗi vị có một tư thế riêng, có dáng đang duy
nghĩ trầm mặc. Sự đông đảo và đa dạng của các pho tượng này đã cho ra
đời một thành ngữ "bày la liệt như La Hán". Cũng có khi tượng La Hán
được bày ở nhà hậu đường.
Tượng bày ở nhà tăng đường
Nhà tăng đường còn gọi là nhà hậu đường vì nằm sau chính điện, có thể
được xây tách rời hoặc liền sát với chính điện. Cách bố trí tượng thờ ở
nhà hậu đường cũng khá đa dạng, nhưng có thể hình dung một công thức
sau: Gian giữa của nhà tăng đường thường có bày tượng Thánh tăng (còn
gọi là A-nan-đà) và tượng Đức tổ Tây. Đức tổ Tây có pháp danh là Bồ-đề-đạt-ma. Ngài được coi là sư tổ thứ nhất của Thiền tông ở Trung Quốc.
Ở nhà hậu đường của một số chùa còn bày tượng Quan Âm tống tử và Quan Âm tọa sơn. Hai bên tượng Quan Âm tống tử thường có hai tượng Kim đồng và Ngọc Nữ, hay hai tượng Thiện tài và Long nữ.
Chùa Việt Nam còn có một điều đặc biệt đó là có các bàn thờ chư vị tức là các vị thánh của Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Đó là bàn thờ Mẫu, tức nữ thần mẹ. Có nhiều Mẫu như: Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa Phủ, Mẫu Liễu, Tứ pháp...
Trong một số chùa, đằng sau điện thờ Phật là hậu cung thờ một vị
thần. Các vị thần được thờ đều là những "nhân thần", có nghĩa là những
con người được coi là có thực, nhưng về sau nhờ học tập, tu luyện, đã có
tài thần thông biến hóa, nghĩa là có những khả năng của một vị thần.
Nhờ những khả năng đó, họ cứu dân giúp nước và vì vậy, họ được nhân dân
một vùng hay nhiều vùng thờ phụng.
Ngoài ra, các nhân vật lịch sử thực sự cũng được thờ tại chùa. Họ là
những ông quan, những danh sĩ hay những vị tướng đã có công với nước hay
với nhân dân một vùng như Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên thời nhà Trần được thờ ở chùa Dâu, Bắc Ninh hay Đặng Tiến Đông, vị tướng thời nhà Tây Sơn, được thờ ở chùa Trăm Gian, Hà Tây. Trong các chùa này, thường có tượng chân dung các nhân vật lịch sử được thờ.
Một hình thức thờ tự khác gắn với các chùa Việt Nam là thờ "hậu". Hình thức này có mối liên hệ với tập tục
thờ cúng tổ tiên đã hình thành lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người không có
con muốn được thờ cúng sau khi chết, đã tìm đến nhà chùa. Họ đóng góp
cho chùa một số tiền hay ruộng đất và xin nhà chùa cúng lễ họ sau khi
chết. Sự thờ cúng này gọi là thờ "hậu". Trong nhiều chùa, bàn thờ "hậu"
thường là một hành lang với những bát hương, đặt trước những tấm bia đá,
gọi là bia "hậu", trên đó có khắc rõ tên tuổi, quê quán của những người
không có con cháu nối dõi, thường là cả vợ và chồng, cùng với số tiền
họ đóng vào chùa và yêu cầu được thờ ở chùa. Ở chùa Cổ Lễ Nam Định, các bia hậu được gắn dày đặc trên tường hành lang bao quanh chính diện.
Các pháp bảo trong chùa
Bát
Bát là một trong 6 vật dụng của nhà sư. Cái bát bắt nguồn từ truyền thuyết kể về chiếc bát khất thực. Ở các tượng của Phật A-di-đà hay Thích Ca Mâu Ni có thể đôi khi bắt gặp cái bát trên hai tay.
Liên hoa
Liên hoa (hay hoa sen)
tượng trưng cho diệu pháp của đạo Phật, cùng một lúc có cả hoa và quả,
sinh nở ra nhiều điều tốt lành. Trong điêu khắc và hội họa Phật giáo,
hoa sen thường xuyên được xuất hiện. Chư Phật, Chư Bồ Tát đều ngồi trên
tòa sen và những người được Phật độ về cõi Tây phương Cực lạc đều ngồi trên tòa sen.
Chuông
Ở mọi thời đại, chuông
được dùng để thức tỉnh và gọi. Tiếng chuông ngân lên rồi tắt lụi, có
thể nghe được mà không bắt được. Sự vô thường của thế giới hiện hữu là
một tư tưởng của Phật giáo.
Mọi thứ đều sẽ tàn lụi, chúng hiện hữu trong cảm giác người quan sát
nhưng lại không có thực. Giống như tiếng chuông, mọi thứ đều nhất thời.
Theo nghi lễ Phật giáo, chuông được dùng để kêu gọi tín đồ cầu nguyện và
lễ Phật. Có hai loại chuông: chuông to dùng để treo trên gác Tam quan
hay ở nhà Bái đường, có thể nặng tới vài trăm kg; loại chuông thứ hai là chuông nhỏ hơn, tượng trưng, thường đặt ở tay một số vị thánh như Tứ đại Thiên Vương hay Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.
Gương
Chiếc gương tượng trưng cho sự hư không và nó phản ánh tất cả mọi yếu tố của thế giới hiện hữu nhưng lại thu lấy bản chất của chúng[cần dẫn nguồn].
Thế giới hiện tượng được phản chiếu đầy đủ nhưng toàn thể bản chất chỉ
là hư ảo, mọi sự chỉ là ý tưởng chủ quan mà người ta có vật ấy, Vì thế,
gương diễn tả sự phù du của ảo ảnh
(Wikipedia)
III. CÁC KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
A. CÁC CHÙA Ở HÀ NỘI
Cổng chùa có kết cấu 4 cột trụ vuông, 3 mái cong gắn vào sườn cột (ảnh). Phía ngoài, chính giữa cổng tam quan treo một bức hoành phi lớn được sơn son thếp vàng đề 4 chữ “Thiền thiên khải thánh” (trời thiền sinh thánh) nhắc mọi người về một chốn linh thiêng. Phía dưới là đôi câu đối được ghép bằng những mảnh sứ màu xanh lam theo lối khải thư, nét chữ mềm mại, bay bướm làm tăng thêm vẻ cổ kính, trang trọng cho đại danh lam cổ tự này.
Bước qua lớp cổng thứ hai, dọc đường thần đạo, hai hàng muỗm cổ thụ thẳng hàng, gốc rễ sù sì, mỗi gốc cỡ vài vòng tay ôm, hàng trăm năm vẫn thâm nghiêm rợp bóng. Thấp thoáng ẩn hiện trong nắng tinh khôi những hàng cau thẳng tắp, những cây đại cằn cỗi rụng hoa trắng gốc. Đến độ khai hoa, hương bưởi, hương cau quyện hoà, toả mùi thơm dìu dịu khiến người ta quên đi những mệt nhọc, toan tính đời thường.
Điểm nhấn về nghệ thuật kiến trúc phong thủy là nhà bát giác ở giữa sân chùa, mái chồng, 2 tầng, 16 mái với những đầu đao cong vút, uốn lượn rất thanh thoát. Các tầng mái được lợp ngói vẩy, rêu phong đã phủ lớp bụi thời gian lên những tầng mái này. Đỉnh nóc được đắp hoạ tiết 4 con phượng đang múa (phượng vũ) uyển chuyển. Tầng mái bên trên đắp 8 con rồng cuộn nhìn uy vũ mà bao dung, tượng trưng cho sự tồn tại của 8 triều vua nhà Lý.
Tầng mái phía dưới lại đắp hoạ tiết những dải sấu miệng ngậm các đầu đao, khiến cho các đầu đao được phô ra rất khéo, không bị cảm giác sắc nhọn, mà rất hài hoà. Dưới mỗi đầu đao là các đầu bẩy có gắn những bức cốn được chạm khắc hình rồng, phượng ẩn hiện trong mây với các hoạ tiết vô cùng tinh xảo, mềm mại. Tường phía trong nhà bát giác là những bức thư hoạ, nét bút có thần với nhiều chủ đề phong phú, có giá trị nghệ thuật cao.
Trong chùa có 198 pho tượng lớn nhỏ, tiêu biểu là tượng Lý Thần Tông (1128 - 1138) ngồi trên ngai vàng và pho tượng Từ Đạo Hạnh đan bằng mây phủ sơn bên ngoài. Chùa Láng còn có 15 tấm bia đá, nổi bật là tấm bia đá xanh có niên đại Thịnh Đức thứ tư (1656) cao 1,4 mét, rộng 0,8 mét. Trán bia có hoa văn lưỡng long chầu nguyệt, hai diềm bia chạm phượng chầu hoa sen và hai tiên nữ với đôi cánh rướn bay lên trời xanh. Tấm bia này xứng đáng được coi là một kiệt tác điêu khắc nghệ thuật đá thời Lê. Trước đây, chùa còn cả cuốn kinh bằng đồng lá (bát diệp đồng thư) của vua Lý thường dùng để tụng niệm, nay đã thất lạc.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh vốn sinh ra trên đất Láng, tu hành ở chùa Thầy (Sài Sơn), đầu thai thác hóa làm con Sùng Hiền Hầu (em ruột Vua Lý Nhân Tông), được Vua Lý Nhân Tông dưỡng dục rồi truyền ngôi, trở thành Hoàng đế Lý Thần Tông. Chùa Láng do Vua Lý Anh Tông (1138-1175) cho xây dựng để thờ tiên đế và tiền kiếp của ngài, để đến ngày nay vẫn còn lưu truyền câu ca dao: “Nhớ ngày mùng bảy tháng ba/ Trở về hội Láng trở ra hội Thầy”.
2- CHÙA PHỤNG THÁNH- Đống Đa
Sau một thời gian tồn tại lâu dài, đến thời Tây Sơn, di tích nằm trong khu vực chiến trường Đống Đa, nên chùa bị hủy hoại. Sau cơn bin hòa, đến thời Nguyễn, chùa được phục hồi vào năm Ất Mão (1855) và năm Ất Sửu (1865). Đến đêm 26-12-1972 chùa bị bom B52 Mỹ phá sập khu chùa chính. Năm 1973 nhà sư Đàm Ánh trụ trì tại chùa đã tiến hành xây dựng lại di tích như hiện nay.
Di tích được dựng trên một khu đất bằng phẳng và có một khuôn viên rộng lớn bao quanh. Chùa quay mặt về hướng nam, trông ra hồ nước rộng. Trước đây, đi tích bao gồm tam quan, chùa chính, nhà tổ, nhà ngang, sân sạch và khu vườn rộng bao quanh. Do sự phát triển dân cư, tam quan chùa không còn, nên lối vào chùa hiện nay là một lối nhỏ, cửa gỗ dẫn vào hành lang nhà tổ và nhà Mẫu.
Các bộ phận kiến trúc chùa Phụng Thánh được xếp đặt trên trục bắc – nam. Sau chùa chính là sân gạch vuông dẫn tới nhà Tổ, hai dãy dải vì nằm song song với hậu cung chùa và và sân gạch tới hiên trước nhà Tổ.
3. CHÙA MỘT CỘT-Ba Đình
Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây, ở cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội.Chùa có lịch sử 1500 năm, được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang.
Bảo tháp đài sen ở chùa Trấn Quốc
Vạn Bảo là hòn núi thấp của khu vực phía Tây kinh thành Thăng Long và nơi đây cũng là một trong 13 trại, tương truyền được tạo lập từ thời Lý, cùng với câu chuyện về ông Hoàng Lệ Mật được vua cho khai khẩn vùng đất này. Chùa Bát Tháp (hay chùa Vạn Bảo) được xây dựng từ rất lâu đời, kết quả khai quật khảo cổ học ở chùa trước đây đã cho thấy nhiều phế tích văn hoá vật chất thời Lý - Trần. Sự tồn tại của di tích suốt thời Lê được khẳng định qua dãy tường hậu cung của nhà Tổ được xây bằng những viên gạch vồ phổ biến của thời này. Tuy nhiên, hiện nay diện mạo của ngôi chùa là do lần tôn tạo của thời Nguyễn.
Bàn thờ Tam bảo
Hệ thống tượng tròn trong di tích gồm hai loại khác nhau: tượng Phật và tượng Mẫu, được làm bằng chất liệu gỗ và đồng. Niên đại tạo tác cũng không đồng nhất, một số ít ra đời vào cuối thời Lê, còn đa phần là những tác phẩm thuộc thời Nguyễn. Ở vị trí trang trọng nhất là bộ Tam thế, phía dưới là tượng Phật Thế tôn với hai bên là A-nan và Ca-diếp. Cuối cùng là toà Cửu Long với đức Phật Thích Ca sơ sinh bằng đồng đứng giữa.
Tượng có kích thước nhỏ, một chân bước lên phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất, thể hiện câu nói khẳng định vị trí tối thượng của nhà Phật: “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn” (Trên trời dưới đất, chỉ có ta là có quyền lực cao nhất).
Ban thờ Đức Chuẩn đề vương bồ tát
Ban thờ Đức chúa Ông
Ban thờ Đức Địa tạng vương bồ tát
Có thể thấy, trong các pho tượng của chùa, nổi bật hơn cả vẫn là bộ Tam thế gồm ba pho tượng tương đối giống nhau cả về kích thước và hình thức thể hiện. Những pho tượng này mang nhiều nét dân gian với cụm tóc kết hình ốc theo hàng ngang, mặt tượng có tính khái quát tượng trưng với đôi mắt khép hờ, sống mũi thẳng, nhân trung sâu. Tai tượng lớn, ngực nở và trên thân phủ áo hai lớp với những nếp chảy mềm mại, mang tính nghệ thuật cao.
Chùa Bát Tháp là vật chứng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu lịch sử của Hà Nội. Chùa còn là một di tích kiến trúc nghệ thuật bề thế, hài hoà và có những vẻ đẹp ít thấy trong các di tích tôn giáo ở Hà Nội cũng như cả nước.
6. CHÙA THẦN QUANG - Ba Đình
Chùa tọa lạc: Số 44, phố Ngũ Xã, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa Thần Quang thường được gọi là chùa Ngũ Xã. Chùa Thần Quang được xây dựng từ thế kỷ 18 thời hậu Lê (1428 – 1788 ) . Xưa chùa thuộc thôn Ngũ Xã , tổng Thuận Thành , huyện Vĩnh Thuận , thành Thăng Long. thuộc phố Ngũ Xã , phường Trúc Bạch , quận Ba Đình – Hà Nội .
Chùa thờ Phật và thờ Thiền sư Minh Không, tục truyền Thiền sư Minh Không là vị tổ nghề đúc đồng. Chùa Thần Quang do những người thợ thủ công thuộc 5 xã huyện Siêu Loại tỉnh Bắc Ninh cùng kéo nhau ra Kinh đô Thăng Long mở lò đúc đồng , xây dựng đình thờ ông tổ nghề đúc đồng và dựng chùa phục vụ cho tín ngưỡng . Chùa được xây dựng sau đình . Sau đó chùa đã bị hỏa hoạn , năm 1949 nhân dân xây dựng lại đến năm 1951 mới hoàn thành … Năm 1952, Hòa thượng Thích Mật Đắc cho xây dựng lại ngôi chùa hoàn toàn theo kiến trúc hiện đại.(Đoạn này không rõ. Không lẽ năm 1951 mới xây xong thì 1952 đập đi xây lại hay sao? Hay là năm 1952 xây thêm chùa mới theo kiến trúc hiện đại?)
Hiện chùa còn lưu giữ pho tượng Đức Phật A Di Đà bằng đồng ở chánh điện là pho tượng đồng cổ lớn nhất Việt Nam, được đúc từ năm 1949 – 1952, cao 3,95m; nặng 10 tấn, và tòa sen 96 cánh, cao 1,45m; nặng 3,9 tấn.Đây là một pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của nghề thủ công đúc đồng Ngũ xã .
Tam bảo
Ban thờ Đức Ông
Đức Hộ Pháp
Ban thờ Đức Thánh Hiền Ban thờ Đức Hộ Pháp
Đức Hộ Pháp
Ban thờ Đức Địa Tạng
7. CHÙA HOÈ NHAI-Ba Đình
Theo truyền thuyết ông giỏi pháp thuật và còn là tổ nghề đúc đồng. Đền còn tấm bia do Lê Đình Diên soạn năm Tự Đức 1855 nhân dịp trùng tu. Những ngày đầu toàn quốc chống Pháp, đền đã bị hủy hoại, năm 1954 mới trùng tu như ngày nay. Đền có nhiều tượng nghệ thuật truyền thần với các nhân vật lịch sử, phong cách điêu khắc thời Lê như nhóm tượng gỗ phủ sơn 4 tượng công chúa thời nhà Lý, 4 quan nhà Lý với phẩm phục triều đình, mỗi người một dáng vẻ thần thái khác nhau.
Đáng chú ý có 4 chân dung phù điêu đá tô màu: Từ Đạo Hạnh trong bia cao 1,3m, Đức Thánh Mẫu ngồi chống chân trên đài sen như tượng tròn dựa vào bia cao 82 cm, Đức Thánh phụ cao 93 cm đội mũ vuông, có dải trùm vai và sư Giác Hải đầu búi tó, râu ngắn cao 97 cm. Đây là những tượng đá cổ thế kỷ 16 mô ta theo hình thức tự nhiên, gần với người thực. Chùa còn có một quả chuông Bảo Tháp tự chung có niên đại Ất Hợi nhưng chưa rõ đời vua. Năm 1995, chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa.
Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.
Hiện chùa còn lưu giữ được nhiều tấm bia cổ, trong đó, bia dựng năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) có ghi lại nhiều việc chính như mua thêm đất, mở rộng khuôn viên và mở mang chùa.
Ngày nay chùa tọa lạc trên phố Hàng Đường (phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) . Đặc biệt hơn cả, đây là nơi duy nhất ở Hà Nội thờ Thái sư Trần Thủ Độ, vị khai quốc triều Trần (1225-1400).
1- CHÙA LÁNG - Đống Đa
Chùa Láng, hay còn gọi là Chiêu Thiền tự (Chữ Hán: 昭禪寺), là một ngôi
chùa ở làng Láng, Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Tên chùa có ý nghĩa
rằng: "Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền
sư Đại Thánh nên gọi là Thiền". Người Pháp gọi là Pagode des Dames.
Chùa có cảnh quan đẹp, được
miêu tả rõ trong tấm bia có niên đại Thịnh Đức thứ tư (1656): “Thật là
danh lam bậc nhất, thế gian không có chùa nào sánh kịp. Khí tốt phượng
thành bên hữu tỏa khắp, dòng sông Tô Lịch bên tả lượn vòng, Nhị Hà nghìn
dặm quanh kinh đô uốn khúc, như rồng xanh lớp lớp chầu về, Tản Viên dãy
núi đầy khí đẹp hướng vào, như hổ trắng đàn đàn đến họp”. Giờ đây, mặc
dù xung quanh luôn ồn ào xe cộ, nhưng chùa Láng vẫn là chốn thiền lặng,
bình yên, như tách hẳn bụi trần.
Cổng chùa có kết cấu 4 cột trụ vuông, 3 mái cong gắn vào sườn cột (ảnh). Phía ngoài, chính giữa cổng tam quan treo một bức hoành phi lớn được sơn son thếp vàng đề 4 chữ “Thiền thiên khải thánh” (trời thiền sinh thánh) nhắc mọi người về một chốn linh thiêng. Phía dưới là đôi câu đối được ghép bằng những mảnh sứ màu xanh lam theo lối khải thư, nét chữ mềm mại, bay bướm làm tăng thêm vẻ cổ kính, trang trọng cho đại danh lam cổ tự này.
Bước qua lớp cổng thứ hai, dọc đường thần đạo, hai hàng muỗm cổ thụ thẳng hàng, gốc rễ sù sì, mỗi gốc cỡ vài vòng tay ôm, hàng trăm năm vẫn thâm nghiêm rợp bóng. Thấp thoáng ẩn hiện trong nắng tinh khôi những hàng cau thẳng tắp, những cây đại cằn cỗi rụng hoa trắng gốc. Đến độ khai hoa, hương bưởi, hương cau quyện hoà, toả mùi thơm dìu dịu khiến người ta quên đi những mệt nhọc, toan tính đời thường.
Điểm nhấn về nghệ thuật kiến trúc phong thủy là nhà bát giác ở giữa sân chùa, mái chồng, 2 tầng, 16 mái với những đầu đao cong vút, uốn lượn rất thanh thoát. Các tầng mái được lợp ngói vẩy, rêu phong đã phủ lớp bụi thời gian lên những tầng mái này. Đỉnh nóc được đắp hoạ tiết 4 con phượng đang múa (phượng vũ) uyển chuyển. Tầng mái bên trên đắp 8 con rồng cuộn nhìn uy vũ mà bao dung, tượng trưng cho sự tồn tại của 8 triều vua nhà Lý.
Tầng mái phía dưới lại đắp hoạ tiết những dải sấu miệng ngậm các đầu đao, khiến cho các đầu đao được phô ra rất khéo, không bị cảm giác sắc nhọn, mà rất hài hoà. Dưới mỗi đầu đao là các đầu bẩy có gắn những bức cốn được chạm khắc hình rồng, phượng ẩn hiện trong mây với các hoạ tiết vô cùng tinh xảo, mềm mại. Tường phía trong nhà bát giác là những bức thư hoạ, nét bút có thần với nhiều chủ đề phong phú, có giá trị nghệ thuật cao.
Trong chùa có 198 pho tượng lớn nhỏ, tiêu biểu là tượng Lý Thần Tông (1128 - 1138) ngồi trên ngai vàng và pho tượng Từ Đạo Hạnh đan bằng mây phủ sơn bên ngoài. Chùa Láng còn có 15 tấm bia đá, nổi bật là tấm bia đá xanh có niên đại Thịnh Đức thứ tư (1656) cao 1,4 mét, rộng 0,8 mét. Trán bia có hoa văn lưỡng long chầu nguyệt, hai diềm bia chạm phượng chầu hoa sen và hai tiên nữ với đôi cánh rướn bay lên trời xanh. Tấm bia này xứng đáng được coi là một kiệt tác điêu khắc nghệ thuật đá thời Lê. Trước đây, chùa còn cả cuốn kinh bằng đồng lá (bát diệp đồng thư) của vua Lý thường dùng để tụng niệm, nay đã thất lạc.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh vốn sinh ra trên đất Láng, tu hành ở chùa Thầy (Sài Sơn), đầu thai thác hóa làm con Sùng Hiền Hầu (em ruột Vua Lý Nhân Tông), được Vua Lý Nhân Tông dưỡng dục rồi truyền ngôi, trở thành Hoàng đế Lý Thần Tông. Chùa Láng do Vua Lý Anh Tông (1138-1175) cho xây dựng để thờ tiên đế và tiền kiếp của ngài, để đến ngày nay vẫn còn lưu truyền câu ca dao: “Nhớ ngày mùng bảy tháng ba/ Trở về hội Láng trở ra hội Thầy”.
2- CHÙA PHỤNG THÁNH- Đống Đa
Chùa Phụng Thánh hiện ở ngõ
Cống Trắng, phố Khâm Thiên, phường Trung Phụng, quận Đống Đa, Hà
Nội.Chùa Phụng Thánh cũng như làng Phụng Thánh được lý giải bằng truyền
thuyết rất xưa liên quan đến vương triều Lý (1010 – 1225).Theo truyền
thuyết vào thế kỷ 12,
dưới triều Lý, có một công chúa rất xinh đẹp, nàng quan tâm đến đời
sống của nhân dân và phong cảnh đất nước. Một hôm nàng xin phép vua cha
cho đi du ngoạn trên một chiếc thuyền.
Khi con thuyền đưa nàng công chúa đến một chiếc hồ lớn thì gặp một cơn giông, làm thuyền bị đắm chết. Nhà vua bèn sai quân lýnh vớt xác, nhưng công chúa đã làm nhiều điều thiện giúp dân nên được hóa Phật. Để tưởng nhớ công lao của nàng, dân quanh vùng đã chọn mảnh đất quanh hồ để xây miếu thờ. Sau đó dân làng lại đóng góp công sức xây dựng nên ba gian nhà gỗ ở phía sau miếu để thờ Phật. Đó là tiền thân của di tích chùa Phụng Thánh.
Khi con thuyền đưa nàng công chúa đến một chiếc hồ lớn thì gặp một cơn giông, làm thuyền bị đắm chết. Nhà vua bèn sai quân lýnh vớt xác, nhưng công chúa đã làm nhiều điều thiện giúp dân nên được hóa Phật. Để tưởng nhớ công lao của nàng, dân quanh vùng đã chọn mảnh đất quanh hồ để xây miếu thờ. Sau đó dân làng lại đóng góp công sức xây dựng nên ba gian nhà gỗ ở phía sau miếu để thờ Phật. Đó là tiền thân của di tích chùa Phụng Thánh.
Sau một thời gian tồn tại lâu dài, đến thời Tây Sơn, di tích nằm trong khu vực chiến trường Đống Đa, nên chùa bị hủy hoại. Sau cơn bin hòa, đến thời Nguyễn, chùa được phục hồi vào năm Ất Mão (1855) và năm Ất Sửu (1865). Đến đêm 26-12-1972 chùa bị bom B52 Mỹ phá sập khu chùa chính. Năm 1973 nhà sư Đàm Ánh trụ trì tại chùa đã tiến hành xây dựng lại di tích như hiện nay.
Di tích được dựng trên một khu đất bằng phẳng và có một khuôn viên rộng lớn bao quanh. Chùa quay mặt về hướng nam, trông ra hồ nước rộng. Trước đây, đi tích bao gồm tam quan, chùa chính, nhà tổ, nhà ngang, sân sạch và khu vườn rộng bao quanh. Do sự phát triển dân cư, tam quan chùa không còn, nên lối vào chùa hiện nay là một lối nhỏ, cửa gỗ dẫn vào hành lang nhà tổ và nhà Mẫu.
Các bộ phận kiến trúc chùa Phụng Thánh được xếp đặt trên trục bắc – nam. Sau chùa chính là sân gạch vuông dẫn tới nhà Tổ, hai dãy dải vì nằm song song với hậu cung chùa và và sân gạch tới hiên trước nhà Tổ.
Chùa chính thờ Phật, trong chùa
lưu giữ 29 pho tượng tròn, trong số đó có 21 tượng hệ Phật điện, 8 pho
tượng Mẫu, 2 quả chuông đồng, đồ gốm sứ, đồ gỗ, các bức đại tự, câu đối
sơn son thếp vàng, bia đá.
Chùa vẫn bảo lưu được nhiều nét
đẹp của kiến trúc truyền thống, đó là sự hài hòa giữa kiến trúc và cảnh
quan, giữa các bộ phận kiến trúc với nhau. Các pho tượng cổ có giá trị
là những tác phẩm nghệ thuật điển hình của thời Nguyễn.
Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 16.11.1988.
3. CHÙA MỘT CỘT-Ba Đình
Chùa Một Cột
hay Chùa Mật (gọi theo Hán-Việt là Nhất Trụ tháp 一柱塔), còn có tên khác
là Diên Hựu tự (延祐寺) hoặc Liên Hoa Đài (蓮花臺, "đài hoa sen"), là một ngôi
chùa nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo
ở Việt Nam.Thuộc quận Ba Đình - Hà Nội
4- CHÙA TRẤN QUỐC -Ba Đình
Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây, ở cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội.Chùa có lịch sử 1500 năm, được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang.
Là
trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long vào thời Lý và thời Trần.
Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi tiếng là
chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và
khách tham quan, du lịch trong ngoài Việt Nam.
5- CHÙA BÁT THÁP- Ba Đình
Chùa Bát Tháp (Bát Tháp tự) còn
gọi là chùa Vạn Bảo ở chỗ số nhà 203 phố Đội Cấn hiện nay. Đây là ngôi
chùa của làng Vạn Phúc., phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội.Chùa Bát Tháp xây dựng trên đoạn
ngọn núi Vạn Bảo, một ngọn núi thấp ở kinh thành Thăng Long vào thời Lý
Trần.
Sau chùa đã khai quật được nhiều di vật thời Lý, Trần. Đến năm Gia Long thứ 2 (1803), dân làng Vạn Phúc hợp cả chùa trên núi Voi và chùa Vạn Bảo thành chùa Bát Tháp. Về tên gọi Bát Tháp, Biệt Lam Trần Huy Bá giải thích vì chùa có “ngọn tháp đế hình bát”. Chùa quay về hướng nam, có tam quan, tòa tam bảo, nhà tổ và khu vườn phía sau. Tòa tam bảo nằm trên vị trí cao nhất của ngọn Vạn Bảo Sơn, có mặt bằng hình chuôi vồ, gồm tiền đường 7 gian, 2 dĩ và hậu cung 3 gian.
Sau chùa đã khai quật được nhiều di vật thời Lý, Trần. Đến năm Gia Long thứ 2 (1803), dân làng Vạn Phúc hợp cả chùa trên núi Voi và chùa Vạn Bảo thành chùa Bát Tháp. Về tên gọi Bát Tháp, Biệt Lam Trần Huy Bá giải thích vì chùa có “ngọn tháp đế hình bát”. Chùa quay về hướng nam, có tam quan, tòa tam bảo, nhà tổ và khu vườn phía sau. Tòa tam bảo nằm trên vị trí cao nhất của ngọn Vạn Bảo Sơn, có mặt bằng hình chuôi vồ, gồm tiền đường 7 gian, 2 dĩ và hậu cung 3 gian.
Trong chùa còn giữ được nhiều
pho tượng, di vật, chạm khắc mang phong cách thế kỷ 19, trong đó có quả
chuông đúc năm Gia Long 2 (1803).
Lối lên Đại hùng bảo điện
Vạn Bảo là hòn núi thấp của khu vực phía Tây kinh thành Thăng Long và nơi đây cũng là một trong 13 trại, tương truyền được tạo lập từ thời Lý, cùng với câu chuyện về ông Hoàng Lệ Mật được vua cho khai khẩn vùng đất này. Chùa Bát Tháp (hay chùa Vạn Bảo) được xây dựng từ rất lâu đời, kết quả khai quật khảo cổ học ở chùa trước đây đã cho thấy nhiều phế tích văn hoá vật chất thời Lý - Trần. Sự tồn tại của di tích suốt thời Lê được khẳng định qua dãy tường hậu cung của nhà Tổ được xây bằng những viên gạch vồ phổ biến của thời này. Tuy nhiên, hiện nay diện mạo của ngôi chùa là do lần tôn tạo của thời Nguyễn.
Là một di tích thuộc loại hình kiến trúc Phật giáo,
chùa Bát Tháp nằm trên một khu đất cao theo hướng Nam, có một khuôn viên
rộng rãi, thoáng đạt. Tam quan của chùa khá đồ sộ, xây hai tầng tám mái
với lối vào được tạo dựng theo hai dạng thức khác nhau. Cửa chính có bề
mặt hình chữ nhật, phần dưới mở vòm cửa lớn trông thẳng vào Tiền đường.
Tầng trên mở nhiều cửa nhỏ trông ra bốn phía.
Long án chạm trổ
Hai bên cửa được xây giống nhau trên trổ những cửa tròn “sắc - không” theo giáo lý đạo Phật. Tiền đường có quy mô lớn, hàng hiên trước khá rộng do mái chảy dài. Ngoài hiên là hệ thống cột đá hình hộp chữ nhật được mài nhẵn, trên đá khắc những vế câu đối ca ngợi công đức nhà Phật và cảnh đẹp của chùa cùng những trang trí hình long, ly, quy, phượng:
Hai bên cửa được xây giống nhau trên trổ những cửa tròn “sắc - không” theo giáo lý đạo Phật. Tiền đường có quy mô lớn, hàng hiên trước khá rộng do mái chảy dài. Ngoài hiên là hệ thống cột đá hình hộp chữ nhật được mài nhẵn, trên đá khắc những vế câu đối ca ngợi công đức nhà Phật và cảnh đẹp của chùa cùng những trang trí hình long, ly, quy, phượng:
“Vạn thuỷ toàn lâm bát địa quảng khai chung tú khí
Bảo sơn củng phục tháp đài quang hiển chấn đông phong”.
Dịch nghĩa:
Muôn nước đổ về, bát đất mở to hun khí đẹp
Bảo sơn chầu phục, tháp đài sáng rõ dậy gió đông.
Hoành phi, câu đối trong chùa
Về nội thất, các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu “thượng chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ”. Ở đây, các con rường được chạm nổi hình lá ba chẽ, nét chạm sâu và nổi khối tạo cảm giác khoẻ, vững chãi cho kiến trúc. Trên những bức cốn, hình rồng cuốn thuỷ, rồng ổ, hổ phù cùng cây cỏ… được thể hiện với hình thức chạm nổi, phần nào đã làm giảm bớt vẻ khô cứng của khối kiến trúc gỗ.
Về nội thất, các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu “thượng chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ”. Ở đây, các con rường được chạm nổi hình lá ba chẽ, nét chạm sâu và nổi khối tạo cảm giác khoẻ, vững chãi cho kiến trúc. Trên những bức cốn, hình rồng cuốn thuỷ, rồng ổ, hổ phù cùng cây cỏ… được thể hiện với hình thức chạm nổi, phần nào đã làm giảm bớt vẻ khô cứng của khối kiến trúc gỗ.
Hậu cung gồm 3 gian, được làm theo kiểu “chồng rường,
giá chiêng”. Trên các xà thượng và hạ đều treo hệ thống y môn, cửa
võng, hoành phi… góp phần cho ngôi chùa thêm vẻ lộng lẫy.
Tam quan
Hệ thống tượng tròn trong di tích gồm hai loại khác nhau: tượng Phật và tượng Mẫu, được làm bằng chất liệu gỗ và đồng. Niên đại tạo tác cũng không đồng nhất, một số ít ra đời vào cuối thời Lê, còn đa phần là những tác phẩm thuộc thời Nguyễn. Ở vị trí trang trọng nhất là bộ Tam thế, phía dưới là tượng Phật Thế tôn với hai bên là A-nan và Ca-diếp. Cuối cùng là toà Cửu Long với đức Phật Thích Ca sơ sinh bằng đồng đứng giữa.
Tượng có kích thước nhỏ, một chân bước lên phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất, thể hiện câu nói khẳng định vị trí tối thượng của nhà Phật: “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn” (Trên trời dưới đất, chỉ có ta là có quyền lực cao nhất).
Có thể thấy, trong các pho tượng của chùa, nổi bật hơn cả vẫn là bộ Tam thế gồm ba pho tượng tương đối giống nhau cả về kích thước và hình thức thể hiện. Những pho tượng này mang nhiều nét dân gian với cụm tóc kết hình ốc theo hàng ngang, mặt tượng có tính khái quát tượng trưng với đôi mắt khép hờ, sống mũi thẳng, nhân trung sâu. Tai tượng lớn, ngực nở và trên thân phủ áo hai lớp với những nếp chảy mềm mại, mang tính nghệ thuật cao.
Nhìn chung, trên kiến trúc chùa Bát Tháp đã thấy rõ
cách tạo khối chắc khoẻ, gây được cảm giác mạnh mẽ đối với con người.
Bên cạnh đó, những đầu đao cong vút cùng các đề tài trang trí điểm xuyết
lại tạo nên sự nhẹ nhàng, bay bổng cho kiến trúc. Bố cục chung của toàn
bộ ngôi chùa cũng rất chặt chẽ, gắn kết và tôn đẩy lẫn nhau, đưa khách
tham quan đi từ sự choáng ngợp, ngỡ ngàng ban đầu đến sự yên tĩnh, thanh
u của khu chùa chính. Số lượng tượng tròn ở đây tuy không nhiều, kích
thước vừa phải, nhưng có giá trị thẩm mỹ cao. Là những pho tượng mang ý
nghĩa tôn giáo, nghĩa là phải tuân theo những quy định ngặt nghèo của lý
thuyết cổ xưa, song bằng sức lao động sáng tạo, nghệ nhân xưa đã tạo
nên nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị theo dòng điêu khắc dân gian
truyền thống.
Ngoài ra, di tích chùa Bát Tháp còn giữ gìn được khá
nhiều di vật có giá trị như: đôi hạc đồng, bát hương, chuông đồng “Bát
Tháp tự chung” đúc năm Gia Long thứ 2 (1803)… góp phần làm cho di tích
thêm sống động, phong phú.
Chùa Bát Tháp là vật chứng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu lịch sử của Hà Nội. Chùa còn là một di tích kiến trúc nghệ thuật bề thế, hài hoà và có những vẻ đẹp ít thấy trong các di tích tôn giáo ở Hà Nội cũng như cả nước.
6. CHÙA THẦN QUANG - Ba Đình
Chùa tọa lạc: Số 44, phố Ngũ Xã, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa Thần Quang thường được gọi là chùa Ngũ Xã. Chùa Thần Quang được xây dựng từ thế kỷ 18 thời hậu Lê (1428 – 1788 ) . Xưa chùa thuộc thôn Ngũ Xã , tổng Thuận Thành , huyện Vĩnh Thuận , thành Thăng Long. thuộc phố Ngũ Xã , phường Trúc Bạch , quận Ba Đình – Hà Nội .
Chùa thờ Phật và thờ Thiền sư Minh Không, tục truyền Thiền sư Minh Không là vị tổ nghề đúc đồng. Chùa Thần Quang do những người thợ thủ công thuộc 5 xã huyện Siêu Loại tỉnh Bắc Ninh cùng kéo nhau ra Kinh đô Thăng Long mở lò đúc đồng , xây dựng đình thờ ông tổ nghề đúc đồng và dựng chùa phục vụ cho tín ngưỡng . Chùa được xây dựng sau đình . Sau đó chùa đã bị hỏa hoạn , năm 1949 nhân dân xây dựng lại đến năm 1951 mới hoàn thành … Năm 1952, Hòa thượng Thích Mật Đắc cho xây dựng lại ngôi chùa hoàn toàn theo kiến trúc hiện đại.(Đoạn này không rõ. Không lẽ năm 1951 mới xây xong thì 1952 đập đi xây lại hay sao? Hay là năm 1952 xây thêm chùa mới theo kiến trúc hiện đại?)
Hiện chùa còn lưu giữ pho tượng Đức Phật A Di Đà bằng đồng ở chánh điện là pho tượng đồng cổ lớn nhất Việt Nam, được đúc từ năm 1949 – 1952, cao 3,95m; nặng 10 tấn, và tòa sen 96 cánh, cao 1,45m; nặng 3,9 tấn.Đây là một pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của nghề thủ công đúc đồng Ngũ xã .
Tam bảo
Ban thờ Gia tiên
Tượng Đức Phật A Di Đà
Ban thờ Đức Địa Tạng
7. CHÙA HOÈ NHAI-Ba Đình
Chùa Hoè Nhai tên chữ là Hồng Phúc tự ở số 19 phố Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà Nội. Đây là ngôi chùa cổ, tương truyền có từ đời nhà Lý.
Chùa Hòe Nhai trải qua nhiều lần sửa chữa lớn vào các năm 1687, 1899 và 1952. Phạm vi chùa trước kia khá lớn, sang thời Pháp thuộc bị thu lại như hiện nay.
Chùa được xây dựng theo kiểu chữ công. Phía trước là chính
điện, phía sau là nhà tổ và tăng phòng, xung quanh là hành lang. Thượng
điện còn giữ được nhiều bức chạm hình tứ linh và các cửa võng sơn son
thếp vàng. Chùa có nhiều tượng Phật được bày làm 6 lớp. Tổng số tượng ở
chùa Hòe Nhai gồm 68 pho, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như
đồng hun, gỗ quý, đất nện, được sơn son thếp vàng. Chùa có một quả
chuông mang niên hiệu Long Đức 3 (1734). Sân chùa có hai ngọn tháp cao 3 tầng. Trong chùa còn có đến 28 tấm bia, cổ hơn cả là bia dựng năm Chính Hoà 24 (1703) ghi rõ vị trí chùa ở phường Hoè Nhai, tại Đông Bộ Đầu tức Bến Đông.
Chính nhờ bia này mà giới sử học ngày nay xác định được vị trí trận
chiến thắng ngày 29 tháng 1 năm 1258 của quân nhà Trần mà sử chép là
chiến thắng Đông Bộ Đầu, đuổi quân Nguyên, giải phóng kinh thành có vị
trí ở khu vực gần chùa Hoè Nhai ngày nay.
Trong chùa có nhiều tượng cổ, cổ nhất là tượng Cửu Long (Thích Ca sơ
sinh). Đặc sắc nhất pho tượng kép hình một vị vua quỳ để tượng Phật trên
lưng. Tương truyền sau khi vua Lê Hy Tông
đuổi nhiều hòa thượng lên núi, sư Tông Viễn đã thức tỉnh vua, nên vua
Lê Hy Tông cho làm pho tượng này thể hiện sự sám hối của mình.
8. CHÙA LÝ QUỐC SƯ- Hoàn Kiếm
Đền Lý Quốc Sư là một ngôi đền cổ được xây cất từ năm 1131 thời nhà Lý và gọi là Lý Quốc Sư tự (李國師寺). Hiện nằm ở số 50 phố Lý Quốc Sư, quân Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Nơi đây thờ thiền sư Nguyễn Minh Không người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông. Ông được phong làm quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị (nay là Điềm Xá) huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình.
Khi ông mất, dân làng lập đền thờ gọi là "Lý Quốc Sư Tự". Năm 1932,
thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã bài trí thêm tượng Phật nên đền được
gọi là chùa Lý Quốc Sư.
Theo truyền thuyết ông giỏi pháp thuật và còn là tổ nghề đúc đồng. Đền còn tấm bia do Lê Đình Diên soạn năm Tự Đức 1855 nhân dịp trùng tu. Những ngày đầu toàn quốc chống Pháp, đền đã bị hủy hoại, năm 1954 mới trùng tu như ngày nay. Đền có nhiều tượng nghệ thuật truyền thần với các nhân vật lịch sử, phong cách điêu khắc thời Lê như nhóm tượng gỗ phủ sơn 4 tượng công chúa thời nhà Lý, 4 quan nhà Lý với phẩm phục triều đình, mỗi người một dáng vẻ thần thái khác nhau.
Đáng chú ý có 4 chân dung phù điêu đá tô màu: Từ Đạo Hạnh trong bia cao 1,3m, Đức Thánh Mẫu ngồi chống chân trên đài sen như tượng tròn dựa vào bia cao 82 cm, Đức Thánh phụ cao 93 cm đội mũ vuông, có dải trùm vai và sư Giác Hải đầu búi tó, râu ngắn cao 97 cm. Đây là những tượng đá cổ thế kỷ 16 mô ta theo hình thức tự nhiên, gần với người thực. Chùa còn có một quả chuông Bảo Tháp tự chung có niên đại Ất Hợi nhưng chưa rõ đời vua. Năm 1995, chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa.
9- CHÙA QUÁN SỨ:
Chùa Quán Sứ (舘使寺) là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương.
Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15.
Nguyên xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa, chỉ có mấy gian nhà tranh ở
phía Nam, dân làng dùng làm chỗ tế thần cầu yên gọi là xóm An Tập. Theo
sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vào thời vua Lê Thế Tông, các nước Chiêm Thành, Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống Việt Nam. Nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng Long.
Vì sứ thần các nước này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi
chùa cũng nằm trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Thời
gian đã xóa đi dấu khu nhà Quán Sứ nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại.
Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.
Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.
Tam quan của chùa có ba tầng mái, nằm giữa là lầu chuông. Qua tam quan là một sân rộng lát gạch,
bước lên 11 bậc thềm là tới chánh điện cao, hình vuông, xung quanh có
hành lang. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các pho tượng đều khá
lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ ba vị Tam thế Phật trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ Phật Thích ca, hai bên là A-nan-đà và Ca-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đứng giữa tượng Quan Âm và Địa Tạng. Gian bên phải chánh điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình.
Hai bên và đằng sau sân là các dãy nhà dùng làm thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng.
Chùa Quán Sứ có lẽ là một trong rất ít ngôi chùa ở Việt Nam mà tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ngôi chùa được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 20 và vì chùa đã trở thành trụ sở trung tâm của Tổng hội Phật giáo Bắc Việt, nay là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
ngôi Quốc tự chung của các thiện nam tín nữ trên đất Việt. Phân viện
Nghiên cứu Phật học thuộc Giáo hội và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam) cũng đặt ở đây.
Nửa thế kỷ nay, chùa Quán Sứ đã chứng kiến nhiều hoạt động quan trọng của Phật giáo Việt Nam,
trong đó có sự thống nhất tổ chức Phật giáo trong nước và sự hòa nhập
của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Chính nơi đây vào ngày 13 tháng 5 năm 1951 (mồng 8 tháng Tư năm Tân Mão) lần đầu tiên lá cờ Phật giáo thế giới do Thượng tọa Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện trên bầu trời Hà Nội.
10 . CHÙA CẦU ĐÔNG - Hoàn Kiếm
Chùa
Cầu Đông còn có tên là chùa Đông Môn, xưa thuộc tổng Hậu Túc, huyện Thọ
Xương. Tương truyền, chùa được dựng vào đời nhà Lý (1010-1225) và trải
qua nhiều lần trùng tu. Ngày xưa, ở đây có “Cầu Đông” - chiếc cầu đá bắc
qua sông Tô Lịch và “Cửa Đông” - cửa tường thành phía Đông của Hoàng
thành Thăng Long nên người xưa đặt tên cho chùa là Cầu Đông để dễ dàng
phân biệt với các ngôi chùa khác.
Cổng tam quan chùa Cầu Đông
Hiện chùa còn lưu giữ được nhiều tấm bia cổ, trong đó, bia dựng năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) có ghi lại nhiều việc chính như mua thêm đất, mở rộng khuôn viên và mở mang chùa.
Ngày nay chùa tọa lạc trên phố Hàng Đường (phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) . Đặc biệt hơn cả, đây là nơi duy nhất ở Hà Nội thờ Thái sư Trần Thủ Độ, vị khai quốc triều Trần (1225-1400).
Cổng tam quan chùa Cầu Đông.
Gian chính điện chùa Cầu Đông.
Tượng Thái sư Trần Thủ Độ và vợ là bà Trần Thị Dung.
Chùa Cầu Đông còn có một ban thờ và tượng Thái sư Trần Thủ Độ cùng vợ
ông là bà Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ vốn là nhà chính trị xuất sắc, có
công sáng lập và củng cố vương triều Trần. Năm 1258, khi quân Nguyên
Mông xâm lược nước Đại Việt lần thứ nhất, mặc dù đã ngoài 60 nhưng ông
vẫn khảng khái trả lời vua Trần Thái Tông: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất,
xin bệ hạ đừng lo!”. Chỉ 10 ngày sau đó, quân dân nhà Trần phản công đã
đánh tan giặc Mông Cổ. Cũng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
Mông lần thứ nhất ấy, bà Trần Thị Dung đã có công chỉ huy hoàng tộc rút
khỏi kinh thành Thăng Long, sau đó lại lo thu nhặt sắt thép, động viên
các hiệp thợ ngày đêm rèn đúc vũ khí cung cấp cho quân Trần. Lương thực,
thực phẩm để quân đội ăn no đánh giặc cũng do bà lo liệu. Với công lao
to lớn đó, vua Trần đã sắc phong cho bà là Linh Từ Quốc Mẫu.
Ba pho tượng Tam Thế của chùa Cầu Đông.
So với những ngôi chùa cổ khác ở Hà Nội, chùa Cầu Đông được biết đến là ngôi chùa còn lưu giữ được 60 pho tượng Phật cổ có giá trị. Cổ vật quan trọng nhất của chùa là ba pho tượng Tam Thế, thể hiện ở ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai. Cả ba pho đều được tạo tác vào nửa đầu thế kỷ XVIII. Đây là ba pho tượng đẹp, quý hiếm, đạt giá trị nghệ thuật cao, được thể hiện các nét trang trí như vòng đeo cổ, khuôn mặt nữ, mang đầy đủ quy chuẩn của tượng Phật thế kỷ XVII - XVIII ở Việt Nam. Trong thập điện còn có pho tượng Tuyết Sơn được điêu khắc đẹp, tinh tế. Đây là một pho tượng quý hiếm trong nghệ thuật tạo tác của người Việt.
Dãy tượng vua Thập điện.
Một số họa tiết trong kiến trúc chùa Cầu Đông.
11- CHÙA LIÊN PHÁI- Hai Bà Trưng
Chùa Liên
Phái là một ngôi chùa ở thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Chùa nằm trong ngõ Liên
Phái, phố Bạch Mai, thuộc quận Hai Bà Trưng. Liên Phái là tên của chùa
từ năm 1840, trước đó chùa có tên là Liên Hoa rồi Liên Tông.Theo kể lại,
chùa Liên Hoa được dựng lên sau khi Trịnh Thập (có tài liệu
ghi là Trịnh Hợp) (sinh năm 1696, mất năm 1733) - là cháu nội Chúa Trịnh Căn và là con rể vua Lê Hy Tông
(Trịnh Thập lấy người công chúa thứ 4) phát hiện một ngó sen sau khi
đào đất ở gò cao sau phủ (phường Hồng Mai, sau đổi tên thành Bạch Mai))
để xây bể cạn.
Trịnh Thập cho rằng đây là dấu hiệu của Phật
và tin rằng mình có duyên với đạo. Vì vậy, Trịnh Thập quyết định chuyển
phủ của mình thành chùa Liên Hoa, đồng thời theo đạo Phật, trở thành
Lân Giác Thượng Sỹ trụ trì trong chính ngôi chùa này. Theo tấm bia đá
khắc năm Tự Đức thứ 10 (1857)
hiện còn ở chùa, chùa được xây dựng vào năm Bảo Thái thứ 7 (tức 1726).
Năm 1733, Trịnh Thập (lúc đó mới 37 tuổi) mất và được chôn cất trong
Tháp Cứu Sinh xây ở chính nơi tìm thấy ngó sen. Sau đó, chùa được đổi
tên thành chùa Liên Tông. Đến năm 1840, chùa được đổi tên thành Liên Phái như hiện nay vì kiêng huý vua Thiệu Trị.
12. CHÙA KIM LIÊN -Tây Hồ
Chùa Kim Liên (Kim Liên tự) là ngôi chùa nằm trên một doi đất bằng phẳng trong thôn Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ), thành phố Hà Nội. Trong cuốn Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995
do Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương xuất bản tại Hà Nội năm 1989 đánh
giá Chùa Kim Liên là một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt
Nam[1].
Vào thời Lý, vua Lý Thần Tông (1128-1138) cho lập ở vị trí này một
cung điện mang tên cung Từ Hoa để công chúa Từ Hoa cùng các cung nữ
trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nằm bên trong khu vực có tên là Trại Tằm
Tang. Khi công chúa qua đời, trên nền cũ của cung điện dựng lên một ngôi
chùa.
Sang thời Trần, trại Tằm Tang đổi thành phường Tích Liên và chùa được
mang tên Đống Long. Đến thời Lê chùa mang tên Đại Bi. Tấm bia trong
chùa dựng thời vua Lê Nhân Tông ghi rõ: "năm Thái Hòa thứ nhất (tức năm
1443) dựng chùa, gọi là chùa Đại Bi".
Năm 1771 đời Lê Cảnh Hưng chùa được trùng tu, sửa chữa lớn và mang tên Kim Liên Tự (chùa Kim Liên).
Năm 1792, đời vua Quang Trung, chùa được xây dụng lớn, về diện mạo cơ
bản giống như hiện nay. Năm 1793 cũng đời vua Quang Trung chùa đã hoàn
tất về diện mạo.
Từ xa nhìn lại tam quan của chùa Kim Liên toát lên một vẻ đẹp thầm
kín và kiêu hãnh với kiến trúc gỗ độc đáo: một hàng bốn cột gỗ tròn, bên
trên có hệ con sơn đua rộng ra phía tầng dưới, thu hẹp dần ở tầng tên
đỡ bộ vì mái với những tàu đao vút cong. Đôi cột cái ở giữa to cao nâng
dải mái vươn lên tạo thành cổng lớn, cao rộng hơn hai cổng hai bên. Kiến
trúc tam quan của chùa còn có những bức chạm nổi trên mặt gỗ với hình
rồng, hình hoa lá tinh xảo, uyển chuyển.
Phong cách kiến trúc của chùa Kim Liên, có lẽ do ảnh hưởng từ nguồn cội là một vị trí cung điện và thờ một tôn thất nhà Lý, nên đượm dáng vẻ cung đình. Bố cục của chùa bao gồm một trục đối xứng từ tam quan đến nhà Tổ. Từ tam quan đi vào một khoảng sân dẫn vào ba nếp chùa xếp song song theo hình chữ "tam" (三), thứ tự từ chùa Hạ, chùa Trung quay mặt về hướng Tây đến chùa Thượng quay mặt về phía Đông. Ba lớp chùa được liên kết với nhau bằng tường gạch để trần có trổ cửa sổ tròn lồng chữ nhà Phật.
Mái chùa Kim Liên lợp ngói với cấu trúc hai tầng theo kiểu chồng
diêm. Mỗi nếp 8 mái, có tám tàu đao hình rồng uốn cong. Chân cột kê trên
đá tảng chạm hình hoa sen cách điệu.
13. CHÙA BÀ ĐANH - Tây Hồ
Chùa Bà Đanh là một ngôi chùa lâu đời có thật ở tây nam Hà Nội. Khi mới thành lập chùa rất đông đúc nhưng sau khi bị người Pháp di dời từ vị trí cũ (trường Chu Văn An-Hà Nội) thì trở nên vắng vẻ ít khách chiêm bái (vắng như chùa Bà Đanh).
Chùa Bà Đanh được xây dựng từ đời vua Lê Thánh Tông. Theo sách Tây Hồ chí, vua Lê Thánh Tông đã cho xây dựng một thiền viện (vừa là chùa, vừa là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ nam hồ Tây để cho người Chăm hành đạo gọi là thiền viện Châu Lâm.Chùa Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được cất lên cùng với viện Châu Lâm vào thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở làng Thụy Chương, Hà Nội. Vì để tránh húy miếu vua Thiệu Trị nên sau này Thụy Chương phải đổi thành Thụy Khuê. tức ở quận Tây Hồ. Vào thời đó, viện Châu Lâm được dùng làm chỗ ở cho những người Chiêm Thành được đưa về sau các cuộc chiến tranh, còn chùa Châu Lâm là nơi dành cho họ cúng lễ (vì hầu hết những người này đều theo đạo Phật).
Sau khi người Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ đã chiếm khu vực đất này để lập trường Trung học bảo hộ (1907) - nay là trụ sở của trường trung học Chu Văn An, vì thế chùa Châu Lâm phải dời về phía Tây Nam, ở cuối làng và đổi sang tên mới là chùa Phúc Lâm.
Dấu tích của chùa Phúc Lâm hiện vẫn còn giữ lại được tấm bia ghi rõ: Bà Đanh tự (chùa Bà Đanh). Theo tục truyền, Bà Đanh là một người đàn bà đã có công dựng lên chùa này, vì thế mà ngôi chùa mang tên bà. Từ khi viện Châu Lâm bị bãi bỏ, số người đến lễ bái chùa này ngày một ít đi. Chính vì thế mà không khí ngôi chùa này ngày càng trở nên vắng vẻ. Trong bài "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng có ghi lại cảnh vắng của chùa này:
Dấu bố cái rêu in nền phủ
Cảnh Bà Đanh hóa khép cửa chùa.
Cảnh vắng vẻ, thiếu người đến lễ bái của chùa Bà Đanh dần dần đã trở thành một hình ảnh để so sánh với bất cứ một cảnh vắng vẻ nào. “Vắng như chùa Bà Đanh” là một sự vắng vẻ yên tĩnh gợi nên vẻ lạnh lẽo, cô quạnh, thiếu hơi ấm của con người. Ca dao Hà Nội có câu:
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh.
Đến năm Thành Thái thứ 4 (1892), chùa một lần nữa lại được dời về ngõ 199 phố Thụy Khuê, hợp nhất với chùa Phúc Lâm thành chùa “Phúc Châu Tự”. Trên đại tự của chùa có tấm biển đề “Phúc Châu Tự”.Nay chùa thuộc số nhà 199B phố Thụy Khuê, chung với chùa Châu Lâm.
Là 1 trong 4 chùa nổi tiếng của Hà Nội xưa: chùa Bà Đá ở Nhà Thờ, chùa Bà Nành và Bà Ngô ở Nguyễn Khuyến, Trần Quý Cáp, chùa Bà Đanh ở Thụy Khuê (Wikimapia)
B. CÁC CHÙA Ở MIỀN BẮC
14. CHÙA TAM THANH -Lạng Sơn
Chùa Tam Thanh nằm trong động núi đá (nên còn được gọi tên khác là Động Tam Thanh) thuộc địa phận phường Tam Thanh Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Theo sử sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì chùa Tam Thanh có từ thời nhà Lê, thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, Châu Thoát Lãng.
Chùa Tam Thanh có một tượng phật A Di Đà màu trắng với nét mềm mại, uyển chuyển được tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ 15. Pho tượng này mang phong cách nghệ thuật thời Lê - Mạc (thế kỷ 16-17) tạc theo thế đứng trong hình một lá đề. Tượng cao 202 cm, rộng 65 cm, mặc áo cà sa buông chùm xuống tận gót, hai tay chỉ xuống đất trong thế ấn cam lộ[1].
Bên trong động Tam Thanh
Ngoài ra, Chùa còn có hồ Âm Ti với làn nước trong xanh bốn mùa với muôn trùng nhũ đá thiên tạo từ ngàn năm rất đẹp. Tam Thanh là quần thể 3 động Nhất Thanh, Nhị Thanh, Tam Thanh nằm trong Chùa Tam Thanh. Ðộng Tam Thanh nằm trong một dãy núi có hình đàn voi phủ phục trên mặt cỏ xanh. Hang động Tam Thanh ở lưng chừng núi. Cửa hang nhìn về hướng đông cao chừng 8m có lối lên là 30 bậc đá đục vào sườn núi, có nhiều cây cối um tùm che khuất ánh nắng. Vách động bên phải có khắc bài thơ của Ngô Thì Sĩ (1726-1780) khi ông làm đốc trấn Lạng Sơn.
Tam Thanh được mệnh danh là "Đệ nhất bát cảnh Xứ Lạng" (gồm 4 điểm là: động Nhị Thanh, động Tam Thanh, thành nhà Mạc và Nàng Tô Thị
15. CHÙA QUỲNH LÂM-QuảngYên
Chùa Quỳnh Lâm nằm trên đồi trong
dãy núi vòng cung Đồng Triều, xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng
Ninh. Chùa được khởi dựng từ thời Lý.
Chùa Quỳnh Lâm nằm trên đồi
trong dãy núi vòng cung Đồng Triều, xã Tràng An, huyện Đông Triều, tỉnh
Quảng Yên (nay là Quảng Ninh. Chùa được khởi dựng từ thời Lý. Chùa từng là nơi trụ trì của
nhiều vị Thiền sư danh tiếng như Quốc sư Nguyễn Minh Không (đời Vua Lý
Thần Tông), Thiền sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương, vị tổ thứ 2 của phái
Thiền Trúc Lâm (đời Vua Trần Minh Tông), Thiền sư Chân Nguyên (thời Hậu
Lê)… và trở thành một trung tâm Phật giáo của cả nước từ lúc Thiền sư
Pháp Loa lập Viện Quỳnh Lâm vào năm 1317.
Ở sân trước chùa có nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ Thiền sư Chân Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý cao 2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung cổ. Chùa hiện được Đại đức Thích Đạo Quang tổ chức trùng tu mở rộng. Năm 1995, chùa đã xây nhà bia và nhà thờ Trúc Lâm Tam Tổ. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Trên cở sở chùa Quỳnh Lâm cũ,
năm 1316 Pháp Pháp Loa cho xây dựng và thành lập viện Quỳnh Lâm với một
kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh vào năm 1329. Quỳnh Lâm trở thành “Đệ
nhất danh lam cổ tích của nước An Nam”. Đây là nơi trung tâm truyền kinh
giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo Phất, nhiều hội lớn có
tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội” Thiên Phật bảy ngày,
bảy đêm” (1352)…
Hiện ở sân trước chùa có
nhiều tháp cổ, trong đó có tháp Tuệ Quang là tháp mộ Thiền sư Chân
Nguyên dựng năm 1726. Đặc biệt, chùa còn giữ một tấm bia thời Lý cao
2,43m, ngang 1,54m khắc chữ hai mặt và một số di vật bằng đá, đất nung
cổ. Chùa hiện được Đại đức Thích Đạo Quang tổ chức trùng tu mở rộng. Năm
1995, chùa đã xây nhà bia và nhà thờ Trúc Lâm Tam Tổ. Chùa đã được Bộ
Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra
từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 tháng 2 âm lịch, nhưng không khí lễ hội
diễn ra trong suốt 3 tháng xuân với lòng thành kính của tất cả các tín
đồ Phật tử gần xa tín tâm về đây dâng hương lễ Phật.
16. CÁC CHÙA TRÊN NÚI YÊN TỬ - Quảng Yên
Quần thể di tích Yên Tử có 11 chùa, rất nhiều am, tháp trải từ Bí
Thượng (chân Dốc Ðỏ) đến chùa Ðồng. Ðường lên Yên Tử phải qua nhiều dốc
và suối. Núi Yên Tử (安子山, 1.068 m) là ngọn núi cao trong dãy núi Đông Triều vùng đông bắc Việt Nam.
Một góc Thiền viện Trúc Lâm
Tam quan Thiền viện Trúc Lâm (mặt sau)
Bàn thờ Trúc Lâm tam tổ Thiền viện Trúc Lâm
Núi thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Yên nay là Quảng Ninh. Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh "đất tổ Phật giáo Việt Nam". Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn.Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi... Hành trình lên Yên Tử ngày nay sẽ không vất vả như xưa nữa vì hệ thống cáp treo 1 lên gần Hoa Yên đã hoàn thành năm 2002 và hệ thống cáp treo 2 lên cổng trời (khu vực đỉnh Yên Tử) đã được đưa vào sử dụng từ mùa lễ hội 2008.
Núi thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Yên nay là Quảng Ninh. Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh "đất tổ Phật giáo Việt Nam". Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn.Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi... Hành trình lên Yên Tử ngày nay sẽ không vất vả như xưa nữa vì hệ thống cáp treo 1 lên gần Hoa Yên đã hoàn thành năm 2002 và hệ thống cáp treo 2 lên cổng trời (khu vực đỉnh Yên Tử) đã được đưa vào sử dụng từ mùa lễ hội 2008.
Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (調御覺皇陳仁宗, 1258-1308).
Ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm
nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo. Sau khi ông qua đời, người kế
tục sự nghiệp là Pháp Loa Đồng Kiên Cương (法螺同堅剛, 1284-1330), vị tổ thứ hai của dòng Trúc Lâm. Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn ra bộ sách Thạch thất mị ngữ
(石室寐語) và cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với
hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như Chùa Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở Đông Triều... Tại trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền Quang Lý Đạo Tái (玄光李道載, 1254-1334), vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm.
Khu vực Yên Tử bao gồm một số địa điểm và kiến trúc Phật giáo chính như:
Chùa Bí Thượng
Chùa Bí Thượng xưa được khởi dựng từ thời Hậu Lê, trên mặt nền kiến trúc hình chữ Nhất, từng được trùng tu, tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Trong thời kỳ 1945- 1954, chùa bị phá hủy hoàn toàn. Năm 1993, chùa được dựng lại trên mặt nền kiến trúc hình chữ Đinh, quay hướng Tây Nam, hệ khung bằng bê tông, tường xây gạch, mái lợp ngói Tây. Tiền đường gồm ba gian, hai chái nối với ba gian hậu cung. Hai dãy tả vu, hữu vu mỗi bên 9 gian, kiến trúc đơn giản, thờ Thập bát La Hán. Nhà tổ ở phía sau chùa chính, được dựng trên mặt nền hình chữ Nhất, gồm năm gian, mái lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi bít đốc, vì kèo nóc kiểu giá chiêng chồng rường con nhị.
Chùa Suối Tắm
Được dựng dưới chân núi, sát bên bờ suối Tắm, bố cục mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm ba gian hai chái bái đường và một gian hậu cung, mái lợp ngói mũi hài, có đầu đao ở bốn góc mái trang trí hình mây cuộn và rồng, trên bờ nóc trang trí hình rồng. Kiến trúc nhà tổ được bố trí trên mặt nền hình chữ Nhất, gồm ba gian hai chái, mái lợp ngói mũi hài, đầu đao bốn mái. Hai dãy Tả vu, Hữu vu mỗi bên có mái lợp ngói mũi hài, đầu đao ở bốn góc mái trang trí hoa văn mây xoắn.
Chùa Cầm Thực
Nằm về bên trái con đường vào Yên Tử. Chùa cũ được dựng từ thời Trần, bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm 6 gian, nay chỉ còn nền móng.
Dựa trên những dấu tích còn lại, chùa (mới) đã được xây dựng lại vào năm 1993, gồm các hạng mục: chùa chính, nhà Mẫu và các công trình phụ trợ. Chùa chính có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái, mái lợp ngói vẩy. Nhà Mẫu có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm ba gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói vẩy.
Chùa Lân
Chùa Lân xưa được dựng từ thời Trần. Đây vốn là một ngôi chùa lớn, với những công trình đồ sộ nhưng đã bị hủy hoại theo thời gian, nay chỉ còn lại một vài dấu tích trên mặt đất. Năm 2002,
Cây đại cổ thụ Thiền viện Trúc Lâm (chùa Lân)
Chùa Lân (Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử) đã được xây dựng lại, gồm các hạng mục chính điện, nhà tổ, lầu trống, lầu chuông, tam quan, nhà trưng bày, nhà khách, nhà tăng, nhà ni... Chính điện được xây theo khối vuông, chồng diêm hai tầng tám mái, lợp ngói vẩy. Nhà tổ ở phía sau chính điện, cao hơn tòa chính điện.
Chùa Giải Oan
Chùa Giải Oan xưa được dựng vào thời Trần. Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, chùa đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1994, nhân dân công đức xây dựng lại chùa, gồm các hạng mục: chùa chính, nhà Mẫu, nhà tổ, nhà tu lễ, nhà bếp và một số công trình khác.
Đường lên chùa Giải Oan
Qua suối Giải Oan
Từ chùa Giải Oan, chúng ta đi sang các chùa khác.Tiếp đó tới chùa Hoa Yên (các tên gọi khác: chùa Cả, chùa Phù Vân, chùa Vân Yên) nằm ở độ cao 543 m với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu hành trên Yên Tử. Phía trên độ cao 700 m là chùa Vân Tiêu lẩn khuất trong mây bên triền núi. Sau điểm này là chùa Đồng, tọa lạc trên đỉnh Yên Tử cao 1.068 m. Chùa được khởi dựng vào thời nhà Hậu Lê với tên gọi Thiên Trúc tự (天竺寺). Đầu năm 2007, chùa Đồng mới được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất (cao 3 m, rộng 12 m², nặng 60 tấn) đã được đưa lên đỉnh Yên Tử.
Cụm tháp Hòn Ngọc
Cụm tháp Hòn Ngọc nằm trên một gò đất khá rộng, bằng phẳng, gồm ba tháp đá và một tháp gạch. Các tháp đá được làm bằng đá gạo, một tầng, do các phiến đá được tạo mộng ghép lại với nhau. Bệ tháp làm theo kiểu thót ở giữa, giật cấp ra hai bên. Một mặt thân tháp có cửa vòm, bên trong đặt bát hương và bài vị. Mái tháp đua ra so với thân tháp, bốn diềm mái cong. Trên đỉnh tháp đặt một bình nước cam lồ.
Vườn tháp Huệ Quang (khu tháp Tổ)
Vườn tháp Huệ Quang nay chỉ còn 64 ngọn tháp và mộ, trong đó có 40 tháp mới được trùng tu năm 2002, 11 tháp đá, 13 tháp gạch, một số ngôi tháp đã bị đổ chỉ còn lại dấu tích.
Toàn cảnh tháp Huê Quang
Tháp Tổ Trần Nhân Tông hay còn gọi là Tháp Huệ Quang mặt bằng rộng khoảng 180m2, cao 10m, với 6 tầng, được ghép từ các phiến đá xanh, đặt ở vị trí trung tâm của vườn tháp. Sân tháp hình vuông, có tường bao quanh. Nền tháp xòe rộng, hình lục lăng, mặt ngoài chạm nổi hình sóng nước. Tầng bệ tháp tạc đài sen 102 cánh, chạm nổi trang trí hoa dây. Trong lòng tầng 2 của tháp đặt tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông, cao 62cm, bằng chất liệu đá cẩm thạch, trong tư thế một nhà sư ngồi thiền định, mình khoác áo cà sa hở ngực phải, các nếp áo chảy tràn ra mặt bệ tượng.
Am Thiền Định
Am Thiền Định xưa vốn là một ngôi tháp cổ đặc biệt ở Yên Tử, đứng đơn lẻ một mình, phía sau chùa Hoa Yên. Tháp xây bằng gạch đỏ tráng men xanh, bề mặt đúc nổi nhiều hoa văn và mặt thú lạ. Am Thiền Định nay chỉ còn lại dấu vết của nền móng cũ.
Chùa Một mái
Chùa Một Mái nằm nép mình bên sườn núi cao. Một nửa chùa ẩn sâu trong hang núi, nửa còn lại phô ra bên ngoài và chỉ có một mái. Không gian trong chùa rất hẹp. Kiến trúc chùa được làm bằng gỗ, mái lợp ngói ta. Xung quanh là hệ thống ván bưng, có hai cửa sổ chấn song, được bố trí ở giữa để tạo độ thoáng cho không gian bên trong.
Am Thung, Am Dược
Am Thung và Am Dược hiện nay chỉ còn là các phế tích. Dấu vết kiến trúc còn lại cho thấy, các am này được xây bằng đá. Am Dược có mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh, gồm ba gian chính điện và một gian hậu cung. Am Thung có mặt nền kiến trúc gồm ba gian bái đường và một gian hậu cung.
Chùa Bảo Sái
Chùa Bảo Sái nằm trên sườn núi, quay hướng Tây Nam. Chùa chính có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái bái đường và một gian hậu cung.
Đường lên chùa Bảo Sái
Chùa Vân Tiêu
Chùa Vân Tiêu toạ lạc trên sườn núi. Hai bên chùa có 2 dãy núi cao, tạo thành thế tay ngai bao bọc lấy chùa. Bên phải chùa có một dòng suối.
Toàn cảnh chùa Vân Tiêu, Yên Tử
Các hạng mục kiến trúc chính của chùa gồm: chùa chính, thiêu hương, nhà tăng, nhà bếp và một số công trình phụ trợ khác. Chùa chính có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái.
Chùa Đồng
Chùa Đồng nằm trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử, được đúc từ chất liệu đồng. Mặt bằng kiến trúc của chùa dạng chữ Nhất, kết cấu vững chắc, được đặt trên sập đồng, dạng chân quỳ, dạ cá. Dáng chùa như một bông hoa sen nở, ngự trên sập đồng.
Chùa Đồng, Yên Tử
Chùa quay hướng Tây Nam, diện tích khoảng 20m2, chiều cao từ mặt nền đến mái là 3,35m. Chùa được làm thành khối vuông bốn mái, lợp ngói mũi hài, bờ nóc và bờ giải không trang trí, hai đầu bờ nóc cùng bốn đầu đao là hình đầu rồng.
Những giá trị lịch sử - văn hóa đặc biệt của khu di tích đã đưa Yên Tử trở thành một chốn thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt.
+ Chùa Hoa Yên - Núi Yên Tử
Từ Hà Nội có thể đi xe ô-tô vượt quãng đường 125 km, qua thành phố Uông Bí thì rẽ vào đường Vàng Danh, đi tiếp khoảng 9 km thì rẽ trái. Có thể lên núi Yên Tử bằng hai cách.Chùa Hoa Yên được dựng từ thời Lý và được tôn tạo nhiều lần trong lịch sử. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam, gồm có các hạng mục: chùa chính, nhà tổ, tả vu, hữu vu, nhà khách, nhà ni, nhà bếp và một số công trình phụ trợ khác.
Chùa chính có mặt nền kiến trúc kiểu chữ
Công, vì kèo kết cấu, theo thức thượng giá chiêng chồng rường, hạ bẩy.
Nhà tổ có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm ba gian, hai chái, mái
lợp ngói mũi hài kép. Hai dãy tả vu, hữu vu kiến trúc giống nhau, dạng
hai tầng tám mái. Nhà khách gồm một gian, hai chái, tường hồi bít đốc,
mái lợp ngói mũi hài.
Đứng ở độ cao 1068 m trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn với những đảo nhỏ thấp thoáng trong Vịnh Hạ Long như một bức tranh, xa hơn là sông Bạch Đằng.
17. CHÙA VĨNH NGHIÊM – BẮC GIANG
Chùa Vĩnh Nghiêm ở làng Đức La xã Trí Yên huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, Việt Nam, còn được gọi là chùa Đức La, là một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ cho cả nước, nơi phát tích Tam Tổ phái Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam, một viên ngọc sáng trong các chùa cổ Việt Nam.
Trước kia, chùa Vĩnh Nghiêm thuộc xã Đức La, tổng Trí Yên, phủ Lang Giang, nay là thôn Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang nên còn gọi là chùa Đức La và lễ hội ở đây được gọi là lễ hội La. Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc nơi hợp lưu của sông Lục Nam và sông Thương (gọi là ngã ba Phượng Nhãn). Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc.
Văn bia chùa thời Trần viết: “Đức Tổ Điều Ngự
Pháp Loa khi mở tùng lâm này, còn mở cái chợ Đức La. Các vị vương thân
quốc thích và thập phương đàn Việt, phát tâm tậu ruộng đất ở tại bản xã
và các hạt khác các nơi, để cúng hương dâng tam bảo muôn đời. Chùa này
và chùa Sùng Nghiêm cả thảy 72 chốn tùng lâm, công đức sáng tạo, hợp khắc vào bia ở chùa Hoa Nghiêm núi Yên tử”. Một tấm bia chùa dựng khác viết: “Ðức tổ Điều Ngự (tức Trần Nhân Tông)
khi mở Tùng lâm này (tức chùa Vĩnh Nghiêm), mở cả chợ chùa. Các vị
vương thân quốc thích và khách thập phương đã phát tâm tậu nhiều ruộng
cúng cho chùa, gồm cả ruộng trong xã và ruộng ở các hạt khác nữa”.
Nguyên chùa Ngoạ Vân do sư Hiện Quang trụ trì, khi Hiện Quang viên tịch thì không còn nữa. Do Yên Tử là quê hương nhà Trần và nơi vua Trần Thái Tông lập phái Trúc Lâm ở đây nên Hương Vân Trần Nhân Tông thụ giới cả chùa Vĩnh Nghiêm và ở đây. Pháp Loa được ngài Hương Vân truyền pháp đã đi khắp nơi thuyết pháp, giảng bộ sách “Thiền Uyển Truyền Đăng Lục”. Khi Hương Vân viên tịch, Pháp Loa làm lễ hoả táng, xây tháp mộ ở núi Yên Tử, dâng tôn hiệu là “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật” gọi là Trúc Lâm đệ nhất Tổ. Rồi Pháp Loa về chùa Vĩnh Nghiêm trụ trì, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo, đào tạo Tăng đồ và xếp đặt Tăng chức, chỉ đạo các chùa trong cả nước. Pháp Loa cho đúc 1.300 pho tượng, được đặc trách định Tăng đồ, đã có hơn 15.000 tăng ni, đệ tử, trong đó có hơn 3.000 đắc pháp, mở 200 sở đường… Cho soạn lại các sách “Đoạn Sách Lục, Tham Thiền, Yếu Chỉ”. Năm 1330, Pháp Loa giao lại cho Huyền Quang đã sang chùa Quỳnh Lâm trụ trì, vài tháng sau thì viên tịch, được phong là “Tĩnh Chi Tôn Giả”, làm Trúc Lâm đệ nhị Tổ.
Về Huyền Quang, vốn người làng Vạn Tải thuộc bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh),
con của Lý Ôn Hòa (quan triều Lý Thần Tông), đỗ Trạng Nguyên thời Trần.
Khi còn đang làm quan, Huyền Quang hộ giá đến chùa Vĩnh Nghiêm gặp Pháp
Loa giảng đạo, thế là tỉnh ngộ, về triều hai lần dâng biểu từ quan được
Hương Vân giao trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm. Huyền Quang đã soạn các bộ
sách lớn: Chư Phẩm Kinh, Công Văn Tập,
cho in kinh Phật, phân phát cho người nghèo, viên tịch năm 1334, được
ban hiệu là “Trúc Lâm Đệ Tam Đại Tự Pháp Huyền Quang Tôn Giả”, làm Trúc
Lâm đệ tam Tổ. Như vậy, trước khi Hương Vân đến Yên Tử, Pháp Loa đến chùa Quỳnh Lâm,
thì đều đã trụ trì ở chùa Vĩnh Nghiêm. Cả ba vị Tam Tổ Trúc Lâm: Hương
Vân (Đệ nhất Tổ), Pháp Loa (Đệ nhị Tổ) và Huyền Quang (Đệ tam Tổ) đều
lấy chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm giảng đạo. Hiện nay, trong nhà Tổ đệ
nhất còn đủ ba tượng Trúc Lâm Tam tổ: trong khám là tượng Hương Vân Trần
Nhân Tông, bên ngoài là tượng Pháp Loa và tượng Huyền Quang. Nơi đây đã
là đất tổ của đạo Phật thời Trần, đào tạo rất nhiều Tăng đồ.
Sau này có một số vị sư từ Bắc vào Sài Gòn đã cho xây dựng một ngôi chùa Vĩnh nghiêm thứ hai tại số 339, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 7, Quận 3,Saigon. Đây là một ngôi chùa rất nổi tiếng tại Việt Nam. Hiện, ngôi chùa này còn nổi tiếng hơn cả ngôi chùa gốc - chùa Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).
18. CHÙA BỔ ĐÀ- BắcGiang
Chùa Bổ Đà có tên chính xác là chùa Quán Âm núi Bổ Đà hay Bổ Đà Sơn Quán Âm Tự (普陀山觀音寺), gọi tắt là chùa Bổ, còn có các tên gọi khác là chùa Quán Âm, Tứ Ân Tự ( 四恩寺 ), là một trong những ngôi chùa độc đáo nhất miền đất Kinh Bắc, là Trung tâm Phật giáo lớn của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Chùa toạ lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng (Bổ Đà sơn), phía Bắc dòng sông Cầu, thuộc địa phận xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang (xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh xưa).
Chùa Bổ là một trong những nơi còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền
thống Việt cổ. Chùa có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi
chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, vườn tháp đẹp và lớn nhất Việt
Nam, nhiều cổ vật có giá trị và kho tàng di sản Hán - Nôm
phong phú.
Đây cũng là nơi sơn thủy giao hòa, nhìn sông tựa núi, cảnh sắc, không gian nhuốm màu huyền thoại, xung quanh là đồi núi xóm làng bao bọc. Chùa thờ Tam giáo, trong đó có Quán Thế Âm Bồ Tát, Trúc Lâm Tam tổ (gồm Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang), Khổng Tử. Quần thể chùa Bổ Đà là một tập hợp di tích gồm: chùa cổ có tên là Bổ Đà Sơn (gọi tắt là chùa Bổ Đà, chùa Bổ; còn gọi là chùa Quán Âm), chùa chính Tứ Ân Tự, Am Tam Đức (xây dựng sau, vào thời Hậu Lê). Ngoài ra trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Đức Thánh Hóa (tức Thạch Tướng Đại Vương - có công giúp vua Hùng thứ 16 chống giặc ngoại xâm).
Câu chuyện truyền thuyết về sự ra đời của chùa Bổ Đà mang nhiều huyền bí. Tương truyền, vào khoảng thế kỷ thứ XI, dưới chân núi có một gia đình tiều phu tuy nghèo nhưng rất tốt bụng, chăm chỉ hiền lành, dân trong làng ai cũng quý mến. Hiềm một nỗi đã ngoài 40 tuổi mà họ vẫn chưa có con. Một hôm người chồng vác búa cắp dìu lên núi kiếm củi bỗng gặp một gốc cây thông già, mỗi nhát bổ ông lại niệm: “Quan thế âm Phật”.
Sau đó được 32 đồng tiền ở gốc cây, tự lấy làm lạ bèn đến vị cao tăng hỏi thì cao tăng bảo rằng: “Đức phật quan âm có 32 điều ứng”. Người tiều phu khấn cầu rằng: “Nhược bằng đức Phật quan âm phù hộ cho tôi sinh con trai, tôi xin dựng chùa thờ”.Quả nhiên sau đó người tiều phu có con trai thực, rồi dành dụm được ít tiền bèn dựng một ngôi chùa ngay gốc cây thông già, lợp gianh và tô một pho tượng Quan âm Tống Tử để hương khói phụng thờ. Sau dần dần nhiều người qua lại lễ bái, cầu việc gì cũng đều biến ứng, bèn trở nên nơi danh lam thắng cảnh, vì thế gọi tên là chùa ông Bổ. Vì là chùa thờ vị Phật Đà (Bụt Đà, có nguồn gốc từ chữ Buddha) đã ứng hiện giúp ông tiều phu (ông bổ củi) nên gọi là chùa Bổ Đà.
Cũng có cách giải thích khác rằng, Bổ Đà
là cách gọi chệch từ Phổ Đà - có nguồn gốc từ chữ Phật Đà. Đây là nơi
đức Quán Âm Bồ Tát
ứng hiện cứu đời nên còn được gọi là chùa Quán Âm. Sau này ,chùa bao
gồm cả chùa Tứ Ân, nên nó còn có tên Tứ Ân Tự (tên gọi của chùa chính
được gọi cho cả quần thể chùa bao gồm chùa Tứ Ân tự, chùa Quán Âm, chùa
Cao...).
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, dù nhiều cuộc chiến
tranh đã đi qua nhưng thật may mắn cho chùa Bồ Đà vẫn giữ nguyên được vẻ
cổ kính như thủa khai thiên.
19. CHÙA NON NƯỚC-Ninh Bình
Tại Việt Nam có ba chùa Non Nước tại các núi: Sóc Sơn ( Phú Thọ), Dục Thúy sơn ( Ninh Bình) và Ngũ Hành sơn ( Đà Nẵng)
Núi Non Nước (tên cổ là Dục Thúy Sơn), là một ngọn núi nằm ngay trên ngã ba sông Vân với sông Đáy, kẹp giữa 2 cây cầu Non Nước và cầu Ninh Bình. Núi là một tiền đồn nằm ở cửa ngõ phía đông thành phố Ninh Bình. Lối lên đỉnh Non Nước qua 72 bậc gạch đá, chia làm 5 cấp. Đỉnh núi tương đối bằng phẳng, cây cối xanh mát, rất thuận tiện nghỉ ngơi, giải trí cho khách tham quan.
Bên núi có chùa Non Nước và đền thờ danh sĩ Trương Hán Siêu đời Trần. Trên núi có hàng trăm bài thơ của các tao nhân mặc khách như: Trương Hán Siêu, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Thiệu Trị, Tự Đức, Phạm Sư Mạnh, Tản Đà, v.v.
Trương Hán Siêu là người có công đầu phát hiện và khai thác vẻ đẹp của núi Non Nước. Ông đặt tên núi là Dục Thúy Sơn
và là người đầu tiên lưu bút tích một bài thơ cho các thi sĩ đến thưởng
ngoạn, ngắm cảnh làm những bài thơ khắc vào đá. Ông đã viết bài “Dục
Thúy sơn Linh Tế tháp ký” (Bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy) nhân dịp
tháp này trùng tu.
Từ thời Lý, ngôi chùa này đã xuất hiện tháp là nơi thờ Phật. Trong tháp đặt một tượng Phật chính và một số tượng phụ. Sang thế kỷ XIII, tháp được tách ra, thành hai kiến trúc riêng: chùa và thápNhờ lắng đọng bề dày trầm tích gắn với lịch sử hình thành vùng đất Ninh Bình, núi Thúy -sông Vân trở thành hình ảnh biểu tượng độc đáo đặc trưng của thành phố Ninh Bình.
20. CHÙA BÁI ĐÍNH – Ninh Bình
Chùa Bái Đính là một quần thể chùa lớn được biết đến với nhiều
kỷ lục châu Á và Việt Nam được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng
dát vàng lớn nhất châu Á, chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á[2],
chùa có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á... Đây là ngôi chùa
lớn nhất và sở hữu nhiều kỷ lục nhất ở Việt Nam. Các hạng mục xây dựng,
mở rộng khu chùa mới được các đại biểu tham dự đại lễ Phật đản thế giới
2008 làm lễ khánh thành giai đoạn 1, năm 2010 chùa Bái Đính là nơi tổ
chức Đại lễ cung nghinh xá lợi Phật đầu tiên từ Ấn Độ về Việt Nam. Chùa nằm ở cửa ngõ phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, bên quốc lộ 38B, thuộc xã Gia Sinh - Gia Viễn - Ninh Bình, cách thành phố Ninh Bình 15 km, cách Hà Nội 95 km.
Quần thể chùa Bái Đính hiện có diện tích 539 ha[3] bao gồm 27 ha khu chùa Bái Đính cổ, 80 ha khu chùa Bái Đính mới, các khu vực như: công viên văn hoá và học viện Phật giáo, khu đón tiếp và công viên cảnh quan, đường giao thông và bãi đố xe, khu hồ Đàm Thị, hồ phóng sinh...[4] vẫn đang được tiếp tục xây dựng.
Hơn 1000 năm về trước, tại Ninh Bình đã có ba triều đại Vua nối tiếp nhau ra đời: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý. Ba triều đại đều rất quan tâm đến đạo Phật và coi đạo Phật là Quốc giáo; cho nên tại Ninh Bình có rất nhiều chùa cổ, trong đó có chùa Bái Đính, trên dãy núi Tràng An.
Quần thể chùa Bái Đính gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư. Kiến trúc chùa mới hoành tráng, đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt Nam thời nay.[5] Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng. Khu chùa Bái Đính mới được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á.[6][7][8]
21. CHÙA THẦY -Sơn Tây
Chùa Thầy là một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật tích.
Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, còn chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
Xung quanh chùa có hai dãy hành lang, phía sau có lầu chuông, lầu trống.
Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm
của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết,
được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nhật tiên kiều và Nguyệt
tiên kiều nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.
Chùa thượng của chùa Thầy, Đại Hùng bảo điện Tại chùa Hạ có các pho tượng Đức Ông khá đẹp, và một bức bình phong lớn mô tả cảnh địa ngục.
Các pho Kim Cương đứng trong những tư thế võ mạnh mẽ, sống động. Tại chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp được cho là lớn nhất trong các ngôi chùa Việt Nam, cao gần 4m. Tượng Hộ pháp đắp bằng đất thó, giấy bản giã nhỏ trộn với mật, trứng,..., nên sau hơn ba trăm năm vẫn còn rất tốt.
22. CHÙA TÂY PHƯƠNG- Sơn Tây
Chùa Tây Phương (hay còn gọi là Sùng Phúc tự) nằm trên ngọn núi Tây
Phương, thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây.Từ
cổng chùa này, đi bộ qua 239 bậc đá, du khách đã đặt chân lên đến đỉnh
núi và chùa chính.Tháp cổ bên hông chùa chính.Đi sâu vào bên trong các
gian của chùa, được tận mắt chiêm ngưỡng những pho tượng Phật được coi
là kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo mới thấy thật ấn
tượng. 72 pho tượng cùng các phù điêu có mặt ở khắp nơi trong chùa.
Nhiều pho tượng được tạc cao lớn như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp.
Theo tài liệu để lại, phần lớn các tượng này đều có niên đại cuối thế kỷ
XVIII. Một số khác được tạc vào giữa thế kỷ XIX.
23. CHÙA MÍA -Sơn Tây
Chùa Mía (tên chữ: Sùng Nghiêm tự 崇嚴寺) là một ngôi chùa ở xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội. Xưa kia, vùng này là Cam Giá, tên Nôm là Mía, nên chùa này được quen gọi là chùa Mía. Đây là ngôi chùa lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam. Ban đầu, chùa có quy mô nhỏ, được xây dựng từ xa xưa[2].
Năm 1632, Phi tần trong phủ chúa Trịnh Tráng là Ngô Thị Ngọc Diệu (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Dong) [3] thấy miếu bị hoang phế điêu tàn nên đã cùng cha mẹ và người dân các làng thuộc tổng Cam Giá (tức Tổng Mía) cùng nhau tôn tạo lại. Phi tần Ngọc Dong vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An) trong Tổng Mía, nên được người mến mộ gọi là “Bà Chúa Mía.”, đồng thời đã tạc tượng đưa vào phối thờ ở chùa và còn có đền thờ riêng. Về sau chùa được tu bổ nhiều lần, song đến nay quy mô tôn tạo thời Bà chúa Mía dường như vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
Gần gác chuông và cây đa cổ thụ là tòa bảo tháp Cửu phẩm Liên Hoa cao 13 m thờ vọng Xá Lợi đức Phật.Trong tiền đường, ở gian phải có tấm bia khắc năm 1634, nói về việc trùng tu chùa năm 1632. Bia trang trí đẹp, cao hơn 1,6 m, rộng 1,2 m, dựng trên lưng một con rùa. Gian trái tiền đường có bàn thờ chúa Liễu Hạnh. Sau tiền đường là chùa Trung, tiếp theo là chùa Thượng - hậu đường. Có hai dãy hành lang nối chùa Trung và chùa Thượng, bao quanh lấy Phật điện ở giữa.
Cổng chùa Mía-Sơn Tây
24. CHÙA TIÊU SƠN-Bắc Ninh
Thiền sư Như Trí
Thiền sư Như Trí viên tịch năm Bảo Thái thứ tư, đời vua Lê Dụ Tông (1723) để lại nhục thân xá lợi. Trên tháp Viên Tuệ có ghi “Nhục thân Bồ tát Như Trí hiệu Tính Không” và “Lê triều Bảo Thái đệ tứ niên” (Quí Mão 1723).
Ngày 5-3-2004, tháp cổ được mở trước sự chứng kiến của chính quyền sở tại, các tăng ni đến từ Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, đại diện Bảo tàng Bắc Ninh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và đông đảo nhân dân địa phương. Hết thảy đều vui mừng khi thấy nhục thân của thiền sư Như Trí còn tương đối nguyên vẹn.
Theo sách “Việt sử lược” khoảng năm niên hiệu Ứng Thiên (995- 1007) chùa là nơi thiền sư Vạn Hạnh đã từng đưa Lý Công Uẩn về đây lánh nạn. Khi Vương triều Lý ra đời, chùa vẫn là nơi trụ trì và hành đạo của nhiều vị tổ sư đã có nhiều công lao đóng góp vào việc xây dựng triều chính và nền văn hóa dân tộc.
Năm 1063, để ghi dấu về việc cầu tự ở chùa Cảm Ứng, vua Lý Thái Tôn đã cho xây dựng chùa với qui mô to lớn, trở thành một danh lam thắng cảnh và một trung tâm đào tạo Phật giáo cho các tăng ni. Từ giữa thế kỷ thứ 15 trở đi, cùng với sự phát triển kinh tế của địa phương, chùa Cảm Ứng được sửa chữa với qui mô lớn vào năm 1519.
Chùa Cảm Ứng hiện còn lưu giữ
được nhiều pho tượng Phật, cổ vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc
sắc như Khánh đá tạo tác năm 1672, cây hương đá dựng khắc năm 1697,
chuông đồng đúc năm 1826 và tấm bia đá “Tam Sơn xã đăng khoa bi kí” dựng
khắc năm 1902.
Chùa Phật Tích (Phật Tích tự 佛跡寺) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự 萬福寺) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Chùa Phật Tích được xếp hạng Di tích Lịch sử- Văn hóa tại Quyết định số 313/VH-VP, ngày 28 tháng 4 năm 1962 của Bộ Văn hóa.
Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ "Phật" dài tới 5 m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích.
Khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà bằng đá quý giá. Tháng 4 năm 1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử-văn hoá.
Ba cấp nền chùa
27- CHÙA ĐẬU - Bắc Ninh
Chùa Đậu (tên chữ: Thành Đạo tự 成道寺, Pháp Vũ tự ) là một ngôi chùa ở thôn Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội. Vì chùa thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ nên chùa được gọi là chùa Đậu và còn có tên là Pháp Vũ tự.
-
Theo truyền thuyết, chùa được dựng dưới thời Bắc thuộc lần thứ hai (602 - 939), nhưng theo văn bia, chùa được xây dựng từ thời triều nhà Lý.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Theo văn bia tu tạo dựng năm Dương Hoà đời thứ 5 thì ngôi chùa này được tôn tạo vào thời nhà Lý, thế kỷ thứ 11. Ngoài ra trong chùa còn nhiều viên gạch lớn thời nhà Mạc và một số bia có niên hiệu Sùng Khang (1566 - 1577).
Tiền đường phía trước, nối liền với hai dãy hành lang hai bên và nhà tổ ở phía sau làm thành một khung vuông bao bọc lấy tòa thiêu hương và điện thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ.
Ở chùa Đậu có khá nhiều bia đá từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.
Trong chùa có chiếc khánh đồng đúc năm 1774 với bài minh do Phan Trọng Phiên biên soạn. Ở đây còn hai tấm biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc bài thơ nôm của chúa Trịnh Căn (1682 - 1709) và chúa Trịnh Cương (1709 - 1729).
28. CHÙA BÚT THÁP -Bắc Ninh
Để xác định chùa có từ bao giờ thì chưa có nhà nghiên cứu nào đưa ra một tài liệu chính xác. Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa.
Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành.
Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc". Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Đây là một trong không nhiều ngôi chùa cổ, có quy mô kiến trúc lớn của Đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay. Chùa có kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa giữa kiến trúc với môi trường thiên nhiên. Toàn bộ kiến trúc chính của chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Đối với đạo Phật hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhã.
Quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17. Cụm kiến trúc trung tâm ở Chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường "Thần Đạo" và được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên, đó là tòa Tiền Đường Thượng Điện, cầu đá tòa Thích Thiện Am Trung Đường, phủ thờ nhà Hậu Đường và hàng tháp đá. Sự bố trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện một nội dung tư tưởng về giáo lý của đạo Phật. Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm 10 nếp nhà nằm trên một trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái.
Chùa chính với ba dãy nhà Tiền đường - Thiên hương - Thượng điện tạo thành chữ "công". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các pho tượng.
Tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt, gỗ phủ sơn.
Đáng chú ý nhất ở chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 952 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Phật ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ. Ở đây có nhiều mô tip quen thuộc được trang trí ở chùa Việt Nam như hoa lá, cây cảnh cùng các con vật - trong đó có rồng - ngư với viên ngọc; lân với quả cầu; quạt hai vòng tròn, sóng nước, hoa sen,...
Chùa Bút Tháp
Ngoài ra, trong chùa có hơn 70 pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng, ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho tượng Kim Đồng - Ngọc Nữ,... còn tượng La Hán lại thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật giáo.
Phủ thờ nằm sau Phật điện là ngôi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng
chú ý. Hai pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (nhà Lê) đầu đội vương miện nhưng khoác áo tu hành, và công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ngồi theo dáng toạ thiền.
Từ thượng điện, đi qua một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà gọi là Tích Thiện am. Trên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá. Tích Thiện am là một ngôi nhà có ba tầng mái.
Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm Liên Hoa, là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.
Tháp Báo Nghiêm
29. CHÙA SỦI - Bắc Ninh
Chùa được xây dựng theo hướng phía trước có hình chim Chu Tước, có đường thiên lý thông xuống phía Nam, phía sau có hình chim Huyền vũ, có thôn gồm muôn nhà trấn bên ngoài, bên trái có hình rồng xanh trùng trùng hướng về, bên ngoài có hình hổ cuồn cuộn chầu tới.
Chùa xây theo kiểu chữ Đinh, gồm 7 gian tiền đường, 3 gian hậu cung và hai dãy hành lang (mỗi bên 7 gian), đầu hai hành lang giáp với tiền đường là 2 lầu tám mái treo chuông đồng, khánh đá.
Chùa có số lượng tượng lớn và có niên đại tạo tác từ thế kỷ 17, 18 và 19. Trong số 73 pho tượng cổ có nhiều tượng có giá trị thẩm mỹ cao, tiêu biểu cho nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lê, Nguyễn. Phong cách tạc tượng mang nhiều nét dân gian, có vẻ đẹp dung dị của nền nghệ thuật dân gian cực thịnh vào thế kỷ 17, 18.
Khánh đá lớn có từ năm Vĩnh Thịnh thứ 21 (1725), chuông đồng lớn treo trên lầu tám mái phía Tây mang niên hiệu Cảnh Thịnh (1800) thời Tây Sơn.
Chùa được trùng tu vào các năm: 1633, 1636, 1701, 1821 [2]
Chùa Mía (tên chữ: Sùng Nghiêm tự 崇嚴寺) là một ngôi chùa ở xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội. Xưa kia, vùng này là Cam Giá, tên Nôm là Mía, nên chùa này được quen gọi là chùa Mía. Đây là ngôi chùa lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam. Ban đầu, chùa có quy mô nhỏ, được xây dựng từ xa xưa[2].
Năm 1632, Phi tần trong phủ chúa Trịnh Tráng là Ngô Thị Ngọc Diệu (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Dong) [3] thấy miếu bị hoang phế điêu tàn nên đã cùng cha mẹ và người dân các làng thuộc tổng Cam Giá (tức Tổng Mía) cùng nhau tôn tạo lại. Phi tần Ngọc Dong vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An) trong Tổng Mía, nên được người mến mộ gọi là “Bà Chúa Mía.”, đồng thời đã tạc tượng đưa vào phối thờ ở chùa và còn có đền thờ riêng. Về sau chùa được tu bổ nhiều lần, song đến nay quy mô tôn tạo thời Bà chúa Mía dường như vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
Tháp Cửu phẩm Liên Hoa ở Chùa Mía
Gác chuông của chùa là ngôi nhà 3 gian làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Các góc mái đều gắn đao triện. Sàn nhà bằng gỗ,
ở tầng gác có hàng lan can tiện. Các ván long, xà nách đều được bào xoi
cạnh và chạm trang trí đề tài hoa lá. Trên gác treo một quả chuông đúc
năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) và một khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ 6 (1864).
Gần gác chuông và cây đa cổ thụ là tòa bảo tháp Cửu phẩm Liên Hoa cao 13 m thờ vọng Xá Lợi đức Phật.Trong tiền đường, ở gian phải có tấm bia khắc năm 1634, nói về việc trùng tu chùa năm 1632. Bia trang trí đẹp, cao hơn 1,6 m, rộng 1,2 m, dựng trên lưng một con rùa. Gian trái tiền đường có bàn thờ chúa Liễu Hạnh. Sau tiền đường là chùa Trung, tiếp theo là chùa Thượng - hậu đường. Có hai dãy hành lang nối chùa Trung và chùa Thượng, bao quanh lấy Phật điện ở giữa.
Chùa Trung và chùa Thượng còn giữ được bộ khung gỗ mà có nhiều phần điêu khắc có từ thế kỷ 17. Chùa Mía khá nổi tiếng với số lượng có ở đây: có đến 287 pho tượng lớn, nhỏ, trong đó có 6 pho tượng đồng, 106 pho tượng gỗ và 174 pho tượng bằng đất luyện được sơn son thếp vàng.
Tượng La hán ở chùa Mía
Tôn tượng 18 vị La Hán. Mỗi vị mỗi vẻ, nhưng vị nào cũng toát lên vẻ uy nghiêm, thanh tịnh. Tôi "thăm" 18 vị La Hán lâu nhất, cảm niệm trong lòng khó diễn tả bằng lời..
Ở chùa Trung có hai pho tượng Hộ Pháp lớn và 8 pho tượng Kim Cương. Mỗi pho tượng là hình tượng một võ tướng đang trong tư thế chuẩn bị chiến đấu để trừ tà bảo vệ phật pháp. Hình khối, bố cục vững chắc, thân hình cân đối, đường nét thoải mái và khỏe.
Tại chùa Thượng, người ta còn
thấy các động bằng đất đắp. Trong và xung quanhcác động có khá nhiều
tượng. Trong một động có cả tượng Phật Thích Ca nhập Niết bàn. Pho tượng Tuyết Sơn cao 0,76 m và Quan Âm Tống Tử
cao 0,76 m ở đây cũng rất đẹp. Tượng Quan Âm thường được gọi là tượng
Bà Thị Kính. Tượng này diễn tả một người phụ nữ thùy mị, có duyên, vẻ
mặt hơi buồn nhưng rất hiền từ nhân hậu, ẵm một đứa bé bụ bẫm kháu
khỉnh. Đường nét chạm khắc mềm mại, trau chuốt.
TuongTuyetSonChuaMia
Tôn tượng 18 vị La Hán. Mỗi vị mỗi vẻ, nhưng vị nào cũng toát lên vẻ uy nghiêm, thanh tịnh. Tôi "thăm" 18 vị La Hán lâu nhất, cảm niệm trong lòng khó diễn tả bằng lời..
Ở chùa Trung có hai pho tượng Hộ Pháp lớn và 8 pho tượng Kim Cương. Mỗi pho tượng là hình tượng một võ tướng đang trong tư thế chuẩn bị chiến đấu để trừ tà bảo vệ phật pháp. Hình khối, bố cục vững chắc, thân hình cân đối, đường nét thoải mái và khỏe.
Nơi chính điện, Ban Tam Bảo
Những pho tượng cổ Ban Tam Bảo
Tượng Ngài Hộ Pháp, trước thềm Tam Bảo phía bên trái
Một bên Động Quán Âm Nam Hải
Động Quán Âm Thị Kính
Đức Chuẩn Đề
Ban thờ Đức Thánh Hiền
24. CHÙA TIÊU SƠN-Bắc Ninh
Tiêu
Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu,
thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tương giang thơ mộng
trong cổ
tích với câu chuyện Mỵ Nương – Trương Chi. Tiếng hát Trương Chi trên
sông Tiêu Tương hàng ngàn đời nay là đề tài cảm hứng cho biết bao văn
nhân thi sĩ. Giờ đây dòng Tương giang chỉ còn dấu vết là hồ nước, nhưng
núi Tiêu Sơn thì vẫn vững bền. Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên
Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh.
Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Tương giang thơ mộng trong cổ
tích với câu chuyện Mỵ Nương – Trương Chi. Tiếng hát Trương Chi trên
sông Tiêu Tương hàng ngàn đời nay là đề tài cảm hứng cho biết bao văn
nhân thi sĩ. Giờ đây dòng Tương giang chỉ còn dấu vết là hồ nước, nhưng
núi Tiêu Sơn thì vẫn vững bền. Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên
Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh.
Tiêu Sơn tự (còn có các tên: chùa Thiên Tâm, Lục Tổ) tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Sử cũ ghi: “Chùa là một thiền viện, đào tạo các bậc cao tăng và cung cấp kinh sách cho nhiều chùa
trong nước”. Những bậc dẫn lên chùa mát rượi bóng cây cổ thụ, ngỡ như
đang đưa du khách đến chốn bồng lai. Có thể nói không ngoa rằng: đây là
nơi đã khai sinh triều đại nhà Lý, bởi Lý Công Uẩn được nuôi dưỡng và
hun đúc tài năng tại đây, nhờ trí tuệ và tâm huyết của Thiền sư Vạn
Hạnh. Trên cột nhà bia còn lưu câu đối chữ Hán:
“Lý gia linh tích tồn bi kỷ
Tiêu lĩnh danh kha đắc sử truyền”
(Dấu thiêng nhà Lý còn bia tạc
Danh thắng non tiên có sử truyền)
Chùa Tiêu không chỉ là di tích
lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật được Nhà nước công nhận, mà còn
là một danh lam với cảnh đẹp u nhã, thiên nhiên “sơn thủy hữu tình”.
Không chỉ là người có công kiến
tạo triều Lý, Thiền sư Vạn Hạnh còn là người đã khai sinh nền văn học
viết của nước ta, với ba thể loại văn học đầu tiên: sấm ký, khuyến, kệ.
Ngay sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua vào năm 1010, đã tôn vinh Vạn Hạnh
làm quốc sư.
Mới đây nhân dân Tiêu Sơn đã xây
dựng phiên bản pho tượng Vạn Hạnh cưỡi hổ, kích thước lớn gấp hàng chục
lần, đặt trên đỉnh Tiêu Sơn để du khách thập phương chiêm bá
Thiền sư Như Trí trụ trì chùa
Tiêu vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, là đệ tử nối pháp của Thiền
sư Chân Nguyên (trụ trì chùa Long Động ở Yên Tử). Ngài có công phục
hưng thiền phái Trúc Lâm, giữ gìn nhiều tư liệu quí báu của thiền phái,
cùng nhiều chư tăng đương thời sưu tập, khắc in rất nhiều sách. Cuốn
Thiền uyển tập anh được ngài khắc in năm 1715 tại chùa Tiêu, là bộ sử
thiền giá trị của nền văn hóa Phật giáo nước nhà.
Thiền sư Như Trí
Thiền sư Như Trí viên tịch năm Bảo Thái thứ tư, đời vua Lê Dụ Tông (1723) để lại nhục thân xá lợi. Trên tháp Viên Tuệ có ghi “Nhục thân Bồ tát Như Trí hiệu Tính Không” và “Lê triều Bảo Thái đệ tứ niên” (Quí Mão 1723).
Ngày 5-3-2004, tháp cổ được mở trước sự chứng kiến của chính quyền sở tại, các tăng ni đến từ Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, đại diện Bảo tàng Bắc Ninh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và đông đảo nhân dân địa phương. Hết thảy đều vui mừng khi thấy nhục thân của thiền sư Như Trí còn tương đối nguyên vẹn.
25. CHÙA CẢM ỨNG-Băc Ninh
Cảm Ứng tự là ngôi chùa đẹp nổi
tiếng ở xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh. Đây là công trình kiến trúc
tiêu biểu vào loại bậc nhất trên vùng quê xứ Bắc, được xếp hạng Di tích
lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1992.
Trải qua nhiều giai đoạn trùng
tu, tôn tạo, đặc biệt là giai đoạn từ 2005 tới nay với mức đầu tư trên
16,4 tỷ đồng của chương trình mục tiêu quốc gia, chùa Cảm Ứng đã được
phục dựng lại gần như nguyên vẹn, trở thành một điểm du lịch tín ngưỡng,
tâm linh lôi cuốn nhân dân và du khách thập phương.
Chùa Cảm Ứng có 100 gian với 18
công trình, hạng mục công trình, tạo thành một quần thể kiến trúc độc
đáo vừa hoành tráng vừa mang dáng vẻ cổ kính, rêu phong khiến cho những
người tới đây có được cảm giác thăng hoa, sống trong triết lý thanh bạch
và “từ bi hỷ xả”.
Chùa Cảm Ứng ngay từ thời Tiền Lê, đầu thời Lý đã là một trong những trung tâm Phật giáo của vùng Kinh Bắc và cả nước.
Theo sách “Việt sử lược” khoảng
năm niên hiệu Ứng Thiên (995- 1007) chùa là nơi thiền sư Vạn Hạnh đã
từng đưa Lý Công Uẩn về đây lánh nạn. Khi Vương triều Lý ra đời, chùa
vẫn là nơi trụ trì và hành đạo của nhiều vị tổ sư đã có nhiều công lao
đóng góp vào việc xây dựng triều chính và nền văn hóa dân tộc.
Chùa Cảm Ứng có 100 gian với 18
công trình, hạng mục công trình, tạo thành một quần thể kiến trúc độc
đáo vừa hoành tráng vừa mang dáng vẻ cổ kính, rêu phong khiến cho những
người tới đây có được cảm giác thăng hoa, sống trong triết lý thanh bạch
và “từ bi hỷ xả”.
Chùa Cảm Ứng ngay từ thời Tiền Lê, đầu thời Lý đã là một trong những trung tâm Phật giáo của vùng Kinh Bắc và cả nước.
Theo sách “Việt sử lược” khoảng năm niên hiệu Ứng Thiên (995- 1007) chùa là nơi thiền sư Vạn Hạnh đã từng đưa Lý Công Uẩn về đây lánh nạn. Khi Vương triều Lý ra đời, chùa vẫn là nơi trụ trì và hành đạo của nhiều vị tổ sư đã có nhiều công lao đóng góp vào việc xây dựng triều chính và nền văn hóa dân tộc.
Năm 1063, để ghi dấu về việc cầu tự ở chùa Cảm Ứng, vua Lý Thái Tôn đã cho xây dựng chùa với qui mô to lớn, trở thành một danh lam thắng cảnh và một trung tâm đào tạo Phật giáo cho các tăng ni. Từ giữa thế kỷ thứ 15 trở đi, cùng với sự phát triển kinh tế của địa phương, chùa Cảm Ứng được sửa chữa với qui mô lớn vào năm 1519.
Những năm 1693-1697 chùa được
trùng tu và mở rộng với nhiều hạng mục công trình, trong chùa có hàng
trăm pho tượng sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Năm 1826, chùa được xây dựng
hoàn chỉnh 100 gian, 18 hạng mục công trình trở nên ngôi chùa đẹp vào
bậc nhất ở vùng Kinh Bắc.
Năm 1972, do bị giặc Mỹ ném bom,
nhiều công trình, hạng mục trong chùa bị đổ nát, nhiều tượng Phật bị
cháy hỏng. Các năm 1975 và 2000, nhân dân xã Tam Sơn đã đóng góp sức
người và tiền của tu bổ di tích với qui mô kiến trúc gần như nguyên vẹn.
Trải qua bao biến cố thăng trầm
của lịch sư dân tộc, chùa Cảm Ứng đã được bảo quản, trùng tu, tôn tạo
với đầy đủ dáng vẻ cổ xưa. Chùa là báu vật và niềm tự hào của người Bắc
Ninh-Kinh Bắc, quê hương của Vương triều Lý, một vương triều vàng son
bậc nhất trong các thời kỳ phong kiến Việt Nam.
Vào những ngày chuẩn bị cho Đại
lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, chùa luôn được tiếp đón đông đảo
người dân, du khách đến thăm, thắp hương, tưởng nhớ tới nhiều bậc tiền
nhân, ghi nhớ công lao của họ trong các thời kỳ dựng nước và giữ nước.
26. CHÙA PHẬT TÍCH - Bắc NinhChùa Phật Tích (Phật Tích tự 佛跡寺) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự 萬福寺) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Chùa Phật Tích được xếp hạng Di tích Lịch sử- Văn hóa tại Quyết định số 313/VH-VP, ngày 28 tháng 4 năm 1962 của Bộ Văn hóa.
Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ 4 (1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc. Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý nhưng ngôi chùa vào thời Lý hiện nay không còn nữa, nó đã được phá đi xây dựng mới.
Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích.
Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686) ca ngợi vẻ đẹp của cảnh chùa: "Đoái
trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương
(hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long nước chảy
vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn đá..."
Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ "Phật" dài tới 5 m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích.
Thời bấy giờ vua Trần Nhân Tông
đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Sau khi khánh
thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo Hoa dư bút" dày tới 8
quyển. Vua Trần Nghệ Tông đã lấy Phật Tích làm nơi tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sỹ).
Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686,
chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và
đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà
Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "...
Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly.
Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có
bày mười con thú lớn bằng đá, phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim
phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng và tay rồng với tới
trời sao,cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng...". Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây.
Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ
tồn tại sau đó được gần 300 năm. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ
và chùa bị tàn phá nhiều. Chùa đã bị quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947.Khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà bằng đá quý giá. Tháng 4 năm 1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử-văn hoá.
Chùa được kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc", sân chùa là cả một vườn hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng
tu ở chùa này nên có câu đối "Đệ nhất cung tần quy Phật địa. Thập tam
đình vũ thứ tiên hương". Bà chẳng những có công lớn trùng tu chùa mà còn
bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ
nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi; hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền.
Cho tới nay, chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị Tam thế Phật, 8 gian nhà tổ và 7 gian nhà thờ thánh Mẫu.
Ngôi chùa có kiến trúc của thời Lý, thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi. Các nền hình chữ nhật dài khoảng 60 m, rộng khoảng 33 m, mặt ngoài bố trí các tảng đá hình khối hộp chữ nhật.
Theo tương truyền, bậc nền thứ nhất là sân chùa với vườn hoa mẫu đơn, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên: "...Từ
Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm
hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du
ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại
Giáng Tiên..." Do tích này, trước đây chùa Phật Tích mở hội Hoa Mẫu
Đơn hàng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng để nhân dân xem hoa và các
văn nhân thi sĩ bình thơ.
Bậc nền thứ hai là nơi có các kiến trúc cổ ngày nay không còn được thấy. Khi đào xuống nền ngôi chùa này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật điêu khắc thời nhà Lý và nền móng của một ngôi tháp gạch hình vuông, mỗi cạnh dài 8,5 m.
Nền thứ ba cao nhất, có Long Trì (Ao Rồng) là một cái ao hình chữ nhật, đã cạn nước.
27- CHÙA ĐẬU - Bắc Ninh
Chùa Đậu (tên chữ: Thành Đạo tự 成道寺, Pháp Vũ tự ) là một ngôi chùa ở thôn Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội. Vì chùa thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ nên chùa được gọi là chùa Đậu và còn có tên là Pháp Vũ tự.
Theo truyền thuyết, chùa được dựng dưới thời Bắc thuộc lần thứ hai (602 - 939), nhưng theo văn bia, chùa được xây dựng từ thời triều nhà Lý.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Theo văn bia tu tạo dựng năm Dương Hoà đời thứ 5 thì ngôi chùa này được tôn tạo vào thời nhà Lý, thế kỷ thứ 11. Ngoài ra trong chùa còn nhiều viên gạch lớn thời nhà Mạc và một số bia có niên hiệu Sùng Khang (1566 - 1577).
Chùa được xây dựng kiểu "nội công ngoại quốc". Tam quan chùa là một gác chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá.
Tầng trên treo quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) thời nhà Tây Sơn.
Qua tam quan là một sân gạch rộng, hai bên có hai tòa giải vũ làm nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương.
Tiền đường phía trước, nối liền với hai dãy hành lang hai bên và nhà tổ ở phía sau làm thành một khung vuông bao bọc lấy tòa thiêu hương và điện thờ Bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ.
28. CHÙA BÚT THÁP -Bắc Ninh
Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự 寧福寺) nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp. Trong chùa có tượng Bồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam.
Để xác định chùa có từ bao giờ thì chưa có nhà nghiên cứu nào đưa ra một tài liệu chính xác. Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa.
Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành.
Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc". Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật, chùa Bút Tháp
đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng là di tích cấp quốc gia theo quyết
định số 313-VH/VP ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Đây là một trong không nhiều ngôi chùa cổ, có quy mô kiến trúc lớn của Đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay. Chùa có kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa giữa kiến trúc với môi trường thiên nhiên. Toàn bộ kiến trúc chính của chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Đối với đạo Phật hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhã.
Quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17. Cụm kiến trúc trung tâm ở Chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường "Thần Đạo" và được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên, đó là tòa Tiền Đường Thượng Điện, cầu đá tòa Thích Thiện Am Trung Đường, phủ thờ nhà Hậu Đường và hàng tháp đá. Sự bố trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện một nội dung tư tưởng về giáo lý của đạo Phật. Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm 10 nếp nhà nằm trên một trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái.
Chùa chính với ba dãy nhà Tiền đường - Thiên hương - Thượng điện tạo thành chữ "công". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các pho tượng.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng
đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động
và độc đáo. Trang trí được thể hiện ở mọi nơi trên các chất liệu gỗ và
đá, ở kiến trúc và ở các đồ thờ. Đặc biệt trên lan can tòa Thượng Điện
có 26 bức chạm khắc đá, trên lan can cầu đá nối với Tòa Thích Thiện Am
có 12 bức và ở lan can quanh chân tháp Báo Nghiêm có 13 bức.
Như vậy tổng cộng các bức chạm khắc đá ở chùa Bút Tháp là 51 với những đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu, phong cách và thống nhất về niên đại.
Như vậy tổng cộng các bức chạm khắc đá ở chùa Bút Tháp là 51 với những đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu, phong cách và thống nhất về niên đại.
Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động tươi vui hàm chứa ý nghĩa Phật đạo
và đặc biệt mang đậm nét tính chất nghệ thuật thiền. Các bức chạm đều
tập trung về đề tài thiên nhiên phong phú sinh động như Tứ Linh Quý.
Đáng chú ý nhất ở chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 952 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Phật ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ. Ở đây có nhiều mô tip quen thuộc được trang trí ở chùa Việt Nam như hoa lá, cây cảnh cùng các con vật - trong đó có rồng - ngư với viên ngọc; lân với quả cầu; quạt hai vòng tròn, sóng nước, hoa sen,...
Tượng Quan Âm
hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo
biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ
sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ
hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật) trong lòng mỗi bàn tay lại hiện lên
một con mắt. Nhìn tổng thể tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay như những
vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.
Hai kiệt tác điêu khắc khác nữa làm thành một bộ ba tác phẩm danh bất hư truyền là tượng Tây Thiên Đông Độ Việt Nam lịch đại Tổ sư và tượng Thị Kính. Pho tượng Tuyết Sơn ở đây cũng là một kiệt tác của thế kỷ 17. Qua nhà tiền đường là đến nhà thiêu hương.Ngoài ra, trong chùa có hơn 70 pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng, ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho tượng Kim Đồng - Ngọc Nữ,... còn tượng La Hán lại thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật giáo.
Từ thượng điện, đi qua một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà gọi là Tích Thiện am. Trên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá. Tích Thiện am là một ngôi nhà có ba tầng mái.
Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm Liên Hoa, là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.
Tháp Báo Nghiêm
Tháp Báo Nghiêm chùa Bút Tháp
Chùa có tháp Báo Nghiêm thờ Hoà thượng
Chuyết Chuyết, trông tháp giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới
trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05 m, năm tầng với một phần đỉnh xây
bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần giống nhau,
rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một
khoang tròn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng
được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở
tầng dưới cùng của toà tháp này có mười ba bức chạm đá với lấy đề tài
chủ yếu là các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu
khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.
29. CHÙA SỦI - Bắc Ninh
Chùa Sủi có tên là Đại Dương Sùng Phúc tự, là một ngôi chùa cổ tại xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Thời Lý - Trần,
các vua thường qua đây ngủ đêm để ngóng mộng, chờ thông điệp của thánh
thần. Hiện tại ở chùa còn 1 chiếc khánh đá hơn nghìn năm tuổi. Chùa vừa được trùng tu lại
năm 2006, nằm trong cụm đình-chùa-đền (thờ Ỷ Lan nguyên phi).
Chùa Sủi được xây dựng từ rất sớm (không rõ cụ thể năm). Năm 1066, Nguyên phi Ỷ Lan về đây cầu tự sinh thái tử Càn Đức, rồi cho xây dựng lại và hoàn thành vào năm 1115[1].
Chùa được xây dựng theo hướng phía trước có hình chim Chu Tước, có đường thiên lý thông xuống phía Nam, phía sau có hình chim Huyền vũ, có thôn gồm muôn nhà trấn bên ngoài, bên trái có hình rồng xanh trùng trùng hướng về, bên ngoài có hình hổ cuồn cuộn chầu tới.
Chùa xây theo kiểu chữ Đinh, gồm 7 gian tiền đường, 3 gian hậu cung và hai dãy hành lang (mỗi bên 7 gian), đầu hai hành lang giáp với tiền đường là 2 lầu tám mái treo chuông đồng, khánh đá.
Chùa có số lượng tượng lớn và có niên đại tạo tác từ thế kỷ 17, 18 và 19. Trong số 73 pho tượng cổ có nhiều tượng có giá trị thẩm mỹ cao, tiêu biểu cho nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lê, Nguyễn. Phong cách tạc tượng mang nhiều nét dân gian, có vẻ đẹp dung dị của nền nghệ thuật dân gian cực thịnh vào thế kỷ 17, 18.
Khánh đá lớn có từ năm Vĩnh Thịnh thứ 21 (1725), chuông đồng lớn treo trên lầu tám mái phía Tây mang niên hiệu Cảnh Thịnh (1800) thời Tây Sơn.
30. CHÙA ĐÀO XUYÊN - Bắc Ninh
Chùa
Đào Xuyên tên chữ là “Thánh Ân tự”, ở thôn Đào Xuyên, xã Đa Tốn, huyện
Gia Lâm, Hà Nội.Chùa được xây dựng từ khá lâu, theo bia ở chùa cho biết
thì năm 1635 chùa đã được tu tạo và được sửa chữa nhiều lần. Lần sau
cùng vào năm Duy Tân 10 (1910) chùa đã được làm lại hoàn toàn.Chùa được
kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, có quy mô khá lớn. Chùa gồm
nhà thiêu hương, thượng điện, tòa tam bảo, nhà tổ và các công trình phụ.
Tòa tam bảo quay hướng đông nam, có kiến trúc kiểu chuôi vồ. Tiền đường
có 7 gian 2 dĩ. Nhiều Bộ phận được chạm khắc tinh tế.
Chùa còn giữa được pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhân có niên đại thế kỷ 16. Tượng bằng gỗ mít, cao 1,35m (không kể bệ) ngồi trên bệ sen hình lục giác (nếu kể cả bệ thì cao 2,31m). Tượng có 42 tay lớn và 610 tay nhỏ. 42 tay lớn chìa ra phía trước và xung quanh với nhiều động tác, hình dáng khác nhau, tay thì cầm vật báu, tay thì bắt quyết, không tay nào giống tay nào. Còn 610 tay nhỏ thì xếp thành nhiều lớp hai bên sườn và phía sau, xếp vào nhau như những nan quạt, tạo nên một quầng tròn phía sau tượng, như một vòng hào quang tỏa sáng quanh người. Đầu tượng đội mũ pháp sư, được trang trí những hạt tròn, sơn son thếp vàng óng ánh góp phần làm tăng thêm uy linh và đức độ của Phật Bà Quan Âm.
Mặt tượng đầy đặn, đôn hậu, mắt lim dim nhìn xuống như đang tập trung tinh thần vào điều gì đó. Mũi tượng thẳng, má bầu, miệng nhỏ, tai dài đeo hoa, tóc chảy dài ra phía sau. Dáng mặt của tượng là một phụ nữ Việt Nam. Tấm áo cà sa khoác trên người chảy dài xuống hai bên lẫn trong các nếp áo. Tượng trong tư thế ngồi yên tĩnh, thế “tham thiền nhập định” nhưng vẫn toát lên vẻ động của một tâm hồn sôi nổi. Những cánh tay sinh động với nhiều dáng, những nếp áo mềm mại chạy dài, phủ trên một tấm thân cân xứng, nở nang… đã thể hiện sức sống của mỗi con người, có những nét gần gũi với bóng dáng hiền dịu của các cô gái nông thôn khỏe mạnh. Tượng được tạc ngồi trên một tòa sen do con rồng đội, nổi lên trên mặt biển sóng nhấp nhô.
Tòa sen cao 0,50m gồm 13 cánh sen chính, 13 cánh sen phụ và 20 cánh cách điệu, bố trí xen kẽ thành 2 lớp trên, dưới. Rồng được thể hiện với bộ mặt dữ tợn, những cánh tay gân guốc với những chiếc móng sắc nhọn, mắt lồi nhìn thao láo ra phía trước, mồm rộng, mũi to căng phồng (Rồng ở dây tượng trưng cho loài ác quỷ ma vương, thế lực đen tối).
Việc đội tòa sen của rồng biểu hiện sự quy phục Phật pháp. Về mặt thẩm mỹ, điều đó tạo nên sự tương phản giữa cái ác và cái thiện, góp phần làm tăng thêm vẻ nhân hậu, dịu dàng, thiện tâm và sự huyền diệu của Quan Âm. Bệ tượng cao 0,5m có mặt lục giác, được chia làm 3 phần, phần giữa thu hẹp. Trang trí trên bệ tượng là các hình mây lửa, sóng nước,… chính nhờ các trang trí này mà có thể đoán định tượng được tạo tác vào cuối thế kỷ 16. Chùa cũng còn nhiều tượng tạo tác vào thế kỷ 18 - 19.
31. CHÙA KEO -Bắc Ninh.
Tọa lạc: quốc lộ 181, phố chùa Keo, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Làng Keo, có tên cổ là “Cổ Giao” thuộc huyện Long Biên, quận Giao Chỉ ngày xưa, nay thuộc xã Kim sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Bởi làng xưa có nghề truyền thống nấu keo da trâu và nghề làm sơn gỗ, đặc biệt là sơn son thếp vàng, nên dân làng thường gọi là làng Keo, khi dân làng xây chùa lấy tên là chùa Keo, có tài liệu nói rằng ( trước kia thôn Giao tự và thôn Giao tất hợp nhất và gắn bó với nhau như keo, nên tên làng gọi là làng Keo). Chùa Keo còn có tên chữ là “Báo Ân Trùng Nghiêm tự” thờ bà Keo bà Pháp Vân là một tứ đại Phật Pháp thời xưa.
Truyền Thuyết kể rằng; ngày xưa khi ở đất Luy Lâu đã tạc xong 4 pho
tượng Phật là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện nhưng còn có việc
tô tượng chưa xong, nhiều thợ ở các nơi đến sơn nhưng không làm được vì
sơn cứ chảy tuột đi khi quét lên.
Đến lượt Hiệp thợ Keo thấy một khúc
gốc thừa khi tạc 4 pho tượng. Hiệp thợ Keo xin về, 4 tràng trai khiêng
không nổi, nhưng chỉ 2 người thợ làng Keo khiêng rất nhẹ nhàng và đi
thẳng về làng, thấy chuyện lạ, làng quyết định tạc tượng và pho tượng
Pháp Vân đã ra đời giống hệt pho tượng ở chùa Dâu nhưng kích thước nhỏ
hơn.
Chùa có tất cả 47 pho tượng Phật, đều mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ 17 – 18, trong đó tượng bà Keo là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Chùa còn giữ 6 tấm bia đá, 1 cổ chuông được đúc thời Cảnh Thịnh (1794), 1 Khánh đồng, 8 Đạo sắc phong cùng nhiều đồ thờ tự, có một số cổ vật mang phong cách thời nhà Lê.
Chùa
được trùng tu nhiều lần nên mang nhiều phong cách pha trộn. Tam quan
được xây bằng gạch theo kiểu nghi môn thời Nguyễn, tòa Thượng điện là
kiểu nhà 4 mái, các góc đao nay chỉ còn trang trí đao đơn, hình cách
điệu, kiến trúc mở cửa đầu hồi (ít gặp ở những ngôi chùa cổ), bộ vì tòa
Thượng điện làm kiểu chồng giường, đầu các con giường điểm xuyết chút
hoa có phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII.
Tòa Hậu cung và tháp Tam phẩm mang phong cách thời Nguyễn. Đáng lưu ý là tượng Quan Am Thiên Thủ Thiên Nhãn, là sản phẩm của thế kỷ XVII. Chùa còn lưu giữ được tấm bia thời Hoàng Định (1616).
Tòa Hậu cung và tháp Tam phẩm mang phong cách thời Nguyễn. Đáng lưu ý là tượng Quan Am Thiên Thủ Thiên Nhãn, là sản phẩm của thế kỷ XVII. Chùa còn lưu giữ được tấm bia thời Hoàng Định (1616).
Chùa trải qua nhiều đời trụ trì song sách sử trong chùa không còn. Năm 1995, Thành hội Phật giáo Hà Nội bổ nhiệm Đại đức Quảng Thiện trụ trì chùa Keo. Năm 1997, sư trụ trì trùng tu khu tháp Tổ, năm1998 Thượng điện, năm 2002, Nhà Tổ, năm 2006, nhà Mẫu và Tam bảo. Tháng 3/2009, tất cả các hạng mục công trình đều hoàn tất.
32. CHÙA TRĂM GIAN -Bắc Ninh
Tại Việt Nam có 4 chùa Trăm Gian:Chùa Trăm Gian ở tỉnh Bắc Ninh;Chùa Trăm Gian ở huyện Chương Mỹ, , Bắc Ninh ; Chùa Trăm Gian ở làng Láng, quận Đống Đa, Hà Nội và Chùa Trăm Gian ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
Cảm Ứng Tự còn gọi là Chùa Trăm Gian là một ngôi chùa lịch sử ở xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh.
Chùa Trăm Gian được xây dựng vào khoảng thế kỷ 11. Đây là một trong những ngôi chùa lâu đời của nền Phật giáo Việt Nam. Công trình kiến trúc tiêu biểu này đã được xếp hạng "Di tích lịch sử văn hóa quốc gia" vào năm 1992.[1]
Tương truyền ngày xưa khi chùa còn đủ 100 gian thì ngôi chùa này là
nơi hội tụ của rất nhiều các linh vật quý khác nhau, như: Rùa, Rồng,
Nghê... Những năm 1693-1697 chùa được trùng tu và mở rộng với nhiều hạng mục công
trình, trong chùa có hàng trăm pho tượng sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Năm 1826,
chùa được xây dựng hoàn chỉnh 100 gian, 18 hạng mục công trình trở nên ngôi chùa
đẹp vào bậc nhất ở vùng Kinh Bắc.
Trong chiến tranh, năm 1972, nhiều công trình, hạng mục trong chùa bị đổ nát, nhiều tượng Phật bị cháy hỏng. Các năm 1975 và 2000, nhân dân xã Tam Sơn đã đóng góp sức người và tiền của tu bổ di tích với qui mô kiến trúc gần như nguyên vẹn.
Trong chiến tranh, năm 1972, nhiều công trình, hạng mục trong chùa bị đổ nát, nhiều tượng Phật bị cháy hỏng. Các năm 1975 và 2000, nhân dân xã Tam Sơn đã đóng góp sức người và tiền của tu bổ di tích với qui mô kiến trúc gần như nguyên vẹn.
Chùa Cảm Ứng hiện còn lưu giữ được nhiều pho tượng Phật, cổ vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc sắc như Khánh đá tạo tác năm 1672, cây hương đá dựng khắc năm 1697, chuông đồng đúc năm 1826 và tấm bia đá “Tam Sơn xã đăng khoa bi kí" dựng khắc năm 1902.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sư dân tộc, chùa Cảm Ứng đã được bảo quản, trùng tu, tôn tạo với đầy đủ dáng vẻ cổ xưa. Chùa là báu vật của người Bắc Ninh-Kinh Bắc, quê hương của Vương triều Lý, một vương triều vàng son bậc nhất trong các thời kỳ phong kiến Việt Nam.
33. CHÙA TRĂM GIAN- Chương Mỹ (Hà Đông)
Chùa
Diên Phúc ở thôn Khuyến Lương, xã Trần Phú, huyện Thanh Trì,tỉnh Hà
Đông , nay thuộc quận Hoàng Mai, Hà Nội. Chùa được xây dựng vào khoảng
đầu thế kỷ XVIII. Trên cột đá “Thạch trụ hương” dựng năm 1730 ghi việc
dân làng đã xây thêm gác chuông và dựng cột đá trước chùa. Chuông đồng
cổ của chùa đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh ra lệnh thu về đúc vũ khí, đến năm
1821 chuông Diên Khánh tự chung được đúc mới, 15 năm sau đúc thêm chiếc
khánh lớn ở nhà Mẫu.
Ngoài cùng là cổng gạch xây cuốn cửa vòm, 2 tầng mái nhỏ góc đao uốn cong, trang trí tích Thầy trò
Ngoài cùng là cổng gạch xây cuốn cửa vòm, 2 tầng mái nhỏ góc đao uốn cong, trang trí tích Thầy trò
Đường Tăng sang Tây Trúc lấy kinh. Chùa
có kiến trúc theo chữ Đinh. Tiền đường có 2 tầng 4 mái, 5 gian 2 dĩ.
Thượng điện 4 gian, 2 tầng 4 mái. Sau thượng điện là nhà thờ Mẫu, thờ
Tổ gồm 9 gian. Ngoài khu kiến trúc chính của chùa còn có hai khu vườn
tháp mộ, mỗi khu 3 ngọn tháp 3 tầng.
Các pho tượng trong chùa được quy hoạch theo dấu ấn Phật điện thời Lê.
Di vật trong chùa còn 7 bức cửa võng, 6 bức y môn, 1 bia dựng năm 1935, 1
khánh đồng đúc năm 1839, 32 pho tượng tạc vào thế kỷ XVIII, XIX, 5 bức
hoành phi, 9 đôi câu đối...
Ngôi chùa này ra đời từ khoảng năm 1185. Đây là một công trình kiến trúc
có giá trị nghệ thuật cao, được xếp hạng Di tích quốc gia từ hơn 40 năm
qua. Qua tìm hiểu, chùa Trăm Gian đã "bị" trùng tu kiểu phá di tích
nhiều lần. Tuy nhiên chưa lần nào chùa Trăm Gian bị làm hỏng nghiêm
trọng như lần này. Sau đây là hình ảnh chùa cũ trước khi được "trùng tu" khoảng 2012.
Chùa Trăm Gian (Chương Mỹ, Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội) được khởi dựng
từ đời Lý Cao Tông (1176-1210) đã bị phá dỡ Nhà tổ và Gác khánh để xây
lại mới trong những ngày cuối tháng 8 năm 2012 – thật quá đau xót cho
một di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Chùa có tên là Quảng Nghiêm tự, ở xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, tỉnh
Hà Tây cũ. Xã Tiên Phương xưa kia là xã Tiên Lữ nên chùa này cũng thường
được gọi là chùa Tiên Lữ. Sở dĩ chùa có tên là Trăm Gian vì quần thể
kiến trúc ở đây có đến 104 gian nhà.
Theo một số tài liệu, chùa được xây dựng từ thời Lý Cao Tông
(1176-1210). Nhưng ngôi chùa lớn với quy mô như hiện nay là đã được
trùng tu và xây dựng thêm qua nhiều triều đại.
Chùa có 3 cụm kiến trúc chính. Cụm thứ nhất ở cửa vào, gồm 2 quán, trước
đây dùng làm nơi đánh cờ người trong ngày hội. Gần đấy có ngôi nhà có
tên là Giá Ngự, vì là nơi đặt kiệu “thánh” trong lễ rước thánh, đó cũng
là nơi xem rối nước diễn trên hồ.
Cụm thứ hai là tòa gác chuông đẹp, có 2 tầng mái. Tầng trên treo quả
chuông đồng đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) có bài minh của tiến sĩ
Trần Bá Lãm. Qua các bậc đá có lan can chạm rồng, ta đến cụm kiến trúc
thứ ba là ngôi chùa chính, gồm bái đường, nhà thiêu hương và thượng
điện. Chùa có hơn 150 pho tượng, phần lớn bằng gỗ, một ít đắp bằng đất.
Đặc biệt ở gian giữa thượng điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình khối
chữ nhật, giống kiểu các bệ đá thời Trần.
Trên là đài sen, xung quanh trang trí nhiều hình động vật và hoa lá, bốn
góc có hình chim thần Garuda. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bệ này có
niên đại thời Mạc. Trên bệ đặt các tượng Phật Tam thế. Ở gian bên trái,
phía dưới tượng Quan Âm tống tử, là tượng đô đốc Đặng Tiến Đông - một
tướng lĩnh Tây Sơn mà sự tích được ghi lại trên khối bia vuông bốn mặt
đặt ở bái đường. Bài bia do Phan Huy Ích soạn và Ngô Thì Nhậm nhuận sắc.
Đây chỉ là một bản sao năm 1927, chép lại từ bài bia soạn năm 1794.
Gian bên phải là khám thờ “đức Thánh Bối” Nguyễn Bình An, vị thánh đã
được thờ ở chùa Bối Khê. Tượng thánh làm bằng mây đan ngoài bọc vải phủ
sơn.
Hai bên là dãy hành lang. Trong cùng là nhà thờ Tổ. Ở giữa còn có gác
trống, treo một chiếc trống lớn và một khánh đồng đúc năm Cảnh Hưng thứ
10 (1749).
Toàn bộ công trình nhà Tổ, gác Khánh và bậc cấp từ gác chuông lên sân tiền đường đã bị nhà chùa dỡ bỏ hoàn toàn và đang được xây mới. Nhà Tổ cơ bản đã được lợp mái, gác Khánh đã lắp dựng xong bộ khung gỗ, ngổn ngang gạch, đá, ngói từ trong ra ngoài chùa.
Đây là hình ảnh cận cảnh ngôi chùa bị phá dỡ, xây mới:
Ngôi chùa giờ lẫn lộn cũ-mới, mái ngói rêu phong cổ kính hàng trăm năm lẫn lộn giữa màu gạch, ngói, sơn mới nguyên, đỏ chót..
đã được vứt bỏ toàn bộ thay bằng những nét chạm trổ vô hồn, vô cảm.
Bậc lên xuống gác Khánh nham nhở thế này.
Mái đình cong vút giờ đây xen lẫn với mái bằng, mái cụt…
Đá xanh ôm trụ cột xưa giờ thay bằng những phiến đá được cắt xẻ vô hồn.
Tấm bia đá dựng ở một xó tường.
Cả ngôi chùa dường như chỉ còn tháp Chuông này giữ được vẻ cổ kính.
34. CHÙA DÂU - Hà Đông
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng (延應寺), Pháp Vân (法雲寺), hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Duyên ứng tự.
Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam
mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại.[1]. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (法雲寺, "mây pháp"), chùa Đậu thờ Pháp Vũ (法雨寺, "mưa pháp"), chùa Tướng thờ Pháp Lôi (法雷寺, "sấm pháp"), chùa Dàn thờ Pháp Điện (法電報寺 "chớp pháp") và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần.
Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt Nam. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam.
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.[1] Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam,
chùa Dâu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà
liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu
hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho
tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy
nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ)
cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt,
đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại
gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại
sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng
dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm.
Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp
vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một
quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Có câu thơ lưu truyền dân gian:.
- Dù ai đi đâu về đâu
- Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
- Dù ai buôn bán trăm nghề
- Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến hành hương về nơi đất Phật còn mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm - chùa Tổ - nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.
Tiền diện chùa Dâu nhìn từ sân ngoài
Tháp Hòa Phong
Bái đường
35. CHÙA BỐI KHÊ -Hà Đông
Chùa Bối Khê còn có tên là chùa Đại Bi, tọa lạc ở làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông nay là thành phố Hà Nội. Chùa được dựng năm 1382, dưới thời Trần, đã qua nhiều lần tu sửa. Chùa Bối Khê không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị về kiến trúc. Ngoài chư Phật, chùa còn thờ Minh Đức chân nhân đời Trần. Ngài họ Nguyễn, húy là Nữ, tự Bình An, tu hành đắc đạo, tăng đồ theo thụ giáo rất đông. Cũng có tài liệu nói chùa được xây dựng vào năm 1338, trong chùa có thờ Đức Thánh Bối tức vị tướng công Nguyễn Đình An là người địa phương đã có công đánh bại quân xâm lược phương Bắc.
Kiến trúc chùa rất đặc biệt, trên diện tích khoảng 5.000m2, xung quanh có tường bao..khác với các ngôi chùa ở miền Bắc Tiền đường, hành lang tả hữu, nhà tam bảo đều bằng gỗ dựng theo hình chữ Quốc. Hậu đường được kết hợp với điện thờ Thánh có hình chữ Công. Toàn bộ kiến trúc được sắp xếp cân xứng hai bên theo một trục chính.
Trước cổng chùa là sân đất rộng rãi, có cây đề, cây đa cổ thụ, đường kính sát gốc, ba vòng tay người ôm không xuể. Cổng chùa có 5 cửa. Phía trên cửa chính có dòng chữ 大悲寺 - Đại Bi Tự. Qua cổng chùa là chiếc cầu bằng gạch vắt qua hào nước hẹp, dấu tích của dòng sông Đỗ Động. Đi qua cầu là tam quan cao hai tầng tám mái. Tầng trên treo quả chuông lớn, đường kính 60cm, cao 1m.
Qua khỏi gác chuông là sân gạch rộng chừng 400m², trong sân có trồng cây đại, móng rồng, cây cảnh và hai voi đá chầu. Hai bên sân là hai hồ nước, một trồng sen và một làm giếng nước sinh hoạt cho dân làng trước đây, nay trở thành nơi biểu diễn văn nghệ trên mặt hồ trong dịp hội chùa.
Tòa tam bảo nối với tiền đường, đều trên một nền cao hơn so với dãy hành lang bao quanh.
Sau
Tam Bảo là hậu cung thờ Thánh Bối Khê Nguyễn Đình An, hai tầng tám mái.
Có những kiến trúc chạm khắc theo chủ đề tứ linh, tứ quý và những hoạ
tiết hình học có tính chất trang trí nhiều hơn, độ bền chắc thì không
bằng nhà Tam Bảo.
Hiện
giờ thì người ta đã trùng tu gần như toàn bộ, tuy vậy đường nét chung
cũng vẫn gợi lên vẻ cổ kính. Chùa có ngũ môn thật đồ sộ, cây đa cũng
tham gia vào tạo phông cảnh cho hoàn thiện.
Sau
ngũ môn đến một con lạch có cầu bắc qua. Thì ra cái ngũ môn chỉ là phân
chia không gian ước lệ tựa như một cái cổng làng. Nhà dân ở quây quần
quanh chùa phía trong. Gác chuông và hai cổng ngách mới thực sự là tam
quan ra vào chùa, gác chuông đã trùng tu lại có vẻ cứng quá. Mùa hè thì
đây có sen với súng nở.
Những
cây dừa ở đây gợi một cảm giác, có lẽ vì dấu ấn miền Trung của
chúng. Người ta cho rằng dừa vốn được mang ra Đại Việt cùng với các tù
binh Chàm từ thế kỷ XII-XIII. Vùng phía Tây Thăng Long chạy từ Cầu Giấy
qua Kẻ Sở, Đăm, lên đến Sơn Tây (tức vùng Hà Tây) vốn là đất lưu trú của
tù binh Chàm.
Tòa thượng điện, có kết cấu chồng rường giống gác chuông chùa
Keo Thái Bình. Ở bên cạnh là cây sen đất, vốn được tuyên truyền mạnh dạo
mấy năm gần đây như là bằng chứng duy lý của câu ca dao "Hôm qua tát
nước đầu đình. Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen". Hoa sen nở vào tháng
4-6 âm lịch, nghĩa là đang nở đây! Nhưng khi mình đến thì đang vẫn mùa
rét nên không có. Hoa này xem ảnh thì giống hoa trà hoặc hải đường.
Đầu bảy góc mái đao có hình con phượng (hay chim thần) từ thời Trần, đã bị hư hỏng.
Hình dáng, đường nét là đẹp.
Lan can gạch đắp trang trí cũng đẹp, nhưng nếu đừng quét vôi nhem nhuốc thì đẹp hơn
Kết quả
là kiến trúc và điêu khắc người Việt thừa hưởng được rất nhiều thành tựu
rực rỡ, mang lại một đặc điểm khác biệt với ảnh hưởng Trung Hoa. Nhưng
về sau khi đã chinh phục toàn bộ vương quốc Chàm thì ảnh hưởng Trung Hoa
càng ngày càng thắng thế và dấu ấn Chàm mờ hẳn. Người ta vẫn nói, mỹ
thuật đời Lý là mỹ thuật khởi nguyên thời tự chủ nhưng đã đạt được ngay
phẩm chất cổ điển. Mỹ thuật đời Trần là bước tiếp nối. Chắc chẳn khẳng
định được một điều là nhờ mỹ thuật Chàm mà nghệ thuật hai đời Lý-Trần có
được kết quả đó.
Qủa chuông đúc năm 1844 đời Thiệu Trị.
Khi trùng tu, họ giữ lại bức cốn cũ hình chữ Thọ, mang đặc trưng kiến trúc thời Nguyễn.
Sân
chùa có một cây hoàng lan rất to. Khung cảnh thật đẹp và thanh bình.
Một trong những cái sân chùa đẹp nhất nước mình cũng nên.
Có thể thấy hình rồng đời Mạc có những nét đặc trưng: uốn khúc ít, thân mảnh, nhịp điệu dứt khoát. Đời Lê Trung Hưng sau đó và Nguyễn thì con rồng cuộn khúc nhiều hơn, nhiều râu ria và mây hơn.
Có
thể thấy ngay hình rồng đời Nguyễn trên bức cốn trên: tua tủa những râu
và vân mây, chứ không thấy dáng vẻ chuyển động của con rồng. Hình thức
cột và kẻ chuyền cũng là của thời Nguyễn, cầu kỳ hơn thời trước ở chỗ
pha chế nhiều hình thức kết cấu: kẻ chuyền không thẳng mà võng xuống làm
dáng, cột sinh ra hình chum đá chân quỳ ở dưới. Các hoa văn dập lại các
công thức tứ quý hóa long chứ không làm những diềm hoa cúc hay hoa sen
như thời trước.
Cái hiên này cao ráo và sáng sủa chứ không tối và thấp, đó là nhờ xây trên một nền cao.
Đây
là cái nền cấp xây từ đời Trần. Bằng chứng là còn vài đoạn có gạch nung
trang trí từ thời đó. Những họa tiết đặc trưng như hình rồng, sóng
nước...
Ở
đây có những hình con ít gặp như hươu. Còn con gì mình như có đốm, đuôi
thì như thỏ mà đầu thì rồng? Hàng gạch đỏ sẫm ở dưới là gạch mới trùng
tu đặt bên Bát Tràng làm. Nhưng lại không sắc nét bằng. Ở Mỹ Sơn có vấn
đề: gạch phục chế lại nhanh bị rêu và phong hóa hơn gạch cổ. Không hiểu
gạch ngày xưa cho gì vào mà nghìn năm vẫn tươi?
Những
bức cốn hiên ở tiền đường cũng có những tích đặc sắc như Đường Tăng đi
Tây Trúc thỉnh kinh. Ở bức trên, có Tôn Ngộ Không cân đẩu vân trên cùng,
nhưng không hiểu Trư Bát Giới là tay nào, người gánh đồ ắt là Sa Tăng.
Mấy kẻ còn lại như là yêu quái, đang rình rập. Nét chạm khắc ở đây thực
ra không tốt bằng các đình làng, hơi có vẻ mỹ nghệ thành thị.
Hai con trâu húc nhau, có quả lấm lưng trắng bụng. Mấy cái cây mọc trên đá chạm hình đặc sệt phong cách tranh Hàng Trống.
Cốn ở bờ thoải tam bảo, có thể thấy các đời gỗ trùng tu khác nhau.
Trong tam bảo có hệ thống bệ tượng và đèn đá từ thời Trần Phế Đế (1382) rất đẹp. Bệ này giống với bệ ở chùa Thầy.
Bốn góc là bốn con chim thần Garuda, bên trên là những cánh sen chạm rất sắc nét.
Một
viên đá chạm hình rồng đặc trưng thời Trần, có nét kế thừa hình thời Lý
- kiểu rồng giun, không có vẩy. Nhịp điệu cuồn cuộn, các hoa văn bố trí
thoáng, không dày đặc như thời sau. Liên hệ với thức cột cổ điển Hy
Lạp, ban đầu thì duyên dáng với Ionic hay Doric, cầu kỳ hơn có Corinth,
về sau La Mã phát triển thành Composite siêu cầu kỳ, mà đến thời Baroque
thì quá tả.
Hệ thống tượng này thấy có cả tu sĩ, võ sĩ lẫn quan. Hình thức thô mộc mang đậm nét bình dân.
Trong khi đó pho tương này (Ngọc Hoàng hay Đức Ông?) là một hình thức cao cấp và tinh vi hơn hẳn.
Trên
cao nhất của bệ đá là tượng Quan Âm cứu khổ cứu nạn, có 12 tay, tạc
thời Mạc.
Bức
tượng có vẻ đẹp vừa cao sang vừa giản dị, trong một cái vỏ kiến trúc
đẹp. Có thể thấy phía trước có cây hương đá có những chạm khắc tinh xảo.
Cây
hương án này cũng được cho là tạc thời Trần cùng với cái bệ, nhưng cảm
giác là nó mang nhiều nét phong cách thời sau này hơn. Phía trên nóc là
bộ vì thời Trần, có ván hình lá đề kẹp giữa hai cái bụng lợn (tức là hai
cái xà ngắn có hình như cái bụng lợn). Hai xà này chồng lên nhau bằng
các con kê và cột ngắn, như ở chùa Thái Lạc (Văn Lâm, Hưng Yên), cũng
thời Trần.
Bức
tượng Quan Âm Thị Kính này thì xấu. Cái núi đất ở dưới lại được sơn màu
xanh đỏ nguệch ngoạc.
Dãy tượng Tổ đặt rải ra mỗi vị một gian, trông hơi hiu quạnh.
Vị này trông thật trẻ, dáng ngồi rất nho nhã.
Hình dáng, đường nét là đẹp nhưng sao người ta sơn lắm màu lổn nhổn như bôi thuốc đỏ thuốc tím loạn xạ thế chứ?
Lan can gạch đắp trang trí cũng đẹp, nhưng nếu đừng quét vôi nhem nhuốc thế thì có phải ngon không?
36. CHÙA BỒ ĐỀ- Hà Đông
Chùa Bồ Đề nằm ở
phố Phú Viên, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội (trước kia thuộc
huyện Gia Lâm, Hà Nội- xưa là tỉnh Hà Đông), cách bờ bắc cầu Chương Dương khoảng 500m về phía
Nam. Nơi chùa chính thờ Phật pháp, vương triều nhà Trần, tam toà thánh
Mẫu.
Nơi đây là bến Bồ Đề, nơi Lê Lợi đóng quân đánh thành Đông Quan, đánh đuổi quân Minh xâm lược.Chùa Bồ Đề có tên chữ là Thiên Sơn. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ “đại công đức Bồ Đề” của vua Lê Thái Tổ. Chùa chỉ còn tòa thượng 5 gian xây trên nền cao, dáng bề thế, cổ kính. Bồ Đề hiện nay là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Sở dĩ gọi là “Bồ Đề” vì xa xưa trong làng có hai cây bồ đề cao, nổi bật giữa những làng quê ven sông Hồng, ngang đỉnh tháp chùa Báo Thiên ở trong Kinh thành Thăng Long ở bên kia sông. Chùa Bồ Đề còn có tên gọi là Thiên Sơn tự. Chùa toạ lạc tại thôn Phú Yên, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, cách bờ Bắc cầu Chương Dương khoảng 500m về hướng Nam, nay thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Đây là một ngôi chùa nữ và cũng là mái ấm tình thương đùm bọc, cưu mang trẻ mồ côi.
Tương truyền chùa được xây trên đất dinh Bồ Đề của Lê Lợi khi vua bao vây thành Đông Quan năm 1472. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại là: "Vua làm lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày ngự trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc làm gì". Thế nhưng, cũng có nhiếu ý kiến cho rằng chùa được xây từ cuối đời nhà Trần, trên một gò đất cao gọi là Núi Trời (nên còn có tên gọi là Thiên Sơn). Sau này, do bị chiến tranh tàn phá nên năm 1614, chùa được trùng tu tôn tạo trên nền chùa cũ và công đức khắc in vào hai quyển Pháp Hoa kinh để lưu hành. Đến giữa thế kỉ XVIII, chùa lại tiếp tục bị chiến tranh huỷ hoại. Năm Giáp Tuất đời Tự Đức 27 (1874), đại sư Thích Nguyên Biểu, tự hiệu Nhất Thiết đại sư (1835 - 1906) đến trụ trì và ngài đã trùng tu, tôn tạo trên nền chùa cũ gồm thượng điện rộng 5 gian, cho thỉnh thêm tượng Phật mới, chùa Hộ, nhà Thiêu hương, nhà Pháp bảo và cửa Tam quan.
37. CHÙA THANH AM- Hà Đông
Chùa Thanh Am có tên là Động
Linh tự, là một ngôi chùa cổ tại số 76, Tổ 24 phố Thanh Am, phường
Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội, mà xưa thuộc tỉnh Hà Đông. . Động Linh tự thuộc làng Việt cổ Thanh Am, trong quần thể di
tích Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Làng Thanh Am do Nguyễn Bỉnh Khiêm
đưa con cháu và dân làng tới định cư ở đây và xây dựng thành, với tên
lúc đầu là làng Hoàng Am.
Sự cổ kính và hoành tráng của Động Linh tự chỉ còn lại ít
nhiều trên các tấm bia đá và đặc biệt là quả chuông được chế đúc dưới
thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ nhất (1793) và bia Hậu Phật có
niên hiệu Gia Long thứ hai (1803).
Quả chuông được đúc dưới thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ nhất
(1793) là di vật quý giá còn lại của Chùa. Chuông cao 0.82m; nếu kể cả
phần chót trên cùng là 1,20m; đường kính 0,57m; chu vi 1,57m. Quai
chuông hình con Bồ Lao (một loài vật giống rồng, bơi lướt trên mặt
biển).
Chùa được tôn tạo lại năm 2002, hoàn thành vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mùi (2003). Hoàn thành nhà Tổ ngày 15 tháng 11 năm Quý Mùi (2003).
38. CHÙA KHUYẾN LƯƠNG- HàĐông
Chùa Khuyến Lương còn có tên là chùa
Diên Phúc ở thôn Khuyến Lương, xã Trần Phú, huyện Thanh Trì, ngoại thành
Hà Nội. Chùa được xây dựng vào khoảng đầu thế kỉ XVIII.
Trên cột đá
Thạch trụ hương dựng năm 1739 ghi việc dân làng đã xây thêm gác chuông
và dựng cột đá trước chùa. Chuông đồng cổ của chùa đã bị Nguyễn Hữu
Chỉnh ra lệnh thu về đúc vũ khí. Đến năm 1821, chuông Diên Khánh tự
chung được đúc mới, 15 năm sau lại đúc thêm một chiếc khánh lớn ở nhà
Mẫu.
Ngoài cùng là cổng gạch xây cuốn cửa vòm, 2 tầng mái nhỏ góc đao uốn cong, trang trí tích Thầy trò Đường Tăng sang Tây Trúc lấy kinh. Chùa
có kiến trúc theo chữ Đinh. Tiền đường có 2 tầng 4 mái, 5 gian 2 dĩ.
Thượng điện 4 gian, 2 tầng 4 mái. Sau thượng điện là nhà thờ Mẫu, thờ
Tổ gồm 9 gian. Ngoài khu kiến trúc chính của chùa còn có hai khu vườn
tháp mộ, mỗi khu 3 ngọn tháp 3 tầng.
Các pho tượng trong chùa được quy hoạch theo dấu ấn Phật điện thời Lê. Di
vật trong chùa còn 7 bức cửa võng, 6 bức y môn, 1 bia dựng năm 1935, 1
khánh đồng đúc năm 1839, 32 pho tượng tạc vào thế kỷ XVIII, XIX, 5 bức
hoành phi, 9 đôi câu đối...
39.QUẦN THỂ CHÙA HƯƠNG- Hà Đông
Chùa Hương là tên tắt của Hương Tích hay Hương Sơn. Tại Việt Nam có hai chùa trùng tên.
- Chùa Hương Tích ở tỉnh Hà Tĩnh toạ lạc trên đỉnh núi Hồng Lĩnh thuộc xã Thiên Lộc huyện Can Lộc.
- Chùa Hương Tích ở Hà Đông thật ra chỉ là một "phiên bản" đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh. Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Đông từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.
Chùa Hương-Hà Đông
Đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh đất chùa Thiên Trù. Theo sách "Hương Sơn Thiên Trù thiên phú" thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, (1680-1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686.
Các ngôi chùa chính được xây dựng với quy mô lớn vào khoảng cuối thế kỷ 17. Cho đến đầu thế kỷ 20, trong khu vực này đã có hơn 100 ngôi chùa.
Có bốn con đường đến chùa Hương, và trên bốn tuyến này có nhiều chùa:
- Tuyến Hương Tích: Đền Trình – Chùa Thiên Trù – Động Tiên Sơn – Chùa Giải Oan – Đền Trần Song – Động Hương Tích – Chùa Hinh Bồng.
- Tuyến Thanh Sơn: Chùa Thanh Sơn – Động Hương Đài
- Tuyến Long Vân: Chùa Long Vân – Động Long Vân – Hang Sũng Sàm
- Tuyến Tuyết Sơn: Chùa Bảo Đài – Động Chùa Cá – Động Tuyết Sơn
+ Chùa Hương là cách
nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một
quần thể văn hóa - tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật,
vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung
tâm chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ven bờ phải
sông Đáy.
Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.Hội chùa Hương hay Trẩy hội chùa Hương là một lễ hội của Việt Nam, nằm ở Mỹ Đức, Hà Nội. Trong khu thắng cảnh Hương Sơn, được xem hành trình về một miền đất Phật - nơi Quan Thế Âm Bồ Tát ứng hiện tu hành. Đây là một lễ hội lớn, cùng với lễ hội chùa Yên Tử và lễ hội chùa Bái Đính là những lễ hội gây được tiếng vang lớn ở miền Bắc, thể hiện ở sự quá tải số lượng các phật tử tham gia hành hương.
Trung tâm của cụm đền chùa tại vùng này chính là chùa Hương nằm trong động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong.Hội chùa Hương hay Trẩy hội chùa Hương là một lễ hội của Việt Nam, nằm ở Mỹ Đức, Hà Nội. Trong khu thắng cảnh Hương Sơn, được xem hành trình về một miền đất Phật - nơi Quan Thế Âm Bồ Tát ứng hiện tu hành. Đây là một lễ hội lớn, cùng với lễ hội chùa Yên Tử và lễ hội chùa Bái Đính là những lễ hội gây được tiếng vang lớn ở miền Bắc, thể hiện ở sự quá tải số lượng các phật tử tham gia hành hương.
+ CHÙA THIÊN TRÙ :
Chùa Thiên Trù (có nghĩa là Bếp Trời), còn gọi là chùa Trò hay chùa
Ngoài, nằm trong quần thể Khu danh thắng Hương Sơn, thuộc xã Hương Sơn,
huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.Chùa Thiên Trù toạ lạc trên thềm núi Lão,
được xây dựng từ đời Vua Lê
Thánh Tông (1460 – 1497). Theo một số sử ký còn lưu lại có chuyện kể
rằng trong một chuyến tuần thú phương nam lần thứ hai, Vua Lê Thánh Tông
cùng tướng sĩ qua vùng núi Hương Sơn nghỉ lại ở thung lũng núi Lão và
cho quân lính thổi cơm ăn.
Cổng chùa Thiên Trù
Trong lúc thưởng ngoại cảnh sắc thiên nhiên, Vua xem thiên văn thấy vùng này ở vào vị trí của sao Thiên Trù (Bếp trời một chòm sao chủ về ăn uống) nên nhân đấy nhà Vua đặt tên cho thung lũng này là Thiên Trù. Sau lần đó Sư Tổ Viên quang chân nhân, quốc phong Thựơng Lâm Viện – Tăng lục Tăng lục Ty Hoà Thượng Viên Giác Tôn Giả, chống gậy thiền vượt suối trèo non cùng cư dân vào dựng thảo am thờ phật, khai sáng thiền môn Thiên Trù Tự. Tiếp sau Tổ Sư Trần Đạo Viên Quang Chân Nhân, Tổ Sư Nguyệt Đường kế nhiệm trụ trì. Rồi đến Tổ Trần Huyền Đạo Thắng: Cụ Hải Dao. Tổ Hải Viên, năm mậu tuất (1802) tổ Hải Viên xây dựng năm gian tiền đường bằng gỗ lim lợp ngói thờ Phật. Kế tiếp là Tổ Tịch Đĩnh trụ trì.
Trong lúc thưởng ngoại cảnh sắc thiên nhiên, Vua xem thiên văn thấy vùng này ở vào vị trí của sao Thiên Trù (Bếp trời một chòm sao chủ về ăn uống) nên nhân đấy nhà Vua đặt tên cho thung lũng này là Thiên Trù. Sau lần đó Sư Tổ Viên quang chân nhân, quốc phong Thựơng Lâm Viện – Tăng lục Tăng lục Ty Hoà Thượng Viên Giác Tôn Giả, chống gậy thiền vượt suối trèo non cùng cư dân vào dựng thảo am thờ phật, khai sáng thiền môn Thiên Trù Tự. Tiếp sau Tổ Sư Trần Đạo Viên Quang Chân Nhân, Tổ Sư Nguyệt Đường kế nhiệm trụ trì. Rồi đến Tổ Trần Huyền Đạo Thắng: Cụ Hải Dao. Tổ Hải Viên, năm mậu tuất (1802) tổ Hải Viên xây dựng năm gian tiền đường bằng gỗ lim lợp ngói thờ Phật. Kế tiếp là Tổ Tịch Đĩnh trụ trì.
+ Chùa Giải Oan:Vẫn trên đường vào chùa Trong, rẽ tay trái là chùa Giải Oan. Chùa do Sư Tổ Thông Dụng huý Thám pháp danh Cương Trực đời thứ 2 khai sáng. Chùa được dựng ở lưng chừng núi Long Tuyền, lúc đầu chỉ là một thảo am nhỏ bằng tre gỗ đơn sơ. Chùa đã qua trùng tu vào các năm 1928, 1937. Năm 1995, chùa được tu bổ thêm am Từ Vân, kè lại sân chùa.
Chùa là nơi thờ phụng đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Hiện nay am Từ Vân còn lưu giữ được pho tượng Tứ Tý Quan Âm được đúc vào thế kỷ 18. Trong chùa có giếng Thanh Trì trong suốt không bao giờ cạn. Tương truyền đây chính là nơi đức Chúa Ba (Bồ Tát Quan Âm Diệu Thiện) đã dùng để tắm, tẩy sạch bụi trần ai, trước khi đi vào cõi phật. Từ đó giếng này được gọi là giếng Giải Oan, khách đi lễ thường múc nước nước uống để cầu mong giải thoát khỏi mọi nỗi oan ức trên đời.
Chùa Giải Oan có kiến trúc hài hoà, nằm giữa cảnh thiên nhiên thanh tao u tịch, càng làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm, huyền bí. Du khách đến đây được uống dòng nước mát lạnh của giếng Thanh Trì, như quên đi những ưu tư của đời thường khi hành hương về cõi Phật.
+Động Hương Tích
Từ chùa Giải Oan, du khách lại tiếp tục cuộc hành trình khoảng 2,5km lên động vào chùa Hương Tích (còn gọi là chùa Trong). Ðường lên động có nhiều chỗ quanh co, lúc lên dốc, lúc xuống dốc. Càng gần tới động thì dốc càng cao. Lên tới bậc đá cao nhất đứng nhìn xuống, du khách sẽ nhìn thấy một vòm hang rộng, sâu, hun hút trông giống như hàm của một con rồng, đó là động Hương Tích.
Qua cổng, đi xuống 120 bậc đá là vào tới lòng động. Ngay ở khoảng giữa, gần cửa ra, vào, có một nhũ đá gọi là "đụn gạo". Ði sâu vào một chút có một lối lên Trời và một lối xuống âm phủ. Trong động, những măng đá, nhũ đá rủ xuống tạo thành muôn hình vạn dạng, người xưa thoả sức để đặt tên: nong tằm, né kén, chuồng lợn, ao bèo, cây vàng, cây bạc, đầu cô, đầu cậu... Bên cạnh những công trình điêu khắc thiên nhiên còn có những công trình điêu khắc nhân tạo, giá trị nhất là pho tượng Phật Bà Quan Thế Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn.
Hương Tích là một động đẹp nổi tiếng và đã được chúa Trịnh Sâm (thế kỷ 17) tự tay đề năm chữ Hán lên cửa động: "Nam Thiên đệ nhất động" (Ðộng đẹp nhất trời Nam).
* Tuyến Long Vân: Gồm có động và chùa Long Vân, động Tiên, động Người Xưa, chùa Cây Khế, Hinh Bồng Tự.
Chùa Long Vân:
Sau khi vào đặt lễ ở đền Trình, xuống đò đi tiếp, du khách sẽ thấy dòng suối rẽ đôi, phía phải là đường vào Hương Tích, phía trái là đi vào động và chùa Long Vân.
Chùa nằm ở
trên sườn núi, một nửa lấp sau núi Ân Sơn, một nửa lộ ra giữa rừng cây
xanh biếc, mây trắng quấn quýt quanh năm. Chùa được xây dựng vào năm
1920. Ðộng Long Vân cũng được khai tạo vào thời gian này. Ðộng tuy nhỏ
nhưng lam khói quanh năm nên lúc nào cũng tạo cho du khách cảm giác thần
tiên thoát tục.
*Tuyến chùa Tuyết: Gồm có đền trình Phú Yên, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả, Bảo Ðài, đền Mẫu, đền Thượng, động Ngọc Long...
Chùa Tuyết Sơn:
Sau
khi vào chùa Thiên Trù, theo con đường nhỏ men sườn núi, rẽ trái, đi
phía nam khoảng 4km là tới khu Tuyết Sơn. Ðây là một quần thể đẹp thứ
hai sau động Hương Tích. Suối Tuyết tuy nhỏ nhưng nước trong xanh, uốn
lượn quanh co như một con rồng đang bò sâu vào trong dãy núi cao chất
ngất. Ðiểm dừng đầu tiên trong tour du lịch này là vào thắp hương, trình
lễ ở đền Trình Phú Yên. Sau đó vào Bảo Ðài cổ sái để lễ phật, nghe
kinh. Chùa Bảo Ðài có phong cảnh phong quang u tịch. Trong chùa có toà
Cửu Long có giá trị mỹ thuật khá cao.
Ði tiếp là đến động Ngọc Long.
Ðộng Ngọc Long không rộng lắm nhưng có những nét đẹp độc đáo. Trong
động, ánh sáng mờ ảo, nhũ đá, măng đá rủ xuống trông như những ổ rồng
quấn quýt. Ðẹp nhất vẫn là pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm tạc liền vào
vách đá với vẻ mặt rất từ bi, nhân hậu.
40. CHÙA LONG ĐỌI- Hà Nam
Tên chữ là Sùng Thiện Diên Linh Tự, được xây dựng từ đời vua Lý Thánh Tông, nằm trên đỉnh núi Đọi, với độ cao 79m so với mặt nước biển. Ban đầu, chùa chỉ được xây dựng với quy mô nhỏ. Đến năm 1118, đời vua Lý Nhân Tông, chùa được xây dựng bề thế, với tháp Sùng Thiện Diên Linh đã được xây dựng với ý nghĩa cầu thiện.
Tuy nhiên, chùa “Long Đọi Sơn” chỉ thực sự nổi tiếng kể từ khi nhà vua Lý Nhân Tông cho tiếp tục phát triển và xây cây tháp Sùng Thiện Diên Linh từ năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (năm 1118), đến năm 1121 thì hoàn thành. Tháng 3 năm Nhâm Dần (1122) nhà vua mở hội khánh thành chùa. Đến nay, Chùa được trùng tu qua nhiều lần vào các năm 1591, năm 1860, năm 1864, và lần tu sửa lớn là vào năm 1958.
Tấm bia trước cổng chính
Đây là ngôi chùa cổ có nhiều nét văn hoá nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, mang đậm dấu ấn qua các thời kỳ lịch sử. Năm 1992, chùa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
Ngôi chùa được xây dựng trong
khuôn viên rộng khoảng 2 ha, quay về hướng Nam, lưng tựa vào núi Điệp
với ba dòng sông uốn khúc bao quanh. Chùa Long Đọi Sơn được xây dựng
theo kiểu chữ đinh, bao gồm 7 gian bái đường và ba gian thượng điện. Hệ
thống vì kèo làm theo kiểu chồng đấu giá chiêng, cột cái đường kính 30
cm, chân tảng kê đá cổ bồng, xà và hoành vuông, mái lợp ngói ta.
Xung quanh xây tường gạch, năm gian giữa nhà bái đường được lắp cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim. Bên trái chùa song song với nhà thượng điện là năm gian nhà tổ, cột bằng đá vuông, tường gạch, lợp ngói ta. Nối liền nhà tổ là bốn gian tăng phòng, nơi ở của các nhà sư trụ trì. Nhà khách đối diện với nhà tổ qua một sân lát gạch. Nhà tổ, nhà khách, tăng phòng tạo thành hình chữ U có chung một sân gạch ở giữa. Bên phải chùa chính là phủ thờ đức Thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa.
Xung quanh xây tường gạch, năm gian giữa nhà bái đường được lắp cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim. Bên trái chùa song song với nhà thượng điện là năm gian nhà tổ, cột bằng đá vuông, tường gạch, lợp ngói ta. Nối liền nhà tổ là bốn gian tăng phòng, nơi ở của các nhà sư trụ trì. Nhà khách đối diện với nhà tổ qua một sân lát gạch. Nhà tổ, nhà khách, tăng phòng tạo thành hình chữ U có chung một sân gạch ở giữa. Bên phải chùa chính là phủ thờ đức Thánh mẫu Liễu Hạnh công chúa.
Hiện nay, chùa còn giữ được nhiều di vật quý như bia Sùng Thiện Diên Linh, pho tượng Kim Cương, tượng Phật Di Lặc bằng đồng…
Bia Sùng Thiện Diên Linh được
khắc năm 1121. Bia cao 2,5m, rộng 1,65m, dày 0,3m. Bệ bia là một khối đá
hình chữ nhật dài 2,4m, rộng 1,8m, cao 0,5m không tạc hình con rùa như
các chân bia khác mà tạc hình hai con rồng uốn khúc.
Văn bia nguyên có tên là Đại Việt
quốc dương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh do Thượng thư bộ hình Nguyễn
Công Bật soạn. Nội dung bài văn bia chủ yếu ca ngợi công lao tài trí của
nhà Vua Lý Nhân Tông trong việc xây dựng, kiến thiết và đánh giặc giữ
nước. Mặt sau tấm bia ghi việc Thái hậu ỷ Lan cung tiến vào chùa 72 mẫu
ruộng vào năm 1121, khắc bài thơ của Lý Thánh Tông làm vào năm Quang
Thuận thứ 8 (1467).
Chùa “Long Đọi Sơn” còn lưu giữ các pho tượng các vị Kim cương có kích thước xấp xỉ nhau, cao bằng người thực, khoảng 1m60, đứng chống gươm trước bụng. Tượng được tạc bằng đá khối, phục trang theo lối võ quan. Tượng đứng thẳng, hai chân hơi dõng theo thế đứng vững chãi của người lính gác, hai tay khuỳnh chống gươm trước bụng, đầu đội mũ trùm tai, mặt tròn trặn, nhẹ nhõm. Các pho tượng này có mối liên quan mật thiết với các công trình tôn giáo và đã có những đóng góp quan trọng về mặt thẩm mỹ cho công trình.
Tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Long Đọi Sơn
trên núi Long Đọi, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên (Hà Nam)
trên núi Long Đọi, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên (Hà Nam)
Trong số những di vật điêu khắc
đá được phát hiện ở chùa “Long Đọi Sơn” phải kể thêm tượng đầu người
mình chim, mang hình tượng thần thoại trong nghệ thuật Ấn Độ. Tượng được
tạc từ đá ráp, cao 40 cm, phần trên tượng là hình người còn nửa dưới là
hình chim, chân có móng, đuôi nhiều lông cao vút hẳn lên. Toàn bộ pho
tượng thần thoại này được thể hiện khá công phu. Tượng có cấu trúc độc
đáo, kỳ dị, nhưng phong cách thoải mái.
Ngoài ra, chùa “Long Đọi Sơn” còn
khá nhiều pho tượng khác có giá trị về mặt nghệ thuật như pho tượng
Phật Di Lặc. Tượng được đúc vào năm 1864 nặng 1 tấn. Toàn bộ pho tượng
được đặt vào thế ngồi thoải mái, chân phải chống lên, chân trái xếp vào
lòng, áo mặc nhưng chỉ xỏ hai cánh tay, để hở cả ngực và bụng, bụng căng
tròn, ngực nở, vai đầy đặn. Bộ mặt diễn tả thành công thể hiện sự no
đủ, vui tươi.
Nói đến các di vật của chùa “Long
Đọi Sơn” không thể không kể đến những mảnh gốm trang trí kiến trúc.
Những viên gạch đất nung có hình vũ nữ, mỗi viên đều có hai hình người
đang múa. Chúng có kích thước trung bình cao 0m15, dài 0m22, dầy 0m08.
Gốm đất nung có trang trí hình rồng, loại gạch này có chiều dài 0m24,
cao 0m10 được nung già, có màu đỏ. Viên gạch được khắc trọn một con
rồng. Những loại gạch đất nung có hình trang trí khắc nổi hẳn lên, được
gắn vào phía ngoài của các công trình kiến trúc.
Với vị trí địa lý thuận lợi,
phong cảnh thiên nhiên đẹp, chùa “Long Đọi Sơn” không chỉ là một điểm du
lịch hấp dẫn mà còn nơi lưu giữ những hiện vật rất quý báu đối với việc
nghiên cứu văn hóa nước ta cách đây gần một thiên niên kỷ.
Hàng năm chùa có tổ chức lễ hội
thờ Phật vào ngày 21 tháng 3 âm lịch. Đây là lễ hội quan trọng nhất
trong năm của chùa Long Đọi Sơn. Lễ hội được tiến hành với lễ dâng hương
tưởng niệm Lý Nhân Tông, người có công mở mang xây dựng chùa. Sau lễ
dâng hương, các đội tế nam quan, tế nữ quan tạ ơn trời phật. Bên cạnh lễ
còn có hội với nhiều trò vui được tổ chức như nấu cơm, dệt vải, bơi
thuyền, hát chèo, hát đối, hát giao duyên, chọi gà, tổ tôm, múa tứ linh,
đấu vật, đánh cờ người…
Từ ngày tạo dựng đến nay, chùa
Long Đọi Sơn trải qua gần 900 năm lịch sử. Đến thăm chùa, du khách không
chỉ được thăm một trong những thắng cảnh nổi tiếng của chốn Nam Sơn cổ
sử đệ nhị, mà còn có dịp tìm hiểu một ngôi chùa cổ kính, một trong những
kiến trúc tiêu biểu của thời Lý. Đến với Lễ hội Long Đọi Sơn, ngoài
việc bái vọng Phật pháp, cầu may cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ các danh
nhân trong lịch sử dân tộc.41. CHÙA VỌNG CUNG-Nam Định
Chùa tọa lạc ở số 28 đường Trần Phú, thành phố Nam Định. Chùa được dựng vào thời Gia Long (1802-1820). Xưa chùa là nơi đón tiếp nhà vua và các quan văn võ đi kinh lý. Chùa bị hư hỏng nhiều lần qua các cuộc chiến tranh. Từ năm 1983 đến 1986, Hòa thượng trụ trì Thích Thuận Đức đã tổ chức xây dựng lại ngôi chùa quy mô như ngày nay. Chánh điện được xây dựng rộng thoáng, bài trí tôn nghiêm. Chùa đang được tiếp tục mở rộng. Chùa hiện đặt văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Nam Hà, là nơi đón tiếp hàng vạn Phật tử, du khách đến tham quan, chiêm bái hàng năm.
Chùa Vọng Cung nằm giữa phố phừờng sầm uất của thành phố Nam Định (tỉnh Nam Định). Vào thời Gia Long (1802 – 1820), công trình đựơc xây cất để đón tiếp vua và các quan đi kinh lý. Năm 1950, nhà sư Thích Tâm Tri từ chùa Quán Sứ (Hà Nội) về Nam Định mở lớp Phật học và xin được tu tạo hành cung xưa thành ngôi chùa. Vì thế, chùa Vọng Cung có nét riêng không giống một ngôi chùa nào ở Việt Nam: chính điện có thể một lúc chứa hàng trăm người.
Ngôi chùa lớn trên khuôn viên rộng gần 3.000 m2 thu hút rất đông khách du lịch gần xa, cùng bà con trong vùng đến ngoạn cảnh, thắp hương, nhờ chùa Vọng Cung ở giữa phố Hà Huy Tập sầm uất, quả là hiếm quý ở thành phố Nam Định. Chùa lại có lai lịch cùng kiến trúc khác thường. Các tòa nhà hai tầng ngang dọc đã được sửa sang, tô điểm, với kiến trúc mái chồng diêm, đầu đao cong vút vốn là hành cung được xây cất vào thời Gia Long (1802 – 1820). Xưa chùa là nơi đón tiếp nhà vua và các quan đi kinh lý.
Năm 1950, nhà sư nổi tiếng Thích Tâm Tri, pháp danh Tuệ Lạng, từ chùa Quán Sứ (Hà Nội) về Nam Định mở lớp Phật học, xin được tu tạo hành cung xưa thành ngôi chùa. Từ năm 1983 – 1986, Hòa Thượng trụ trì Thích Thuận Đức đã tổ chức xây dựng lại ngôi chùa quy mô như ngày nay. Trải nhiều thế hệ sư tổ, nay trụ trì là Hòa thượng Thích Tâm Thông, đã ngoại tám mươi. Nơi cửa thiền này được chính quyền giúp đỡ và dân thành phố góp công, góp của tu tạo, dần dà trở thành ngôi chùa lớn và một trung tâm đào tạo tăng ni.
Khách thăm qua hai cổng tả, hữu, đã gặp khoảng sân rộng, rợp bóng cây to và cây cảnh bôn-sai. Tĩnh mịch và xanh mát làm dịu lòng khách giữa nơi phố xá ồn ào. Cầu thang rộng đặt dưới mái hiên dẫn khách lên gác hai là chùa chính năm gian rộng (chẳng gặp ở bất cứ chùa nào trên đất nước). Đại bái có thể chứa một lúc hàng trăm người thăm. Bàn thờ Phật trang nghiêm, u tĩnh đặt ở hậu cung hương khói ngày đêm. Tượng thờ sơn son thếp vàng, mang dấu ấn thời Nguyễn, kỹ lưỡng, mềm mại. Đẹp nhất là những pho Tam thế Tây phương: Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, A Nan, Ca Diếp, Cửu Long… Tầng dưới chùa là nhà tổ, nhà trai, bên cạnh nhà giảng rộng, đủ chỗ cho hai trăm sễ trẻ học kinh.
Nghệ thuật chạm, khắc gỗ điêu luyện thế kỷ 19 cũng để lại dấu ấn trên nhiều mảng kiến trúc và trang trí. Các tác phẩm điêu khắc không nhiều, nhưng lạ mắt. Đôi câu đối là hai tác phẩm độc đáo chạm lộng rồng nổi, thếp vàng trên toàn bề mặt, chữ thì đặt nổi trên hình. Hai bức cửa võng ở hậu cung, viền chạm trổ đôi rồng chầu mặt nguyệt; trong chạm “mai-điểu” với bố cục lạ mắt mà hài hòa.
Trong số những hiện vật, đồ thờ
bằng đồng, đặc sắc là quả chuông lớn, điểm chuông sớm tinh mơ thì tiếng
ngân vang tới ngoại thành.
42. CHÙA MỄ SỞ- Hưng Yên
Chùa thường gọi là chùa Mễ Sở, tọa lạc ở thôn Mễ Sở, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa được dựng vào thời Hậu Lê và đã được trùng tu nhiều lần. Ngôi chùa
hiện nay có tôn trí pho tượng Bồ tát Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn (bằng
gỗ), phần tượng cao 2,80m, bệ cao 0,53m. Nếu so sánh với pho tượng Quan
Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh thì tượng Quan Âm thiên
thủ thiên nhãn chùa Mễ Sở, Hưng Yên có số lượng tay nhiều hơn cả, tới
hơn một nghìn chiếc (1113 tay). Ngoài việc các cánh tay được ghép thành
hình vòng cung như ở tượng chùa Bút Tháp, nó còn được phát triển tiếp
lên phía trên đầu vị Phật, tạo thành các đường vòng uốn khúc liên tục
như những đám mây cuộn. Đặc biệt, các tay nhỏ của Quan Âm không chỉ tạc
từ cánh tay trở ra như tượng chùa Bút Tháp mà nó còn có thêm phần gập
của khuỷu tay. Đôi tay trên cùng được chụm lại ở phía trên đỉnh của mũ
thiên quan (được gọi là tay Đảnh hoá Phật), hình thức này được làm theo
khuôn mẫu của tượng Phật Trung Quốc. Điểm ấn tượng nhất của pho tượng
này là có thêm một đôi tay ở sau lưng tượng (được gọi là tay Phổ Lễ),
việc này làm cho bức tượng có thêm một không gian nữa, tạo thành không
gian đa chiều cho việc thưởng thức nghệ thuật tượng.
Có thề nói cả pho tượng mang một giá trị nghệ thuật rất cao, rất độc đáo góp phần thu hút du khách khắp nơi về viếng thăm ngôi chùa này.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
43. CHÙA TƯ PHÚC - Hải Dương
Chùa Côn Sơn còn có tên là chùa Hun,
vì tọa lạc trên núi Hun, và tên chữ là "Thiên Tư Phúc Tự", nghĩa là chùa
được trời ban cho phước lành. Chùa Côn Sơn, tọa lạc ở chân núi Kỳ Lân
hay núi Hun, cao khoảng 200m, thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa ở chân núi Côn Sơn, phía đông huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, gần làng Chi ngại, quê hương của dòng họ nhà Nguyễn Trãi.
Chùa xây từ đời Trần (1225-1400), nơi tu luyện của trạng
nguyên Lý Đạo Tài, pháp danh Huyền Quang, khi ông cáo quan về ở ẩn.
Nguyễn Trãi khi về hưu được vua giao chức "Đề cứ" chùa Côn Sơn cùng vợ
là Trần Phu Nhân, trông coi và mở rộng thêm. Chùa thờ Phật. Trong chùa
còn hệ thống tượng phật. Trong đó có tượng Di Đà Tam Tôn cao 1m43,
tượng Trúc Lam Tam Tổ tức là Trần Nhân Tông, tượng nhà sư Huyền Quang,
tượng Trần Nguyên Đán và các bà vợ. Trước đây còn có tượng Nguyễn Trãi
và Trần Phu nhân, nhưng đã bị phá năm 1954.
Thời Trần, các vị
vua thường đến chùa lễ bái. Trần Nhân Tông sau khi xuất gia cũng đến
đây tham thiền nhập định. Năm 1329, Thiền sư Pháp Loa mở rộng chùa, dựng
am Hồ Thiên và am Chân Lạp. Sau đó, Thiền sư Huyền Quang từ chùa Vân
Yên (Yên Tử) đến trụ trì.
Toàn cảnh chùa
Tam quan chùa
Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa, đặc biệt có tượng của ba vị tổ Thiền phái Trúc Lâm : Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang. Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia, đặc biệt là bia "Thanh Hư Động" tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét chữ của vua Trần Duệ Tông và bia hình lục lăng . Sau chùa có hồ non bộ, Giếng Ngọc (mắt Kỳ Lân) nước trong vắt không lúc nào vơi.
Chùa Tư Phúc
Theo sách Hải Dương – Di tích và
danh thắng (1999), chùa từng có quy mô 83 gian, có tượng Quan Âm nghìn
mắt nghìn tay, đài Cửu phẩm Liên hoa có 385 pho tượng… Chùa hiện nay
kiến trúc kiểu chữ Công (I), còn ngói mũi hài và đá tảng hoa sen là di
tích thời Trần. Sân chùa có 4 nhà bia, đặc biệt tấm bia khắc 3 chữ
“Thanh Hư Động” là bút tích của Trần Duệ Tông, và tấm bia do Chiêu Dương
Nguyễn Đức Minh soạn năm 1607 nói việc trùng tu chùa vào đầu thế kỷ
XVII do nhà sư Thích Pháp Nhẫn thực hiện. Nhà tổ thờ tượng Trúc Lâm Tam
Tổ và tượng Trần Nguyên Đán.
Bia Thanh Hư động
Tượng Trần Nguyên Đán
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa được trùng tu vào năm 1995.
Sau chùa có Giếng Ngọc (mắt Kỳ Lân) nước trong vắt, có đường lên Bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi với trên 600 bậc đá. Cuối thế kỷ XV, Lê Thánh Tông đến Côn Sơn, nhớ Nguyễn Trãi, xúc động viết :
Tịch thổ lâu đài cảnh trí kỳ
Cổ nhân trầm tích, dĩ y hy !
(Đất Phật lâu đài cảnh đẹp thay
Người xưa dấu cũ vẫn còn đây !)
Người xưa dấu cũ vẫn còn đây !)
Cổng đền thờ Nguyễn Trãi
Một bia bốn mặt niên hiệu Thiệu Phong thứ 18 (1397)
Một bia có 3 chữ "Thanh Hư động" thời Long Khanh (1373-1377) năm Hoằng Định thứ 4 (1603).
Một bia niên hiệu Hoàng Định thứ 14 (1633) - vua Lê Thế Tông
Một bia niên hiệu Thịnh Đức nguyên niên (1653) - vua Lê Thần Tông
Một bia niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7 (1712) - vua Lê Dụ Tông.
Mộtbia niên hiệu Bảo Thái thứ 2 (1721) vua Lê Dụ Tông.
Năm Hưng Long thứ 12 (1304) nhà sư Pháp Loa cho xây dựng một liêu (chùa nhỏ) gọi là Kỳ Lân. Đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329) chùa được xây dựng mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, giao cho Huyền Quang chủ trì.
Ngay từ thời nhà Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm cùng với chùa Yên Tử và chùa Quỳnh Lâm, Quảng Ninh. Nơi đây đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và người anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.
Vào đời nhà Lê, lúc Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhãn trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng. Khi đó chùa có đến 83 gian, bao gồm các công trình như : tam quan, thượng hạ điện, tả hữu vu, lầu chuông, gác trống. Nhưng do bị chiến tranh tàn phá, ngày nay chùa Côn Sơn chỉ còn là một ngôi chùa nép mình dưới tàn lá xanh của những cây cổ thụ.
Chính điện chùa Côn Sơn Trước sân tiền đường chùa Côn Sơn có những cây đại cổ, làm tăng cảnh đẹp và tôn nghiêm của chùa.
Chùa Côn Sơn xưa là một công trình kiến trúc
hoàn thiện, có 385 pho tượng. Tương truyền ở ban thờ đầu hồi phía Đông
nhà Tổ có 2 pho tượng nhỏ ngồi xếp bằng, một đàn ông, một đàn bà hướng
về bàn thờ Phật. Tăng ni tu ở chùa Côn sơn không biết hai pho tượng đó là ai và có tự bao giờ. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp,
sợ giặc đến chùa tàn phá, các tăng ni Phật tử dã đem đồ thờ và các pho
tượng nhỏ cất giấu ở trong núi. Vào một đêm mưa gió sấm sét to, sư ông
trụ trì chùa ngủ không yên, đợi sáng hôm sau trời tạnh vào thăm lại bức
tượng. Sư ông vào xem và thấy hai pho tượng trên đắp bằng đất bị mưa làm
vỡ, lộ hai dải yểm tâm mới biết đó là tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
Phía sau chùa Côn Sơn là khu mộ tháp. Đăng Minh bảo tháp được dựng
bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi và tượng Thiền sư Huyền
Quang.
Chùa Côn Sơn - Thiên Tư Phúc tự
Chùa Côn Sơn - Thiên Tư Phúc tự
Nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, dưới chân
Đăng Minh bảo tháp là Giếng Ngọc. Người xưa cho rằng Giếng Ngọc chính là
mắt của con Kỳ Lân. Giếng Ngọc cũng có thời gian bị cỏ cây che lấp. Năm
1995, ban
Quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã cho khơi lại, kè đá, xây bờ, lát
sân để phục vụ cho du khách về tham quan Côn Sơn lại được tận hưởng nước
giếng thiêng.
Tại Bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi Côn Sơn, nơi đây ngày xưa có một am nhỏ
hình chữ Công (I), tám mái chảy, có lan can xung quanh. Am này có tên
là Am Bạch Vân.
44. THIỀN VIỆN TRÚC LÂM - Vĩnh Phúc
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
nằm tại xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, cách Hà Nội khoảng 85 km về phía
tây. Cùng với Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử,
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong 3 thiền viện lớn nhất của
Việt Nam. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng ngay bên cạnh Khu di
tích danh thắng Tây Thiên cổ tự (Chùa Tây Thiên, Đền Quốc Mẫu Tây Thiên
Lăng Thị Tiêu, Đền Cô, Đền Cậu, Đền Thõng, Thác Bạc).
Thiền viện Tây Thiên là nơi đào tạo về Phật giáo một cách có hệ
thống, tạo điều kiện để Phật giáo Việt Nam phát triển cả về bề rộng cũng
như chiều sâu và đẩy mạnh giao lưu với các dòng phật giáo của các nước
khác.
Đây là một trong những nơi phát tích sớm nhất của Phật giáo Việt Nam. Khoảng thế kỷ thứ 3, có một vị hòa thượng tên là Khương Tăng Hội
dừng chân ở đây, dựng chùa truyền giáo, vì thế nơi đây là cái nôi của
Phật giáo Việt Nam. Thiền học Việt Nam được khởi đầu với hòa thượng
Khương Tăng Hội, ông cũng đem Thiền học sang truyền bá ở Trung Quốc thời
Tôn Quyền (năm 247). Cha của Khương Tăng Hội là người nước Khương Cư
(Sogdiane) cư trú tại Giao Chỉ để buôn bán, mẹ là người Giao Chỉ, ông
chắc chắn là sinh trên đất Giao Chỉ, cha và mẹ ông mất năm ông lên mười
tuổi, ông mất năm 280 bên nước Tấn.
Vua Hùng thứ 6 tên là Hùng Chiêu Vương lên chùa Thiên Ân trên đỉnh
núi Tam Đảo để cầu tự, khi trở về đã gặp bà Lăng Thị Tiêu và rước về làm
vợ; bà là người xinh đẹp, giỏi giang, có tài thao lược, giúp vua Hùng
đánh giặc giữ nước Văn Lang.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên nằm trên ngọn đồi rộng khoảng 4,5 ha, cao khoảng 300 m so với mực nước biển. Công trình này mang đậm dấu ấn kiến trúc Phật giáo đương đại. Trước thiền viện là một cánh đồng rộng, phía sau là dãy núi cao với rừng thông xanh ngắt.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng trên nền của một thiền tự cổ (Thiên Ân Thiền Tự) có từ thế kỷ 3.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên được khởi công từ ngày 4/4/2004 (15/2
âm lịch) với tổng số vốn 30 tỷ đồng. Khi làm lễ khởi công, trên nền ngôi
chùa cổ các nhà sư đã tìm được vô số các viên gạch và mảnh ngói vỡ có
hoa văn mang dấu ấn của thời Trần. Sau hơn 15 tháng xây dựng công trình
mang tầm cỡ quốc gia này đã chính thức hoàn thiện và được khánh thành
ngày 25/11/2005. Công trình to lớn này đã được xây dựng với thời gian
nhanh và giá thành thấp kỷ lục, riêng tòa Đại Hùng Bửu điện chỉ thi công
trong vòng 9 tháng. Sở dĩ tốc độ xây dựng nhanh như vậy vì có sự tham
gia đóng góp của hàng ngàn người, trong đó có các nghệ nhân và làng nghề
hầu khắp trong cả nước: thợ mộc Hà Tây, Bắc Ninh; thợ đá Non Nước, Ninh
Bình; thợ xây Nam Định, Hà Nội.
Nằm trên quả đồi với diện tích rộng khoảng 4,5ha, rừng ngoại vi rộng 50ha, nằm trên độ cao khoảng 300m so với mực nước biển, công trình mang đậm dấu ấn một ngôi chùa Việt Nam với phong cách kiến trúc đương đại. Phía sau chùa là núi rừng xanh tươi, trước là một cánh đồng thẳng cánh cò bay.
Phía ngoài là Cổng Tam Quan với dòng chữ Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên và câu đối. Để lên Cổng Tam Quan phải qua nhiều bậc đá.
45. CHÙA TÙNG VÂN- Vĩnh Phúc
Hình thành cách đây hơn 1.000 năm, làng Thổ Tang xưa, nay là thị trấn Thổ Tang thuộc huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc, nổi tiếng là vùng đất nhiều nghề, giỏi giao thương buôn bán; là nơi sản sinh ra nhiều danh nhân của Vĩnh Phúc nói riêng và cả nước nói chung mà tên tuổi còn mãi lưu truyền trong sử sách. Đây còn là nơi có cụm di tích lâu đời, tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc mang nhiều ý nghĩa lịch sử, như đình làng Thổ Tang, chùa Tùng Vân.
Chùa Tùng Vân nằm ở giữa trung tâm thị trấn, gần với đình Thổ Tang. Đây là ngôi chùa lớn với lịch sử hơn 320 năm tuổi được xây dựng từ đời vua Lê Huy Tông vào năm Chính Hòa thứ 7 (1686) để phục vụ đời sống tôn giáo của người dân địa phương và cả một vùng rộng lớn. Chùa được xếp hạng di tích Văn hóa quốc gia năm 1964 và nhận bằng di tích văn hóa quốc gia năm 1992. Trải qua những thăng trầm biến cố chùa được nhiều lần trùng tu và lần gần đây nhất là vào năm 2008. Cùng với quá trình trùng tu, tôn tạo, chùa đúc Đại hồng chung nặng 1,1 tấn.
Chùa Tùng Vân xưa xây kiểu cửa cuốn, có những đường nước chảy xuống hai đường mái hai bên tựa như giếng trời; xưa các sư trong chùa dùng nước này để sinh hoạt, đến thời kháng chiến chống Mỹ đã bị mai một đi. Ngày nay, chùa đã khôi phục lại theo lối tứ trụ trồng cột; khác với vẻ rêu phong của chùa trước đây, chùa Tùng Vân ngày nay có lối kiến trúc đẹp hơn với nhiều hoa văn, họa tiết tinh xảo hơn. Mái chùa lợp ngói mũi hài, uốn cong bốn góc, trên nóc có bàn tay vươn ra từ hoa sen đỡ bánh xe pháp luân của nhà Phật.
Tam quan ngôi chùa dựng theo lối cổ xưa với trên đỉnh có bánh xe pháp luân, ở giữa là chữ vạn, ở trên các đầu mái uốn cong của các góc đều là những linh vật gắn với bầu trời như: Rồng, phượng, mây.
Qua cổng Tam Quan là khuôn viên sân chùa với lầu quan âm tọa lạc ở góc bên trái. Quanh sân trồng nhiều cây cau cao vút (Hình ảnh quen thuộc của vùng Bắc Bộ) tạo cho phật tử và du khách đến đây cảm thấy sự gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người dân.
Qua
năm bậc thềm từ sân lên đến tiền đường là khu vực chính của chùa, trước
cửa vào là bức bình phong lớn để tránh mọi điều xấu du nhập từ bên
ngoài vào chùa. Một trong những nét độc đáo của chùa là hàng cột đá ngay
trước tiền đường. Trên mỗi cột đá đều được chạm khắc những hoa văn mang
hình tượng tứ linh: Long, ly, quy, phụng và tứ quý: Tùng, cúc, trúc,
mai thể hiện sự sinh sôi của bốn mùa. Điều đặc biệt nữa là toàn bộ gỗ
trong chùa đều là gỗ lim.
Nối tiếp giữa thềm và chính điện là bộ cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim, chạm trổ rất công phu, phía trên cửa đặt chấn song con tiện, bên dưới tạc phù điêu tứ quý cách điệu.
Nối tiếp giữa thềm và chính điện là bộ cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim, chạm trổ rất công phu, phía trên cửa đặt chấn song con tiện, bên dưới tạc phù điêu tứ quý cách điệu.
Theo con đường nhất chính đạo đi vào bên trong tiền đường, phía bên phải lối vào là tượng ông Khuyến Thiện, đầu đội kim khôi, tay cầm đại đao nhưng gương mặt hiền từ, với ý nghĩa khuyên mọi người nên làm những điều thiện (chánh tâm). Phía bên trái lối vào là tượng ông Trừng ác, cũng mặc khôi giáp, nhưng gương mặt dữ dằn, một tay cầm búa, một tay cầm Ngọc ấn tỷ phù, với ý nghĩa nhắc nhở người làm điều ác sẽ bị trừng phạt (vọng tâm).
Nhà thờ tổ là nơi lưu giữ nhiều pho tượng bằng đất nung có giá trị (trong đó có pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đất nung, có niên đại cách đây gần 300 năm), được bài trí theo phong cách của dòng Phật giáo Đại Thừa - Bắc Tông. Ngoài ra chùa còn lưu giữ nguyên vẹn nhiều hiện vật quý như chuông đồng, khánh đồng. ở gian hậu cung có khán thờ về đức Khổng Tử cho thấy ở nơi đây có truyền thống hiếu học lâu đời. Cũng ở khán thờ này, còn tạc hai thị nữ hai bên cánh cửa rất mềm mại, thể hiện sự khéo léo trong nghệ thuật tạc tượng từ xưa. Không chỉ vậy, chùa Tùng Vân còn lưu giữ được hệ thống văn bia cổ, đây là những tài liệu quý có giá trị nghiên cứu lịch sử, văn hóa.
Chùa
Tùng Vân nổi tiếng với pho tượng Đức phật Tổ Thích Ca Mâu Ni được đặt ở
gian tiền đường. Tượng được tạc từ khối ngọc xanh nặng hơn 10 tấn,
chiều cao 3,3m, rộng 2,1m, dày 1,2m; đây là khối ngọc quý hiếm và lớn
nhất trong các khối ngọc tìm thấy trong nước ta. Bức tượng được hoàn
thành đúng vào dịp cả nước kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long. Bức
tượng mang vẻ đẹp sáng bóng dịu mát của màu xanh rất gần gũi với tâm
nguyện hàng ngày mỗi người dân Việt Nam - luôn hướng tới sự thanh bình!
Sau khi tạc pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, khối ngọc xanh còn lại tiếp
tục được các nghệ nhân tạc bức tượng Phật Bà Quan Âm, nặng khoảng 5 tấn.
Bức tượng Phật Bà Quan Âm cũng được tạc tinh xảo, kết tụ tinh hoa, tâm
huyết của nghệ nhân, giúp phật tử cảm nhận được cái “thần” khi chiêm
bái. Nơi đây cũng là nơi trưng bày những pho tượng như tam thế phật,
phật sơ sinh, bức tranh Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh. Ngày 16/9/2011
chùa Tùng Vân được sách Kỷ lục Việt Nam xác nhận là “Nơi an vị pho tượng
Phật ngọc nguyên khối lớn nhất tại Việt Nam”.
Cũng giống như rất nhiều ngôi chùa khác ở Miền Bắc, chùa Tùng Vân xây dựng theo lối tiền phật, hậu mẫu. Chùa có gian thờ mẫu ở phía sau, gồm mẫu Thiên, mẫu Thoải, mẫu Thượng ngàn cùng hệ thống các quan, các cô, cậu lập nên một bàn thờ tương đối đầy đủ về tín ngưỡng thờ Mẫu.
Với
những giá trị về lịch sử, kiến trúc, chùa Tùng Vân ngày nay nổi tiếng
là chốn cửa Phật linh thiêng, không chỉ thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử
đến hành lễ mà còn là điểm thu hút khách tham quan, du lịch khi đến
Vĩnh Phúc.
C .CÁC CHÙA Ở HUẾ
46. CHÙA TỪ ĐÀM
Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế; hiện tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam.
Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung[1] khai sơn vào khoảng năm 1690 [2], và sau đó được đặt tên là chùa Ấn Tôn (hay Tông), với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ"[3].
Năm 1702, nhà sư Liễu Quán (về sau cũng là một cao tăng) đến chùa, xin tham học với Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung[4]
Năm 1703, Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung cho trùng tu chùa. Cũng trong năm này, chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa tấm biển Sắc Tứ Ấn Tôn Tự. Sau khi Sư viên tịch, theo lời phó chúc, học trò của Sư là Thiền sư Thiệt Vinh - Bửu Hạnh làm Trụ trì chùa[5].
Năm 1802, nhà Tây Sơn bị đánh đổ. Khi ấy, vì thời gian và vì chiến tranh, chùa Ấn Tôn bị hư hại nặng như nhiều ngôi chùa khác trong vùng [6]. Tuy nhiên, mãi đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Thiền sư Đạo Trung - Trọng Nghĩa mới có thể tổ chức trùng tu chùa[7].
Năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên chùa Ấn Tôn thành Từ Đàm (do kỵ húy tên vua là Miên Tông) [7], với ý nghĩa là "đám mây lành của Phật pháp" [8].
Cổng tam quan được xây dựng năm 1965 (ảnh 2). Bên phải sân (từ cổng nhìn vào) là cội bồ đề có nguồn từ cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ (tức nơi Phật Thích Ca thành đạo)[15].
Ngôi chính điện chùa cũ gồm ba gian, lợp ngói, rộng 7,4 m, dài 18 m, và mặt tiền ngó về hướng Đông Nam [16]. Đến ngày 4 tháng 7 năm 2006, chùa đã tổ chức tái thiết ngôi chánh điện, và khánh thành vào sáng ngày 30 tháng 3 năm 2010. Công trình mới có chiều dài 42 m, chiều ngang 35,9 m, gồm hai phần (dưới là tầng hầm làm hội trường, trên là ngôi chánh điện), được kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, gồm ba gian hai chái, và hai bện có lầu chuông, lầu trống. Đây là kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế (ảnh 1)[17]. Sau đó, Đại lễ An vị Phật đã được tổ chức trọng thể vào ngày rằm tháng 11 năm Đinh Hợi (24 tháng 12 năm 2007).
Chính điện chùa Từ Đàm vừa được trùng tu xong
Toàn cảnh các gian thờ Phật bên trong Chính điện
Tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (tượng cũ)
Tháp 7 tầng ở sân chùa
Ngày 6 tháng Giêng năm Mậu Tý (12 tháng 2 năm 2008), tháp Ấn Tôn 7 tầng (mỗi tầng thờ một tượng Phật bằng đồng) cao 27 m (ảnh 3) cũng được khởi công xây dựng ở sân chùa (từ cổng nhìn vào ở phía trái), và khánh thành ngày rằm tháng 2 năm Canh Dần (30 tháng 3 năm 2010) [18].
Ngoài ra, phía bên phải sân chùa (từ cổng nhìn vào) là Hội quán rộng
lớn, gồm 10 gian phòng, cao 2 tầng. Tầng dưới của Hội quán hiện được
dùng làm Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên-Huế.
47. CHÙA BÁO QUỐC
Chùa Báo Quốc tọa lạc ở đường Báo Quốc, thuộc phường Phường Đúc, thành phố
Huế, chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Thiên Thọ Tự, do Thiền sư
Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến năm
1747, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Báo Quốc Tự"
có ghi dòng chữ: "Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề".
Chùa được xây dựng theo kiểu chữ "Khẩu-口” trên đồi Ham Long rộng
khoảng 2 hecta. Qua khỏi cổng tam quan cổ kính là một khoản sân đất có
hai hàng cổ nhãn uy nghi tiếp đến là khoảng sân trên trồng nhiều cây
tùng có lan can bao bọc.
Vào thời Tây Sơn, chùa đã bị chiếm đóng và trưng dụng làm kho chứa diêm tiêu. Sau đó vào năm 1808, Hoàng Hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây tam quan, đúc đại hồng chung, bảo khánh và đổi tên là chùa Hàm Long Thiên Thọ tự và mời thiền sư Phổ Tịnh làm trụ trì.
Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc tứ tên "Báo Quốc Tự".
Nhà vua đã tổ chức đại giới đàn tại chùa nhân lễ Vạn thọ tứ tuần đại
khánh vào năm 1830. Đến năm 1858, do chùa bị hư hỏng nhiều, vua Tự Đức
và Hoàng Thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu ngôi chánh điện và các công
trình khác.
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo vào những năm 1930, chùa đã có nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, trường Sơ đẳng Phật giáo được mở tại chùa. Đến năm 1940, trường Cao đẳng Phật giáo cũng lại được mở tại đây. Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng Thích Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì chùa, đã có những đóng góp to lớn cho Phật giáo nói chung và cho việc tái thiết ngôi tổ đình trang nghiêm với những nét kiến trúc cổ kính nói riêng.
Từ năm 1959 đến trước 1975 trường trung tiểu học tư thục Bồ Đề Hàm
Long ra đời, đây là một ngôi trường đã lưu dấu nhiều kỷ niệm đẹp của bao
thế hệ học trò là Tăng, Ni và Phật tử Huế. Ngày nay, tên trường Hàm
Long chỉ còn là một tấm bản rêu phong ngay ngã ba Điện Biên Phủ-Báo
Quốc, là dấu tích một thời cũng là kỷ niệm ngọt ngào như nước giếng Hàm
Long.
Giếng Hàm Long (tên chữ là Hàm Long Tĩnh), theo bia “Hàm Long Tỉnh”
thì Giếng Hàm Long nằm ngay dưới chân đồi Hàm Long xuất hiện cùng thời
với Hoà thượng Giác Phong khai sơn (khoảng năm 1674). Giếng có một mạch
nước theo lỗ đá phun ra như vòi rồng, có nước trong, thơm và ngọt. Nước
giếng này sau đó được tiến dâng lên các Chúa, còn người dân thì tuyệt
đối không được phép dùng, từ đó nó trở thành một giếng thiêng, giếng
cấm: cho nên mới có câu ca dao:
Nước Hàm Long đã trong lại ngọt
Em thương anh rày có bụt chứng tri.
48. CHÙA DIỆU ĐẾ
Chùa Diệu Đế toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành, người Huế
gọi là sông Gia Hội, hoặc sông Đông Ba, nay là số 100B đường Bạch
Đằng, gần cầu Gia Hội.
Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật Giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi nên đã có cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật Giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi nên đã có cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
Tam quan chùa Diệu Đế
Diệu Ðế là ngôi quốc tự thứ ba, được vua Thiệu Trị coi là một trong hai mươi thắng cảnh của đất kinh đô Huế.Chùa
được vua Thiệu Trị truyền lệnh xây dựng với qui mô lớn vào các năm
1842, 1844 khi mới lên ngôi vài năm, trên vùng đất nhà vua đã ra đời.
Khuôn viên chùa nằm gọn giữa bốn con đường: phía trước là đường Bạch Ðằng
chạy dọc theo một nhánh sông Hương, phía sau là đường Tô Hiến Thành gần
chùa Diệu Hỷ, bên trái là con đường mang tên chùa Diệu Đế và bên phải
là đường chùa Ông. Kiến trúc ban đầu của chùa rất qui mô. Tuy không đẹp
bằng chùa Thiên Mụ, nhưng chùa Diệu Ðế có vẻ độc đáo riêng, có bốn lầu
(hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia).
Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền Đường, phía trước điện
dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu
chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân
trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng
chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn. Hệ
thống La Thành ngoài chùa Diệu Ðế xây dựng kiên cố, bề thế, trước có
Phượng Môn ba cửa, hai bên có cổng nhỏ, ngoài bờ sông có xây bến thuyền
khoảng mười bậc lên xuống.
Trước đây, chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ...về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.
49. CHÙA QUỐC ẤN
Chùa Quốc Ân (寺恩國) là một trong những ngôi tổ đình danh tiếng và lâu đời bậc nhất tại cố đô Huế. Hiện tại chùa Quốc Ân vẫn còn bảo lưu nhiều dấu ấn văn hóa Phật giáo trong các thời kỳ từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và Huế ngày nay.Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông, do tổ sư Tạ Nguyên Thiều khai sơn vào khoảng những năm 1682-1684 với tên ban đầu là thảo am Vĩnh Ân.
Tổ sư Nguyên Thiều, pháp tự là Hoán Bích, người ở Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc sang hoằng hóa ở Việt Nam vào năm 1677 ở tại phủ Quy Ninh (nay là Bình Định) lập chùa Thập Tháp-Di Đà.Vào khoảng năm 1682-1684, dưới thời chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) sư Nguyên Thiều ra Phú Xuân ở xứ Thuận Hóa, sư chọn chân đồi Hòn Thiên (chân núi Bân), phía trái núi Ngự Bình để dựng chùa Vĩnh Ân và tháp Phổ Đồng. Chúa Nguyễn Phúc Tần đóng góp ngân khoản xây chùa.
Quốc Ân Tự
Sư Nguyên Thiều là người được chúa Nguyễn Phúc Thái trọng vọng, năm 1689, chúa cho miễn thuế đất và đổi hiệu chùa là Quốc Ân và ban tấm biển "Sắc tứ Quốc Ân Tự".[2]
Toàn cảnh chùa
Khuôn viên chùa rộng khoảng 5.000m2, trong đó diện tích xây dựng khoảng 550m2.
Chùa kiến trúc theo kiểu chữ khẩu truyền thống, tam quan quay hướng Tây
Nam gồm 4 trụ. Vào cổng, qua khoảng sân rộng là chính điện. Bên phải
sân có tấm bia kích thước (1.6 x 0.725 x 0.07)m do chúa Nguyễn Phúc Chu
ghi bài minh tựa đề "Sắc tứ Hà Trung Tự Hoán Bích Thiền sư tháp ký minh"
dựng vào tháng 4 năm Bảo Thái thứ 10 (năm 1730). Cạnh bia là 2 am thờ Thiên Y A Na và am thờ Ngũ Hành
Tiền đường chánh điện dài 12m, sâu 22m.[4]
Một góc khuôn viên chùa
Gian bên trái thờ Bồ Tát Quan Thế Âm, hai bên là Hộ pháp, phía trước thờ Bồ Đề Đạt Ma, gian bên phải thờ Quan Vân Trường, các tượng khí này đều do Tổ Nguyên Thiều mang đến từ Trung Hoa. Hậu liêu thờ chân dung Tổ Nguyên Thiều và nhiều long vị của chư tổ và chư vị trú trì kế thế..
Chùa Thiên Mụ (��天姥) hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Chùa Thiên Mụ
Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này.
Người dân địa phương cho Nguyễn Hoàng biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn 2.
Chính điện
Tháp Phước Duyên
Trong chùa Thiên Mụ có tháp Phước Duyên, cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng.
Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe
Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện
quay khi gió thổi).
Trận bão năm 1904
đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình
Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái
cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai
bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên
trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc
đời chúa Nguyễn Phúc Chu.
51. CHÙA THUYỀN TÔN
Chùa Thuyền Tôn là một tổ đình lớn ở Huế, lúc đầu chỉ là một am tu của ngài Liễu Quán được dựng vào khoảng năm 1708 ở núi Thiên Thai, ngày nay thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thuỷ An. Tổ Liễu Quán quê ở Phú Yên, ra Thuận Hoá tầm sư học đạo. Ngài đã tham học với ngài Giác Phong, chùa Báo Quốc, ngài Thạch Liêm chùa Thiên Mụ, và ngài Tử Dung, chùa Ấn Tôn (các vị này đều từ Trung Quốc sang), và sau khi đắc pháp với ngài Tử Dung đã khai sinh thiền phái Lâm Tế - Liễu Quán, một dòng thiền có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Huế, cả miền Trung và nhiều vùng trong Nam, với nhiều danh tăng thuộc nhiều thế hệ đắc pháp và một sự nghiệp hoằng pháp độ sanh rất lớn.
Trong thế kỷ 20, ngài Giác Nhiên thuộc đời thứ 8
dòng thiền Liễu Quán, là người có công chấn hưng Phật Giáo, đồng sáng
lập An Nam Phật Học Hội, Viên Âm Nguyệt San, lập trường đại học Phật
Giáo ở chùa Tây Thiên, góp phần đào tạo các vị cao tăng như Thích Trí
Thủ, Thích Đôn Hậu, Thích Mật Nguyệt, Thích Mật Hiển, và hai vị từ trong
nam về sau trở thành danh tăng là Thích Thiện Hoa và Thích Thiện Hoà.
Ngài Giác Nhiên được cung thỉnh làm Tăng Tống thứ hai của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngài viên tịch năm 1979 lúc 102 tuổi. Chùa
cũng được trùng tu nhiều lần để thành một ngôi chùa rất lớn với trụ
biểu, chánh điện uy nghi. Đợt trùng tu gần đây nhất là do Hoà Thượng
Thích Thiện Siêu, trụ trì chùa Thuyền Tôn (kiêm trú trì chùa Từ Đàm)
thực hiện.
Chùa Thuyền Tôn
52. CHÙA TỪ HIẾU
Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế.
Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế.
Năm 1843, sau khi từ chức "Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự" và trao quyền điều hành chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, Hoà thượng Nhất Ðịnh đã đến đây khai sơn, dựng "Thảo Am An Dưỡng" để tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ già [1].
Hoà thượng Nhất Ðịnh nổi tiếng là người con có hiếu, tương truyền có lần mẹ già bị bệnh rất nặng, hàng ngày ông lo thuốc thang nhưng bà vẫn không khỏi. Có người ái ngại khuyên ông nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, có làm được điều đó mới mong bà chóng hồi sức. Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, thiền sư vẫn chống gậy băng rừng lội bộ xuống chợ cách đó hơn 5 km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ già ăn.
Câu chuyện vang đến tai Tự Đức vốn là vị vua rất hiếu thảo với mẹ, vua rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. Trong tấm bia ghi lại quá trình xây dựng chùa giải thích:
- Từ: là đức lớn của Phật, nếu không từ thì lấy gì tiếp độ tứ sanh cứu giúp vạn loại.
- Hiếu: là đầu hạnh của Phật, nếu không hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời.
- Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông trên một vùng đồi của
phường Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe
nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.
Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896
dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa
được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường
lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá
cảnh. Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ
Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.
Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chùa
được xây theo kiểu chữ khẩu (口), chính điện ba căn, hai chái, phía trước
thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức
thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị
Thái giám..., bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là
Hữu Ái Nhật (nhà khách).
Hồ bán nguyệt
Lăng mộ Hoạn quan Nhà Nguyễn"trong khuôn viên chùaXung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố Huế nên nơi đây trở thành thắng cảnh ở nơi ngoại ô điền dã của dân thành phố Huế.
D. CÁC CHÙA Ở CÁC TỈNH MIỀN TRUNG
53. CHÙA ĐẠI BI ( Thanh Hóa)
Tọa lạc ở phía Nam TP. Thanh Hóa, dưới chân núi Kỳ Lân, bên dòng Kênh Vi là chùa Đại Bi (hay còn gọi là chùa Mật). Cảnh đẹp nơi đây đã làm đắm say biết bao tao nhân mặc khách đến với miền đất và con người xứ Thanh. Năm 1619, Hoàng tử Lê Duy Kỳ được lập lên làm vua, lấy hiệu là Lê Thần tông. Ông là vị vua duy nhất triều Lê Trung hưng được lên làm vua tới hai lần (lần 1 từ năm 1619 đến 1643, lần 2 từ năm 1649 đến 1662) và trị vì đất nước tới 38 năm.
Trong một lần về xứ Thanh, ngưỡng mộ cảnh đẹp vùng núi Kỳ Lân, ông đã sai dựng một ngôi chùa cạnh núi và đặt tên chùa là Đại Bi. Và, nơi đây cũng được lựa chọn đặt Thượng sàng hạ mộ của vua Lê Thần tông. Có lẽ đây là nét độc đáo nhất của một ngôi chùa ở Thanh Hóa được gắn với cuộc đời của một vị vua.
54. CHÙA SÙNG NGHIÊM DIÊN THÁNH ( Thanh Hóa)
Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh do Thông phán Chu Công – người được vua nhà Lý cử trấn giữ, cai quản Thanh Hóa sau khi Lý Thường Kiệt được rút về Thăng Long giữ chức Tể tướng lần thứ hai, cho xây dựng năm 1116 trên nền chùa cũ. Sùng Nghiêm Diên Thánh là ngôi chùa thời Lý ở Thanh Hóa còn lại nhiều dấu tích, giá trị nguyên gốc: từ vị trí, quy mô cảnh quan đến một số hiện vật kiến trúc như rồng, bia, chân tảng và đặc biệt là một số tượng pháp như bộ Tam Thế tọa trên tòa sen.
Khuôn viên chùa
55. CHÙA TRUNG KIÊN (Nghê An)
Thứ nhất là ví trí: Theo Nghệ An ký của TS. Bùi Dương Lịch thì huyện Nghi Lộc trước đây là huyện Chân Lộc, phía bắc giáp sông Cấm đổ ra Cửa Xá, phía nam giáp sông Lam đổ ra Cửa Hội, phía đông giáp đảo Sông Ngư .
53. CHÙA ĐẠI BI ( Thanh Hóa)
Tọa lạc ở phía Nam TP. Thanh Hóa, dưới chân núi Kỳ Lân, bên dòng Kênh Vi là chùa Đại Bi (hay còn gọi là chùa Mật). Cảnh đẹp nơi đây đã làm đắm say biết bao tao nhân mặc khách đến với miền đất và con người xứ Thanh. Năm 1619, Hoàng tử Lê Duy Kỳ được lập lên làm vua, lấy hiệu là Lê Thần tông. Ông là vị vua duy nhất triều Lê Trung hưng được lên làm vua tới hai lần (lần 1 từ năm 1619 đến 1643, lần 2 từ năm 1649 đến 1662) và trị vì đất nước tới 38 năm.
Trong một lần về xứ Thanh, ngưỡng mộ cảnh đẹp vùng núi Kỳ Lân, ông đã sai dựng một ngôi chùa cạnh núi và đặt tên chùa là Đại Bi. Và, nơi đây cũng được lựa chọn đặt Thượng sàng hạ mộ của vua Lê Thần tông. Có lẽ đây là nét độc đáo nhất của một ngôi chùa ở Thanh Hóa được gắn với cuộc đời của một vị vua.
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử Thanh
Hóa, chùa được xây dựng bố cục theo hình chữ Đinh (I). Bái đường gồm 5
gian, chính điện 3 gian, cách Kênh Vi chừng 200m. Sân chùa bài trí rất
nhiều hiện vật bằng đá như: voi, ngựa, nghê, bia đá, khánh đá. Tam quan
xây theo kiểu chồng diêm ba tầng mái cong, phía trên cùng treo chuông
đồng nặng 2 tạ. Ở khu vực điện thờ được bài trí gồm: gian thứ nhất (tính
từ trong ra ngoài) là ba pho tượng “Tam thế”, gian thứ hai thờ tượng
Quan Thế Âm, gian thứ ba chia làm hai: bên phải là tượng Quan Thế Âm
thiên thủ thiên nhãn, bên trái là tượng vua Lê Thần tông đặt cao, phía
trước mặt thấp hơn, xếp theo tả hữu là tượng 6 bà hoàng phi mặc quốc
phục.
Sáu bà hoàng là 6 dân tộc khác nhau:
Kinh - Thái - Mường - Hán - Lào - Hà Lan. Tượng bà Hoàng hậu Trịnh Thị
Ngọc Trúc ngự trên toà sen hai lớp còn các bà khác đội vương miện trong
tư thế toạ thiền.
Chùa Đại Bi, Núi Kỳ Lân
54. CHÙA SÙNG NGHIÊM DIÊN THÁNH ( Thanh Hóa)
Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh do Thông phán Chu Công – người được vua nhà Lý cử trấn giữ, cai quản Thanh Hóa sau khi Lý Thường Kiệt được rút về Thăng Long giữ chức Tể tướng lần thứ hai, cho xây dựng năm 1116 trên nền chùa cũ. Sùng Nghiêm Diên Thánh là ngôi chùa thời Lý ở Thanh Hóa còn lại nhiều dấu tích, giá trị nguyên gốc: từ vị trí, quy mô cảnh quan đến một số hiện vật kiến trúc như rồng, bia, chân tảng và đặc biệt là một số tượng pháp như bộ Tam Thế tọa trên tòa sen.
Cổng chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh
Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh
55. CHÙA TRUNG KIÊN (Nghê An)
Chùa
còn có tên là Hoàng Lao hay Phổ Nghiêm, tọa lạc ở làng Trung Kiên, xã
Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo
Bắc tông.
Chùa được dựng vào cuối thế kỷ XVII (1690), đã được trùng tu nhiều lần. Đặc biệt ở chánh điện đã từ lâu có một phiến đá cao 107cm, có hình dáng giống một vị sư, dân gian quen gọi là tượng sư đá. Chùa còn bảo tồn một số tượng, bia cổ, giếng cổ. Lễ hội chùa hằng năm vào ngày 15 tháng 7 âm lịch.
Chùa được dựng vào cuối thế kỷ XVII (1690), đã được trùng tu nhiều lần. Đặc biệt ở chánh điện đã từ lâu có một phiến đá cao 107cm, có hình dáng giống một vị sư, dân gian quen gọi là tượng sư đá. Chùa còn bảo tồn một số tượng, bia cổ, giếng cổ. Lễ hội chùa hằng năm vào ngày 15 tháng 7 âm lịch.
Thứ nhất là ví trí: Theo Nghệ An ký của TS. Bùi Dương Lịch thì huyện Nghi Lộc trước đây là huyện Chân Lộc, phía bắc giáp sông Cấm đổ ra Cửa Xá, phía nam giáp sông Lam đổ ra Cửa Hội, phía đông giáp đảo Sông Ngư .
Chùa Phổ Nghiêm cũng theo quan niệm đó mà chọn thế đất đứng chân cho mình. Phía sau chùa là một sườn đồi kéo dài hai bên trái và phải của ngôi chùa. Phía trước tuy không có núi án ngữ nhưng chùa đã dựng một bức bình phong, xa xa là những cánh đồng của nhân dân trong làng.
Về kiến trúc tạo hình thì các ngôi chùa thời Nguyễn có xu hướng nâng cao các bộ phận thanh mảnh và chuyển dần sang tiết diện vuông .
Chùa Phổ Nghiêm được xây dựng có kết cấu
kiến trúc của nhà 3 gian. Chùa gồm hai khu vực là chính điện (khu vực
chính) dung làm nơi thờ tự và một khu vực nhỏ hơn dùng làm nơi sinh hoạt
và nghỉ ngơi của chư tăng. Chùa cũng có hình tiết diện vuông. Chính
điện được xây theo dạng “Trùng thiềm điệp ốc”, các mái chồng lên nhau,
nhà nối liền nhà. Đây là nét đặc trưng của kiến trúc Huế có ở chùa Phổ
Nghiêm. Hầu hết chùa miền Bắc và chùa miền Nam (nếu có thì đó không phải
là chùa mà là đình, miếu nơi thờ tự các vị công thần khai quốc) giai
đoạn này đều không mang dáng dấp loại hình kiến trúc cung đình này. Điều
này không chỉ chứng tỏ sự lan tỏa về văn hóa xứ Huế ở khu vực này mà nó
còn thể hiện sự hòa nhập giữa phật giáo Nghệ An thời kỳ này với văn hóa
Huế thể hiện qua kiến trúc.
Thứ hai là: Xung quanh ngôi chùa có
tường cao bao bọc, cổng đi vào chỉ có một cửa nhưng nếu quan sát ở cửa
ra vào khu chính điện ta sẽ bắt gặp ngay phía trên nóc mái có những mái
nhỏ có độ cong nhẹ nhấp nhô những cập lưỡng long tranh châu. Đó chính là
mô thức của Tam quan. Tuy quy mô của chùa không lớn lắm nhưng những
thành tố làm nên kiến trúc ngôi chùa thì không thể thiếu một phần nào
được.
Nếu xét về tổng thể kiến trúc ngôi chùa
thì nó cũng phần nào chịu ảnh hưởng và bị chi phối bởi hệ tư tưởng vương
quyền của triều Nguyễn. Thông thường những kiến trúc dạng này theo Luật
Gia Long chỉ dành riêng cho giai cấp quý tộc như cung tẩm, lăng mộ, đền
đài…Chùa Phổ Nghiêm khi lựa chọn phong cách này cũng phần nào nói lên
vị thế của nó trong vùng.
56. CHÙA HƯƠNG TÍCH ( Hà Tĩnh)
Chùa Hương Tích ở tỉnh Hà Tĩnh toạ lạc trên đỉnh núi Hồng Lĩnh
thuộc xã Thiên Lộc huyện Can Lộc. Theo truyền thuyết, chùa là nơi thờ
công chúa Diệu Thiện con vua Trang Vương nước Sở,
Chùa tọa lạc trên đỉnh núi Hồng Lĩnh thuộc xã Thiên Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh là một ngôi chùa có từ thế kỷ 13 [1] Có một chùa Hương không phải ở Hà Tây Chùa Hương Tích. Tuy nhiên, chùa ban đầu đã bị hỏa hoạn làm cháy trụi vào năm 1885. Kiến trúc chùa hiện này được Đào Tấn cho xây vào năm 1901. Năm 2003, chùa được trùng tu. Hội chùa diễn ra vào ngày 18 tháng 2 âm lịch. Cứ 3 năm lại tổ chức hội lớn một lần. Chùa thờ Phật Quan Âm và có cả một am thờ Mẫu.
Chùa Hương Tích ở Hà Tây thật ra chỉ là một "phiên bản" đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh. Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Tây từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ.
>
57. CHÙA TƯỢNG SƠN (Hà Tĩnh)
Chùa Tượng Sơn tọa lạc giữa một khu đất bằng phẳng bốn phía có núi sông, khe suối, làng mạc, ruộng đồng bao bọc ở làng Yên Hạ, xã Sơn Giang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.Trước mặt Chùa là dòng sông Ngàn Phố, sau lưng là ngọn núi Voi đứng sừng sững, có khe suối chảy quanh năm tạo âm thanh rộn rã nơi của thiền tĩnh mịch. Chính vì vậy mà chùa có tên gọi là Tượng Sơn tự hay còn gọi là chùa Ầm Ầm. Chùa do thân mẫu của đại danh y Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác sáng lập hồi thế kỷ 18.
Chùa Tượng Sơn có: Chùa Thượng chính điện thờ Phật Thích Ca, bên tả thờ ông bà Tham đốc quân công (ông bà ngoại của danh y Lê Hữu Trác) và bà Bùi Thị Thưởng (thân mẫu của danh y); bên hữu thờ tổ tiên họ Lê Hữu. Nhà Tổ: thờ tượng Tổ Đạt Ma, lịch đại Tổ sư, có pho tượng lớn Bồ Tát Chuẩn đề 18 tay. Về phía góc trái vườn chùa có 07 am mộ của các nhà sư trụ trì viên tịch tại đây. Chùa Hạ là một lầu chuông 8 mái được chạm trổ tinh xảo theo hoa văn kiểu tứ linh, tầng trên để gác chuông, tầng dưới làm nơi lễ bái.
Trải qua thời gian Chùa Tượng Sơn đã trở thành ngôi chùa cổ, một di tích lịch sử gắn liền với Đại danh y Lê Hữu Trác, một di tích văn hoá nghệ thuật độc đáo.
Hàng năm tại chùa Tượng Sơn ngoài những ngày lễ của nhà Phật như lễ Phật Đản, Vu Lan còn có những ngày lễ hội như Lễ Thượng nguyên và lễ cầu yên, lại có lễ Quan Âm ngày 19 tháng 2 âm lịch là ngày lễ vía đức Bồ Tát quan thế âm.
58. CHÙA KIM DUNG (Hà Tĩnh)
Chùa Kim Dung tọa lạc lương chừng núi Bằng Sơn thuộc xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà, Tỉnh Hà Tĩnh. Chùa Kim Dung được xây dựng vào thời Nhà Trần. Hiện tại chùa còn nhiều dấu vết thời Trang Vương và một số cấu trúc của thời Trần - Lê. Chùa Kim Dung là khu di tích trên núi duy nhất còn sót lại của Xã Thạch Bằng sau cuộc đập phá Chùa chiền vào những năm 60 của thế kỷ trước. Chùa Kim Dung nằm ngang lưng chừng núi ngoảnh mặt hướng Tây Nam. Hai bên là hai khe suối, dưới chân chùa có hồ sen. Bên trái chùa có tượng Phật bà quan âm cao 18 mét sừng sững giữa trời mây như đất trời hòa làm một trong tiên cảnh.
Tượng Quan Âm Bồ Tát 18m
59. CHÙA THANH QUANG (Quảng Bình)
Chùa Thanh Quang tọa lạc tại thôn Thanh Khế, xã Thanh Trạch, huyện Quảng
Trạch, tỉnh Quảng Bình được hình thành từ trong giai đoạn sơ khai của
Phật giáo Quảng Bình.
Đó là từ thời Nhà Trần gã công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân để đổi về hai châu Ô Lý rồi tiếp sau đó là thời nhà Lê mà điển hình là thời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đã có kế hoạch mở rộng đất nước về phương Nam. Vào thời kỳ chúa Nguyễn chọn "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" thì Phật giáo tiếp tục là điểm tựa tâm linh chính để bình ổn nhân tâm và mở mang bờ cõi, một loạt những ngôi chùa đã được các thiền sư và người dân làng dựng lên tại Quảng Bình trong đó có chùa Thanh Quang.
Thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, chùa bị phá sập hoàn toàn. Sau khi nhà Nguyễn bình định đất nước thì Phật giáo Quảng Bình cũng được phục hưng, chùa Thanh Quang cũng được trùng tu.
Từ thập niên 1990 trở lại đây, khi đời sống người dân Quảng Bình đã khá lên thì dân làng mới có điều kiện tìm hiểu chùa chiền và Phật pháp. Có nhiều người rất có đạo tâm đã vào Huế, ra Hà Nội...để tìm hiểu và trở về làng tìm cách vận động bà con dựng lại những ngôi chùa đã mất để làm nơi tu học hướng thiện cho bà con.
Tổng thể kiến trúc chùa Thanh Quang ngày nay rất khang trang và kiên cố.
Từ ngoài vào, cổng tam quan rất đồ sộ, được thiết kế theo kiểu tam quan
chùa Huế "thượng lầu hạ quan" với chất liệu bê tông cốt thép rất kiên
cố, mái lợp ngói hài, sơn màu hiện đại.
Đài Quán Thế Âm cát rất đẹp, hình bát giác, có cổ lầu và nhiều giao long được đắp sành sứ rất công phu tinh xảo. Pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng đá cẩm thạch trắng được đặt tử Non Nước, Đà Nẳng rất trang nghiêm...
Đài Quán Thế Âm cát rất đẹp, hình bát giác, có cổ lầu và nhiều giao long được đắp sành sứ rất công phu tinh xảo. Pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng đá cẩm thạch trắng được đặt tử Non Nước, Đà Nẳng rất trang nghiêm...
60. CHÙA NON (Quảng Bình)
Núi Chùa Non, tên chữ là núi Thần Đinh nằm về phía nam thị xã Đồng Hới.
Núi có hình dáng khác với hình dạng các ngọn núi khác ở chung quanh. Nó
có hình tựa như một đụn rơm lớn, nhưng chỏm núi lại bằng phẳng chứ
không nhọn như nhiều chỏm núi khác.Thăm núi Chùa Non có thể đi bằng hai
con đường, hoặc là đi thuyền theo sông Long Đại, lên đến bến Chùa Non
rồi đi bộ vào núi, hoặc là đi xe lửa tới ga Long Đại rồi đi thuyền vô
bến Chùa.Từ bến Chùa vào chân núi Chùa Non xa chừng nữa cây số. Dưới
chân núi có một cái chùa bằng gạch. Hẳn là vì núi có chùa ở đây, và xưa
kia là ở trên núi cho nên người địa phương mới gọi núi này là núi Chùa
chăng?
Núi Chùa Non cao gần 400m. Du khách theo cái thang đá xây bên sườn núi,
trèo lên chừng hai phần ba đường thì tới một cái hang lớn gọi là Chùa
Hang. Cửa hang hẹp, phải lách nghiêng người mới vào được. Qua khỏi cửa,
lòng hang rộng dần, nhưng rất tối, phải thắp đèn đuốc mới thấy rõ mọi
vật. Hang chia làm hai phần: một bên thì ở giữa có những hòn đá hình cái
bàn, chiếc ghế trên đó có nhiều hòn đá nhỏ hình ông Phật, ông tiên. Bốn
bên hang, thạch nhũ cái thòng xuống, cái trồi lên, nhiều hình, nhiều
vẻ, trông rất ngoạn mục. Khác hẳn với hang bên này, hang bên kia tối mò
mò nên không mấy người dám chui vô. Hang được gọi là hang cấm có lẽ là
vì thế. Ngoài miệng hang có hai cái hang nhỏ: cái bên tả được đặt tên là
hang Chuông, cái bên hữu được gọi là hang Trống bởi trong hang có thạch
nhũ hình cái chuông, cái trống.
Từ Chùa Hang, trèo hết thang đá là lên đến đỉnh Chùa Non - Chùa Kim Phong, thuở xưa nằm ở nơi đây. Trên đỉnh núi, ba mặt Bắc, Tây, Nam lổm nhổm nhiều hòn đá nhỏ, với nhiều dáng hình khác nhau. Ở đầu thang đá có một cái bia đá lập vào năm Minh Mạng thứ 11 (1830), chép về Chùa Kim Phong Đại lược, bia chép rằng:
"Niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1697) Hậu Lê, chùa có tám gian, sư thầy An Khả tu ở đó. Về sau, trong cơn binh hỏa, chùa bị cháy, các sư bỏ đi nơi khác. Năm Minh Mạng thứ sáu (1825) một nhà sư ở Chùa Thiên Mụ ra lập một am tranh ở núi Chùa Non. Tháng giêng năm Minh Mạng thứ 10 (1829) ông hưu quan ở làng Phan Xá tên là Lê Văn Trúc, quyên tiền xây thang đá, và đến tháng sáu cùng năm thì xây chùa bằng gạch ở chân núi. Vào tháng 7 năm ấy, ông Đặng Văn Tiêm, một lái buôn người Bố Trạch kéo được một cái chuông đồng ở cửa Nhật Lệ và đem cúng cho chùa."
Theo tác giả "Ô châu Cận lục" thì núi Chùa Non có thời còn được gọi là núi Bất Nghĩa, bởi tương truyền, thuở trước, vua Lê đi kinh lý phương Nam, qua đây, thấy các núi đều quay về hướng Tây chỉ có núi Chùa Non quay trái hướng mà thôi, nên sai lực sĩ dùng roi quật vào núi và đặt tên núi là như vậy.
61. QUAN ÂM TỰ ( Quảng Bình)
Theo quốc lộ 1A, từ Bắc vào hay từ trong Nam ra, đến phía Nam cầu Lý
Hòa, rẽ về phía Đông khoảng 2 km là tới chùa Quan Âm Tự.Tương truyền,
vào tháng 7/1802, đời vua Gia Long, một ngư dân tên là Hồ Lương Đường,
trong một lần đi đánh cá ngoài biển, đã kéo lên được một pho tượng bằng
đá. Ngày hôm sau, ông lại kéo được 1 bệ đá và 2 chiếc cối, 2 chiếc chày
bằng đá (theo các nhà khảo cổ học thì đây là đồ dùng của người Chăm).
Nhân dân cho đây 1à điểm lành nên dân làng đã dựng một ngôi nhà bằng
tranh tre thờ vị quan âm đó để cầu phúc cầu tài.
Theo truyền tụng, trước đây vùng đất này không yên ổn, làm ăn thiếu may mắn. Nhưng từ ngày dựng "chùa" dân làng làm ăn phát đạt, làng xóm yên vui. Tiếng lành đồn xa, nhân dân trong vùng đến lễ chùa rất đông. Ngôi chùa trở nên chật hẹp, không đáp ứng được nhu cầu tâm linh của thiện nam tín nữ. Thể theo nguyện vọng của nhân dân, một Ban vận động xây dựng chùa với quy mô lớn được thành lập.
Theo truyền tụng, trước đây vùng đất này không yên ổn, làm ăn thiếu may mắn. Nhưng từ ngày dựng "chùa" dân làng làm ăn phát đạt, làng xóm yên vui. Tiếng lành đồn xa, nhân dân trong vùng đến lễ chùa rất đông. Ngôi chùa trở nên chật hẹp, không đáp ứng được nhu cầu tâm linh của thiện nam tín nữ. Thể theo nguyện vọng của nhân dân, một Ban vận động xây dựng chùa với quy mô lớn được thành lập.
Chùa được khởi công xây dựng năm 1843. Sau hơn 2 năm lao động miệt mài của những người thợ và nghệ nhân tài hoa, ngày lễ vu lan (15/7 năm Ất Tỵ (1845) chùa được khánh thành. Chùa Quan Âm Tự tọa lạc trên một khu đất cao khoảng 15m, rộng 10.000m2 trông giống như một bông sen khổng lồ, sát bờ biển và ngã ba sông Lý Hòa thuộc xã Đức Trạch, huyện Bố Trạch, rất thuận tiện cho khách tham quan cả bằng đường thủy lẫn đường bộ.
Chùa hoàn thành năm 1845, là ngôi chùa có quy mô khá lớn. Chùa làm bằng gỗ lim, theo phong cách kiến trúc Phương Đông, có hàng rào xung quanh. Chùa có tiền đường, thượng điện, nhà thờ tổ, tam quan, gác chuông. Khác với chùa khác của Việt Nam, phần nhiều do giai cấp quý tộc hay đồng minh của nó xây dựng, nên thể thức kiến trúc không có tính chất dân gian. Chùa Quan Âm Tự do nhiều cánh thợ ở các nơi đến làm. Mỗi cánh thợ làm một bộ phận. Vì thế các nhóm thợ thi nhau làm cho đẹp để lấy tiếng. Thợ làm chùa Quan Âm Tự là những người tự do, không bị quyền lực nào khống chế gò bó, câu thúc. Bởi thế những tác phẩm điêu khắc ở chùa trang trí đầy óc sáng tạo. Hình rồng, phượng ở chùa mỗi con mỗi vẽ. Xung quanh chùa là vườn cây trái, một không gian thoáng đảng yên tỉnh.
Buổi đầu chùa chỉ thờ tượng quan âm vớt được ở dưới biển. Dần về sau, do có nơi thờ phụng trang nghiêm nên tăng ni, phật tử trong chùa đã thỉnh về và nhiều vị cao tăng phật tử các nơi đã tiến cúng nhiều tượng cho chùa. Phật điện dần đông lên. Hiện nay, trong chùa có tượng hộ pháp, bộ tượng tam thế, a di đà, quan âm bồ tát, đại thế chí, được sư lưu ly, địa tạng, thích ca sơ sinh, ngọc hoàng, nam tào, bắc đẩu, hộ pháp long thiên, đạt ma tổ sư...Tất cả có 30 pho tượng. Các tượng được làm bằng chất liệu khác nhau như đá, đồng, gỗ và có niên đại từ thế kỷ 18 đến 19. Các hoành phi, câu đối sơn son thiếp vàng đa phần nói về phật pháp nhiệm màu và có nhiều bức đại tự. Chùa Quan Âm Tự có một số hiện vật rất quý như: Hai chiếc cối đá và 2 chiếc chày đá, có, niên đại khoảng thế kỷ thứ 7, thứ 8. 2 chiếc đại hồng dung được đúc vào thời Tự Đức, chuông nặng 200 kg, tăng ni, phật tử ở đây coi như một báu vật. Trên chuông khắc một bài văn bia ca ngợi chốn danh lam thắng tích, nhắc lại truyền thuyết vớt được tượng Quan âm.
62. CHÙA AN XÁ (Quàng Bình)
Chùa tọa lạc ở thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.Đây là ngôi chùa làng có từ năm 1900, chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1994. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông.
Chùa tọa lạc ở thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Đây là ngôi chùa làng có từ năm 1900, chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1994. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông.
63. CHÙA TỊNH QUANG ( Quàng trị)
Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang là một ngôi tổ đình duy nhất của tỉnh Quảng
Trị, tọa lạc tại Bàu Voi, thuộc thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. Sách
Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993) cho biết chùa do
Hòa thượng Tu Pháp, tự Chí Khả khai sáng vào năm 1739 đời Vua Lê Ý Tông
(năm thứ hai đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát) với tên là chùa Tịnh Nghiệp.
Đến đời Vua Gia Long, vua ban tên gọi là Tịnh Quang. Chùa được trùng tu
năm Minh Mạng thứ 21 (1941). Đến năm 1972, chùa bị hỏng hoàn toàn do
chiến tranh.
Sách Du lịch Bắc miền Trung (NXB. Thuận Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, 2001) cho biết chùa có tên là Am Tịnh Độ. Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hựu thứ 5 (1739), Chúa Nguyễn Phúc Khoát trong một dịp ngự giá ra Quảng Trị, cảm khái với cảnh trí chốn Phật đường và tiếng tăm của chùa trong dân chúng, Chúa thân thân hành ngự bút viết năm chữ "Sắc tứ Tịnh Quang Tự", cho làm bảng sơn son thếp vàng để tặng cho chùa.
Trong Kỷ yếu lễ khánh thành Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang (2001), nhà nghiên cứu Phật học Lê Mạnh Thát cho biết, nếu không ra đời trước năm 1558 thì đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm tại Ái Tử, chắc chắn ngôi chùa này đã xuất hiện rồi. Đến khoảng những năm 1600 – 1650, chắc hẳn đã có nhiều vị thiền sư nổi tiếng đến trụ trì ở đây, mà hiện nay ta chỉ biêt tên hai vị. Đó là Lục Hồ Viên Cảnh, bổn sư của Thiền sư Minh Châu Hương Hải và Đại Thâm Viên Quang, vị thầy đã dạy về thiền lý cho Minh Châu Hương Hải.
Chùa đã qua 9 lần đại trùng tu. Năm 1997 là lần trùng tu lớn nhất với kinh phí gần 2 tỷ đồng do Hòa thượng Thích Chánh Liêm làm Trưởng ban Tái thiết. Lễ đặt đá trùng tu được cử hành vào ngày 26-3-1997. Ngôi chùa hiện nay có chiều sâu 31m, rộng 27m, cao gần 15m, đã tổ chức khánh thành trang nghiêm trọng thể vào ngày 12 – 3 – 2001 (18 – 2 năm Tân Tỵ).
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Điện chính giữa thờ Tam Thế Phật. Chùa có pho tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng nặng 2700 kg, đúc năm 1997 và chiếc trống lớn bằng da trâu, đường kính mặt trống là 165 cm.
64. CHÙA CHÂU QUANG ( Quảng Trị)
Chùa tọa lạc ở số 31 đường Trần Hưng Đạo - thị xã Đông Hà - tỉnh Quảng Trị. Chùa được xây dựng từ năm 1925, là chùa của hội Phật học tỉnh Quảng Trị
Chùa đã qua nhiều lần trùng tu: mặt tiền được sửa chữa năm 1954, chánh điện sửa chữa năm 1978 và nhà khách sửa chữa năm 1994. Chùa nguyên đặt văn phòng Ban trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Trị. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa đón tiếp đông đảo du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hàng ngày.
66. CHÙA NON NƯỚC - Đà Nẵng
Cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 8 km về phía đông nam,
Chùa Non Nước - Ngũ Hành Sơn được xem là một trong những thắng cảnh nổi
tiếng của miền Trung và là niềm tự hào của người dân xứ Quảng.
Đà Nẵng có nhiều điểm tham quan du lịch nổi tiếng như Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, Bán đảo Sơn Trà, các bãi biển…, trong đó chùa Non Nước – Ngũ Hành Sơn là điểm khá nổi tiếng, được ví như “Hòn nam bộ” của Đà Nẵng. Ngũ Hành Sơn nằm gần trung tâm thành phố Đà Nẵng, cách khoảng 8 km đi về hướng Đông nam (hướng đi Hội An). Khá nổi tiếng, lại gần trung tâm, đường sá được đầu tư xây dựng rộng rãi, sạch đẹp nên Ngũ Hành Sơn thu hút sự quan tâm của nhiều du khách khi đến Đà Nẵng.
Ngũ Hành Sơn gồm có 5 ngọn: Thủy Sơn và Mộc Sơn ở phía Đông, Thổ Sơn, Kim Sơn, Hỏa Sơn ở phía Tây, nằm trên một dải cát vàng chiều dài khoảng 2 km, rộng khoảng 800m thuộc quận Ngũ Hành Sơn.
Lên thăm chùa chiền và hang động Thủy Sơn, du khách có thể đi bằng hai đường: đường tam cấp phía Tây nam dẫn lên chùa Tam Thai có 156 bậc hoặc tam cấp phía đông dẫn đến chùa Linh Ứng có 108 bậc. Hoặc đi bằng thang máy hiện đại, thả tầm mắt ngắm nhìn biển Đà Nẵng cũng như được bao quát toàn cảnh non nước Ngũ Hành Sơn.
Đường leo bộ
Thủy Sơn là ngọn cao nhất trong Ngũ Hành Sơn, rộng chừng 15 ha. Các chùa
chiền và hang động tập trung chủ yếu ở Thủy Sơn. Chùa Tam Thai là một
ngôi chùa được xem là quốc tự và là di tích Phật
Vòng ra sau lưng chùa Tam Thai theo một con đường đất sẽ gặp một cổng vôi cổ kính không biết xây từ bao giờ, trên có 3 chữ Hán “Huyền Không Quan”. Đây là cửa vào động Hỏa Nghiêm và động Huyền Không.
Động Huyền Không
Động Âm Phủ
Chùa Linh Ứng ở ngọn Hạ Thai cũng là ngôi chùa có giá trị lịch sử cao,
được xem là quốc tự và di tích Phật Giáo. Từ tam quan chùa Linh Ứng có
đường đi xuống núi, rẽ phải sẽ gặp động Âm Phủ. Động cao, rộng, hình
tròn sâu thẳm. Đường hang quay về phía Tây, vách lởm chởm đá, ẩm ướt,
mát lạnh. Xuống khoảng 30m ta sẽ gặp một hầm cao, ánh sáng vẫn lọt qua
khe đá dọi vào. Lần qua những cột đá lớn ta sẽ gặp một hang hẹp, lách
qua ngách hầm còn có một vòm cao, một giếng sâu thông xuống lòng đất.
Trở lại Linh Ứng tự ở phía đông Thủy Sơn, theo 108 bậc đá cẩm thạch để xuống núi. Nếu có thời gian thì có thể đi thăm các ngọn núi khác. Tuy nhiên, các ngọn núi sau này đều nhỏ, ngoại trừ hòn Hỏa Sơn cốc - một hang đá mang tên động Quan Thế Âm thì không có di tích nào đặc biệt.
Một điều đặc biệt khác bản thân Ngũ Hành Sơn mang lại là loại đá cẩm thạch có nhiều màu: sáng đục, trắng sữa, hồng phấn, xám vân đỏ, nâu đen, xanh đậm..., không cứng lắm và là chất liệu rất tốt cho tạc tượng và đồ mỹ nghệ trang trí. Chính vì vậy, các khu vực dân cư quanh Ngũ Hành Sơn hình thành các làng nghề mỹ nghệ khá đông đúc và xôm tụ. Rất nhiều hàng quán, cơ sở trưng bày đa dạng mặt hàng mỹ nghệ về đá dọc theo đường Huyền Trân Công Chúa đi vào Ngũ Hành Sơn. Và khi tạm biệt “Hòn non bộ khổng lồ” giữa lòng thành phố Đà Nẵng, mỗi du khách không quên mua cho mình một món quà mỹ nghệ đá làm kỉ niệm.
67. CHÙA CẦU NHẬT BẢN
Cầu Nhật Bản hay chùa Cầu là cái cẩu bắc ngang con lạch chảy ra sông Thu Bồn giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú, thị xã Hội An..Chùa Cầu - tên gọi chung cho tổ hợp kiến trúc gồm ngôi chùa nhỏ gắn kết vào sườn phía Bắc cây cầu cổ trong khu đô thị cổ Hội An (nay là thành phố Hội An), thuộc tỉnh Quảng Nam. Cùng với Cầu Ngói Phát Diệm (Ninh Bình), Cầu Ngói Thanh Toàn (Thừa Thiên-Huế), Chùa Cầu Hội An là một trong 3 cây cầu lợp ngói ở Việt Nam, được nhiều du khách biết đến.Chùa Cầu là công trình kiến trúc do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 17. Cây cầu còn có các tên khác là cầu Nhật Bản hay cầu Lai Viễn do chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An năm 1719 đặt tên, với hàm ý sẵn lòng đón đợi bạn phương xa đến.
Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về Con Cù (mamazu) - một loại thuỷ quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản. Cứ mỗi lần Con Cù cựa quậy là gây ra lũ lụt, động đất... Chùa Cầu được coi như một thanh kiếm chằn ngang lưng Con Cù, "trấn yểm" loài thuỷ quái, giữ cho cuộc sống yên bình.
Chiếc
cầu dài 18 m với bảy gian bằng gỗ, vắt cong qua lạch nước chảy ra sông
Hoài (một nhánh sông Thu Bồn) nối giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và
Trần Phú của TP Hội An. Cầu có dáng uốn cong mềm mại, nhiều họa tiết
đẹp. Cầu và chùa đều bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công phu. Mặt chùa
quay về phía bờ sông, mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu.
Chùa Cầu là một trong những di tích có kiến trúc khá đặc biệt. Mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là Lai Viễn Kiều. Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ, (có lẽ được xuất phát từ nghĩa cây cầu xây từ năm thân, xong năm tuất). Tương truyền đó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa (gọi là chùa) thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Võ - vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt đẹp.
Với người dân phố Hội, Chùa Cầu là linh hồn, là biểu tượng tồn tại hơn bốn thế kỷ qua. Chùa Cầu đã trải qua ít nhất 6 lần trùng tu song vẫn giữ được nét cổ kính nguyên thủy của nó. Chùa Cầu được công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia năm 1990 và hình ảnh Chùa Cầu có trên tờ tiền polymer 20.000 đồng của Việt Nam hôm nay.
Chùa Cầu là một trong những di tích có kiến trúc khá đặc biệt. Mái chùa lợp ngói âm dương che kín cả cây cầu. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là Lai Viễn Kiều. Chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về phía bờ sông. Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ, (có lẽ được xuất phát từ nghĩa cây cầu xây từ năm thân, xong năm tuất). Tương truyền đó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Tuy gọi là chùa nhưng bên trong không có tượng Phật. Phần gian chính giữa (gọi là chùa) thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Võ - vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con người, thể hiện khát vọng thiêng liêng mà con người muốn gửi gắm cùng trời đất nhằm cầu mong mọi điều tốt đẹp.
Với người dân phố Hội, Chùa Cầu là linh hồn, là biểu tượng tồn tại hơn bốn thế kỷ qua. Chùa Cầu đã trải qua ít nhất 6 lần trùng tu song vẫn giữ được nét cổ kính nguyên thủy của nó. Chùa Cầu được công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia năm 1990 và hình ảnh Chùa Cầu có trên tờ tiền polymer 20.000 đồng của Việt Nam hôm nay.
68. CHÙA VẠN ĐỨC
Chùa tọa lạc tại thôn 2B, phường Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. ĐT: 0510.861054. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Khởi thủy, chùa là một thảo am do Thiền sư Minh Lượng, hiệu Nguyệt Ân, tự Thành Đẳng, quê ở huyện Triều Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) khai sơn vào năm 1676. Tài liệu của chùa cho biết, năm 1690, chùa được mở rộng thành chùa Lang Thọ, người dân quen gọi là chùa Cây Cau. Thiền sư Phổ Triêm khi trùng tu chùa đã đổi tên là Vạn Đức. Khi viên tịch, Ngài ngồi an nhiên trên giàn hỏa, để lại ngón tay cái để làm tin cho đời, vào ngày 25 tháng Chạp năm Nhâm Thìn (1856), thọ 98 tuổi.
Tam quan chùa
Mặt tiền chùa
69. CHÙA CHÚC THÁNH (Hội An)
Chùa tọa lạc tại đường Hai Bà Trưng, phường Cẩm Phô, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. ĐT : 0510.950024. Mặt chùa hướng Tây Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo khai sáng vào khoảng cuối thế kỷ XVII.
Chánh điện bài trí tôn nghiêm. Ở đây có bộ Thập bát La hán bằng đất nung cao 0,70m, phần tượng cao 0,45m, ngang 0,28m rất đẹp. Chùa đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1845, 1849, 1892, 1894, 1934. Hòa thượng trụ trì Thích Trí Nhãn đã tổ chức trùng tu liên tục trong những thập niên gần đây. Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng ở Hội An, ngôi Tổ đình của chi phái Thiền Chúc Thánh ở miền Trung và miền Nam.
Tam quan chùa
Mặt tiền chùa
Toàn cảnh chùa
Chùa tọa lạc tại khối 1, phường Thanh Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chùa tọa lạc tại khối 1, phường Thanh Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. ĐT: 0510.861491, 0510.922334. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Hòa thượng Phổ Thoại khai sơn vào năm 1909. TT. Thích Chơn Phát trong bài viết Chùa Long Tuyền (Báo Giác Ngộ ngày 07 – 8 – 1999) cho biết cảnh trí thiên nhiên của chùa rất đẹp. Khe Ồ Ồ phát nguyên từ hướng Tây Bắc, lượn khúc qua trước chùa, rồi chảy đến chùa Cầu, nhập vào sông Hội. Nước suối chảy mạnh và có hình dáng như một con rồng nên Hòa thượng khai sơn đã đặt tên cho chùa là Long Tuyền. Câu đối ở chùa đã nói lên ý nghĩa này :
Long mạch vững bền truyền chánh pháp
Tuyền lưu bao bọc lợi quần sanh
71. CHÙA PHƯỚC LÂM ( Quảng Ngãi)
Chùa Phước Lâm tại xóm Cây Thị, thôn Thuận Phước, xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.Tương truyền chùa có vào năm Tân Dậu (1861), Tự Đức thứ 14. Nguyên thủy tọa lạc trên đất Cửa Chùa, xóm Cây Thị, do một Thiền sư Lâm Tế khai sơn, không rõ đích danh, không còn dấu tích nào để lại. Có lẽ chùa trong quá khứ đã hoàn toàn hư hoại theo biến động thời gian. Chỉ còn trong tâm tưởng cái tên chùa Phước Lâm và ngày giỗ chính 18 tháng 5 âm lịch, lấy đó làm ngày hiệp kỵ.
- Đến năm Kỷ Hợi (1959) chùa được tái lập, nhưng không tái lập trên đất Cửa Chùa nguyên thủy, mà xây dựng trên đất Cửa Đình, cùng một xóm Cây Thị, nay vẫn còn giữ nền tảng Dinh thần di tích. Bổn đạo cử ông Nguyễn Quang Cư làm Khuôn trưởng Phật giáo điều hành sinh hoạt.
Chùa Phước Lâm
Mặt tiền chùa
Tam quan chùa
Toàn cảnh chùa
72. CHÙA THIÊN ẤN (Quảng Ngãi)
Chùa Thiên Ấn tọa lạc trên núi Thiên Ấn, thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Chùa nằm phía Bắc sông Trà Khúc, cách thị xã Quảng Ngãi khoảng 3 km. Chùa Thiên Ấn được khởi công xây dựng vào năm 1694 và hoàn thành vào cuối năm 1695 ( năm Chính Hòa thứ 15 ), đời Lê Huy Tông ( chúa Nguyễn Phúc Chu đàng trong ). Tổ khai sơn chùa là Thiền sư Pháp Hóa ( 1670 - 1754 ), tục danh Lê Diệt, hiệu Minh Hải Phật Bảo, gốc người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, trụ trì tại tổ đình 41 năm, viên tịch giờ ngọ ngày 17 tháng 01 năm Giáp Tuất, thọ 84 tuổi, thuộc dòng thiên Lâm Tế. Lúc đầu chùa chỉ là một thảo am tĩnh mịch, sau được dần trùng tu mở rộng thu hút được nhiều tăng ni Phật tử và trở nên nổi tiếng.
Năm Vĩnh Thịnh thứ 11 ( 1717, đời vua Lê Dụ Tông ), chúa Nguyễn Phúc Chu, là một một người rất sùng đạo Phật, đã ban cho nhà chùa biển ngạch Sắc Tứ Thiên Ấn Tự. Tấm biển này sau đó bị hư hại và được thiền sư Hoàng Phúc tái tạo vào năm 1946.
Thiên Ấn tự được khai sơn từ năm 1716 đến nay. Từ năm 1695 đến nay ( 1995 ), trải qua 300 năm chùa đã có 15 đời sư trụ trì, trong đó có 6 vị được suy tôn là sư tổ, gọi chung là lục tổ. Chùa cũng trải qua 5 lần trùng tu vào các năm 1717, 1827[1], 1910[2], 1918[3], 1959[4]. Hòa thượng Thích Huyền Đạt, vị sư trụ trì gần nhất cũng đã viên tịch ngày 1 tháng 12 năm Quý Dậu ( 1 - 1994 ) thọ hơn 80 tuổi.
So với các ngôi chùa cổ trong nam ngoài bắc, kể cả chùa Ông Thu Xà, chùa không nổi bật lắm về kiến trúc nội thất, trừ nhà phương trượng được xây dựng theo kiến trúc nhà rường, vốn là bộ khung mua lại của đình làng Phú Nhơn ( đình làng này nằm trong thành Phú Nhơn - thành Quảng Ngãi đầu tiên được các chúa Nguyễn xây dựng tại làng Phú Nhơn nay là thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh về sau vua Gia Long đã dời về làng Chánh Mông nay thuộc địa phận thành phố Quảng Ngãi ). Bù lại, chùa được xây dựng ở một vị trí có một không hai, đó là đỉnh đồi Thiên Ấn, một thế đất thiêng trong tâm tưởng người dân Quảng Ngãi.
73. NGUYÊN THIỀU ( Bình Định )
Chùa
Nguyên Thiều Chùa tọa lạc trên một quả đồi gần tháp Bánh Ít, thuộc
thôn Đại Lễ, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. ĐT:
056.832115. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được xây vào năm 1956.
Phật đài bên phải tôn trí pho tượng đức Phật Thích Ca cao 15m, an vị năm
1962. Trong sân tu viện, còn có những pho tượng lộ thiên đẹp như tượng
Bồ tát Di Lặc, Bồ tát Quan Thế Âm. Hiện Tu viện đặt Trường Trung cấp
Phật học Bình Định.
Chùa mang tên Thiền sư Nguyên Thiều (1648-1728) là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Ông là vị Tổ truyền phái Lâm Tế vào Miền Trung Việt Nam đầu tiên, và đã đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong[1].
Thích ca Phật đài
Rồng đá ở bậc lên xuống Thích ca Phật đài
74. CHÙA THẬP THÁP DI ĐÀ (Bình Định)
Tên
thường gọi: Chùa Thập Tháp . Chùa Thập Tháp là một di tích kiến trúc
nghệ thuật thời Nguyễn, thuộc thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An
Nhơn, do Thiền sư Nguyên Thiều sáng lập vào năm 1665. Chùa ở vị trí sát mặt thành phía bắc kinh đô Đồ Bàn cũ và
thành Hoàng Đế sau này, trên một ngọn đồi cây cối rậm rạp, chu vi gần
1km², trước mặt là ngọn Thiên Bút sơn hay còn gọi là núi Mò O.
Về mặt phong thủy mà xét đoán, khi chọn hướng để xây dựng, Thiền sư
Nguyên Thiều có lẽ đã lấy núi này làm bức bình phong che chắn cho mặt
chính của chùa. Sau lưng được bọc bởi chi lưu của sông Côn chạy dọc theo
sườn đồi. Phía bắc là con sông Quai Vạc, xưa gọi là Bàn Khê, uốn lượn
chạy về phía đông, đối diện với chùa được thiết kế hồ sen rộng chừng
500m², bờ xây bằng đá ong.
Về mặt phong thủy mà xét đoán, khi chọn hướng để xây dựng, Thiền sư
Nguyên Thiều có lẽ đã lấy núi này làm bức bình phong che chắn cho mặt
chính của chùa. Sau lưng được bọc bởi chi lưu của sông Côn chạy dọc theo
sườn đồi. Phía bắc là con sông Quai Vạc, xưa gọi là Bàn Khê, uốn lượn
chạy về phía đông, đối diện với chùa được thiết kế hồ sen rộng chừng
500m², bờ xây bằng đá ong.
Đến 1680, chùa chính thức mới được xây dựng bề thế, với tên gọi lúc bấy giờ là Di-Đà-Tự. Chất liệu xây chùa tương truyền dùng gạch của 10 ngọn tháp đổ của người Chăm nằm ở phía sau đồi Long Bích. Hiện nay quanh chùa còn thấy dấu vết các nền tháp, và rải rác còn có một số mảnh đá trang trí.
Mặt tiền chùa (xưa)
Mặt tiền chùa
Cổng chùa
Trong lòng chánh điện được bài trí các khám thờ; khám chính chiều cao 5m, bên trên được chạm lưỡng long tranh châu, hai bên trang trí kiểu long phụng cách điệu mây là, giữa đề chữ Phúc, phía dưới khám là đề tài bút sách, tất cả đều được sơn son thếp vàng. Hai khám thờ trái và phải của khám chính, cũng được bố cục như vậy, mô típ chạm khắc cầu kỳ hơn được chạm lộng hai lớp, hình rồng cuộn xoáy phức tạp, mang dáng dấp của mỹ thuật thời Lê.
Toàn cảnh chùa
Điện Phật
Tượng Hộ Pháp
Bên ngoài hai đầu hồi xây gạch, hệ thống cửa cấu tạo đơn giản. Chánh điện lợp ngói âm dương, mái thẳng, các góc không cong, bờ nóc chạy thẳng, nay được tạo hình lưỡng long tranh châu. Kế tiếp sau chánh điện là khu Phương Trượng, được kiến trúc theo kiểu nam Trung Quốc, được cải tạo và nâng cấp vào năm 1973, mái ngói âm dương, bên trong kết cấu bộ sườn gỗ và dạng khám thờ được lắp ráp, chạm trổ khá đẹp. Khu vực tây đường và đông đường cũng được kiến trúc giống như phương trượng. Ngoài 4 khu vực trên phía tây còn có một nhà chánh thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Công, Thập Điện….
Hình thái kiến trúc chùa Thập Tháp hiện nay là kết quả của nhiều lần trùng tu, gần đây nhất là vào năm 1997, chùa được nâng cao lên so với mặt bằng cũ 0,60m nhưng khuôn viên kiến trúc vẫn giữ được nguyên như cũ. Tuy được kết hợp hòa quyện giữa cái cũ và cái mới, nhìn chung hệ thống liên kết của chùa Thập Tháp vẫn tuân thủ theo nguyên tắc truyền thống của kiến trúc Việt Nam - hoàn toàn dùng mộng, không dùng đinh hoặc lạt buộc.
Chùa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch và câu đối vào năm 1691.
75. CHÙA LINH PHONG (Bình Định)
Trên sườn phía Đông Nam núi Bà, cách thành Trà Bàn (Đồ Bàn) hơn 30 dặm; nay thuộc địa phận thôn Phương Phi (xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định), trước đây có một ngôi chùa cổ có tên là Linh Phong Thiền Tự.
- Chùa Linh Phong ở thôn Phương Phi, huyện Phù Cát, lưng dựa vào núi cao (núi Bà), mặt trông ra đầm Biển cạn (tức đầm Thị Nại), xung quanh có nước suối lượn quanh phong cảnh thật đẹp[1].
- Chùa Linh Phong ở thôn Phương Phi, huyện Phù Cát, lưng dựa núi cao, nhìn ra đầm Hạc Hải (tức đầm Thị Nại), hoa cỏ đẹp tươi. Nên có câu: "Mây lành khắp chốn, chùa Linh Phong bao bọc hoa tươi", và có câu đối (bằng chữ Hán) dịch ra như sau:
- Bờ biển dấy duyên lành, mưa móc khắp trời nhuần đẹp đất;
- Linh Phong ngưng khí tốt, mây lành mọi chốn phủ nhân gian[2].
Tương truyền vào năm Nhâm Ngọ (1702) đời chúa Nguyễn Phúc Chu, có một nhà sư Trung Quốc, tên tục là Lê Ban (?) đến hang đá phía đông núi Bà để ẩn tu [3]. Sau nhà sư mới đến lưng chừng núi "phát gai dại, vác đá to xây chỗ này, lấp chỗ kia, kết cỏ làm tranh, dựng lên am nhỏ, đặt tên là chùa Dũng Tuyền"[4].
Theo "Linh Phong tự ký" của danh thần Đào Tấn, thì thiền sư viên tịch "trong thời loạn lạc" (ám chỉ thời Tây Sơn). Sau đó, các đồ chúng lập tháp thờ ở bên phải chùa vào năm Thái Đức (niên hiệu của Nguyễn Nhạc) thứ 8 (1785).
Kiến trúc Linh Phong Tự
Cảnh quan
Đến năm Gia Long thứ 7 (1808),
nghe lời Thánh mẫu là Hoàng hậu Hiếu Khương, nhà vua ban lệnh không cho
ai được xâm phạm hay lấy các vật dụng ở chùa trong khi chờ đợi trùng
tu. Tuy nhiên, mãi đến đời Minh Mạng, chùa Linh Phong mới được sửa sang lớn. Sử nhà Nguyễn kể: "một
hôm nhà vua bị bệnh, vừa chợp mắt thì mộng thấy một vị sư già mặc áo vỏ
cây đứng bên giường hầu quạt, đến sáng thì khỏi bệnh. Khi ngự triều,
nhà vua đem chuyện ấy hỏi các quan, có người tâu rằng vị sư già đó có lẽ
là Linh Phong thiền sư ở chùa Linh Phong ngày xưa". Vì vậy, năm 1826, nhà vua ban cho chùa này một chiếc áo cà sa mới may để thờ, đồng thời cho lấy 120 lượng bạc ở trong kho để trùng tu lại chùa [5].
Đến năm 1884-1885, dưới triều Kiến Phúc và Hàm Nghi, đại thần Đào Tấn "bỏ quan về Nam, ẩn giấu tích ở chùa Linh Phong để lánh loạn"[6].
Năm 1895, Đào Tấn được bổ làm Thượng thư bộ Công ”[7]. vì muốn sửa sang ngôi cổ tự, nên ông đem việc ấy tâu lên Tây cung (chỉ mẹ vua Thành Thái). Nghe lời mẹ, vua Thành Thái bèn giao cho tỉnh thần 70 lạng bạc lo việc trùng tu chùa, đồng thời sai hiểu dụ dân trong tỉnh quyên góp thêm, đến tháng 8 (âm lịch) năm Đinh Dậu (1897) thì hoàn tất, và quang cảnh chùa lúc bấy giờ rất đẹp [7].
Sau đó trải qua thời gian và chiến tranh, ngôi cổ tự trên chỉ còn lại cổng tam quan
76. CHÙA SẮC TỨ HỘI PHƯỚC- Nha Trang
Chùa Sắc tứ Hội Phước còn gọi là “Chùa
Cát” tọa lạc ở 153/2 Hoàng Văn Thụ, Nha Trang Khánh Hòa. Ban sơ chùa ở
trên đồi Hoa sơn (Núi Một) với tên là Phước Am do Tổ Phật An và Tịch
Viễn khai sáng năm 1680.Đến năm 1742,ngài Đại Thông đã dời chùa xuống
đất bằng, cách đồi Hoa sơn 300m và đổi tên thành chùa Hội Phước. Năm
1940, chùa được sắc phong sắc tứ năm Bảo Đại thứ 15.
Chùa Hội Phước được truyền thừa qua các đời tổ sư trụ trì như sau: Tế Điền(1716-1741),Đại Thông(1741-1810),Đạo An(1810-1841),Tánh Minh(1841-1853),Như Huệ (1895-1905),Thanh Minh (1905-1914), Chơn Hương (1915-1917). Thanh Chánh - Phước Tường (1917-1920), Thị Thọ (1920-1929), An Ngân (1929-1949), Đồng Kỉnh (1949-1978). Trụ trì hiện nay là Hòa thượng Thích Quảng Thiện-Người có công lớn trong việc trùng tu đại quy mô qua thời gian hơn 30 năm kể từ năm khởi công 1994.
77. CHÙA HẢI ĐỨC- Nha Trang
Địa chỉ: Số 51 đường Hải Đức, Tp. Nha Trang. Tỉnh Khánh Hòa.
Trụ trì hiện nay là: Thượng tọa Thích Minh Châu
Chùa Hải Đức do tổ Đạt Khương lập năm 1883, ở hai đầu đường Yersin và
Hoàng Văn Thụ. Năm 1943 Ngài Bích Không phụng giáo Ngài Phước Huệ dời
chùa lên đồi Trại Thủy. Năm 1956, ngài Phước Huệ đoạn cúng toàn bộ cơ sở
này cho Giáo hội Trung Phần, cũng năm đó Phật học Viện Trung Phần chính
thức sinh hoạt tại cơ sở này, do Hòa thượng Thuyền Tôn làm Viện trưởng.
Hòa thượng Thích Trí Thụ làm giám viện. Tiền bán Thập niên 70 nơi đây
trở thành Viện cao đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang do Hòa thượng Thích
Thiện Siêu làm Viện trưởng, các bậc Cao tăng – Thức giả hầu hết đều phát
xuất từ Viện Phật học này.
78. CHÙA LONG SƠN - Nha Trang
79. CHÙA SẮC TỨ KIM SƠN- Nha Trang
Chùa tọa lạc trên núi Ông Sư, thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. ĐT: 058.612072. Từ Nha Trang theo quốc lộ 1 ra khoảng 54km, đến cổng làng Xuân Tự, có đường vào chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông
Chùa được Hòa thượng Thích Viên Giác (người huyện Phú Vang, Thừa Thiên – Huế) khai kiến và khánh thành năm 1956. Ngôi chánh điện do Thượng tọa Thích Tịnh Diệu cho trùng tu từ năm 1987 đến năm 1990.
Toàn cảnh chùa
78. CHÙA LONG SƠN - Nha Trang
Tọa lac: Số 20 đường 23
tháng 10, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.Chùa Long Sơn thường được
gọi là Chùa Phật Trắng dưới chân núi Trại Thủy. Chùa do Hòa thượng Thích
Ngộ Chí (sinh năm 1856) dựng trên núi Trại Thủy (ở chỗ có tượng Phật
Trắng bây giờ) vào năm 1886 với tên là Đăng Long tự. Năm 1900, chùa bị
hư hỏng sau một cơn bão lớn và dời xuống địa điểm hiện nay, đổi tên là
chùa Long Sơn. Chùa được trùng tu vào các năm 1940, 1971 và 1975.
Khuôn
viên chùa có cảnh trí đẹp đẽ, rộng 44.5m, dài hơn 72m, bên cạnh đặt
giảng đường của trường trung cấp Phật học và Trụ sở Giáo hội Phật giáo
tỉnh Khánh Hòa. Tòa Chánh diện rộng tới 1.670m2, là nơi đặt tượng Phật
tổ ngồi thuyết pháp, và 2 cây nến lớn kỷ lục: nặng 900kg, cao 3.4m. 193
bậc Tam cấp dẫn đường từ chùa lên đỉnh đồi.
Tại bậc thứ 44 có tượng “Phật nằm” (Phật tổ nhập niết bàn), dài 17m, cao 5m. Đỉnh đồi dựng “Thích ca Phật đài” (Tượng “Phật trắng” cao 21m, đài Sen đế cao 7m, uy nghi, lộng lẫy). Tất cả đều xây năm 1963. Chùa Long Sơn là một trong những thắng tích bậc nhất ở miền Trung. Năm 2009, Hòa thượng Thích Chí Tín cho xây dựng lại cổng Tam quan và tôn tạo nhiều công trình phụ khác. Chùa Long Sơn là một trong những điểm dừng chân lý tưởng của du khách tới Nha Trang.
Tại bậc thứ 44 có tượng “Phật nằm” (Phật tổ nhập niết bàn), dài 17m, cao 5m. Đỉnh đồi dựng “Thích ca Phật đài” (Tượng “Phật trắng” cao 21m, đài Sen đế cao 7m, uy nghi, lộng lẫy). Tất cả đều xây năm 1963. Chùa Long Sơn là một trong những thắng tích bậc nhất ở miền Trung. Năm 2009, Hòa thượng Thích Chí Tín cho xây dựng lại cổng Tam quan và tôn tạo nhiều công trình phụ khác. Chùa Long Sơn là một trong những điểm dừng chân lý tưởng của du khách tới Nha Trang.
79. CHÙA SẮC TỨ KIM SƠN- Nha Trang
DI TÍCH LỊCH SỬ – KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT
Trụ trì hiện nay là: Tỳ kheo Thích Nguyên Minh
Chùa Sắc Tứ Kim Sơn
tọa lạc trên một ngọn đồi thấp, tại thôn Ngọc Hội, xã Vĩnh Ngọc. Đây là
một ngôi chùa cổ kính, được hình thành từ xa xưa, chưa xác định chính
xác từ năm nào, nhưng tương truyền được ghi lại trong sách “Trung Châu
Nhân Vật Ký” thì chùa đã có từ thế kỷ 13.
Nhân chuyến thăm Chiêm Thành của đức điều ngự giác hoàng Trần Nhân Tông vào năm 1301, có ghé thăm chùa ở núi Gành (Tức Ngọc Hội ngày nay). Trước cảnh thanh bình tuyệt đẹp của ngôi chùa ngài có đề câu đối:
“Kim âu lãng thủy ngọc hoàn qui
Sơn tự thiền tông hội phước trì”
Từ đó tên chùa được đặt theo hai chữ đầu câu đối “Kim Sơn”, cho đến thế kỷ 17, đại lão HT. Thượng Thiệt hạ Địa hiệu Pháp An đã xây dựng hoàn chỉnh ngôi chùa và tồn tại cho đến ngày nay. Theo truyền thống, đại lão Hòa Thượng trở thành vị tổ khai sơn lập chùa. Đến năm Canh thân (1740). Chúa Nguyễn Phúc Khoát cải tên chùa và ban biển hiệu sơn son thiếp vàng, khắc bốn đại tự “Sắc Tứ Quy Tông” và 8 chữ lạc khoản “Quốc Chủ -Từ Tế -Đạo Nhân- Ngự Đề” cùng 4 chữ triện “Nghiệp Quảng Duy Cần”.
Nhân chuyến thăm Chiêm Thành của đức điều ngự giác hoàng Trần Nhân Tông vào năm 1301, có ghé thăm chùa ở núi Gành (Tức Ngọc Hội ngày nay). Trước cảnh thanh bình tuyệt đẹp của ngôi chùa ngài có đề câu đối:
“Kim âu lãng thủy ngọc hoàn qui
Sơn tự thiền tông hội phước trì”
Từ đó tên chùa được đặt theo hai chữ đầu câu đối “Kim Sơn”, cho đến thế kỷ 17, đại lão HT. Thượng Thiệt hạ Địa hiệu Pháp An đã xây dựng hoàn chỉnh ngôi chùa và tồn tại cho đến ngày nay. Theo truyền thống, đại lão Hòa Thượng trở thành vị tổ khai sơn lập chùa. Đến năm Canh thân (1740). Chúa Nguyễn Phúc Khoát cải tên chùa và ban biển hiệu sơn son thiếp vàng, khắc bốn đại tự “Sắc Tứ Quy Tông” và 8 chữ lạc khoản “Quốc Chủ -Từ Tế -Đạo Nhân- Ngự Đề” cùng 4 chữ triện “Nghiệp Quảng Duy Cần”.
Vào năm Thiệu trị thứ V (1845), nhà
vua sắc hạ chùa theo tên cũ là “Sắc Tứ Kim Sơn tự”. Dưới triều vua Khải
Định (1916-1924), có Phu nhân của một vị hưu quan đã xuất gia tu hành và
trùng tu lại chùa. Vì lẽ đó, chùa còn được dân chúng trong vùng gọi là
chùa “Bà Nghè”.
Kế thừa đạo nghiệp truyền đăng tục diệm, vị trụ trì hiện nay của chùa là Tỳ kheo Thích Nguyên Minh, Pháp hiệu Minh Hiền. Ngài vẫn tiếp tục tu bổ, phát triển ngôi cổ tự ngày một rộng rãi khang trang hơn. Chùa Sắc Tứ Kim Sơn là một thắng tích lịch sử văn hóa của tỉnh Khánh Hòa.
Kế thừa đạo nghiệp truyền đăng tục diệm, vị trụ trì hiện nay của chùa là Tỳ kheo Thích Nguyên Minh, Pháp hiệu Minh Hiền. Ngài vẫn tiếp tục tu bổ, phát triển ngôi cổ tự ngày một rộng rãi khang trang hơn. Chùa Sắc Tứ Kim Sơn là một thắng tích lịch sử văn hóa của tỉnh Khánh Hòa.
80 . CHÙA GIÁC HẢI -Nha Trang
Chùa tọa lạc trên núi Ông Sư, thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. ĐT: 058.612072. Từ Nha Trang theo quốc lộ 1 ra khoảng 54km, đến cổng làng Xuân Tự, có đường vào chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông
Tam quan chùa
|
Chùa được Hòa thượng Thích Viên Giác (người huyện Phú Vang, Thừa Thiên – Huế) khai kiến và khánh thành năm 1956. Ngôi chánh điện do Thượng tọa Thích Tịnh Diệu cho trùng tu từ năm 1987 đến năm 1990.
Toàn cảnh chùa
Mặt bên chùa
Gác chuông
Chùa Giác Hải
Tu viện Giác Hải
81.CHÙA DIỆU QUANG- Nha Trang
Ni viện Diệu Quang tọa lạc ở số 38B đường Lê Hồng Phong, phường Phước Hải, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. ĐT: 058.871735. Khu đất này do Hòa thượng Thích Tương Ưng hiến cúng cho Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa vào năm 1960 để xây dựng cơ sở đào tạo ni tài. Ni viện thuộc hệ phái Bắc tông.
Tam quan chùa
Phật học ni viện Nha Trang được thành lập vào năm 1961 dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Thích Trí Thủ, Giám viện Viện Phật học Trung phần tại Nha Trang. Sau đó, Ni viện lấy tên của Ni cô Thích Nữ Diệu Quang, người đã vị pháp thiêu thân tại Khánh Hòa năm 1963. Ban Quản trị đầu tiên của Ni viện do Sư cụ Thích Nữ Đàm Hương làm Giám viện, và hiện nay, Ni trưởng Thích Nữ Viên Minh kế tục.
Cổng chùa
Ni viện Diệu Quang
Một góc chùa
Kiến trúc mái chùa
Ni viện là cơ sở 2 của Trường cơ bản Phật học tỉnh Khánh Hòa, là trung tâm sinh hoạt Phật sự của Ni giới Khánh Hòa. Địa điểm Ni viện rất thuận tiện cho việc tu học và hoằng pháp. Ở giữa thành phố, Ni viện vẫn giữ được sự trang nghiêm, thanh tịnh của chốn già lam.
82 . THIỀN VIỆN TRÚC LÂM - Đà Lạt
Chùa toạ lạc
trên núi Phụng Hoàng cạnh Hồ Tuyền Lâm, cách trung tâm
thành phố Đà Lạt 5km từ thành phố Đà Lạt đi theo con đường Triệu Việt
Vương qua dinh 3, chạy thẳng theo con đường mới làm). Thiền Viện Trúc
Lâm được coi là thiền viện lớn nhất trong cả nước cả về không
gian lẫn quy mô tụ tập thuộc dòng Trúc Lâm Yên Tử. Trong chánh điện chỉ
thờ Phật Thích Ca cầm cành hoa sen. Ngay phía ngoài là toà tháp uy
nghiêm bên trong treo một chiếc chuông lớn cao 1.98 m nặng 1.1 tấn trên
có khắc bài thơ của Trúc Lâm Ðầu Ðà.
Thiền viện được chia ra làm 4
khu vực: khu vực ngoại viện, khu tịnh thất hòa thượng, hòa thượng viện
trưởng, khu nội viện tăng và khu nội viện ni. Thiền Viện có hơn 100 tăng
ni và nhiều cư sĩ tập trung từ khắp nơi trong nước, hàng ngày đọc kinh
theo một chế độ tu luyện nghiêm khắc với quan điểm triết học: “ trở về
soi rọi chính bản thân mình”.
Có
hai cách để chùa là cáp treo nếu đi từ hướng quốc lộ 20, còn nếu đến từ
hướng hồ Tuyền Lâm, du khách sẽ đi bộ trên 140 bậc thang đá ẩn dưới
bóng mát của thông dẫn qua 3 cổng tam quan để vào chính điện.
Ngoài việc chiêm bái và tham quan các công trình, kiến trúc, các bức tích đầy ý nghĩa của nhà Phật. Tại đây, du khách còn có dịp chiêm ngưỡng hàng trăm loại hoa khác nhau, đặc biệt là những loại hoa lạ như hoa hồng sa mạc…. Ngoài ra, du khách còn có thu vào tầm mắt toàn cảnh hồ Tuyền Lâm thơ mộng ẩn sâu những triền thông bạt ngàn, những con đường nhỏ uốn lượn.
83. CHÙA LINH SƠN (Đà Lạt)
Chùa được dựng vào năm 1938, đã trải qua các đời trụ trì là Hòa thượng Thích Trí Thủ, Hòa thượng Thích Diệu Hoằng, Hòa thượng Thích Từ Mãn, Hòa thượng Thích Bích Nguyên và từ năm 1964 đến nay là Hòa thượng Thích Từ Mãn.. Chùa tọa lạc số 120 đường Nguyễn Văn Trỗi, phường 2, thành phố Đà Lạt, cách Hòa Bình hơn 700m về hướng Tây Bắc.
Chùa được xây dựng trên một ngọn đồi rộng khoảng 4 ha trồng các loại hoa, trà, cà phê, thông... nên vừa trang nghiêm, cổ kính vừa thanh binh, dễ chịu. Chùa được thiết kế theo phong cách Á Đông với hai mái xuôi, với trên đỉnh mái có đắp đôi rồng uốn lượn theo thế "lưỡng long triều nhật".
Trước sân là tượng Bồ-tát Quan Thế Âm đứng trên
đài sen, bên trái là một bảo tháp bát giác 3 tầng. Chung quanh chùa có
nhiều cụm giả sơn và những hàng cây thông, bạch đàn, cây sao cao vút.
Chánh điện bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích-ca, tượng
bằng đồng đúc năm 1952, nặng 1250kg.
84. CHÙA LINH QUANG ( Đà Lạt)
Chùa Linh Quang tọa lạc tại số 133 đường Hai Bà Trưng, thành phố Đà Lạt. Đây là ngôi chùa đầu tiên được xây dựng tại thành phố này vì thế còn có tên gọi là Linh Quang tổ đình[1].
Ngôi chùa do Hoà thượng Thích Nhân Thứ tạo lập vào năm 1931, sau đó được các hoà thượng trụ trì kế tiếp trùng tu, đặc biệt là vào năm 1958 và năm 1972 dưới thời Hòa thượng Thích Minh Cảnh trụ trì [2]. Ngôi chùa đã được vua Bảo Đại ban sắc tứ vào năm 1938.
Chùa Linh Sơn là một danh lam thắng cảnh bậc nhất của xứ hoa đào. Hàng năm,
chùa đón tiếp hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái. Chùa
hiện đặt văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Lâm Đồng
84. CHÙA LINH QUANG ( Đà Lạt)
Chùa Linh Quang tọa lạc tại số 133 đường Hai Bà Trưng, thành phố Đà Lạt. Đây là ngôi chùa đầu tiên được xây dựng tại thành phố này vì thế còn có tên gọi là Linh Quang tổ đình[1].
Ngôi chùa do Hoà thượng Thích Nhân Thứ tạo lập vào năm 1931, sau đó được các hoà thượng trụ trì kế tiếp trùng tu, đặc biệt là vào năm 1958 và năm 1972 dưới thời Hòa thượng Thích Minh Cảnh trụ trì [2]. Ngôi chùa đã được vua Bảo Đại ban sắc tứ vào năm 1938.
85. CHÙA LINH PHƯỚC - Đà Lạt
Chùa Linh Phước hay còn gọi là chùa Ve Chai. Chùa do một số tăng ni, phật tử từ Thừa Thiên - Huế đến xây dựng từ năm 1949, nhưng chỉ sau khi trùng tu và làm cổng tam quan từ ngoài đường để mọi người dễ nhìn vào năm 1990 mới được nhiều người biết đến.
Gọi là chùa ve chai vì ở đây có con rồng dài 49m, vây được đắp bằng các mảnh vỡ của 50 nghìn vỏ chai. Đến với Linh Phước tự, ngoài việc dâng hương lễ Phật, du khách còn được thưởng ngoạn những kiến trúc được xây dựng công phu.
Trước hết phải kể đến chánh điện và Tiền đàn bảo tháp, một công trình kiến trúc đồ sộ và độc đáo như: chánh điện dài 33m, rộng 22m; Tiền đàn bảo tháp cao 27m được chạm trổ hình rồng. Lầu 1 có gian thờ 108 tượng "Thiên thủ thiên nhãn". Trong nội điện, tượng Phật Thích Ca cao 4,9 m kể cả tòa sen, phía trước được làm bằng bê-tông cốt thép, bên ngoài thiếp vàng, phía trước là bức Cửu long môn uốn mình chầu Phật.
Ngoài
điểm nhấn ấn tượng đó, chùa cũng ghi dấu với du khách hành hương ở toà
Linh tháp 7 tầng, cao 36m - bảo tháp cao nhất Đà Lạt hiện nay; Chánh
điện dài 33 m, rộng 22 m; Tiền đàn bảo tháp cao 27 m. Ngoài ra, nơi đây
còn có hồng chung (đúc vào năm 1999), cao 4,3 m, đường kính 2,3 m và
nặng tới 8,5 tấn - lớn nhất Việt Nam.
Ở Linh Phước tự hình tượng con rồng gần như bao quát toàn bộ kiến trúc của ngôi chùa, được chạm khắc, bài trí rất công phu trên các hàng cột, trên mái chùa cong…
Được
xây dựng trên một đỉnh núi nhỏ, toàn cảnh ngôi chùa như một bức tranh
chốn bồng lai tiên cảnh ẩn trong sương và màu xanh của rừng thông.
E. CÁC CHÙA Ở SAIGON
Saigòn- Gia Định có nhiều chùa. Riêng tại Gia Định đã có khoảng 100 chùa. Chúng tôi chỉ trình bày một số chùa tiêu biểu.
86. THANH MINH THIỀN VIỆN: PHÚ NHUẬN
86. THANH MINH THIỀN VIỆN: PHÚ NHUẬN
Chùa này là trung tâm tranh đấu cho tự do, dân chủ Việt Nam.Thanh Minh thiền viện do Hòa Thượng
Thích Quang Độ trụ trì, là đầu não của Phật giáo quốc gia, tranh đấu
cho độc lập và tự do Việt Nam. Chùa này thường bị Cộng sản đàn áp, khủng
bố nhưng các vị tăng đều chứng tỏ một tinh thần vô úy. Hòa Thượng
Quảng Độ là Tăng Thống Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, trụ sở Viện Tăng
Thống tại Thanh Minh thiển viện , số 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận
Phú Nhuận, Saigon
Ngày 17-8-2012, đại sứ Hoa Kỳ David Shear đã đến Thanh Minh Thiền Viện để vấn an Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ
Đại sứ Úc Hugh Borrowman và Tăng Thống Quảng Độ trước Thanh MInh Thiền Viện
Đức
Tăng Thống Thích Quảng Độ và Đại sứ Úc Đại Lợi, Hugh Borrowman trước
Thanh Minh - Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ và Đại sứ Úc Đại Lợi, Hugh Borrowman trước
Thanh Minh Thiền Viện - See more at:
Đức
Tăng Thống Thích Quảng Độ và Đại sứ Úc Đại Lợi, Hugh Borrowman trước
Thanh Minh Thiền Viện - See more at:
87. CHÙA GIÁC HOA -Bình Thạnh
Chùa tọa lạc tại 15/7 Nơ Trang Long, Phường 7, Q. Bình Thạnh, TP Sài Gòn. Đây là trụ sở của Văn phòng Viện Hóa Đạo của Phật giáo Việt Nam Thống Nhất do Hoà thượng Thích Viên Định, Viện trưởng Viện Hóa Đạo trụ trì.
Chùa tọa lạc tại 15/7 Nơ Trang Long, Phường 7, Q. Bình Thạnh, TP Sài Gòn. Đây là trụ sở của Văn phòng Viện Hóa Đạo của Phật giáo Việt Nam Thống Nhất do Hoà thượng Thích Viên Định, Viện trưởng Viện Hóa Đạo trụ trì.
Chùa này là trụ sở của Viện Hóa Đạo, Phật giáo Việt Nam Thống Nhất,
trung tâm tranh đấu cho tự do, dận chủ nên bị công san sách nhiễu. Chùa
này là chùa xưa ở chốn đồng quê của tỉnh Gia Định, nay chùa nằm lọt
vào giữa xóm lao động .
Chủ nhật 5.5.2013, Công an mặc thường phục tràn vào
ngõ hẻm chùa Giác Hoa không cho ai ra khỏi chùa –
ngõ hẻm chùa Giác Hoa không cho ai ra khỏi chùa –
Công an bao vây chùa Giác Hoa- Bình Thạnh.
Không chỉ ngăn chặn những người trẻ tham dự cuộc picnic dã ngoại bàn về nhân quyền, hàng chục tên Công an đã kéo đến phong tỏa chùa Giác Hoa, ngăn cấm tất cả chư Tăng không được rời khỏi chùa hôm chủ nhật vừa qua 5-5-2013. Theo bản Tường thuật của Thượng tọa Thích Viên Hỷ cho biết thì một số chư Tăng phải rời chùa Giác Hoa tham gia Phật sự đều bị Công an ngăn cản, lệnh phải quay vào chùa không cho đi. Đặc biệt vào lúc 8 giờ sáng chủ nhật khi Hòa thượng Thích Viên Định, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, dự tính lên Thanh Minh Thiền Viện để vấn an Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Hòa thượng Thích Quảng Độ thuyết pháp tại chùa Giác Hoa
88. CHÙA GIÁC LÂM -Phú Lâm
Chùa Giác Lâm là chùa cổ nhất miền nam, thành lập năm 1744 là một trong những ngôi chùa có mặt sớm nhất ở đất Gia Định còn tồn tại đến nay, do cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, xây dựng.
Chùa Giác Lâm (chữ Hán 覺林寺: Giác Lâm tự) còn có các tên khác: Cẩm Sơn, Sơn Can[1] hay Cẩm Đệm; là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Saigon. Đây chính là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế ở miền Nam Việt Nam[2].Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc phường 10, quận Tân Bình, Saigon, và đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam ngày 16 tháng 11 năm 1988.
Chùa Giác Lâm là chùa cổ nhất miền nam, thành lập năm 1744 là một trong những ngôi chùa có mặt sớm nhất ở đất Gia Định còn tồn tại đến nay, do cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, xây dựng.
Chùa Giác Lâm (chữ Hán 覺林寺: Giác Lâm tự) còn có các tên khác: Cẩm Sơn, Sơn Can[1] hay Cẩm Đệm; là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Saigon. Đây chính là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế ở miền Nam Việt Nam[2].Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc phường 10, quận Tân Bình, Saigon, và đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam ngày 16 tháng 11 năm 1988.
Chùa được cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, quyên tiền xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ban đầu chùa có tên là Sơn Can (sơn là núi, cang là gò nông), về sau còn được gọi là Cẩm Sơn do chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn. Ngoài ra, chùa còn có tên là Cẩm Đệm vì cư sĩ Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán, người địa phương gọi là ông Cẩm Đệm [3].
Từ năm 1744 đến năm 1774, chưa rõ có vị tăng sĩ nào đến trụ trì chùa hay không, vì thiếu tài liệu [4]. Chỉ biết vào năm 1774, Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc (trụ trì chùa Từ Ân) đã cử đệ tử của mình là Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang (gọi tắt là Viên Quang) về trụ trì chùa, đồng thời đổi tên chùa thành Giác Lâm.
Dưới thời thiền sư Viên Quang, chùa Giác Lâm trở thành một trung tâm đào tạo về kinh điển, giới luật đầu tiên cho chư tăng ở Gia Định và cả Nam Bộ. Đến năm 1873, dưới sự trụ trì của Thiền sư Minh Khiêm, chùa còn là nơi in ấn, sao chép kinh sách, khắc bản gỗ kinh, luật và diễn Nôm một số sách Phật giáo[5].
Danh sĩ Trịnh Hoài Đức trong quyển Gia Định thành thông chí đã miêu tả cảnh chùa lúc bấy giờ như sau: "Chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!"...
Tháp Xá lợi của chùa Giác Lâm
Chùa đã được trùng tu lớn ba lần. Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang cho xây lại chùa lần thứ nhất vào năm 1798[6]–1804. Đến năm 1906–1909,
Hoà thượng Hồng Hưng với sự giúp sức của Hoà thượng Như Phòng, đã cho
tôn tạo lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong
đôi liễn mừng lạc thành, nay còn treo trong chánh điện. Đầu năm 1999, chùa hoàn thành đợt trùng tu lần thứ ba.
Chùa Giác Lâm nhìn chính diện
Chùa Giác Lâm hiện nay có lối kiến trúc chữ Tam (Ξ) gồm ba dãy nhà
ngang nối liền nhau (không kể các nhà phụ): chính điện, giảng đường và
nhà trai (còn gọi là nhà Ông Giám). Chùa nguyên thủy không có cổng tam
quan (cổng tam quan chỉ mới được xây dựng vào năm 1955), mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Năm 2007, khởi công xây dựng khu giảng đường và tăng xá (phía bên phải chùa - theo hướng nhìn từ trong ra).
Chính điện với kiểu nhà dân gian truyền thống một gian hai chái, bốn
cột chính hay còn gọi là tứ trụ. Bên trong điện khá rộng và sâu, có 56
cột to hơn vòng tay ôm màu nâu sẫm. Cột nào cũng được chạm khắc câu đối,
thiếp vàng công phu. Giữa các hàng cột là các cửa võng, cũng được thiếp
vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, tứ quý,
hoa điểu....
Trong chính điện bày trí theo kiểu “tiền Phật, hậu Tổ”. Phía trước chính điện thờ các tượng A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc. Hai bàn thờ hai bên phải trái, có tượng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí. Ngoài ra, ở đây còn có tượng cửu long, dọc hai bên tường có bộ tượng Thập Bát La Hán, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma và tượng Long Vương.
Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ, thờ các vị Hòa thượng đã trụ trì tại chùa Giác Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các bàn thờ: Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà, và sau cùng là bàn thờ Thập Điện Diêm Vương. Ở gian này, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được dùng làm cơ sở hậu cần, nuôi chứa cán bộ, làm công tác trinh sát nội thành [7].
Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng hình lục giác. Tháp được khởi công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến 1993 mới được tiếp tục. Từ năm 1994 tầng 7 của tháp thờ Xá Lợi Phật.
Bên trái cùa chùa là khu mộ tháp của các vị hòa thượng đã trụ trì ở đây, trong số ấy có tháp Tổ Phật Ý-Linh Nhạc, tháp Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang. Ngoài ra, trước sân chùa có đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát dưới bóng cây bồ đề. Cây này do Đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan) sang trồng.
89. CHÙA XÁ LỢI- Saigon
Chùa Xá Lợi nằm
trên một khuôn viên rộng 2500m2, giữa một khu phố khá
yên tĩnh, cổng chính nhìn ra đường Bà Huyện Thanh Quan, cổng phụ
nhìn ra đường Sư Thiện Chiếu. Chùa được khởi công xây dựng vào
ngày 5-8-1956 dưới sự quản đốc công trường của hai kỹ sư Dư Ngọc
Ánh và Hà Tố Thuận, thi công theo họa đồ của hai kiến trúc sư Trần
Văn Đường và Đỗ Bá Vinh. Chủa được khách thành vào các ngày 2-3-4
tháng 5 năm 1958. Có được kết quả này là nhờ vào sự đóng góp của
Phật tử 21 tỉnh miền Nam lúc đó, dưới sự tổ chức xây dựng của Hội
Phật học Việt Nam.
Tương truyền
rằng trong quá trình xây cất, ở đây có biển đề "Công trình Chùa
thờ Xá-lợi Phật". Do đó, nhân dân quen gọi là chùa Xá Lợi. Đến khi
khánh thành, theo ý kiến Hòa thượng Khánh Anh, chùa đã lấy tên này
như cách gọi của nhân dân.
Cấu trúc ngôi
chùa gồm có: chánh điện, giảng đường, thư viện, văn phòng, phòng
hội đồng, phòng họp, phòng khách, phòng tăng và vãn sinh đường.
Chánh điện ở lầu một, dài 31m, rộng 15m. Trong lễ đường chỉ tôn
trí một vị Phật là đức Thích-ca Mâu-ni. Tượng này do Trường Mỹ
nghệ Biên Hòa thực hiện năm1958 bằng bột đá mầu hồng. Trên tường
chánh điện có những bức tranh minh họa đời sống đức Phật Thích-ca
từ lúc đản sinh cho đến khi nhập niết bàn. Các tác phẩm này do họa
sĩ Nguyễn Văn Long thực hiện vào các năm 1959-1960.
Phía bên trái
tam quan chùa trên đường Bà Huyện Thanh Quan có một tháp chuông
cao 7 tầng, được khởi công xây dựng vào ngày 15-12-1960 và khánh
thánh vào ngày 23-12-1961. Đại hồng chung đã phải đúc hai lần mới
thành công và được đem lên tháp ngày 17-10-1961 với sự chứng minh
của Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.
Nếu chùa Ấn
Quang gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Phật học đường Nam
Việt, thì chùa Xá Lợi lại có quan hệ mật thiết với lịch sử của Hội
Phật học Nam Việt. Hội này thành lập năm 1951 tại Sài Gòn, do bác
sĩ Nguyễn Văn Khỏe, thầy Quảng Minh và cụ Chánh Trí Mai thọ Truyền
lần lượt làm Hội trưởng. Hội đã từng có chi nhánh ở hầu hết các
tỉnh miền Nam trước đây với cơ quan ngôn luận là tạp chí Từ Quang.
Chùa Xá Lợi có sự đóng góp lớn lao trong việc hoằng dương chánh
pháp, đã nhiều lần đón các vị khách quốc tế và là nơi
thường xuyên có nhiều du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái.
Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ nên được đặt tên là chùa Xá Lợi. Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường.Chùa nổi tiếng là nơi có tháp chuông cao nhất Việt Nam gồm 7 tầng, cao 32m, khánh thành vào năm 1961.
Tầng cao nhất có treo một đại hồng chuông nặng 2 tấn, với tiếng chuông
ngân nổi tiếng, từng được nhiều thế hệ biết đến qua bài vọng cổ “Tiếng
chuông chùa Xá Lợi” do soạn giả Viễn Châu sáng tác.
Chùa Xá Lợi không chỉ được biết đến với kiến trúc và cảnh quan tuyệt đẹp mà còn khá nổi tiếng với những dấu chứng lịch sử về cuộc đấu tranh của Phật tử chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm kỳ thị và đàn áp tôn giáo. Chùa Xá Lợi từng được chọn làm trụ sở của Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo năm 1963 và là nơi tổ chức thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất họp từ ngày 30-12-1963 đến ngày 01-01-1964. Chùa cũng là nơi tổ chức lễ tiếp nhận và phát hành hai tập kinh đầu tiên Đại Tạng Kinh Việt Nam vào ngày 31-8-1991.
Chùa Xá Lợi không chỉ được biết đến với kiến trúc và cảnh quan tuyệt đẹp mà còn khá nổi tiếng với những dấu chứng lịch sử về cuộc đấu tranh của Phật tử chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm kỳ thị và đàn áp tôn giáo. Chùa Xá Lợi từng được chọn làm trụ sở của Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo năm 1963 và là nơi tổ chức thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất họp từ ngày 30-12-1963 đến ngày 01-01-1964. Chùa cũng là nơi tổ chức lễ tiếp nhận và phát hành hai tập kinh đầu tiên Đại Tạng Kinh Việt Nam vào ngày 31-8-1991.
Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, P. 7, Q. 3,Saigon
90. CHÙA ẤN QUANG- Saigon
Chùa Ấn Quang là một ngôi chùa khá nổi tiếng ở Việt Nam được nhiều người biết dến và đây cũng là một trường Phật học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở miền Nam.
Chùa Ấn Quang toạ lạc tại 243 đường Sư Vạn Hạnh Phường 9 - Quận 10, Saigon.
Chùa được tạo lập năm 1948 và đã được mở rộng nâng cấp. Hiện nay chùa có thư viện và nhà xuất bản. Trước năm 1975, chùa là cơ sở chính của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và nay được dùng làm trụ sở của Giáo hội Phật giáo Saigon. Chùa thường được gọi với tên Tổ đình Ấn Quang.
Tổ đình Ấn Quang được xây dựng cách nay không lâu, nhưng lại giữ một vị trí rất đặc biệt trong lịch sử Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nơi đây đã từng chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong những bước thăng trầm và phát triển của đạo Phật ở miền Nam.Tổ đình Ấn Quang được xây dựng trên 50 năm qua do công hạnh của cố Hoà thượng Thích Thiện Hòa, một vị Hòa thượng đức hạnh khiêm cung, trọn đời hiến thân cho Đạo pháp với mật hạnh: Kiến tạo xây dựng chùa, tháp, tiếp dẫn chúng sanh. Tổ đình Ấn Quang là cái nôi đào tạo nhiều danh tăng thạc đức qua từng thời kỳ, đóng góp nhiều trí tuệ cho việc hoằng truyền Chánh pháp, xây dựng ngôi nhà Phật giáo Việt Nam vững mạnh ở thế kỷ XX và XXI.
Chùa được Hòa thượng Thích Trí Hữu từ chùa Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn, Ðà Nẵng vào lập nên vào năm 1948. Lúc đầu đây chỉ là một ngôi Phật tự nhỏ bằng cây lợp lá, mang tên là Ứng Quang tự (chùa Ứng Quang). Năm 1950, Hòa thượng Thích Thiện Hòa (1907-1978), thuộc dòng thiền Lâm Tế, đời thứ 43, sau 10 năm du học về đạo phép và giới luật tại Tây Thiên Phật học đường, Báo Quốc Phật học đường và chùa Quán Sứ, trở về Sài Gòn. Ngài được Hòa thượng Thích Trí Hữu giao cho quyền quản lý chùa Ứng Quang để hoằng dương Phật pháp.
Với
tư cách là Viện chủ, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã cho xây dựng
ngôi chánh điện theo kiểu chùa Từ Đàm ở Huế. Từ đó, trong suốt hơn một
phần tư thế kỷ, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã hiến trọn tâm trí và công
đức để tôn tạo ngôi chùa và thành lập trường Phật học để giáo dục và
hoằng pháp. Chùa là một trung tâm đào tạo nhiều tăng tài cho Phật giáo
Việt Nam hiện đại, là trụ sở của Giáo hội Tăng già Nam Việt, văn phòng
Viện Hóa Đạo và Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
trước đây.
Nhà tổ
Hoa tạng trên nóc chùa
Trong giai đoạn 1960-1964, chùa Ấn Quang đã tranh đấu chống chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Pghật giáo.Vào ngày 07-3-2006, chùa đã tổ chức lễ khởi công xây dựng Tổ đường và nhà Tăng với sự chứng minh của chư tôn đức giáo phẩm : HT. Thích Từ Nhơn, HT. Thích Quảng Liên, HT. Thích Hiển Pháp, HT. Thích Trí Quảng ...
91. CHÙA VĨNH NGHIÊM- Saigon
Chùa Vĩnh Nghiêm (Chữ Hán: 永嚴寺) là một danh lam, hiện tọa lạc tại số 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (gần cầu Công Lý), thuộc phường 7, quận 3, Saigon.
Chùa Vĩnh Nghiêm (Chữ Hán: 永嚴寺) là một danh lam, hiện tọa lạc tại số 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (gần cầu Công Lý), thuộc phường 7, quận 3, Saigon.
Từ miền Bắc, hai Hòa thượng là Thích Tâm Giác và Thích Thanh Kiểm vào miền Nam truyền bá đạo Phật,
và sau đó đã cho xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm. Họ đã tham khảo nguyên mẫu thiết kế
từ một ngôi chùa gỗ cùng tên ở xã Đức La, tổng Trí Yên, phủ Tạng Giang,
tỉnh Bắc Giang; kiến lập từ đời vua Lý Thái Tổ, vốn là trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm.
Người vẽ kiểu cho công trình là kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng, có sự cộng tác của các ông Lê Tấn Chuyên và Cổ Văn Hậu…
Tháp chùa cao nhất Việt Nam
Chùa được khởi công năm 1964 tại khu đất thấp nằm bên rạch Thị Nghè, và người ta phải chuyển khoảng 40.000 m³ đất từ xa lộ Hà Nội về san lấp mặt bằng. Kinh phí xây dựng chùa khoảng 98 triệu đồng tiền lúc bấy giờ, hoàn toàn do các Phật tử đóng góp. Năm 1971, chùa Vĩnh Nghiêm cơ bản hoàn thành với các hạng mục, gồm tòa nhà trung tâm (tầng trên có ngôi Phật điện), Bảo tháp Quán Thế Âm, cơ sở dành cho hoạt động xã hội. Về sau, chùa lần lượt xây thêm các công trình khác, như Bảo tháp Xá Lợi Cộng Đồng, Tháp đá Vĩnh Nghiêm, Phương trượng đường, khách đường, v.v...
Chùa Vĩnh Nghiêm (chính diện)
Chùa tọa lạc trên một khuôn viên rộng thoáng, khoảng 6.000 m2, sát đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Kiến trúc chùa theo lối cổ miền Bắc Việt Nam, nhưng bằng kỹ thuật và vật liệu xây dựng thời hiện đại. Ðây là một trong số công trình tiêu biểu cho kiến trúc Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ 20[1]. Tổng thể kiến trúc gồm các hạng mục chính là Tam quan, tòa nhà trung tâm và các Bảo tháp.
Đây là một công trình khá đồ sộ, kiến trúc theo kiểu truyền thống với mái ngói đỏ uốn cong. Năm 2005,
do thành phố thực hiện dự án mở rộng đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, cổng Tam
quan của chùa đã được di dời vào bên trong, đến vị trí hiện nay [2].
Chùa Vĩnh Nghiêm
Tháp đá chùa Vĩnh Nghiêm được ghi nhận là tháp đá cao nhất và công phu nhất Việt Nam.
Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa lớn và nổi tiếng của Sài Gòn. Ngoài ra
chùa còn được ghi nhận là nơi có tháp đá cao nhất và công phu
nhất Việt Nam, với 7 tầng, cao 14m được khánh thành vào năm 2003. Tháp
được xây dựng với nghệ thuật trổ đá dày đặc, công phu với hoa văn, họa
tiết điêu khắc phủ kín… tất cả đều theo phong cách văn hóa Lý - Trần.
92. CHÙA QUẢNG HƯƠNG GIÀ LAM- Gia Định
Tu viện tọa lạc tại số 498/11 đường Lê Quang Định, phường 1, quận Gò Vấp, Saigon. ĐT: 08.8942814. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Tu viện do Hòa thượng Thích Trí Thủ sáng lập vào năm 1960, là nơi tu học của các học tăng cấp đại học. Chùa ban đầu có tên là Giải Hạnh Già Lam, đến năm 1964 được đổi tên là Quảng Hương Già Lam. Quảng Hương là tên một học tăng đã vị pháp thiêu thân vào năm 1963 ở Saigon. Công chúng nay vẫn thường gọi là chùa Già Lam.
Tu viện tọa lạc tại số 498/11 đường Lê Quang Định, phường 1, quận Gò Vấp, Saigon. ĐT: 08.8942814. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Tu viện do Hòa thượng Thích Trí Thủ sáng lập vào năm 1960, là nơi tu học của các học tăng cấp đại học. Chùa ban đầu có tên là Giải Hạnh Già Lam, đến năm 1964 được đổi tên là Quảng Hương Già Lam. Quảng Hương là tên một học tăng đã vị pháp thiêu thân vào năm 1963 ở Saigon. Công chúng nay vẫn thường gọi là chùa Già Lam.
Hòa thượng Thích Trí Thủ sinh quán ở
Quảng Trị, xuất gia thọ giáo với Thiền sư Viên Thành tại chùa Tra Am
(Huế). Ngài là giảng sư danh
tiếng của Phật giáo miền Trung và miền Nam và là người lãnh đạo Phật
giáo Việt Nam trong nhiều năm, là người tiên phong trong việc vận động
thống nhất Phật giáo cả nước. Qua Đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam ngày 07 – 11 – 1981 tại Hà Nội, ngài được bầu làm Chủ tịch Hội
đồng Trị sự Trung ương, nhiệm kỳ I. Ngài viên tịch ngày 02 – 4 – 1984.
Chùa được trùng tu mở rộng liên tục. Chánh điện được trùng tu 1981, điện Phật được bài trí đơn giản, tôn nghiêm. Chư
vị trụ trì tiền nhiệm là: HT Thích Trí Thủ, TT Thích Huyền Giác. Chùa có phòng phát hành kinh
sách, có Gia đình Phật tử sinh hoạt vào chiều chủ nhật hàng tuần.
93. CHÙA DƯỢC SƯ - Gia Định
Chùa tọa lạc tại số 464 đường Lê Quang Định, phường 11, quận Bình
Thạnh, Gia Định, gần chùa Già Lam và nhiều chùa khác. ĐT: 08.5150648.
Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Hòa thượng Thích Chánh Tạo khai sơn
vào năm 1931.
Chùa đã qua ba đời trụ trì, được trùng tu vào năm 1950. Sau chùa trở thành tu viện của Tỳ khưu ni. . Chánh điện được bài trí tôn nghiêm.
Chùa đã qua ba đời trụ trì, được trùng tu vào năm 1950. Sau chùa trở thành tu viện của Tỳ khưu ni. . Chánh điện được bài trí tôn nghiêm.
Chùa Dược Sư (1990)
Mặt tiền chùa
Hòa thượng Thích Thiện Hoa đã đến giảng dạy ở đây từ năm 1953. Năm 1957, Hòa thượng mở những khóa huấn luyện trụ trì khắp lục tỉnh lấy tên là “Như Lai Sứ Giả” tại hai chùa Pháp Hội và Dược Sư. Chùa còn mở thường xuyên các lớp giáo lý Phật học phổ thông cho Phật tử.
Toàn cảnh chùa
Năm 1968, học viện Dược Sư trực thuộc Tổng vụ Giáo dục do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Vụ trưởng và mở các lớp học về Phật pháp cho chư ni và Phật tử.
94. CHÙA KỲ VIÊN- Saigon
Chùa tọa lạc ở 610 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, Saigon. ĐT: 08.8325522. Chùa thuộc hệ phái Nam tông. Chùa do Hòa thượng Hộ
Tông và kỹ sư Nguyễn Văn Hiểu (Hội trưởng Hội cư sĩ) đứng ra xây dựng
vào năm 1949
Kỳ Viên là tên một tinh xá mà thuở đức Phật Thích Ca còn tại thế thường cư
ngụ. Bấy giờ có vị trưởng giả tên là Tu Đạt hay chẩn cấp cho người
nghèo nên người dân thường gọi là Cấp Cô Độc đã cùng với Thái tử Kỳ Đà
cúng dường đức Phật một ngôi tinh xá đẹp đẽ gọi là Kỳ Viên (Jetavana).
Thỉnh thoảng ở đây có một nhà
sư Khất sĩ được mời đến giảng đạo, đó là sư Năm, sau này là Tổ sư Minh
Đăng Quang của Phật giáo Khất sĩ.
Năm 1948, cụ Nguyễn Văn Hiểu cùng
nhóm cư sĩ chùa Bửu Quang đến mượn chùa của bà Năm Ngọc làm điểm luận
đạo, thuyết pháp. Sau đó, chùa bị giải tỏa, phóng đường. Nhóm cư sĩ
Nguyễn Văn Hiểu thấy đối diện chùa có đất trống của gia đình Hui Bổn Hỏa
(chú Hỏa) nên đến mướn đất xây chùa.
Ngày 21 — 7 — 1949, Đô Thành
Sài Gòn cấp giấy phép cho xây lại chùa Kỳ Viên mới. Lễ nhập tự và lễ An
vị Phật được cử hành vào ngày 09 — 10 — 1949. Từ đấy, chùa sinh hoạt
theo Phật giáo Nam Tông. Một thời gian sau, hai Phật tử là Kim Long và
Lâm Thị Thiệt đã phát tâm mua toàn bộ khu đất để dâng cúng Tam Bảo. Lễ
dâng đất và chùa được cử hành vào ngày 16 — 02 — 1952. Đại diện chư tăng
nhận đất là Hòa thượng Hộ Tông, dưới sự chứng minh của Sư Cả trụ trì
chùa Mahàmontrey ở Campuchia.
Năm 1953, chùa bị hư hỏng trong trận
hỏa hoạn ở khu bàn Cờ, nên đã tổ chức trùng tu từ tháng 2 đến tháng 11
năm 1954, với tổng chi phí trên 800.000 đồng, xoay mặt tiền ra đường
mới, tức đường Nguyễn Đình Chiểu hiện nay.
Tượng Đức Phật nhập Niết bàn
Chân dung Hòa thượng hộ tông
Chánh điện thờ Phật theo dạng tam cấp. Tầng cao nhất thờ Xá lợi Phật (do ngài Narada ở Tích Lan dâng cúng vào năm 1953), các tầng dưới thờ đức Phật Thích Ca thuyết pháp, đức Phật tọa thiền và đức Phật nhập níp bàn. Phía dưới có bộ bàn thờ sơn son thếp vàng do quân đội Hoàng gia Thái Lan hiến tặng, tôn trí những pho tượng Phật loại nhỏ và chưng bông hoa. Bức tường phía sau vẽ nhiều ngọn tháp ẩn trong mây thật đẹp.
Phía sau chánh điện là trai đường, tầng trên là tăng xá. Trước tăng xá là một phòng họp nhỏ của chư tăng, ở đây có một tủ thờ rất nhiều tượng Phật trên thế giới do Hòa thượng Bửu Chơn hiến tặng sau mỗi lần dự hội nghị Phật giáo ở các nước.
Trong giai đoạn đầu phát triển, chùa đã đón
tiếp hai vị Pháp sư nổi tiếng thuyết giảng chánh pháp Phật giáo Nam Tông
là Pháp sư Thông Kham và Pháp sư Narada (Tích Lan).
Tại chùa, vào
ngày 14 — 5 — 1957, cụ Nguyễn Văn Hiểu thành lập Tổng hội Phật giáo
Nguyên Thủy Việt Nam. Đồng thời vào ngày 18 — 12 — 1957, quý vị Hòa
thượng Bửu Chơn, Thiện Luật, Hộ Tông, Kim Quang, Giới Nghiêm, Tối Thắng
và Giác Quang thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam. Kể từ đó
đến năm 1981, chùa đặt trụ sở Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam.
Các vị trụ trì tiền nhiệm và hiện nay là : Hòa thượng Hộ Tông, Hòa
thượng Bửu Chơn, Hòa thượng Tối Thắng, Hòa thượng Giới Nghiêm, Hòa
thượng Thiện Thắng, Hòa thượng Ẩn Lâm, Thượng tọa Viên Minh, Hòa thượng
Siêu Việt, Thượng tọa Tăng Định.
Ngài Hộ Tông quê tại Tân Châu (An Giang), đã đậu bằng bác sĩ và được cử làm việc ở Campuchia. Ngài đã lập chùa Sùng Phước ở Phnôm Pênh và được đức Phó Vua sãi Campuchia truyền giới xuất gia tại chùa này vào năm 1940. Năm 1957, trong hội nghị bầu Ban Chưởng quản Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam khóa I, ngài được suy cử chức vụ Tăng Thống. Năm 2005, chùa đặt các nghệ nhân Nam Định đúc một pho tượng Phật bằng đồng mạ vàng cao 2,5 m, nặng 2 tấn. Chùa có bộ lư đồng có chạm ảnh chùa Kỳ Viên.
Ngài Hộ Tông quê tại Tân Châu (An Giang), đã đậu bằng bác sĩ và được cử làm việc ở Campuchia. Ngài đã lập chùa Sùng Phước ở Phnôm Pênh và được đức Phó Vua sãi Campuchia truyền giới xuất gia tại chùa này vào năm 1940. Năm 1957, trong hội nghị bầu Ban Chưởng quản Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam khóa I, ngài được suy cử chức vụ Tăng Thống. Năm 2005, chùa đặt các nghệ nhân Nam Định đúc một pho tượng Phật bằng đồng mạ vàng cao 2,5 m, nặng 2 tấn. Chùa có bộ lư đồng có chạm ảnh chùa Kỳ Viên.
Chùa Kỳ Viên hiện nay
là trung tâm văn hóa của hệ phái Phật giáo Nam Tông Việt Nam, là nơi
hoằng pháp và tiếp đón các phái đoàn Phật giáo quốc tế thuộc hệ Theravada.
95. VIỆT NAM QUỐC TỰ-Saigon
Việt Nam Quốc Tự (chữ Hán: 越南國寺) là ngôi chùa hiện nay tọa lạc tại 16B đường Ba tháng Hai, Quận 10, Saigon.
Việt Nam Quốc Tự (chữ Hán: 越南國寺) là ngôi chùa hiện nay tọa lạc tại 16B đường Ba tháng Hai, Quận 10, Saigon.
Nguyên thủy, sau cuộc đảo chính 1963 tại Nam Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập và được chính phủ lâm thời Việt Nam Cộng hòa bấy giờ cho giáo hội một khu đất rộng 4 mẫu với danh nghĩa là mướn thời hạn 99 năm chỉ với một đồng bạc tượng trưng và được tiếp tục khi hết hạn [1]. Chính phủ của tướng Nguyễn Khánh còn tiến cúng 10 triệu đồng để xây chùa.[2]
Lễ đặt đá xây dựng Việt Nam Quốc tự cử hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 26 tháng 4 năm 1964 dưới sự chứng minh của Chư tôn Giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với sự chứng kiến của Quốc trưởng, đồng thời cũng là Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà bấy giờ là tướng Nguyễn Khánh.
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
là người vẽ đồ án xây dựng, dự kiến chùa được xây dựng với một ngôi
tháp 7 tầng mái cong, chạm trổ tinh vi trong không gian thiên nhiên rộng
rãi trên vùng đất rộng 45 nghìn mét vuông, với các cảnh quan đặc sắc hài hòa mang đậm bản sắc phong cách kiến trúc Việt Nam. Đồ án mới xây xong Tháp Việt Nam Quốc tự bảy tầng và một dãy Tăng xá
nhưng chưa hoàn thành trọn vẹn. Chùa cũng là trụ sở của Viện Hóa Đạo
thuộc GHPGVNTN đến năm 1975 với người trụ trì đầu tiên là hòa thượng
Thích Thiện Hoa.
Thích Tâm Châu đã thành lập Viện Đại học Phương Nam trong khuôn viên chùa. Cô nhi viện Quách Thị Trang do nhà chùa quản lý thì nằm phía sau chùa.[3][4]
Sau 1975, nhà nước cộng sản trưng dụng xây dựng trung tâm vui chơi giải trí của thành phố -
Khu du lịch Kỳ Hoà và Nhà hát Hòa Bình.
Vào năm 1988, Hòa thượng Từ Nhơn với danh nghĩa trụ trì cũ đã gửi đơn
xin lại đất và chùa Việt Nam Quốc Tự. Sau 5 năm, đến ngày 28 tháng 02
năm 1993 được cấp lại cho hòa thượng Thích Từ Nhơn theo đơn xin và đất
của chùa bị thu hẹp còn 3.712 mét vuông với ngôi tháp ban đầu đã được
xây dựng còn dở dang [1][5].
Năm 1993, chùa được trùng tu và tôn tạo mới với nhiều hạng mục hơn.
Sau hơn 10 năm tiếp nhận chùa đã hoàn thành ngôi tháp 7 tầng và các cảnh
Phật để tăng ni phật tử và khách thập phương chiêm bái. Đến nay, chùa
Việt Nam Quốc Tự vẫn là điểm lui tới của các tín đồ Phật giáo xa gần.
Gần đây, có tin Việt Nam Quốc Tự sẽ bị phá, sau khi UBND Thành phố ngày 23 tháng 2 năm 2008, cấp giấy phép đầu tư dự án xây dựng Trung tâm Tài chính Việt Nam trong khu vực này (với tổng vốn đầu tư 930 triệu USD cho Công ty Berjaya Land Bhd thuộc Tập đoàn Berjaya, Mã Lai). Tuy nhiên, trong cuộc họp báo ngày 25 tháng 6 cùng năm đã được xác nhận chính thức là chùa không thuộc vùng quy hoạch Trung tâm tài chính Việt Nam [7]. Cộng sản nói và làm khác nhau. ai ơi xem cho kỹ!
Gần đây, có tin Việt Nam Quốc Tự sẽ bị phá, sau khi UBND Thành phố ngày 23 tháng 2 năm 2008, cấp giấy phép đầu tư dự án xây dựng Trung tâm Tài chính Việt Nam trong khu vực này (với tổng vốn đầu tư 930 triệu USD cho Công ty Berjaya Land Bhd thuộc Tập đoàn Berjaya, Mã Lai). Tuy nhiên, trong cuộc họp báo ngày 25 tháng 6 cùng năm đã được xác nhận chính thức là chùa không thuộc vùng quy hoạch Trung tâm tài chính Việt Nam [7]. Cộng sản nói và làm khác nhau. ai ơi xem cho kỹ!
96. CHÙA MỘT CỘT - Thủ Đức -
Chùa Nam Thiên Nhất Trụ (đường Đặng
Văn Bi, P.Bình Thọ, Q.Thủ Đức, Saigon được xem là một trong những ngôi
chùa có nét kiến trúc đặc sắc ở Sài Gòn. Nam Thiên Nhất Trụ - chùa Một Cột được
khai sơn ngày 8 tháng 4 năm 1958 bởi Hòa thượng Thích Trí Dũng và một
đệ tử tục danh Đỗ Thị Vinh (pháp danh Đức Hiển nay đã xuất gia đầu Phật)
đã yểm trợ ngài tạo lập nên. Chùa được xây dựng phỏng theo kiến
trúc và kiểu dáng chùa Diên Hựu đời nhà Lý thế kỉ XI.
Bên hồ Long Nhãn
Chùa Nam Thiên Nhất Trụ được xây dựng mang đậm kiến trúc chùa
cổ ở miền Bắc từ cách bố trí thờ phụng cho đến những đường nét hoa văn
tinh xảo cũng như trính, xuyên, kèo, mái ngói. Trụ chùa Một Cột đúc vững
chãi bằng xi măng cốt thép. Do đó, chùa Nam Thiên Nhất Trụ được
xây dựng với mục đích vừa là di tích lịch sử vừa là danh lam thắng cảnh
để nhân dân miền Nam chiêm ngưỡng.
Nhìn từ cổng tam quan, chùa Nam Thiên
Nhất Trụ tọa lạc ngay giữa lòng hồ Long Nhãn quanh năm nước xanh biếc.
Dưới lòng hồ vừa có cá chép vừa có rùa sinh sống, tô điểm thêm cho mặt
hồ là những nụ hoa sen hồng với diện tích mặt hồ khoảng hơn 600m2.
Chùa được đặt trên một cột cao khoảng
12m, bên trong chùa thờ Đức Bồ-tát Quán Thế Âm với khói nhang nghi ngút
mang đến vẻ trầm mặc, thanh tịnh cho những ai đến đây lễ bái.
Trên mặt hồ, Nam Thiên Nhất Trụ mang
hình dáng như một búp sen lớn vươn lên với những đường nét hoa văn hết
sức tinh tế khiến cho những ai đến đây đều phải cúi mình và dẹp bỏ bản
ngã bởi không gian thanh tịnh mà chùa mang lại. Đặc biệt hơn, khi vừa
bước vào chùa
được chiêm ngưỡng vẻ đẹp uy nghi của chùa vừa được hòa mình vào cảnh
vật trong xanh ở đây mọi người như dứt đi mọi phiền não trong cuộc sống
hiện đại ngày nay.
Một góc chùa Nam Thiên Nhất Trụ
Phía sau Nam Thiên Nhất Trụ là chánh điện được bài trí tôn nghiêm với kết cấu ba gian, gian giữa thờ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, hai gian bên thờ Đức Quán Thế Âm Bồ-tát và Đức Địa Tạng Bồ-tát.
Sau
chánh điện là nhà lưu niệm Hòa
thượng Thích Trí Dũng, bảo tháp Nam Thiên. Đặc biệt khi đến đây mọi
người sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng Đức Địa Tạng Bồ-tát đúc bằng 61kg
kim loại quý, tượng Phật A Di Đà đồ sộ, tượng Phật Thích Ca ngồi thiền
dưới cội bồ đề...Với vẻ đẹp đó, hàng năm Nam Thiên Nhất Trụ đón hàng
triệu du khách cũng như tín đồ Phật tử đến đây tham quan và chiêm bái.
Có thể nói, Nam Thiên Nhất Trụ như là
nơi để những người con xứ Bắc xa quê có cơ hội được chiêm ngưỡng chùa
Một Cột ngay tại giữa lòng Sài Gòn rộn ràng, nhộn nhịp này, cũng như để
người dân miền Nam thỏa lòng nhớ thương, khát ngưỡng một lần được đến
Thủ đô để diện kiến chùa Một Cột lịch sử.
Tôn tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Tôn tượng Đức Bồ-tát Địa Tạng
Tượng Đức Bồ-tát Quán Thế Âm
Sau 1975, tôi đã đến thăm chùa Một Cột Thủ Đức vài lần. Mấy lần trước, tôi thấy quang cảnh cũng tươi đẹp. Sau thì tôi thấy quang cảnh hỗn độn. Trung tâm của chùa là hồ cá ở giữa chùa, người ta xây xung quang xem cá vàng lội chật hồ và ném thức ăn cho cá. Nay thì không ai đứng quanh hồ nữa. Hồ nước đục, cá cũng không còn nhiều, chỉ vài con lội giữa các đống rác. Hỏi ra mới biết người trong "Ao cá bác Hồ" ra bắt cá của chùa để lập thành tích, để ăn hay để bán lấy tiền. Ao cá nhà chùa nay trở thành ao cá bác Hồ nên không ai trông coi nữa, để mặc cho đảng quản lý. Tôi bước vào chùa hỏi thăm thượng tọa Trí Dũng thì được Tri khách xưng là cán bộ Mặt Trận, trả lời thượng tọa bận việc, không tiếp khách. Vài chục năm sau, tôi ra ngoại quốc, nghe tin hòa thượng nay đã già gần 90 cũng phải đi xin tiền cúng dường cho đảng. Họ nói rằng chùa Một Cột là cơ sở của Cộng đảng trước 1975, và Thích Trí Dũng là người của Mặt Trận. Phải như thế không hay Thích Trí Dũng cũng chỉ là một nạn nhân của cộng sản?
Sau 1975, tôi đã đến thăm chùa Một Cột Thủ Đức vài lần. Mấy lần trước, tôi thấy quang cảnh cũng tươi đẹp. Sau thì tôi thấy quang cảnh hỗn độn. Trung tâm của chùa là hồ cá ở giữa chùa, người ta xây xung quang xem cá vàng lội chật hồ và ném thức ăn cho cá. Nay thì không ai đứng quanh hồ nữa. Hồ nước đục, cá cũng không còn nhiều, chỉ vài con lội giữa các đống rác. Hỏi ra mới biết người trong "Ao cá bác Hồ" ra bắt cá của chùa để lập thành tích, để ăn hay để bán lấy tiền. Ao cá nhà chùa nay trở thành ao cá bác Hồ nên không ai trông coi nữa, để mặc cho đảng quản lý. Tôi bước vào chùa hỏi thăm thượng tọa Trí Dũng thì được Tri khách xưng là cán bộ Mặt Trận, trả lời thượng tọa bận việc, không tiếp khách. Vài chục năm sau, tôi ra ngoại quốc, nghe tin hòa thượng nay đã già gần 90 cũng phải đi xin tiền cúng dường cho đảng. Họ nói rằng chùa Một Cột là cơ sở của Cộng đảng trước 1975, và Thích Trí Dũng là người của Mặt Trận. Phải như thế không hay Thích Trí Dũng cũng chỉ là một nạn nhân của cộng sản?
97. CHÙA BỬU LONG - quận 9
Chùa thuộc hệ phái Phật giáo nguyên thủy (Nam Tông) do cư sĩ Võ Hà Thuật thành lập năm 1942, đến năm 1958, ông dâng cúng cho thiền sư Hộ Tông, vị tăng thống đầu tiên của Phật giáo nguyên thủy Việt Nam, lập thành thiền viện Bửu Long và ông xuất gia với pháp danh Lão Tâm.
Năm 1961, ngài Narada Mahàthera, Đức tăng thống Phật giáo
SriLanKa tặng thiền viện một cây bồ đề chiết từ cây mẹ tại Bồ đề Đạo
Tràng Ấn Độ, được đem trồng trong khuôn viên chùa, nay đã được tôn tạo
thành Bồ đề Phật Cảnh.
Kiến trúc chùa theo văn hóa Phật giáo cổ
đại và liên tục được trùng tu tôn tạo gồm chính điện, tăng xá, trai
đường, tăng khách đường, tổ đường, thiền thất của chư tăng, ni viện, ni
xá và am thất của tu nữ, tịnh nhân.
Ngoài ra còn có một động khổ hạnh tưởng niệm 6 năm Bồ Tát tu
khổ hạnh và một tượng Phật nằm tạc từ đá granite dài 8m, nặng trên 50
tấn, xung quanh trang trí 10 trụ đèn cũng bằng đá granite điêu khắc theo
mẫu trụ đá vua Asoka tại các Phật tích Ấn Độ.
Đặc biệt, chùa Bửu Long có bảo tháp Gotama Cetiya thờ xá lợi Đức Phật và Chư Thánh Tăng, rộng trên 2.000 mét vuông, cao 70m, một kiến trúc vừa hoành tráng hiện đại vừa biểu hiện nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á.
Bảo tháp có quy mô lớn nhất Việt Nam,
cao ba tầng với chiều cao 56 mét và bốn tháp xung quang với tên gọi:
tháp Đản Sinh, tháp Thành Đạo, tháp Pháp Luân, tháp Niết Bàn. Tháp có
tổng sức chứa trên 2.000 người cùng vào tham quan chiêm bái xá lợi Phật.
Nét kiến trúc của chùa được chạm khắc rất tinh vi.
Chính điện ngày nay được trùng tu từ di tích cũ nơi tổ sư và Đại Đức Lão Tâm để lại, chủ yếu là tôn tạo cho khang trang và tiện nghi hơn nhưng vẫn giữ lại hình dáng như cũ, chỉ thêm phần tiền đường và một vài chi tiết phối hợp giữa kiến trúc Phật giáo Đông Nam Á với kiến trúc triều đại nhà Nguyễn.
Tọa lạc trên một ngọn đồi nên không khí nơi đây mát mẻ quanh năm, kết hợp với khuôn viên rộng rãi, cây xanh phủ bóng làm cho du khách cảm thấy tâm hồn thanh tịnh dịu dàng khi bước chân đến nơi này. Ngước mắt lên bầu trời xanh, ngắm nhìn tòa bảo tháp uy nghiêm lộng lẫy, văng vẳng bên tay là tiếng chuông gió phát ra từ trên đỉnh bảo tháp, một không gian lý tưởng để bạn gột rửa tâm hồn, tìm về chốn bình yên sau bao bộn bề của cuộc sống.
98. CHÙA VẠN ĐỨC- Thủ Đức
Chùa Vạn Đức tọa lạc số 23/4
đường Tô Ngọc Vân, Phường Tam Phú, Quận Thủ Đức, Saigon.. Chùa
do HT. Thích Trí Tịnh, đời thứ 41 dòng thiền Lâm Tế Gia Phổ, hiện là Đệ
nhất Phó Pháp chủ kiêm Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, khai sơn năm
1954. Chùa Vạn Đức có nguồn gốc từ một ngôi nhà xưa do thí chủ Nguyễn
Thị Hương hiến cúng. Sau khi tiếp nhận, Hòa thượng đã xây dựng lại thành
chùa và đặt hiệu là “Vạn Đức tự”. Kể từ đó, chùa được mở rộng vào các
năm 1964, 1989, 1993 và từ năm 2003 đến năm 2005, đại trùng tu toàn bộ
ngôi chùa, trở nên khang trang như ngày
nay.
Chùa Vạn Đức xây bằng vật liệu vĩnh
cửu với kỹ thuật hiện đại. Toàn thể ngôi chùa được đúc bằng bê-tông,
tường gạch, móng cọc nhồi. Nền chùa và các bệ thờ đều dán đá granit màu
xám. Tất cả các cửa và cầu thang đều làm bằng thép trắng. Hoa văn trang
trí được đúc bằng xi-măng hoặc kết bằng các mảnh gạch men, vừa mang tính
truyền thống nhưng lại tân kỳ. Tòa chánh điện chùa Vạn Đức cao 43,5m,
được xem là ngôi chùa có chánh điện cao nhất hiện nay, nhìn từ xa trông
giống như một ngọn tháp chín tầng và hai tháp nhỏ năm tầng nhưng bên
trong chỉ có hai tầng chính. Tầng trên là nội điện thờ Phật, có nhiều ô
cửa sổ, bên ngoài có lan can, bên trong tôn trí tượng Phật Thích Ca và
Tam thế Phật.
Xung quanh có bốn lớp lan can giống như những tầng mây trắng, và mỗi vì sao là những ô cửa gió có hình chữ “Phật”. Hai bên hông lan can là hai cầu thang dẫn lên nội điện. Nổi bật trên nền kiến trúc nội điện là bức phù điêu cội bồ đề và phong cảnh sông Ni Liên Thiền. Bức phù điêu được đắp bằng xi-măng trên vách sau chánh điện, xung quanh có tạc hình các vị thần Hộ pháp. Tầng trệt là giảng đường, dùng làm nơi thuyết pháp cho Phật tử; sát vách giữa thờ Tổ sư Đạt Ma tạc bằng đá cẩm thạch màu trắng toát và linh vị Hòa thượng Thiện Quang (1895-1953), bổn sư của Hòa thượng viện chủ. Phía sau giảng đường là một bích họa vẽ Hòa thượng Trí Tịnh đang ngồi dịch kinh.
Xung quanh có bốn lớp lan can giống như những tầng mây trắng, và mỗi vì sao là những ô cửa gió có hình chữ “Phật”. Hai bên hông lan can là hai cầu thang dẫn lên nội điện. Nổi bật trên nền kiến trúc nội điện là bức phù điêu cội bồ đề và phong cảnh sông Ni Liên Thiền. Bức phù điêu được đắp bằng xi-măng trên vách sau chánh điện, xung quanh có tạc hình các vị thần Hộ pháp. Tầng trệt là giảng đường, dùng làm nơi thuyết pháp cho Phật tử; sát vách giữa thờ Tổ sư Đạt Ma tạc bằng đá cẩm thạch màu trắng toát và linh vị Hòa thượng Thiện Quang (1895-1953), bổn sư của Hòa thượng viện chủ. Phía sau giảng đường là một bích họa vẽ Hòa thượng Trí Tịnh đang ngồi dịch kinh.
Thực hiện công trình độc đáo này,
kiến trúc sư Đỗ Thành Phương phải mất thời gian khá dài để hoàn thành
bản vẽ, đồng thời phải mất 2 năm với hơn 60 thợ xây mới thực hiện xong
phần chánh điện. Có thể nói, chùa Vạn Đức là một trong những công trình
kiến trúc tôn giáo có quy mô lớn nhất từ trước tới nay. Ngoài giá trị về
mặt thẩm mỹ, công trình còn là một kiểu mẫu cho nghệ thuật tạo hình
trong kiến trúc hiện đại. Đặc biệt, ngôi chánh điện cao nhất nước đã
được xác lập kỷ lục Phật giáo Việt Nam!
Tòa chánh điện chùa Vạn Đức cao 43,5m, là toà chánh điện cao nhất hiện
nay. Công trình mất 2 năm với hơn 60 thợ xây để thực hiện. Ngoài giá trị
về mặt thẩm mỹ, thâm nghiêm, công trình còn là một kiểu mẫu cho nghệ
thuật tạo hình trong kiến trúc hiện đại.
Địa chỉ: 23/4 Tô Ngọc Vân, P. Tam Phú, Q. Thủ Đức, Saigon.
99. CHÙA HUÊ NGHIÊM 1- Thủ Đức
Chùa
là nơi phát xuất nhiều vị cao tăng của Phật giáo miền Nam, như Thiền sư
Tế Giác – Quảng Châu tức Tiên Giác – Hải Tịnh, Thiền sư Đạt Lý – Huệ
Lưu, Hòa thượng Thích Từ Văn, Hòa thượng Thích Trí Đức, Hòa thượng Thích
Trí Quảng…
Chùa tọa lạc ở số 204 đường Đặng Văn Bi, phường Bình
Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, chùa thường được gọi
là chùa Huê Nghiêm 1 để phân biệt với chùa Huê Nghiêm 2 ở phường Bình
Khánh, quận 2 do HT Thích Trí Quảng sáng lập năm 1975. ĐT: 08.8963023.
Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Huê Nghiêm
Toàn cảnh chùa
Chùa
được Thiền sư Thiệt Thụy – Tánh Tường (1681 – 1757) khai sơn vào thế kỷ
XVIII. Nhiều tư liệu hiện nay đã xác định năm thành lập chùa là 1721,
là ngôi chùa cổ nhất ở thành phố hiện nay.
Lúc đầu, chùa xây ở vùng đất thấp, cách ngôi chùa hiện nay khoảng 100m. Về sau, bà Nguyễn Thị Hiên (1763 – 1821) pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm, đã hiến đất để xây lại ngôi chùa.
Chùa được trùng tu nhiều lần. Lần trùng kiến lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX do Thiền sư Đạt Lý – Huệ Lưu tổ chức. Kiến trúc chùa hiện nay được thay đổi ở những lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 và 2003 do các ngài Thiện Bửu, Trí Đức và Trí Độ tổ chức, với mái ngói chồng diêm, các đầu đao cong vút. Bờ nóc mái trang trí những hoa sen cách điệu.
Mặt bên chùa Huê Nghiêm
Lúc đầu, chùa xây ở vùng đất thấp, cách ngôi chùa hiện nay khoảng 100m. Về sau, bà Nguyễn Thị Hiên (1763 – 1821) pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm, đã hiến đất để xây lại ngôi chùa.
Chùa được trùng tu nhiều lần. Lần trùng kiến lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX do Thiền sư Đạt Lý – Huệ Lưu tổ chức. Kiến trúc chùa hiện nay được thay đổi ở những lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 và 2003 do các ngài Thiện Bửu, Trí Đức và Trí Độ tổ chức, với mái ngói chồng diêm, các đầu đao cong vút. Bờ nóc mái trang trí những hoa sen cách điệu.
Khuôn viên chùa khá rộng, có nhiều tháp cổ. Tam quan chùa và đài Quan Âm ở sân trước chùa được xây vào năm 1990. Chánh điện được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí). Bàn thờ kế tiếp thờ Thích Ca Tam Tôn (đức Phật Thích Ca, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền). Trước có tượng Thích Ca Đản sanh và bảy vị Phật Dược Sư. Bàn thờ hai bên thờ Bồ tát Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn và Bồ tát Di Lặc. Sau điện Phật, có bàn thờ linh vị chư Tổ và bàn thờ bà Nguyễn Thị Hiên cùng chư vị Phật tử quá cố.
Vườn tháp chùa Huê Nghiêm
F. CÁC CHÙA Ở CÁC TỈNH MIỀN NAM
100. CHÙA BỬU PHONG - Biên Hòa
Chính điện chia làm ba gian thoáng rộng, trên hai hàng cột đắp rồng ẩn mây sơn son thếp vàng uy nghiêm. Gian chính giữa thờ Tam thế Phật, tả hữu thờ thập điện Minh Vương. Các tượng được tạc rất sống động. Ở giảng đường và nơi thờ Tổ có các tấm liễn, hoành phi, bao lam được chạm khắc công phu, thể hiện nhiều đề tài phong phú được bố trí hài hòạ Trong chùa hiện còn lưu giữ xá lợi Phật quý giá. Chùa này ở trên một ngọn núi nằm trơ trọi giữa cánh đồng, sau 1975 đã bị người ta lấy đá khiến cho chùa gần bị hủy hoại.
101. CHÙA ĐẠI GIÁC - Biên Hòa
Chùa Đại Giác còn gọi là Đại Giác cổ tự, chùa Phật lớn hay chùa Tượng; xưa thuộc thôn Bình Hoành, xã Hiệp Hòa, tổng Trấn Biên .Chùa tọa lạc ở số 393/A2, ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong vùng đất cổ cù lao Phố. ĐT: 061.850551.
Theo tài liệu còn lưu tại Giáo hội Phật giáo Thành phố Biên Hòa, thì vào giữa thế kỷ 17 có ba nhà sư thuộc phái Lâm Tế tông, từ miền Trung đến Đồng Nai hoằng hóa đạo Phật.
Buổi đầu, chùa có kích thước nhỏ hẹp, được tạo dựng bằng cột gỗ, vách ván, và lợp ngói âm dương. Thời Thiền sư Tổ Ấn-Mật Hoằng trụ trì, Nguyễn Thị Ngọc Anh, là công chúa thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Ánh có đến trú tại chùa một thời gian[2].
Năm Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) nguyên niên (1802), nhớ ơn, nhà vua sai quan trấn Trấn Biên cho binh thợ đến xây cất, đem tượng binh đến chở đất và dặm nền chùa (nên sau này người dân còn gọi là chùa Tượng). Ngoài ra, nhà vua còn dâng cúng một pho tượng Phật A-di-đà bằng gỗ mít cao 2,25 m. Vì thế nên chùa còn có tên là chùa Phật Lớn (hiện pho tượng vẫn còn được thờ tại chùa). Năm Gia Long thứ 13 (1814)[3], vua cho mời Thiền sư Tổ Ấn - Mật Hoằng ra làm Tăng cang chùa Thiên Mụ ở Huế.
Cây bồ đề
Chùa tọa lạc trên núi Bửu Long, cao khoảng 37m, thuộc xã Tân Bửu, thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai, gần khu du lịch Bửu Long. Chùa được dựng vào thế kỷ XVII.
Lúc đầu chỉ là một thảo am, sau do Thiền sư Pháp Thông xây cất thành
ngôi chùa nhỏ. Chùa được trùng tu mở rộng vào năm 1829, vào cuối thế kỷ
XIX và các năm gần đây. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn
bảo tồn một pho tượng Di-đà cổ và đã tôn tạo vườn tượng Phật lộ thiên
khá lớn.
Mặt tiền chùa Bửu Phong
Chung quanh vùng núi có nhiều ngôi tháp cổ. Chùa là một danh lam thắng cảnh ở miền Nam, hàng năm đón nhận hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái. Nép mình phía sau Văn miếu Trấn Biên - “Quốc tử giám” của Nam Kỳ, chùa Bửu Phong thuộc phường Bửu Long, TP Biên Hòa (Đồng Nai) tọa lạc trên vách núi, ở độ cao chừng 40m. Đây là ngôi chùa cổ có niên đại gần 400 năm với lối kiến trúc nghệ thuật độc đáo mang đậm nét văn hóa Bắc Bộ tồn tại giữa lòng miền Nam.
Chung quanh vùng núi có nhiều ngôi tháp cổ. Chùa là một danh lam thắng cảnh ở miền Nam, hàng năm đón nhận hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái. Nép mình phía sau Văn miếu Trấn Biên - “Quốc tử giám” của Nam Kỳ, chùa Bửu Phong thuộc phường Bửu Long, TP Biên Hòa (Đồng Nai) tọa lạc trên vách núi, ở độ cao chừng 40m. Đây là ngôi chùa cổ có niên đại gần 400 năm với lối kiến trúc nghệ thuật độc đáo mang đậm nét văn hóa Bắc Bộ tồn tại giữa lòng miền Nam.
Trước
cổng chùa Bửu Phong có đôi câu đối:
“Bửu thạch long đầu, cổ cảnh linh qui tại/
Phong sơn hổ cứ, vạn đại chiếu phùng tồn”.
(Dịch nghĩa là: “Đá quý rồng chầu, cảnh xưa rùa linh thường hiển hiện,
Đỉnh non cọp ngự, muôn đời phượng múa hãy còn đây).
“Bửu thạch long đầu, cổ cảnh linh qui tại/
Phong sơn hổ cứ, vạn đại chiếu phùng tồn”.
(Dịch nghĩa là: “Đá quý rồng chầu, cảnh xưa rùa linh thường hiển hiện,
Đỉnh non cọp ngự, muôn đời phượng múa hãy còn đây).
Chùa Bửu Phong
Đường lên chùa
Mặt tiền chùa
Chùa được tiếp tục trùng tu,
mở rộng từ đầu thế kỷ XIX đến nay. Năm 1829, Tham tướng Nguyễn Văn Hiệp và
Hương bảo Nguyễn Văn Tâm đã tổ chức xây cất lại ngôi chùa.
Mặt bên chùa
Toàn cảnh chùa
Năm 1898, Hòa thượng Thích
Pháp Truyền tiếp tục tu sửa giảng đường, nhà tổ... Năm 1944, Hòa thượng Thích
Huệ Quang tổ chức trùng tu, mở rộng hậu đường. Năm 1963, Yết-ma Thiện Giáo cho
xây đài Quán Thế Âm trước chùa. Năm 1964, Hòa thượng Thích Huệ Thành cho xây
đài Tam Thế Phật.
Từ năm 1974 đến nay, Ni sư Thích Nữ Huệ Hương đã không ngừng sửa chữa, trang trí ngôi chùa. Ni sư đã cho tôn tạo một giếng cổ ở sườn núi trước chùa có tên là giếng Gia Long.
Trang trí ở mặt tiền chùa
Bên trong chùa được bài
trí theo lối kiến trúc miền Bắc , bao gồm: Chính điện, giảng đường và hậu
tổ thông nhau; ngoài ra còn có nhiều phòng ni phái và nhà dưỡng tăng.
Nền được lát gạch tàu, gạch bông; bộ khung vì kèo làm bằng gỗ quý. Những
bức tường xung quanh được xây dựng bằng gạch thẻ, mái lợp ngói âm
dương.
Mặt tiền chùa Bửu Phong được trang trí tinh xảo, công phu bằng các bức phù điêu, ghép từ các mảnh sành mang tính nghệ thuật caọ Những họa tiết đắp nổi trên tường hết sức đa dạng, có cả tứ linh, tứ quý, ông Nhật, bà Nguyệt, rồng chầu mặt trời, mây dây cách điệu… thể hiện cho ước mơ quyền uy, sức mạnh và sự an nhàn, thịnh vượng. Trên những cột trụ chính giữa mặt tiền có khắc các câu đối nói lên ý nghĩa tên chùa: “Bửu nhạc dịu dàng như Thứu Lĩnh/ Phong sơn đẹp đẽ tựa Kỳ Viên”. Điều đó tạo cho mặt tiền chùa vừa rực rỡ trang nghiêm, vừa uy nghi cổ kính.
Vườn tượng Phật tam thế
|
Chính điện chia làm ba gian thoáng rộng, trên hai hàng cột đắp rồng ẩn mây sơn son thếp vàng uy nghiêm. Gian chính giữa thờ Tam thế Phật, tả hữu thờ thập điện Minh Vương. Các tượng được tạc rất sống động. Ở giảng đường và nơi thờ Tổ có các tấm liễn, hoành phi, bao lam được chạm khắc công phu, thể hiện nhiều đề tài phong phú được bố trí hài hòạ Trong chùa hiện còn lưu giữ xá lợi Phật quý giá. Chùa này ở trên một ngọn núi nằm trơ trọi giữa cánh đồng, sau 1975 đã bị người ta lấy đá khiến cho chùa gần bị hủy hoại.
101. CHÙA ĐẠI GIÁC - Biên Hòa
Chùa Đại Giác còn gọi là Đại Giác cổ tự, chùa Phật lớn hay chùa Tượng; xưa thuộc thôn Bình Hoành, xã Hiệp Hòa, tổng Trấn Biên .Chùa tọa lạc ở số 393/A2, ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong vùng đất cổ cù lao Phố. ĐT: 061.850551.
Theo tài liệu còn lưu tại Giáo hội Phật giáo Thành phố Biên Hòa, thì vào giữa thế kỷ 17 có ba nhà sư thuộc phái Lâm Tế tông, từ miền Trung đến Đồng Nai hoằng hóa đạo Phật.
Nhà sư Thành Nhạc cùng một số phật tử đến vùng đất ven sông Đồng Nai (nay là xã Bửu Hòa, TP. Biên Hòa) dựng lên chùa Long Thiền (1664); nhà sư Thành Trí theo đoàn di dân làm nghề khai thác đá lên vùng núi Bửu Long cùng người Hoa ở đây dựng lên Chùa Bửu Phong (1679), nhà sư Thành Đẳng, cùng một số người chèo ghe, thuyền đến Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa) khẩn hoang và dựng lên chùa Đại Giác .
Buổi đầu, chùa có kích thước nhỏ hẹp, được tạo dựng bằng cột gỗ, vách ván, và lợp ngói âm dương. Thời Thiền sư Tổ Ấn-Mật Hoằng trụ trì, Nguyễn Thị Ngọc Anh, là công chúa thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Ánh có đến trú tại chùa một thời gian[2].
Năm Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) nguyên niên (1802), nhớ ơn, nhà vua sai quan trấn Trấn Biên cho binh thợ đến xây cất, đem tượng binh đến chở đất và dặm nền chùa (nên sau này người dân còn gọi là chùa Tượng). Ngoài ra, nhà vua còn dâng cúng một pho tượng Phật A-di-đà bằng gỗ mít cao 2,25 m. Vì thế nên chùa còn có tên là chùa Phật Lớn (hiện pho tượng vẫn còn được thờ tại chùa). Năm Gia Long thứ 13 (1814)[3], vua cho mời Thiền sư Tổ Ấn - Mật Hoằng ra làm Tăng cang chùa Thiên Mụ ở Huế.
Tháng 10 năm Minh Mạng nguyên niên (1820), nhà vua lại cho tu sửa chùa Đại Giác. Khi ấy công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh đã trở lại Huế,
cũng gửi vào cúng một bức hoành phi lớn khắc ba chữ "Đại Giác Tự" thiếp
vàng, bên mặt có khắc: "Tiền Triều Hoàng nữ đệ tam công chúa Nguyễn Thị
Ngọc Anh" (hiện vẫn còn treo ở phía trước chánh điện)[4].
Năm Nhâm Thìn (1952), do lũ lụt, chùa bị hư hại nghiêm trọng. Năm 1959, được sự đóng góp của nhân dân trong vùng, Trụ trì chùa là Hòa thượng Thiện Hỷ (1921 - 1979),
đã cho xây cất lại toàn bộ ngôi thờ bằng vật liệu hiện đại: tường gạch,
cột bê tông cốt thép, có lầu chuông, lầu trống, đến ngày 12 tháng 8 năm 1961 mới khánh thành.
Chùa Đại Giác có diện tích khoảng 3.000 m2
với hai cổng xây bằng gạch ra vào, xung quanh có tường rào bao bọc. Sau
nhiều lần trùng tu, hiện nay chùa cất theo lối chữ tam (三) với ba dãy
nhà ngang nối liền nhau.
Mặt tiền chùa quay theo hướng Tây Bắc nhìn ra sông Đồng Nai. Giữa sân trước chùa là một cây bồ đề lớn, do Hòa thượng Đinh Tông trồng vào ngày rằm tháng 11 năm Kỷ Mão (1939) và pho tượng Phật Quan âm Nam Hải
đứng trên tòa sen. Bên tả và phía sau là khu vườn rộng trồng cây trái,
bên hữu là khu bảo tháp với nhiều mộ tháp của các vị trụ trì viên tịch.
Tuy bên ngoài, mái hiên chùa thấp và có lối kiến trúc hiện đại, nhưng
bên trong chùa, vẫn còn theo kiểu mẫu của các chùa xưa ở vùng Đồng Nai,
với các cột tròn và cao vút, tạo không gian thoáng đãng. Chùa gồm chánh
điện, nhà khách, phòng chư tăng, trai đường và nhà bếp.
102. CHÙA LONG THIỀN -Biên Hòa
Chùa Long Thiền nằm bên hữu ngạn sông Đồng Nai thuộc ấp Tân Bình, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa (trước kia thuộc thôn Bình Long, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên).
Theo tài liệu lưu tại Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai, chùa Long Thiền được xây dựng vào năm 1664 do tổ sư Thành Nhạc, người miền Trung vào khai sáng. Chùa Long Thiền tọa lạc trên một vùng đất long mạch qúy. Trước chùa có sông Đồng Nai, sau lưng chùa có núi Châu Thới, từ chùa tỏa ra quanh vùng, từ xã Hoá An đến Thạnh Hội là “ long mạch của Thanh Long “, còn mũi Châu Thới dựng lên như cánh đuôi rồng, chùa Long Ẩn biểu trưng miệng rồng, núi Bửu Phong biểu thị “trái châu“ ví như rồng ngậm trái châu.
Chùa Long Thiền nằm bên hữu ngạn sông Đồng Nai thuộc ấp Tân Bình, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa (trước kia thuộc thôn Bình Long, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên).
Theo tài liệu lưu tại Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai, chùa Long Thiền được xây dựng vào năm 1664 do tổ sư Thành Nhạc, người miền Trung vào khai sáng. Chùa Long Thiền tọa lạc trên một vùng đất long mạch qúy. Trước chùa có sông Đồng Nai, sau lưng chùa có núi Châu Thới, từ chùa tỏa ra quanh vùng, từ xã Hoá An đến Thạnh Hội là “ long mạch của Thanh Long “, còn mũi Châu Thới dựng lên như cánh đuôi rồng, chùa Long Ẩn biểu trưng miệng rồng, núi Bửu Phong biểu thị “trái châu“ ví như rồng ngậm trái châu.
Trải qua bao thế kỷ, ngôi chùa được khang trang như hiện nay đã phải qua ba lần trùng tu. Lần thứ nhất vào năm 1748, đời tổ Phật chiếu dòng Lâm tế thứ 35 xây dựng thêm chánh điện bằng gỗ ba gian, hai chái, có thêm nhà Tổ làm bằng vách ván. Gần một thế kỷ sau, vào năm 1842, đời tổ Tiên Đức dòng Lâm tế thứ 37 trùng tu chùa lần thứ hai. Lần này, Tổ đường được tu bổ lại, cất thêm khách đường và nhà trù (nhà bếp), tường xây gạch, nền lót gạch tàu, nóc vẫn lợp ngói âm dương. Diện mạo chùa khang trang, nghiêm kính được đông đảo Phật tử gần xa đến chiêm bái.
Hơn một trăm năm sau, chùa được trùng tu lần thứ ba do hòa thượng Thích Huệ Thành dòng Lâm tế thứ 40 chủ trì. Nguyên do trùng tu lần này là chùa bị ảnh hưởng nặng nề bởi trận bão lụt năm 1952 (Nhâm Thìn) . Năm ấy, hơn một tuần lễ, thành phố Biên Hòa chìm trong biển nước mênh mông, chùa Long Thiền chỉ còn cái nóc nhô trên mặt nước và có nguy cơ sụp đổ.
Lần trùng tu thứ ba đã đem lại cho ngôi chùa diện mạo mới. Giảng đường, khách đường, tăng đường được xây, mở rộng thêm. Mái lợp ngói tây, riêng nhà trù lợp tôn xi măng. Tường được xây dựng lại hoàn toàn bằng gạch thẻ với chất liệu mới vững chắc. Nền lót gạch tàu và gạch bông, giảng đường có thêm gác lửng. Chánh điện được tôn cao thêm 1 mét, với hành lang, sảnh mở rộng thêm ra hai bên.
Trên khu đất bằng phẳng, trước có sông lặng lờ nước chảy, chùa Long Thiền uy nghiêm, cổ kính nhưng rất hữu tình.
Chùa được xây theo lối kiến trúc hình chữ tam, mặt chính chùa hướng ra sông theo hướng Đông Bắc. Khoảng sân rộng của chùa có nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát. Những nét chạm trỗ công phu của tiền đình khi có ánh nắng của buổi áng xuyên qua tán lá trông lung linh, tuyệt đẹp.
Dưới gốc cổ thụ có tượng Phật Di Lặc tọa thiền. Bên tả là nhà tăng, bên hữu là hòn giả sơn phổ đá, tượng Phật Quan Âm đứng uy nghi với nét mặt nhân từ, khoan dung, chan chứa và từ bi. Khuôn viên chùa là khu vườn rộng, còn lưu lại những bảo tháp cổ trong đó có bảo tháp của tổ sư Thành Nhạc khai sáng với tấm bia bằng đá xanh chạm trỗ tinh vi. Ngoài ra, còn có hai ngôi mộ cổ –“ mộ Song hồn “- của vị đại thần và phu nhân có công với việc khai hoang lập ấp, xây dựng Long Thiền tự.
Chùa được xây theo lối kiến trúc hình chữ tam, mặt chính chùa hướng ra sông theo hướng Đông Bắc. Khoảng sân rộng của chùa có nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát. Những nét chạm trỗ công phu của tiền đình khi có ánh nắng của buổi áng xuyên qua tán lá trông lung linh, tuyệt đẹp.
Chùa Long Thiền
Dưới gốc cổ thụ có tượng Phật Di Lặc tọa thiền. Bên tả là nhà tăng, bên hữu là hòn giả sơn phổ đá, tượng Phật Quan Âm đứng uy nghi với nét mặt nhân từ, khoan dung, chan chứa và từ bi. Khuôn viên chùa là khu vườn rộng, còn lưu lại những bảo tháp cổ trong đó có bảo tháp của tổ sư Thành Nhạc khai sáng với tấm bia bằng đá xanh chạm trỗ tinh vi. Ngoài ra, còn có hai ngôi mộ cổ –“ mộ Song hồn “- của vị đại thần và phu nhân có công với việc khai hoang lập ấp, xây dựng Long Thiền tự.
Từ ngoài nhìn
vào, ta thấy sự uy nghi, bề thế của ngôi chùa. Chánh điện, nhà thờ Tổ,
giảng đường, tăng đường, nhà trù tiếp nối nhau. Tuỳ theo chức năng của
từng nơi trong chùa mà cách bài trí từng mảng hài hòa nhau. Phần chánh
điện uy nghiêm tôn kính. Bệ thờ chính thờ Phật Di Đà, Thích Ca, Ngọc
Hoàng, Tam Thế Phật, Đức Địa Tạng, Ông Tiêu... và các vị Bồ Tát. Đối
xứng hai bên thờ Già Lam, Linh Sơn cùng Thập điện Diêm Vương. Dối diện
bàn thờ chính là bàn thờ bằng xi măng hai mặt thờ Tiên Diệu Đại Sĩ, Tam
châu Hộ pháp cùng đức Thiên Thủ, Thiên Nhãn. Những hàng cột chính trong
chánh điện chạm khắc tinh tế đề tài hoa điểu, bát tiên, lý ngư hóa long,
nhựt nguyệt, tứ linh được sử dụng trang trí một cách tinh tế trong
chánh điện tăng thêm nét cổ kính cho ngôi chùa. Trên khắp xà ngang treo
hoành phi khắc chữ Hán sơn son thếp vàng sắc sảo với nội dung về chánh
pháp, khuyên nhủ con người với lòng từ bi bác ái.
Hiện nay chùa Long Thiền là trụ sở của Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai. Hàng năm, vào các dịp lễ lớn: Phật Đản, ngày vía, ngày giỗ tổ (18 /12 âm lịch) ... rất đông thiện tâm tín hữu, tăng ni Phật tử đến cúng.
Hiện nay chùa Long Thiền là trụ sở của Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai. Hàng năm, vào các dịp lễ lớn: Phật Đản, ngày vía, ngày giỗ tổ (18 /12 âm lịch) ... rất đông thiện tâm tín hữu, tăng ni Phật tử đến cúng.
Bảo tháp cố hòa thượng Huệ Thành
Với một lịch sử ra đời khá lâu- 1664 – Long Thiền tự được xem như
là cái nôi của trung tâm truyền bá Phật giáo vào vùng đất Nam Bộ. Không
những thế, nơi đây còn minh chứng cho sự hiện diện của người Việt ở đất
Đồng Nai từ giữa thế kỷ XVII, họ khai hoang lập ấp ở xứ Đồng Nai trước
khi nhóm khai khẩn Trần Thượng Xuyên đến (1679) đặt cơ sở nền tảng cho
thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược phía Nam (1698) thiết lập bộ máy
hành chánh trên vùng đất Đồng Nai.
Là một kiến trúc tôn giáo, là một cái nôi của trung tâm Phật giáo xứ Đàng Trong cùng với sự đóng góp trong sự nghiệp cách mạng nước nhà, chùa Long Thiền có một vị trí trong lịch sử của vùng đất Đồng Nai.
Là một kiến trúc tôn giáo, là một cái nôi của trung tâm Phật giáo xứ Đàng Trong cùng với sự đóng góp trong sự nghiệp cách mạng nước nhà, chùa Long Thiền có một vị trí trong lịch sử của vùng đất Đồng Nai.
Vườn tháp
103. CHÙA LINH SƠN - Vũng Tàu.
Linh Sơn Cổ Tự nằm trên đường Hoàng Hoa Thám, tuy không đồ sộ, rộng lớn nhưng là ngôi chùa lâu đời nhất ở Vũng Tàu. Lúc đầu chùa được xây dựng trên triền Núi Nhỏ nhưng đến năm 1919 khu vực này bị thực dân Pháp chiếm dụng để xây dựng biệt thự cho hoa tiêu Pháp. Ngay sau đó một ngôi chùa khác được xây dựng và tồn tại đến ngày hôm nay. Trong chính điện có thờ một tượng Phật cao 1,2m bằng đá có phết vàng được điêu khắc rất khéo léo tạo nên vẻ từ bi và sống động trên nét mặt của đức Phật.
Linh Sơn Cổ Tự nằm trên đường Hoàng Hoa Thám, tuy không đồ sộ, rộng lớn nhưng là ngôi chùa lâu đời nhất ở Vũng Tàu. Lúc đầu chùa được xây dựng trên triền Núi Nhỏ nhưng đến năm 1919 khu vực này bị thực dân Pháp chiếm dụng để xây dựng biệt thự cho hoa tiêu Pháp. Ngay sau đó một ngôi chùa khác được xây dựng và tồn tại đến ngày hôm nay. Trong chính điện có thờ một tượng Phật cao 1,2m bằng đá có phết vàng được điêu khắc rất khéo léo tạo nên vẻ từ bi và sống động trên nét mặt của đức Phật.
Truyền thuyết kể lại rằng cách đây hơn một trăm năm có đoàn ghe chài lưới từ miền trung vào đánh cá ở Bãi Trước. Trong khi kiếm củi ở Núi Lớn tình cờ họ phát hiện hai pho tượng Phật bằng đá vùi dưới đất trên sườn núi gần Bãi Dâu. Họ cùng đào lên rồi cùng chờ đến hôm sau xin mang về.
Dân địa
phương biết tin vội kéo đến xem và cho rằng đó là di tích lịch sử của
đại phương nên cương quyết đòi giữ lại. Nhóm dân chài Miền Trung năn nỉ
mãi mới lấy được pho tượng nhỏ đem đi. Pho tượng lớn được dân chài rước
về thờ, chính là pho tượng hiện nay ở Linh Sơn Cổ Tự.
(Địa chỉ: 6, Hoàng Hoa Thám, Phường 2, TP Vũng Tàu)
104. NIẾT BÀN TỊNH XÁ (Chùa Phật Nằm)
Đường Hạ Long, phường 1, Tp. Vũng Tàu. "Niết Bàn Tịnh Xá " còn gọi là chùa "Phật Nằm" được xây dựng trên sườn núi nhỏ, hướng mặt ra biển.Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1969 và khánh thành vào năm 1974 bằng tiền quyên góp của đồng bào phật tử. Thượng Tọa Thích Thiện Huệ đại diện đứng ra lo toan việc xây dựng. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại.
Đường Hạ Long, phường 1, Tp. Vũng Tàu. "Niết Bàn Tịnh Xá " còn gọi là chùa "Phật Nằm" được xây dựng trên sườn núi nhỏ, hướng mặt ra biển.Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1969 và khánh thành vào năm 1974 bằng tiền quyên góp của đồng bào phật tử. Thượng Tọa Thích Thiện Huệ đại diện đứng ra lo toan việc xây dựng. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại.
Ở
phía trước chùa là một cột cờ cao 21m, được chia làm thành 42 bậc biểu
tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam vào
thế kỷ thứ II. Cổng chùa có 04 chữ "Niết Bàn Tịnh Xá" tức là nơi thanh
cao nhất của đạo Phật.
Tịnh xá
Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1969 và khánh thành vào năm 1974 bằng tiền quyên góp của đồng bào phật tử. Thượng Tọa Thích Thiện Huệ đại diện đứng ra lo toan việc xây dựng. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại.
Ở phía trước chùa là một cột cờ cao 21m, được chia làm thành 42 bậc biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ II. Cổng chùa có 04 chữ "Niết Bàn Tịnh Xá" tức là nơi thanh cao nhất của đạo Phật.
Hai bên cổng chùa là 02 pho tượng "Thần Thiện" và "Thần Ác".
Khu điện thờ chính của chùa đựoc bày trí thành một vườn hoa Sa La theo cảnh Đức Phật nhập Niết Bàn. Nổi bật trong khu chánh điện này là bức tượng "Phật Nằm", dài 12m tượng trưng cho"Thập nhị nhân duyên" và được đặt lên bộ thờ 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có đắp hình tượng các đồ đệ của Phật Thịch Ca đang chứng kiến lúc Ngài nhập điện.
Phía
trước chính điện có một chiếc lư đồng lớn với hình tượng bốn con vật
Long, Lân, Quy, Phụng gọi chung là "Tứ Linh". Chiếc lư này là kết quả
sau hơi hai năm lao động nghệ thuật miệt mài của một nghệ nhân ở tỉnh
Bến Tre và đem tặng cho chùa năm 1971. Song song với lư ở hai bên là hai
toà tháp cao khoảng 5m. Tòa bên trái có tượng Phật A Di Đà, toà bên
phải có tượng Phật Dược Sư.
Lư đồng tứ linh
Phía sau thuyền Bát Nhã là điện thờ Phật Quan Âm Bồ Tát. Tượng Phật được thể hiện theo hình dáng một phụ nữ hiền hòa đức độ, tay đổ bình nước cam lộ xuống để chữa bệnh cho dân chúng và làm cho cõi trần thêm sạch.
105. CHÙA THÍCH CA PHẬT ĐÀI -Vũng Tàu
Thích Ca Phật Đài là khu di tích kiến trúc Phật giáo của phái Nam tông, nằm trên triền núi Lớn, thuộc thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Men theo con đường Trần Phú, đi qua Bến Đá, Bến Đình, du khách sẽ trải qua nhiều cảm xúc khác nhau với cảnh quan tuyệt đẹp của nơi đây: ba phía là biển, thuyền tàu đầy bến, ban đêm rực ánh đèn.
Trước
đây, vùng đất này cây cối rậm rạp, không có người sinh sống. Năm 1957,
ông Lê Quang Vinh, một công chức thời Pháp thuộc, bất mãn với chế độ nên
đã bỏ lên đây dựng chùa để tu hành, gọi là Thiền Lâm tự. Năm 1962 Giáo
hội Phật giáo nhận thấy Thiền Lâm tự toạ lạc ở một vị trí có khung cảnh
thiên nhiên đẹp đẽ, là vùng đắc địa tụ kết khí thiêng, lại thuận tiện
giao thông đi lại cho chư tăng, Phật tử thập phương hành hương nên đã
lập đồ án xây dựng quy mô Thiền Lâm tự thành Thích Ca Phật Đài. Công
trình được khởi công ngày 20/7/1961. Sau hơn 19 tháng xây dựng, ngày 15
tháng 02 năm Quý Mão (1963), Thích Ca Phật Đài được khánh thành.
Chùa tọa lạc trong khuôn viên rộng khoảng 5ha, bao gồm hai khu vực: phía dưới là Thiền Lâm tự, phía trên là Thích Ca Phật Đài.Ngay dưới chân núi Lớn, sát đường đi du khách sẽ thấy một cổng tam quan to lớn với 4 trụ cột vươn lên vững chắc, thanh thoát. Trên cổng có biểu tượng pháp luân, tức bánh xe luân hồi trong pháp lý nhà Phật. Tám chiếc căm xe tượng trưng Trung đạo. Vòng ngoài có bốn núm tiêu biểu cho Tứ Diệu Đế. Trên bốn cột của tam quan là bốn búp sen biểu tượng cho sự trong sạch, tinh khiết, thanh cao của Nhà Phật.
Qua cổng tam quan, men theo từng bậc đá quanh co trên sườn núi, du khách có thể vừa đi vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp hai bên. Một bên vách núi nhẵn nhụi như tường thành, một bên là lũng sâu soải dài ra phía biển. Gần đến đỉnh là một khu rừng thưa ríu rít tiếng chim trong các tán cây.
Bảo tháp Mâu ni
Cảnh tượng đầu tiên mà du khách nhìn thấy là toà Bảo tháp. Đây là nơi ghi nhớ và tưởng niệm người đã có công khai sơn tạo tự: nhà sư Giác Pháp tức quan phủ Lê Quang Vinh. Tiếp theo là khu Vườn tượng, ở độ cao 25m. Đây là khu vực của những công trình điêu khắc được xây dựng dựa theo những sự tích cuộc đời Đức Phật Thích Ca, từ khi Người ra đời đến khi nhập cõi Niết Bàn.
106. CHÙA PHƯỚC HẢI- Vũng Tàu
Chùa tọa lạc tại số 65 Nguyễn Bảo (số cũ : 54/7 đường Tự Do), phường 6, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. ĐT: 064.562323.
Theo tài liệu của Bảo tàng Bà Rịa – Vũng tàu, chùa được dựng vào năm 1886. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, kiến trúc dạng tứ trụ của chùa cổ miền Nam.
Năm 1956, chùa được đại trùng tu, mặt tiền xây lầu. Năm 1993, chùa tiếp tục trùng tu, tạo cảnh quan thoáng đãng.
Qua tam quan, ở ngay sân sau chùa có đài Quan Âm. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Hai pho tượng lớn được tôn trí ở trung tâm là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo và tượng đức Phật nhập niết bàn. Chùa còn giữ pho tượng cổ Visnu (thế kỷ thứ VII).
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1992.
Là một trong những ngôi chùa rộng, đẹp với cảnh quan thiên nhiên tươi xanh bốn mùa, chùa Đại Tòng Lâm tọa lạc ở xã Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nằm bên trái Quốc lộ 51 hướng đi Vũng Tàu, cách Saigon 70km.
Chùa do hòa thượng Thích Thiện Hoa và hòa thượng Thích Thiện Hòa khai sơn vào năm 1958, sau đó được trùng tu lại vào năm 1982, cổng tam quan vững chãi xây bằng đá vào năm 1974. Với khuôn viên sân chùa rộng đến gần 100ha, du khách ngay khi vừa bước qua cổng chùa sẽ được chiêm ngưỡng, thưởng thức một không gian xanh mát, hai bên lối đi trồng rất nhiều loại cây thẳng tắp, chánh điện được đặt ở phía đối diện vườn hoa mai, phía trước là tượng Quan âm bồ tát thanh thoát. Ngay bên cạnh chánh điện còn có tượng Phật nằm với chiều dài gần 2,5m, cao chín tấc. Nối dài ra khoảng đất trống phía sau chùa, cảnh quan thiên nhiên lại càng xinh đẹp, yên ả hơn nữa. Vòng ra bên trái chánh điện là con đường trải sỏi dẫn tới một không gian bát ngát cây cỏ. Ngay giữa khoảng đất rộng phía trước hồ nước bên trong chùa là bức tượng đứng Quan âm Nam Hải cao 17m. Đứng ở đây, khách vãn cảnh nghe gió lộng mênh mông, tiếng chim hót ríu rít trên những cành cây và còn có thể ngắm cảnh trời xanh ngắt một màu.
Cách hồ nước một đoạn không xa là bức
tượng Phật ngồi dưới gốc bồ đề tuyệt đẹp. Cội cây xù xì, thân cây cao
thẳng tắp vút lên trời. Phía trước cụm cảnh quan này còn có hai chú hạc
đứng chầu. Đây là một trong những cảnh quan được nhiều du khách trầm
trồ khen ngợi. Gần đó, nhà chùa xây dựng một chánh điện mới rộng hơn,
cao hơn chánh điện cũ bên phía cổng chùa. Ngôi chánh điện mới nhìn ra
bốn hướng đều thấy mênh mông cây cối với những không gian tuyệt đẹp như
chốn bồng lai. Những mái ngói cong cong của ngôi chùa in trên nền trời
làm nổi bật những đường nét điêu khắc được chạm trổ tinh xảo. Mỗi chiều
về, giữa ánh nắng nhạt màu, khi tiếng chuông chùa hòa quyện vào gió, vào
mây, du khách đến đây như thấy lòng mình thư thái hẳn.
108. THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU -Vũng Tàu
Thiền Viện Thường Chiếu rộng hơn 50 hecta nhưng bây giờ còn hơn 20 hecta vì phân chia ra nhiều Thiền Viện và một số thất riêng của qúy Thầy Cô và Hòa Thượng Thích Nhật Quang quản lý chung tất cả các Thiền Viện trong khuôn viên Thường Chiếu. Thiền Viện Thường Chiếu có mười ban ngành với tổng số lượng hơn 200 vị Tăng và hơn 70 chú tiểu độ tuổi từ 6-16, ngoài ra có một Hoa Viên hơn 70 vị Ni dành riêng cho các cô các bà từ độ tuổi ngoài 40 - 60 muốn đi xuất gia khi tuổi về già.
Địa chỉ: ấp 1C, huyện Long Thành, tỉnh Ðồng Nai
Ðiện thoại: 061.3542.631, 061.3841.
Chùa Phước Lâm tọa lạc tại số 65, đường Nguyễn Bảo, Phường 6, thành phố Vũng Tàu là một trong số ít những ngôi chùa cổ của tỉnh Bà Rịa – Vũng TàuChùa Phước Lâm được xây dựng ở chân núi lớn (núi Tương Kỳ) lúc đó có tên Phước Sơn Tự Vào khoảng năm 1944, thực dân Pháp lấy khu vực ở gần chùa làm trường bắn cho Trường thiếu sinh quân, nên chùa được dời xuống vị trí hiện nay. Từ ngày chuyển vị trí, chùa đã qua 4 đợt trùng tu vào các năm 1944, 1956, 1965 và 1993. Chùa Phước Lâm Tự có diện tích trên 6.000m2, Tổng thể chùa gồm 04 khu chính: Tam quan, chùa Phước Lâm, Tượng Phật Bà Quan Âm, nhà ở của tăng ni và khu vực vườn tháp. được xây dựng theo phong cách kiến trúc Ấn Độ.
Ngôi chánh điện Phước Lâm Tự rộng 500m2, được bài trí các bàn thờ: Thờ 03 pho tượng Tam Thế, tượng Thích Ca Mâu Ni tọa thiền trên tòa sen, hai bên có Anan và Ca Diếp; tượng Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và Thích Ca sơ sinh. Phía trước chánh điện thờ tượng Quan Âm Chuẩn Đề 12 tay, Phật bà Quan Âm, Tượng Quan Âm Bồ Tát ngồi trên đài sen. Bên trái tòa chánh điện thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, hai bên có ông Khuyến Thiện và Trừng Ác. Bên Phải tòa chánh điện thờ tượng thần Vishnu bằng đá có 04 tay, tượng cân đối, tạc khá công phu, kỹ lưỡng sơn màu son.Nguồn gốc pho tượng này là do người dân khóm Bỉnh Sơn, thuộc phường Thắng Nhì phát hiện trong lúc đào giếng. Niên đại của pho tượng bước đầu được các nhà bảo tàng học BR-VT được xác định vào khoảng thế kỷ VII-VIII.
Do được xây dựng lại nên chùa Phước Lâm Tự mang phong cách hiện
đại và có phần ảnh hưởng phong cách kiến trúc Ấn Độ, bên cạnh đó chùa Phước Lâm
Tự vẫn mang những nét đẹp về lịch sử văn hóa cổ xưa của ngôi chùa Việt. Trong
chùa hiện nay còn lưu giữ pho tượng thần Vishnu cổ (TK VII-VIII) một tác phẩm
điêu khắc bằng đá có giá trị và một đại hồng chung bằng đồng được đúc vào năm
Ất Mùi (1895).
Chùa Phước Lâm hiện đang lưu giữ các cổ vật như tượng thần
Vishnu, đại hồng chung... là những báu vật minh chứng quí báu để các nhà chuyên
môn nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng trên vùng đất Vũng Tàu
xưa.
Chùa Phước Lâm được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1992
109.CHÙA GIÁC NGẠN -Tây Ninh
Chùa
giác Ngạn nằm trên tỉnh lộ 781, từ thị xã Tây Ninh đến huyện Châu
Thành, một trong những ngôi chùa cổ ở Tây Ninh hiện còn tồn tại. Chùa
thuộc ấp Bình Phong, xã Thái Bình trong một khung cảnh hoang sơ yên
bình, một kiến trúc cổ kính, gần gũi với văn hoá dân gian, phảng phất
nét đẹp
truyền.thống của
Phật Giáo Việt Nam. Ngôi chùa được xây dựng trên diện tích khoảng 400m2
toạ lạc trên một khu đất rộng 1ha. Mặt trước chùa là một mặt dựng gồm 3
gian cao 8m, hai bên có thang lầu bắc lên.Trước sân là một núi đá khá
đẹp và đơn giản, bên trong núi có tượng đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Còn
có pho tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni màu trắng trang nghiêm.
Bên phải chùa là nghĩa trang, nơi yên nghỉ của Phật tử quá cố. Chùa Giác
Ngạn do phái Phật giáo Lục Hòa Tăng xây dựng cách đây hơn 100 năm, sau
chùa Thiền Lâm, cùng thời với các chùa Phước Lâm, Cao Sơn, Long Sơn,
Hạnh Lâm, Cẩm Phong. Lúc đầu chùa chỉ được xây dựng bằng vật liệu đơn
sơ. Cho đến năm 1950 mới được xây dựng kiên cố theo kiến trúc hiện nay.
Người sửa chữa, xây dựng lại ngôi chùa là hòa thượng Thích Giác Thiền từ núi Bà Đen đến.
110. CHÙA THIỀN LÂM -Tây Ninh
Ngày xưa, nơi đây là một gò đất cao mọc đầy dây kén nên dân gian gọi là Gò
Kén, tên gọi đó tồn tại cho đến ngày nay dẫu loại dây kén đã hoàn toàn
biến mất từ lâu. Do đó, chùa Thiền Lâm còn được dân gian gọi là chùa Gò
Kén cho đến bây giờ.
Chùa Thiền Lâm do hoà thượng Thích Trí
Lượng khởi xây với hình thức ban đầu tre lá đơn sơ từ cuối thế kỷ XIX.
Thiền Lâm là một trong những ngôi chùa cổ ra đời sớm nhất ở Tây Ninh.
Vào năm 1925, hoà thượng Thích Từ Phong (tên huý là Như Nhãn), đệ tử của hoà thượng Thích Trí Lượng cùng các tín đồ Phật giáo đã xây dựng ngôi chùa lại kiên cố trên một khuôn viên rộng 20.000m2 (ngày nay diện tích này đã bị thu hẹp lại).
Chùa
tọa lạc tại số 5/11 ấp Long Trung, xã Long Thành Trung, huyện Hòa
Thành, tỉnh Tây Ninh. ĐT: 066.846801. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa do Hòa thượng Thích Từ Phong sáng lập, được khánh thành vào năm 1925. Chùa nằm trên một gò đất mang tên gò Kén, cạnh quốc lộ 22, cách thị xã Tây Ninh 5km, nên thường được gọi là chùa Gò Kén. Kiến trúc chùa do kiến trúc sư Học Đình vẽ kiểu. Chiều dài ngôi chùa khoảng 30m, chiều rộng khoảng 15m, hai mái lợp ngói móc.
Điện
Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, La
hán, Minh Vương... Chùa còn giữ nhiều pho tượng cổ bằng gỗ. Trước chánh
điện có đài Quan Âm.
Chùa được trùng tu năm 1970.
111. CHÙA PHƯỚC LƯU -Tây Ninh
Chùa Phước Lưu nằm cạnh Quốc lộ 22A, đối diện với bệnh viện và sân vận động Trảng Bàng. Chùa tọa lạc ở 259 quốc lộ 22, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. ĐT: 066.880093. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa trước đây là am Bà Đồng, đến năm 1900, hình thành chùa Bà Đồng. Tổ Trừng Lực thuộc chi phái Thiền Liễu Quán đã tổ chức xây lại ngôi chùa và đặt tên Phước Lưu.
Chùa Phước Lưu được xây dựng vào giữa thế kỷ 19. Ban đầu chỉ là một cái am nhỏ, gọi là am Bà Đồng, sau này được xây dựng thành chùa nên cò tên gọi là chùa Bà Đồng.
Năm 1900, Tổ Trừng Lực thuộc đời thứ 42, phái Liễu quán đã quyên góp tài chính của phật tử địa phương và cộng đồng người Hoa ở Trảng Bàng sửa chữa và mở rộng chùa, đặt tên là chùa Phước Lưu.
Từ lúc xây dựng đến nay đã qua bốn lần trùng tu, sửa chữa vào các năm 1943, 1946, 1975 và 1990. Đây là một ngôi chùa được xây dựng bề thế, khang trang. Hệ thống tượng phật và các đồ thờ tự có giá trí cao so với các chùa phật ở Tây Ninh. Ngoài tượng phật Di Lặc, có tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm thếp vàng được mang từ Trung Quốc sang (gốm sứ đời Thanh). Với 15 tượng Phật được làm bằng chất liệu đất nung thành gốm sứ đời Thanh (chế tác từ Trung Quốc).
Chùa Phước Lưu là nơi có nhiều tượng phật cùng nhiều hiện vật cổ được tạo tác có giá trị nghệ thuật cao như: 4 bàn tủ khảm trai, bộ tràng kỷ mặt đá. Đặc biệt có 2 đĩa lớn (đường kính 55cm), 2 chóe lam lớn. Với những họa tiết, hoa văn đường phủ men lam là những hiện vật cổ có giá trị độc đáo.
Với lối kiến trúc đẹp, hòa với tổng thể thiên nhiên. Một ngôi chùa đã được giới thiệu trong “Việt Nam danh lam cổ tự”.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1945, 1946, 1968, 1975, 1990. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, như bộ tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm, thếp vàng; bộ tượng Thập bát La hán; bộ tượng Thập Điện Minh Vương và các bao lam với nét chạm khắc tinh xảo.
112. CÁC CHÙA TRÊN NÚI BÀ ĐEN - Tây Ninh
-CHÙA LINH SƠN (Điện Bà)
Chùa thường được gọi là chùa Bà, tọa lạc trên núi Bà Đen, thuộc ấp Ninh Trung, xã Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Núi Bà Đen ở Tây Ninh, cách Saigon 110 km. Từ xa nhìn núi Bà Đen như một chiếc nón lá úp trên đồng bằng. Đây là ngọn núi cao nhất ở Miền Nam.
Núi Bà Đen còn gọi là núi Điện Bà, còn có tên là Vân Sơn, vì thường có mây phủ. Và còn có tên là núi Một. Núi Bà Đen Tây Ninh là một quần thể miếu chùa, tổng hợp đạo Phật và Tiên Thánbh, trong đó điện Bà lớn hơn hết, thờ một vị nữ thần là Linh Sơn thánh mẫu.
Tương truyền kể rằng: xưa kia có một người con gái là Lý Thị Thiên Hương ở Trảng Bàng, nhan sắc lộng lẫy, do tình duyên trắc trở, người con gái này bỏ lên núi và bị bọn phỉ giết chết, xác khô đen. Tên núi là Bà Đen có từ đó. Bà Đen có núi đá gập ghềnh, cây cối xanh tốt, trên có chùa Vân Sơn trông xuống hồ nước, nước hồ trong lặng. Đường lên đỉnh núi quanh co, có rất nhiều cảnh trí do thiên nhiên tạo ra. Lên trên cao, hướng về phía đông nam là ngọn núi Cậu. Hướng về phía tây bắc là ngọn núi Heo và núi Phụng.
-CHÙA HANG, CHÙA THƯỢNG, CHÙA HẠ
Tại núi Bà Đen, trước kia có nhiều chùa, nhưng từ khi có chiến tranh thì các chùa bị hư hại. Hơn nữa, nơi này là chiến khu cộng sản, chẳng ai dám lên cúng tế, thăm viếng. Sau 1975, Việt Cộng thấy tôn giáo cũng là phương cách làm giàu, và cũng là phương cách bảo vệ an ninh, tình báo. Do đó, một số cán bộ, bô đội phục viên cho vào ở các chùa và lập các chùa. Bà. Bà Nguyễn Thị Định (1922), quê tỉnh Long Xuyên (An Giang ngày nay) là cán bộ cộng sản, nay trở thành Thích Nữ Diệu Nghĩa, Viện chủ cai quản các chùa trên núi Bà Đen.
Tại Bà Đen có ba khu triển lãm bảo tàng được hình thành. Đó là động Kim Quang, khu chùa Hang và Chân Núi. Toàn bộ quần thể núi Bà rải rác có nhiều chùa, nhưng chỉ có ngôi chùa chính có quy mô lớn. Ngoài chùa Thượng (chùa Bà) còn có chùa Hạ, chùa Trung. Những ngôi chùa này đã được xây dựng từ lâu đời, nhưng qua các cuộc chiến tranh ác liệt, bom đạn tàn phá nên đổ nát. Những ngôi chùa hiện nay được xây dựng lại từ các năm 1995, 1997.
Từ những ngày đầu tiên xây dựng chùa có các vị tổ sư: Chủ tổ Thiệt Diệu, Tế Giác, Đại Cơ, Đạo Trung, Tánh, Thiền Hải Hiệp (nay còn tháp ở chùa). Tiếp đến là Thánh Thọ Phước Chí (tại vị 1871 - 1880). Tổ Trừng Tùng Chơn Thoại kiến thiết chùa phật, nhà giảng đường (tại vị 1880 - 1910). Tổ Tâm Hòa Chánh Khâm (tại vị 1910 - 1937) xây cất chùa tổ bằng đá (1922 - 1924), nhà tổ bằng đá (1937). Tổ Nguyên Cơ Giác Phú, Nguyên Cần Giác Hạnh lập tháp cho bổn sư và sư huynh (1939), Sư Nguyên Bộ Giác Ngọc (tự DiNa) trụ trì từ 1946 - 1957. Hòa Thượng Nguyên Chất Giác Điền (tại vị 1952 - 1957) thay mặt hàng năm lo liệu lễ vía Bà và khai trường hương, trường kỳ. Từ năm 1956, lập ra Hội núi Điện Bà do bác sĩ Nguyễn Văn Thọ giữ chức danh Hội trưởng.
113 . CHÙA VĨNH TRÀNG -Mỹ tho
Chùa Vĩnh Tràng tọa lạc ở đường Nguyễn Trung Trực, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.873427. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Cổng chùa được trùng tu năm 2005, phía trên được tôn trí tượng Đức Phật A Di Đà
Chùa vốn là một thảo am do ông Tri huyện Bùi Công Đạt xây cất vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Đến năm 1849, Hòa thượng Thích Huệ Đăng trụ trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Tràng. Kế vị trụ trì là Hòa thượng Thích Thiện Đề. Khi ngài viên tịch, ngôi chùa hương tàn khói lạnh.
Năm 1890, bổn đạo đến chùa sắc tứ Linh Thứu thỉnh Hòa thượng Quảng Ân – Chánh Hậu về trụ trì. Năm 1895, ngài đã tổ chức xây lại ngôi chùa. Chùa lại bị hư hỏng nặng vì trận bão năm 1904. Từ năm 1907 đến năm 1911, ngài đã khuyến giáo tín đồ đóng góp công của đại trùng tu ngôi chùa và mời điêu khắc gia Tài công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các tượng thờ trong chùa.
Hòa thượng Chánh Hậu gốc người Minh Hương, sinh năm 1852 tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường (cũ). Năm 1876, ngài quy y thọ giới với Hòa thượng Thích Minh Phước tại chùa Bửu Lâm. Ngài đã được cử làm Thủ tọa chùa sắc tứ Linh Thứu từ năm 1880, trụ trì chùa Vĩnh Tràng từ năm 1890, và đã thường xuyên mở các lớp gia giáo để đào tạo tăng tài. Ngài viên tịch vào năm 1923. Hòa thượng Tâm Liễu – An Lạc (tức HT. Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên) kế tục, cho xây cổng tam quan, mặt tiền, chánh điện và nhà tổ.
Chùa rộng khoảng 2 hecta. Trước có sân kiểng và tượng đức Phật Thích Ca tham thiền dưới cội bồ đề. Bên phải có ao sen, tượng đài Bồ tát Quan Thế Âm, hai bên có nhiều ngôi tháp cổ của các vị Hòa thượng tiền bối, phía sau có hội trường và phòng phát hành kinh sách. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều cây cao bóng mát và vườn cây ăn trái. Mặt tiền chùa được xây bằng bê tông nửa Á nửa Âu. Đây là môtíp La Mã xen với môtíp Phục Hưng, bông sắt Ấn Độ, gạch men Nhật Bản. Những câu chữ Hán viết theo thể truyện xen với những câu niệm Phật chữ quốc ngữ. Đứng xa trông vào nóc chùa mường tượng như năm tháp Ăngkor.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Tượng Phật Trung Tôn, bộ tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí), tượng Đản sanh, tượng Di Lặc và tượng Thất Phật Dược Sư được tôn trí ở án giữa. Hai bên án thờ có tượng hai vị Hộ Pháp, tượng chân dung Hòa thượng Chánh Hậu và Hòa thượng Minh Đàng. Chùa còn đặt thờ nhiều tượng như Quan Âm, Địa Tạng, Ngọc Hoàng, Minh Vương... Đặc biệt, hai bên vách có thờ bộ Thập bát La Hán, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, cỡi trên các con thú như trâu, ngựa, lạc đà,... là những tác phẩm tượng tròn độc đáo của Nam Bộ.
Chùa có nhiều bao lam và hoành phi, câu đối. Các bao lam ở đây được chạm trổ công phu, như bộ bao lam Bát tiên kỵ thú đặt ở gian giữa.Vĩnh Tràng là ngôi cổ tự danh tiếng bậc nhất ở miền Nam.
114. CHÙA THANH TRƯỚC -Gò Công
Chùa tọa lạc tại ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Chùa được dựng vào năm 1826, có tên là chùa Phật Linh. Tương truyền chùa do các mục đồng dựng lên vào năm 1826. Lúc đầu, đây chỉ là một thảo am nhỏ có tên là Phật Linh. Đến khi Thiền sư Ngô Thiện, thuộc dòng Lâm tế chính tông đời thứ 39 về trụ trì, chùa mới được xây cất tôn nghiêm và lấy tên là Thanh Trước. Năm 1851, hoà thượng Chân Hội về làm trụ trì đã cho trùng tu và mở rộng ngôi chùa. Năm 1896, hoà thượng Hải Tràng cho trùng tu chùa. Hoà thượng Hoằng Thông đã cho sửa chữa vào các năm 1946, 1958 và 1989.
Chùa Thanh Trước
Khi xưa, khuôn viên nhà chùa rất rộng, nay chỉ còn khoảng 1 ha. Qua các
lần trùng tu, diện mạo chùa Thanh Trước cũng đã thay đổi khá nhiều.
Nhưng bên trong chánh điện vẫn còn bảo lưu được nét kiến trúc cổ với 40
chiếc cột gỗ đen bóng và rui mè, mái ngói. Các bệ thờ đã được xây dựng
lại và tô bằng đá mài. Ở bàn thờ tổ không thờ tổ Đạt Ma mà thờ đức Tỳ Ni
Đa Lưu Chi với một khung kính ghi rõ tiểu sử. Hậu tổ có 4 tấm linh vị
của các dòng Lâm Tế chính tông đã trụ trì ở chùa. Trong chùa còn lưu giữ
nhiều di vật quý, như tượng Đức Phật, chân dung Tổ Tì Ni Đa Lưu Chi, ở
khuôn viên chùa có tháp Tổ.115. CHÙA PHƯỚC LÂM- Cai Lậy
Chùa tọa lạc tại xã
Phú Nhuận, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Từ Saigon
theo quốc lộ 4 đến Cai Lậy, đi tiếp khoảng 7km đến cầu Phú Nhuận, quẹo
phải theo đường vào cầu Rạch Cá Rắn, đi hơn 2km thì đến chùa. ĐT:
073.829223. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Tài liệu của chùa cho biết, chùa được thành lập vào hậu bán thế kỷ XVIII. Theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, chùa được ngài Trừng Trữ, hiệu Quảng Huệ, khai sơn vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Ngài tịch vào ngày 17 tháng 9 năm Đinh Hợi (1887). Về sau, ngài Khánh Huy về trụ trì, đã cho tái thiết ngôi chùa vào năm 1921, khai Trường Hương từ năm 1923.
Toàn cảnh chùa - 1998
Ngài là vị cao tăng, học rộng đức cao, có nhiều đệ tử ở khắp nơi. Vào năm 1932, ngài dự kiến đại trùng tu ngôi chùa, để có chỗ rộng rãi cho chư tăng các nơi về tu học, nhưng vì nhân duyên đã mãn, ngài viên tịch, nên việc trùng tu phải đình lại. Kế thế trụ trì là ngài Tịnh Biên – Nguyên Đắc (1932 – 1960), ngài Nguyên Trí – Tịnh Trí (1960 – 1974) và Tỳ kheo ni Nguyên Hiền (1974 – 1987) đều có tổ chức trùng tu.
Tài liệu của chùa cho biết, chùa được thành lập vào hậu bán thế kỷ XVIII. Theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, chùa được ngài Trừng Trữ, hiệu Quảng Huệ, khai sơn vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Ngài tịch vào ngày 17 tháng 9 năm Đinh Hợi (1887). Về sau, ngài Khánh Huy về trụ trì, đã cho tái thiết ngôi chùa vào năm 1921, khai Trường Hương từ năm 1923.
Ngài là vị cao tăng, học rộng đức cao, có nhiều đệ tử ở khắp nơi. Vào năm 1932, ngài dự kiến đại trùng tu ngôi chùa, để có chỗ rộng rãi cho chư tăng các nơi về tu học, nhưng vì nhân duyên đã mãn, ngài viên tịch, nên việc trùng tu phải đình lại. Kế thế trụ trì là ngài Tịnh Biên – Nguyên Đắc (1932 – 1960), ngài Nguyên Trí – Tịnh Trí (1960 – 1974) và Tỳ kheo ni Nguyên Hiền (1974 – 1987) đều có tổ chức trùng tu.
Ngôi chùa ngày nay tọa lạc trong một khuôn viên rộng 2ha, được xây dựng bằng vật liệu kiên cố.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca tọa thiền trên Kim Cang tòa. Tượng đức Phật cao 3,5m, nặng hơn 1 tấn, đúc tại chùa năm 1998. Hai bên điện Phật là phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, cùng sáu bức phù điêu về lịch sử đức Phật Thích Ca: Đản sanh, xuất gia, cắt tóc, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Chùa còn lưu giữ nhiều tấm biển, câu đối, tượng thờ, long vị cổ.Phước trạch khánh do tâm hòa hiệp thập phương tâm thành tâm đồng chú nguyện.
Lâm tùng huy tại giác thượng kỳ tứ chúng giác viên giác phổ hương triêm.
(câu đối năm 1923)
116. CHÙA PHÁP BẢO- Mỹ Tho
Chùa tọa lạc ở số 44/448
đường Lý Thường Kiệt, phường 5, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Điện
thoại: 073.878168, 073.878169. Chùa thuộc Hệ phái Phật giáo Nam
tông.Ngôi chùa được xây dựng vào năm 1966.
Chùa Pháp Bảo, tọa lạc tại số 44 / 448 Đường Lý Thuờng Kiệt - Phường 5 -Tp. Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang. Nguyên trước đây gia đình ông Phán Lễ ( Ông Nguyễn Văn Lễ, làm công chức bậc trung gọi là Phán hoặc thông phán - gọi tắt là Phán Lễ, cho nên vợ ông là bà Phan Thị Trường - được gọi là Bà Phán Lễ ) là một gia đình giàu tại Mỹ Tho, có nhiều ruộng đất - trong đó có mảnh đất ông bà cho những người nghèo đến lập mộ chôn cất miễn phí.
Năm 1966: Qua sự giới thiệu của Cô Bảy An ( là Phật tử Nguyên Thủy - người Mỹ Tho ), ông bà Phán Lễ đã hoan hỷ cúng mảnh đất ấy để Giáo hội làm chùa. Lúc bấy giờ Hòa Thượng Giới Nghiêm ( Ṭhitasīlo Mahathera ) là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam nhận lãnh phần đất này sau khi người dân đã hốt cốt mả để chính quyền bàn giao miếng đất ( gần 1 hecta ) cho Giáo hội.
Ngày 27 / 02 / 1966: Ngài Tăng Thống cùng chư Tăng và Phật tử từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho làm lễ an vị Phật và bàn giao ngôi chùa nhỏ ( được lợp lá đơn sơ, chưa dựng vách ) cho ngài Hòa Thượng Pháp Lạc ( Sukhadhammo Mahathera ) quản lý và xây dựng. Hòa Thượng Giới Nghiêm ban hiệu chùa là Pháp Bảo ( vì chùa cùng hệ thống là chùa Phật Bảo ở quận Tân Bình - TP.HCM - chùa Tăng Bảo ở tỉnh Quảng Ngãi ). Vào hạ ( 06 / 11 / 1966 ) Cô Trần Thị Thự làm chủ lễ dâng y Kathina đầu tiên tại ngôi chùa Pháp Bảo này.
Năm 1967: Hòa Thuợng Pháp Lạc xin phép Giáo hội làm lễ đặt viên đá đầu tiên, chính thức khởi công xây dựng ngôi chùa Pháp Bảo.
Ngày 03 / 01 / 1968: Làm lễ an vị Phật, và thờ năm viên Xá Lợi Đức Phật được tổ chức trọng thể dưới sự chứng minh của ngài Tăng Thống Giới Nghiêm, mặc dù phần xây dựng chánh điện chưa hoàn tất. Cổng tam quan chùa được xây dựng vào năm 1974.
Năm 1990: Hòa Thượng Pháp Lạc tạo thêm bốn Phật cảnh trong khuôn viên chùa ( Đản Sanh - Thành Đạo - Chuyển Pháp Luân - Nhập Niết Bàn ).
Năm 1997: Xây Tăng xá gồm sáu phòng dành cho khách nghỉ ngơi.
Ngày 12 / 05 / 2001: ( Nhằm ngày 20 / 04 năm tân tỵ ) Hòa Thượng Pháp Lạc viên tịch tại chùa Pháp Bảo - hưởng thọ 98 tuổi ( 40 năm hạ lạp ). Sinh thời ngoài việc xây dựng chùa Pháp Bảo - Mỹ Tho, Ngài còn sáng lập nhiều ngôi chùa Phật Giáo Nguyên Thủy khác như: Chùa Phước Hải - Châu Thành - Tiền Giang, Chùa Bình Long - Phan Thiết - Bình Thuận, Chùa Thái Bình - Bất Nhị - Quảng Nam, Tịnh Thất Bửu Thanh - Gò Công Đông - Tiền Giang.
Hiện nay đất chùa chỉ còn lại 1 hecta, qua những đợt trùng tu và xây dựng mới, chùa Pháp Bảo trở nên khang trang - thoáng mát - thanh tịnh - trang nghiêm thu hút nhiều Phật tử đến lễ bái và tu học sinh hoạt. Hàng năm vào rằm tháng 04 ( âm lich ) chùa cung thỉnh Xá Lợi Phật trên bảo tháp xuống chánh điện cho chư Tăng Ni Phật tử gần xa chiêm bái.
Với vai trò là người kế tục trụ trì - Đại Đức Bửu Hiền cố gắng thu thập qua nhiều phương tiện như băng - đĩa - kinh - sách tài liệu để giới thiệu, cũng như tranh ảnh từ Thái Lan - Sri Lanka giúp cho chư Tăng tu nữ Phật tử thuận lợi trong việc nghiên cứu tu học, ngoài ra trong thư viện chùa còn có ba bộ kinh tam tạng tiếng Thái - Camphuchia - và tiếng Anh ( do ngài Thiền Sư Kim Triệu ở mỹ hiến cúng ). Đồng thời qua đó thực hiện ý nguyện của Hòa Thượng Pháp Lạc khi ngài còn tại thế là: Xây thêm phòng ốc mở lớp học Pali tạo điều kiện cho Tăng Ni Phật tử học hỏi thực hành giáo lý nhà Phật và hiểu rõ về nhân qủa, dự kiến sẽ thỉnh các vị Sư Sri lanka tới giảng dậy, đào tạo Tăng tài lớp kế thừa Hoằng Truyền Phật Pháp Lợi Lạc Quần Sanh.
Hàng tháng, chùa tham gia các hoạt động từ thiện tại Tân Mỹ Chánh, hội người mù, bệnh viện tâm thần Nhị Bình tại huyện Cai Lậy.
Có thể nói chuẩn xác là Hòa Thượng Pháp Lạc chính là vị Tổ khai sáng nền Phật Giáo Nguyên Thủy Tại Tỉnh Tiền Giang, và chùa Pháp Bảo là ngôi chùa tiêu biểu của Phật Giáo Nguyên Thủy Tải Tỉnh Tiền Giang.
Chùa Pháp Bảo, tọa lạc tại số 44 / 448 Đường Lý Thuờng Kiệt - Phường 5 -Tp. Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang. Nguyên trước đây gia đình ông Phán Lễ ( Ông Nguyễn Văn Lễ, làm công chức bậc trung gọi là Phán hoặc thông phán - gọi tắt là Phán Lễ, cho nên vợ ông là bà Phan Thị Trường - được gọi là Bà Phán Lễ ) là một gia đình giàu tại Mỹ Tho, có nhiều ruộng đất - trong đó có mảnh đất ông bà cho những người nghèo đến lập mộ chôn cất miễn phí.
Năm 1966: Qua sự giới thiệu của Cô Bảy An ( là Phật tử Nguyên Thủy - người Mỹ Tho ), ông bà Phán Lễ đã hoan hỷ cúng mảnh đất ấy để Giáo hội làm chùa. Lúc bấy giờ Hòa Thượng Giới Nghiêm ( Ṭhitasīlo Mahathera ) là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam nhận lãnh phần đất này sau khi người dân đã hốt cốt mả để chính quyền bàn giao miếng đất ( gần 1 hecta ) cho Giáo hội.
Ngày 27 / 02 / 1966: Ngài Tăng Thống cùng chư Tăng và Phật tử từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho làm lễ an vị Phật và bàn giao ngôi chùa nhỏ ( được lợp lá đơn sơ, chưa dựng vách ) cho ngài Hòa Thượng Pháp Lạc ( Sukhadhammo Mahathera ) quản lý và xây dựng. Hòa Thượng Giới Nghiêm ban hiệu chùa là Pháp Bảo ( vì chùa cùng hệ thống là chùa Phật Bảo ở quận Tân Bình - TP.HCM - chùa Tăng Bảo ở tỉnh Quảng Ngãi ). Vào hạ ( 06 / 11 / 1966 ) Cô Trần Thị Thự làm chủ lễ dâng y Kathina đầu tiên tại ngôi chùa Pháp Bảo này.
Năm 1967: Hòa Thuợng Pháp Lạc xin phép Giáo hội làm lễ đặt viên đá đầu tiên, chính thức khởi công xây dựng ngôi chùa Pháp Bảo.
Ngày 03 / 01 / 1968: Làm lễ an vị Phật, và thờ năm viên Xá Lợi Đức Phật được tổ chức trọng thể dưới sự chứng minh của ngài Tăng Thống Giới Nghiêm, mặc dù phần xây dựng chánh điện chưa hoàn tất. Cổng tam quan chùa được xây dựng vào năm 1974.
Năm 1990: Hòa Thượng Pháp Lạc tạo thêm bốn Phật cảnh trong khuôn viên chùa ( Đản Sanh - Thành Đạo - Chuyển Pháp Luân - Nhập Niết Bàn ).
Năm 1997: Xây Tăng xá gồm sáu phòng dành cho khách nghỉ ngơi.
Ngày 12 / 05 / 2001: ( Nhằm ngày 20 / 04 năm tân tỵ ) Hòa Thượng Pháp Lạc viên tịch tại chùa Pháp Bảo - hưởng thọ 98 tuổi ( 40 năm hạ lạp ). Sinh thời ngoài việc xây dựng chùa Pháp Bảo - Mỹ Tho, Ngài còn sáng lập nhiều ngôi chùa Phật Giáo Nguyên Thủy khác như: Chùa Phước Hải - Châu Thành - Tiền Giang, Chùa Bình Long - Phan Thiết - Bình Thuận, Chùa Thái Bình - Bất Nhị - Quảng Nam, Tịnh Thất Bửu Thanh - Gò Công Đông - Tiền Giang.
Hiện nay đất chùa chỉ còn lại 1 hecta, qua những đợt trùng tu và xây dựng mới, chùa Pháp Bảo trở nên khang trang - thoáng mát - thanh tịnh - trang nghiêm thu hút nhiều Phật tử đến lễ bái và tu học sinh hoạt. Hàng năm vào rằm tháng 04 ( âm lich ) chùa cung thỉnh Xá Lợi Phật trên bảo tháp xuống chánh điện cho chư Tăng Ni Phật tử gần xa chiêm bái.
Với vai trò là người kế tục trụ trì - Đại Đức Bửu Hiền cố gắng thu thập qua nhiều phương tiện như băng - đĩa - kinh - sách tài liệu để giới thiệu, cũng như tranh ảnh từ Thái Lan - Sri Lanka giúp cho chư Tăng tu nữ Phật tử thuận lợi trong việc nghiên cứu tu học, ngoài ra trong thư viện chùa còn có ba bộ kinh tam tạng tiếng Thái - Camphuchia - và tiếng Anh ( do ngài Thiền Sư Kim Triệu ở mỹ hiến cúng ). Đồng thời qua đó thực hiện ý nguyện của Hòa Thượng Pháp Lạc khi ngài còn tại thế là: Xây thêm phòng ốc mở lớp học Pali tạo điều kiện cho Tăng Ni Phật tử học hỏi thực hành giáo lý nhà Phật và hiểu rõ về nhân qủa, dự kiến sẽ thỉnh các vị Sư Sri lanka tới giảng dậy, đào tạo Tăng tài lớp kế thừa Hoằng Truyền Phật Pháp Lợi Lạc Quần Sanh.
Hàng tháng, chùa tham gia các hoạt động từ thiện tại Tân Mỹ Chánh, hội người mù, bệnh viện tâm thần Nhị Bình tại huyện Cai Lậy.
Có thể nói chuẩn xác là Hòa Thượng Pháp Lạc chính là vị Tổ khai sáng nền Phật Giáo Nguyên Thủy Tại Tỉnh Tiền Giang, và chùa Pháp Bảo là ngôi chùa tiêu biểu của Phật Giáo Nguyên Thủy Tải Tỉnh Tiền Giang.
Tam quan chùa được xây năm 1974. Chùa được trùng tu vào năm 2004.
Chùa có nhiều công trình xây dựng như giảng đường, tăng xá, cốc tu, tháp mộ Hòa thượng Pháp Lạc (cao 13m), cùng vườn tượng Phật lộ thiên như: vườn Lâm Tỳ Ni, tượng Thái tử tu khổ hạnh, tượng Phật thành đạo và tượng Phật nhập niết bàn.Cảnh chùa thoáng đãng, thanh tịnh, trang nghiêm.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca tọa thiền trên Kim Cang tòa. Tượng đức Phật cao 3,5m, nặng hơn 1 tấn, đúc tại chùa năm 1998. Hai bên điện Phật là phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, cùng sáu bức phù điêu về lịch sử đức Phật Thích Ca: Đản sanh, xuất gia, cắt tóc, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Chùa còn lưu giữ nhiều tấm biển, câu đối, tượng thờ, long vị cổ.
117. CHÙA LINH PHONG- Mỹ tho
Chùa tọa lạc tại 178/1, thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.831489. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Ngôi chùa nhỏ được xây cất vào cuối thế kỷ XIX.
Trước đây, chùa do Hòa thượng Thích Minh Giám trụ trì. Năm 1940, ông Hộ Thông tổ chức trùng tu và thỉnh Hòa thượng Thích Đạt Hương về trụ trì. Năm 1988, Hòa thượng viên tịch. Sư cô Thích Nữ Tắc Hoa trụ trì hiện nay.
Mặt tiền chùa
Toàn cảnh chùa
Chùa đã được trùng tu vào các năm 1916, 1940, 1955,1989. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn, Thập bát La hán, Thập Điện Minh Vương... Chùa giữ được một số pho tượng cổ.
118. CHÙA HỘI THỌ- Cái bè
Chùa
có tên là Kim Chương, hiện tọa lạc ở ấp Mỹ Hưng, xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
ĐT: 073.753244. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa nguyên là chùa sắc tứ Kim Chương, chùa sắc tứ Phổ Quang, chùa sắc
tứ Thiên Trường, là ngôi đại già lam bậc nhất ở đất Gia Định.Chùa do
ngài Đạt Bản, quê ở Quy Nhơn, khai sơn năm Ất Hợi (1755), gốc ở
thôn Tân Triêm, huyện Bình Dương, nay ở vào khoảng chùa Lâm Tế, đường
Nguyễn Trãi, SAIGON.
Chùa Hội Thọ
Chùa Sắc tứ Kim Chương đổi tên là Sắc tứ Phổ Quang tự khi Đông cung Nguyễn Phúc Dương về Gia Định và mượn chùa để lên ngôi.
Năm 1804, chùa sắc tứ Kim Chương đã mở Đại giới đàn đầu tiên ở Nam Bộ. Đây là một sự kiện quan trọng ở vùng đất phương Nam.
Năm 1813, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu hỷ cúng một vạn quan tiền, sai tướng
Trần Nhân Phụng đêm lính thợ đến trùng tu chùa. Chùa được triều đình Huế
cử tăng cang về trụ trì và đổi tên chùa là Sắc tứ Thiên Trường tự. Theo
Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí thì bấy giờ chùa rất rộng
lớn: trước có sơn môn và nhà thiêu hương, trong có chánh điện, hai bên
có Đông lang và Tây lang, phía sau có phương trượng và nhà chứa kinh
sách.
Năm 1859, khi quân Pháp tấn công Gia Định, Tăng cang Hòa thượng Minh
Giác đã chuyển ngôi quốc tự và Phật tượng về Cái Bè, đổi tên là Hội Thọ
tự.
Chùa đã bị hư hỏng gần như hoàn toàn qua những năm tháng chiến tranh. Ngôi chùa hiện nay được dựng đơn sơ vào năm 1982.
Đài Quan Âm
Hoa sen
Năm 1992, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh bổ nhiệm Đại đức Thích Phước Huy về trụ trì chùa, nhưng sau đó không lâu, Đại đức qua đời.
Phía sau chùa có 3 ngôi tháp. Tháp Hòa thượng Minh Giác, tháp Hòa thượng Thiệu Long, tháp Yết ma Quảng Tục.
Chùa còn giữ được nhiều bài vị và tranh chân dung của các vị Tổ. Bộ
tượng gỗ do Thừa Thiên Cao Hoàng hậu cúng năm 1813 gồm các pho tượng Địa
Tạng, Đạt Ma, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Minh Vương, Già Lam, Phán
Quan được tạc đặc sắc. Đặc biệt, pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đất sét
cao 0,55m, ngang gối 0,40m, đang tọa thiền, có niên đại khoảng đầu thế
kỷ XIX, là một tác phẩm mỹ thuật đặc sắc của Gia Định xưa.
Chùa tọa lạc tại đường Anh Giác, phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.876613. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do bà Nguyễn Thị Đạt xây dựng vào năm 1803. Chùa đã trải qua 10 đời truyền thừa, trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Từ Lâm, nguyên ở chùa Hội Tôn (Bến Tre). Hòa thượng Thiên Trường đã cho trùng kiến ngôi chùa vào năm 1905.
Chùa Bửu Lâm - 1992
Mặt tiền chùa
Hòa thượng Thích Huệ Thông cho sửa lại mặt tiền năm 1994 – 1995 và tiếp tục tôn tạo ngôi chùa khang trang. Hòa thượng hiện là thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa bảo tồn nhiều pho tượng và bộ tượng cổ, nhiều bao lam chạm trổ tinh xảo. Chùa nay vẫn giữ nét đẹp cổ kính, là ngôi cổ tự danh tiếng ở miền Nam.
120. CHÙA PHƯƠC LONG-Gò Công
Ngôi chùa tọa lạc ở ấp 7, xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.Chùa do thiền sư Vô Đại - từ miền Trung vân du vào Nam hoằng đạo - lập nên vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Lúc đầu, chùa có kết cấu rất đơn sơ. Từ khi thành lập đến nay, chùa đã trải quà nhiều lần trùng tu, sửa chữa.
.
121. CHÙA HỘI TÔN- Bến Tre
Tọa lạc tại ấp 8 - xã Quới Sơn (Châu Thành), Hội Tôn cổ tự được biết đến là ngôi chùa cổ nhất và có giá trị lịch sử văn hóa ở Bến Tre. Theo danh bộ lịch sử những ngôi chùa do Ban Đại diện Phật giáo huyện Châu Thành biên soạn, Hội Tôn cổ tự được thành lập vào năm 1740, do bà Cù Thị Báo và con gái Trần Thị Mỗi ở ấp Quới Hòa Đông tạo lập. Với thảo am ban đầu, những người mộ đạo quanh vùng thỉnh mời hòa thượng để tụ tích hoằng dương Phật pháp. Sau khi tụ tích, ngoài việc truyền dạy giáo lý Bắc tông, Hòa thượng Long Thiền còn dạy cho bổn đạo và cư dân trong vùng cách đóng thuyền bè, cách ươm tơ, dệt lụa, võ nghệ… Đến nay, Hội Tôn cổ tự trải qua 18 đời trụ trì.
Theo lời kể của ông Hồ Ngọc Sánh, cháu đời thứ 6 của người lập Hội Tôn Tự, những năm 1804-1805, chùa được cất lại bằng gỗ, gồm chánh điện, sân khấu, nhà Tổ, phòng sư sãi, tăng ni, lẫm lúa, nhà đãi, nhà trù… Xung quanh trồng cây ăn quả, sao, dầu, gõ và 2 cái ao nuôi cá phóng sinh. Năm 1884, chùa được trùng tu một lần nữa nhưng vẫn giữ gần như nguyên vẹn nếp xưa. Do chiến tranh tàn phá, năm 1947, chùa được xây dựng lại, còn giữ nhiều cột gỗ nhưng vách bằng tường, mái lợp ngói. Tuy không còn hình dạng của chùa cũ nhưng vẫn đậm nét văn hóa Việt theo kiến trúc dạng chữ đinh. Năm 1973, chùa một lần nữa được trùng tu và vẫn giữ nét cổ kính của một ngôi chùa mái ngói âm dương vốn có.Chùa hiện nay còn giữ một số bản gỗ khắc kinh (chữ Hán), nhiều pho tượng cổ như: Hộ Pháp, Tiêu Diện, Minh Vương...Trong vườn chùa có 15 bảo tháp các ngài Bảo Chất, Quảng Giáo, Tâm Định, Chánh Hòa...
Trên đây là hình chùa mới xây. Ngày nay, cộng sản tái thiết chùa, phá chùa cũ làm chùa mới, họ lấy tiền bạc nhưng đã làm mất dấu vết cổ tích.
122. CHÙA GIÁC THIÊN- Vĩnh Long
Chùa tọa lạc tại số 70 đường Trần Phú, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.822328. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa do bà Trương Thị Lâu (sau bà xuất gia, pháp danh Như Đạt) xây dựng vào năm 1906. Chùa đã được trùng tu nhiều lần.
Chùa do bà Trương Thị Lâu (sau bà xuất gia, pháp danh Như Đạt) xây dựng vào năm 1906. Chùa đã được trùng tu nhiều lần.
Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa có nhiều tượng Phật, Bồ tát là những tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật. Thượng tọa Thích Phước Tú đang tiếp tục trùng tu, trang trí ngôi chùa.
123. CHÙA PHÁP HẢI- Vĩnh Long
Chùa
tọa lạc ở số 195 đường Trần Phú, phường 4, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh
Long. ĐT: 070.828909. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Thiền sư Pháp
Hải xây dựng vào năm 1962.
Chùa được trùng tu vào năm 1980. Trước đây, chùa là trụ sở Hội Phật học Nam Việt tỉnh Vĩnh Long
124. TỊNH XÁ NGỌC VIÊN - Vĩnh Long
Tinh xá tọa lạc tại số 14/20/2 đường Xóm Chài, phường 2, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.823827. Chùa thuộc hệ phái Khất sĩ, Giáo đoàn 1.Tịnh xá được dựng vào cuối năm 1948, là một trong những dấu tích đầu tiên khai mở giáo pháp của Tổ sư Minh Đăng Quang. Năm 1949, Đại lễ Tự tứ Tăng và Vu lan bồn được tổ chức với quy mô lớn tại tịnh xá đã ảnh hưởng rộng khắp trong sinh hoạt Phật giáo của toàn sơn môn hệ phái.
Ban đầu, ngôi chánh điện hình chữ nhật (tượng trưng thuyền Bát nhã), dài 16m, rộng 8m được dựng bằng cây lá đơn sơ trên mảnh đất do ông Lê Quang Nhiêu cúng dường, giữa đặt pháp tháp tôn trí đức Phật Thích Ca. Đến năm 1971, đức Trị sự Thích Giác Như đã tổ chức trùng tu ngôi chánh điện với những vật liệu bán kiên cố. Phía sau pháp tháp thờ Phật là bàn thờ ảnh chân dung Tổ Sư cùng tủ kinh Chơn Lý, là bộ sách ghi những bài thuyết pháp của Ngài trong 10 năm hành đạo (1944 – 1954).
Ngôi
chánh điện mới được Thượng tọa Thích Giác Giới tổ chức khởi công xây
dựng vào ngày 06 – 8 – 1993, khánh thành trọng thể vào ngày 08–01–1995
trên mảnh đất (kế ngôi chánh điện cũ) do ông Trần Quang Minh (pháp danh
Thiện Niệm) và bà Lê Thị Nho (pháp danh Nhu Ngọc) cúng dường. Kiến trúc
chánh điện hình bát giác (tượng trưng Bát Chánh Đạo) với ba tầng mái
(hai mái trên lợp ngói móc Biên Hòa, mái dưới lợp fibro sơn đỏ). Chánh
điện có đường kính 18,10m, cột cái cao 11,40m, cột hàng 4 cao 3,50m.
Tượng đức Phật Thích Ca bằng đá trắng cao 1,60m được tôn trí ở pháp tháp
giữa chánh điện. Trên tháp thờ bộ Đại Tạng kinh Việt Nam, phía sau thờ
ảnh Tổ Sư Minh Đăng Quang.
Tôn tượng Đức Bổn Sư tại Chánh điện Tổ Đình Ngọc Viên
Di ảnh Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang tại Chánh điện Tổ Đình Ngọc Viên
Bộ Chơn Lý hiện còn được thờ tại Tổ Đình Ngọc Viên
Với diện tích đất 6.193m2, ngoài ngôi chánh điện, Tịnh xá đã tôn tạo, xây dựng nhiều công trình khác như: cốc Tổ Sư (lập năm 1948, trùng tu năm 1999) bên cạnh cây bồ đề do chính Tổ Sư gieo trồng, nhà thờ Cửu huyền thất tổ, nhà Tỳ kheo, nhà Sa di, nhà khách nam Phật tử, nhà khách nữ Phật tử, các cốc nhỏ dành cho các sư tĩnh tu, thư viện, trai đường, nhà bếp...
Nhiều vị cao đồ của Tổ sư đã đến trụ xứ, tu học tại tịnh xá như: Trưởng lão Nhị Tổ Giác Chánh, Trưởng lão Giác Tánh, Trưởng lão Giác Như...
Cốc Tổ sư Minh Đăng Quang tại Tổ đình Ngọc Viên
Giảng đường Pháp Vân
'
Nhà Thọ Trai
Các sinh hoạt tín ngưỡng, hướng dẫn Phật pháp cho giới cư sĩ và chương trình tu học hàng ngày của chư Tăng được duy trì thường xuyên, nghiêm túc. Bên cạnh đó, Hòa thượng trụ trì Giác Giới cũng động viên chư Tăng và Phật tử tịnh xá tích cực đóng góp trong các mặt phát triển của Phật giáo tỉnh nhà, đặc biệt là công tác giáo dục và từ thiện xã hội.
Giờ Tụng Giới Bổn Tăng
Giờ Thiền Tọa
Giờ Thiền hành
Giờ học Pháp tại Giảng đường Pháp Vân
Tịnh xá hiện còn lưu giữ nhiều di vật của Tổ Sư như: giường nằm bằng gỗ, hai bồ đoàn, một biển ghi Đoàn Du Tăng thường treo trên xe khi hành đạo, một giá để kinh...
Tịnh xá ngày nay còn là một cơ sở Phật giáo hoạt động tích cực trong công tác giáo dục và từ thiện xã hội tại địa phương.
Giờ Thọ Trai
Tịnh
xá thuộc Giáo đoàn 1 là Giáo đoàn Du tăng đầu tiên của Giáo hội Tăng
già Khất sĩ Việt Nam, nay là hệ phái Khất sĩ, một trong chín tổ chức
thành viên tham gia Ban vận động thống nhất Phật giáo, thành lập Giáo
hội Phật giáo Việt Nam ngày nay. Giáo đoàn 1 do Tổ Sư Minh Đăng Quang
thành lập năm 1944, trực tiếp thu nhận Tăng Ni xuất gia, hướng dẫn hành
đạo. Trong mười năm hành đạo, Tổ Sư đã chứng minh thành lập hơn 20 ngôi
tịnh xá đầu tiên, thu nhận hơn 100 Tăng Ni xuất gia và truyền thọ Tam
quy Ngũ giới cho hằng chục vạn tín đồ Phật tử tại gia. Giáo đoàn 1 hiện
có 21 ngôi tịnh xá, tịnh thất.
Đây là ngôi Tổ đình của hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam. Hệ phái này hiện có hơn 400 ngôi tịnh xá từ Quảng Trị đến Cà Mau.
125. CHÙA PHƯỚC HẬU - Vĩnh Long
Chùa
tọa lạc tại xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.720574.
Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng vào hậu bán thế kỷ XVIII.
Thiền sư Hoằng Chỉnh ở Quảng
Ngãi vào tu đã trùng tu chùa vào năm 1895 và 1910. Chùa được tiếp tục
trùng tu và mở rộng dưới thời Hòa thượng Khánh Anh từ năm 1939 và Hòa
thượng Thiện Hoa từ năm 1961 đến năm 1972.
Chùa được trùng tu năm 1995. Chùa có hai ngôi tháp đẹp nổi tiếng, là tháp Thiện Hoa và tháp Đa Bảo. Năm 1972, Hòa thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, Thượng tọa trụ trì Thích Hoàn Phú đã cho xây tháp Thiện Hoa, thờ linh cốt của Ngài.
Chùa Phước Hậu
Mặt tiền chùa
Tháp Đa Bảo được kiến tạo vào năm 1966, gồm ba tầng. Tầng trên thờ tượng đức Phật nhập niết bàn và Xá lợi Phật. Tầng giữa thờ Pháp Bảo (một bộ kinh Pháp Hoa). Tầng dưới: Phía Đông thờ linh cốt Tổ Khánh Anh, phía Nam thờ linh cốt HT Thích Quảng Đức, phía Tây thờ linh cốt Tổ Khánh Hòa, phía Bắc thờ linh cốt Tổ Huệ Quang, trung tâm thờ đất Phật tại tám Phật tích ở Ấn Độ.
Toàn cảnh chùa
Lễ giỗ tổ Khánh Anh hàng năm vào ngày 29 và 30 tháng giêng Âm lịch trở thành ngày hội của đông đảo Tăng Ni, Phật tử và dân chúng địa phương.
126. CHÙA TIÊN CHÂU - Vĩnh Long
Chùa tọa lạc ở ấp Bình Lương, xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
Chùa ở cù lao An Bình, cách trung tâm thị xã Vĩnh Long khoảng 1km theo
hướng Tây – Tây bắc. Qua sông Cổ Chiên, chùa cách bến đò khoảng 100m. ĐT
: 070.858965.
Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa Tiên Châu, tức Tiên Châu Tự, còn có tên là chùa Di Đà [1]; là một ngôi chùa cổ nhất ở tỉnh Vĩnh Long (Việt Nam)[2].Chùa Tiên Châu nằm trên bãi Tiên, bên tả ngạn sông Cổ Chiên, thuộc cù lao An Bình (tên tục là cù lao Táng)[3]. Xưa nơi đây thuộc làng Bình Lương và An Thành (nay là ấp Bình Lương, xã An Bình [4]), huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
Mặc dù chỗ ngôi chùa tọa lạc cách trấn thành Vĩnh Long không xa (chỉ cách có con sông Cổ Chiên),
song ở đây không khí tĩnh mịch, cây cối tốt tươi, nhà ở thưa thớt. Theo
truyền thuyết, vào những đêm trăng thanh gió mát, thỉnh thoảng có tiên
nữ xuống trần tắm gội và đùa giỡn.
Do đó, bãi sông này được đặt tên là bãi Tiên (Tiên Châu) hay bãi Bích Trân. Ngoài ra, vì vùng đất này có nhiều rạch nhỏ, ghe thuyền có thể qua lại dễ dàng nên còn tên là bãi Bát Tân (có nghĩa là đi bốn phương tám hướng).
Nói về chùa Tiên Châu, trong sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn:
- Chùa Di Đà ở trước bãi Bích Trân, thuộc địa phận huyện Vĩnh Bình,
do Hòa thượng Hoàng Đức Hội dựng, nước chảy vòng quanh, am viện thanh
u, tục gọi chùa Tiên Châu, lại gọi là chùa Tô Châu[5].
Nói về bãi Tiên, trong sách Gia Định thành thông chí có đoạn:
- Ở phía bắc trấn thành, chu vi 12 dặm,
sắc cây xanh biếc, ánh nước long lanh như ngọc bích. Lại có tên là Bát
Tân, ý nói bến nước thông cả tám hướng. Nơi này làm cồn cát bảo vệ cho sông Long Hồ,
hai bên khép lại như cái vạt áo, quanh vòng ôm lấy hai thôn Bình Lương
và An Thành. Bên bờ có những ngư dân phơi lưới, treo tơi, ẩn hiện nơi
ngọn rừng, gốc cây. Sông thu thuyền câu giỡn nguyệt, hát hò dưới rặng
bần, lênh đênh bên cồn cát trắng, bập bềnh qua lại, tạo nên lạc thú của
dân chài [6].
Theo bài viết về chùa Tiên Châu của tác giả Trần Thành Trung, thì khoảng giữa thế kỷ 18 ở nơi bãi Tiên đã có một am nhỏ bằng tranh tre vách lá, gọi là am Bãi Tiên. Người gầy dựng là Hòa thượng Giác Nguyên (trụ trì: ? -1801), người gốc Thừa Thiên, đệ tử của Thiền sư Liễu Quán (? - 1743), theo phái Tịnh độ tông, thờ Phật A-di-đà [7]
Năm 1801, sau khi Hòa thượng Giác Nguyên viên tịch, Ni sư Diệu Thiện đến chăm nom am Bãi Tiên. Đến đây, ni sư đã vận động tín đồ và khách thập phương quyên góp tiền của, cất lại am, rồi đổi tên gọi là chùa Bãi Tiên.
Năm 1801, sau khi Hòa thượng Giác Nguyên viên tịch, Ni sư Diệu Thiện đến chăm nom am Bãi Tiên. Đến đây, ni sư đã vận động tín đồ và khách thập phương quyên góp tiền của, cất lại am, rồi đổi tên gọi là chùa Bãi Tiên.
Chùa Tiên Châu do Hòa thượng Hoàng Đức Hội dựng có hình chữ "tam",
gồm ba gian nối liền nhau là chánh điện, hậu tổ và hậu liêu. Trong chùa
có tất cả 96 cột gỗ tròn bằng danh mộc, các kèo, xuyên, trính bằng căm xe, gõ đỏ được chạm trỗ khéo léo của các nghệ nhân địa phương và từ Huế vào. Sau đó, chùa Tiên Châu còn được trùng tu nhiều lần, mà lần sửa đổi quan trọng nhất là vào năm Kỷ Hợi (1899).
Khi ấy chùa có bốn gian, gồm tiền đường, chánh điện, trung đường và hậu
tổ. Mỗi gian đều làm theo kiểu tứ trụ, được nới rộng theo chiều ngang
dọc nhờ các kèo đấm kèo quyết. Bộ giàn trò bằng gỗ quý, mái ngói âm
dương, xung quanh đóng vách bổ kho.
Vào khoảng năm 1945, quân đội Pháp đến tái chiếm Vĩnh Long. Từ dưới tàu chiến dàn ở sông Cổ Chiên, họ đã nã đại bác lên bờ. Đạn bay tới tấp vào chùa, nhưng chỉ trúng các cột kèo, còn các tượng Phật chẳng xây xát gì[8]. Đến sau Tết Mậu Thân (1968), chùa lại bị chiến tranh làm cho hư hại nhiều.
Vì thế, ông Đốc phủ Võ Văn Châu đã đứng bán 5 cây sao của chùa đồng thời vận động tín đồ và khách thập phương, để có tiền trùng tu lại chùa, theo bản thiết kế của Hòa thượng Thiên Hương từ Sài Gòn đem về. Nội điện vẫn giữ như cũ, dựng lại mặt tiền bằng vật liệu bê tông. Sau đó, chùa có chiều dài 46 mét, rộng 20 mét. Trên nóc có 5 ngọn tháp, tháp ở giữa là lớn hơn cả, chánh giữa tháp treo biển Tiên Châu Tự.
Năm 2009, cổng chùa Tiên Châu lại được xây mới, và toàn bộ ngôi chùa cũng được sơn phết lại.
127. CHÙA XIÊM CÁN -Bạc Liêu
Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này. Chùa Xiêm Cán mang kiến trúc Angkor của người Campuchia, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang.
Đối với chùa Khmer, chánh điện thường quay về hướng Đông vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông. Thông thường, ở đâu có chùa thì đồng bào Khmer tập trung ở xung quanh để học chữ, học giáo lý và học nghề. Vì vậy nên họ ví ngôi chùa là "trung tâm văn hóa của người Khmer". Chính vì sự gắn bó mật thiết như thế nên họ rất tự hào về văn hóa của dân tộc mình.
Chùa Xiêm Cán nằm cách thị xã Bạc Liêu
7km trên đường ra vườn chim Bạc Liêu. Đây là ngôi chùa của người Khmer
lớn nhất và đẹp nhất trong vùng. Chùa được xây dựng hồi thế kỷ 19 với
kiến trúc độc đáo. Trên những hàng cột là phù điêu các tiên nữ và những
quái vật. Theo triết lý của người Khmer, đó là những thử thách đối với
Phật tử trên bước đường tu thành chánh quả.
Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này. Chùa Xiêm Cán mang kiến trúc Angkor của người Campuchia, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang.
Đối với chùa Khmer, chánh điện thường quay về hướng Đông vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông. Thông thường, ở đâu có chùa thì đồng bào Khmer tập trung ở xung quanh để học chữ, học giáo lý và học nghề. Vì vậy nên họ ví ngôi chùa là "trung tâm văn hóa của người Khmer". Chính vì sự gắn bó mật thiết như thế nên họ rất tự hào về văn hóa của dân tộc mình.
Ngôi chùa Xiêm Cán này do chính tay các nghệ nhân địa phương xây dựng bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Bên trong chánh điện của chùa đã phản ánh tính thẩm mỹ rất cao của người Khmer với những hoa văn độc đáo. Ở vị trí trung tâm trên nóc sala trang trí hình ảnh đền Angkor Wat, nơi khởi nguồn của phong cách kiến trúc Khmer. Người Khmer tu theo thuyết của Phật Thích Ca nhưng theo hướng của Phật giáo Tiểu Thừa nên trong Chánh điện thờ Phật Thích Ca là chính.
Chùa mang kiến trúc Angkor của người Campuchia, thể hiện ở những họa
tiết nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang.Gian chính điện nằm
ngay trung tâm của khuôn viên, trên nền cao 1,5m, nhiều bậc cấp và có
hành lang bao quanh.
Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này.
Với hai màu chủ đạo là đỏ và vàng, kiến trúc ở đây lúc nào cũng rực rỡ dưới nắng, dường như không chịu sự chi phối của thời gian
Tượng Phật nằm là nơi được nhiều người dân hương khói
Cột trụ biểu là hình tượng của con rắn 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ.
Tháp chuông cổ, trên tầng 2 là nơi thờ xá lị
Nơi đây cũng có những sala là nơi sư sãi nghỉ ngơi
Hoa văn chạm khắc đều mang đậm phong cách của người Khmer
Bên trong điện thờ trưng bày nhiều bức vẽ về quá trình khổ luyện của Đức Phật, có thể coi là tư liệu quý báu cho những người theo đạo Phật.
Khu mộ tháp yên bình dưới bóng cây
Một điều đặc biệt nữa là xung quanh 4
bức tường của chánh điện bày trí rất nhiều hình vẽ giải thích quá trình
tu hành khổ luyện của Đức Phật từ lúc sinh ra, đến lúc làm Thái tử cho
đến khi vào cõi Niết bàn. Đối diện chánh điện là cột trụ biểu, là hình
tượng của con rắn 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ ngụ ý rằng
giáo lý Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng
thiện như chính loài rắn đã thiện. Dù cuộc sống còn không ít những lo
toan nhưng dân tộc Khmer rất mộ đạo.
Không chỉ gìn giữ bản sắc văn hóa của
dân tộc, họ còn cố gắng xây dựng cho những ngôi chùa ngày càng to lớn và
đẹp đẽ hơn. Không chỉ choáng ngợp bởi vẻ bề thế và lộng lẫy của chùa
Xiêm Cán, người Khmer ở đây còn rất mến khách. Họ thật thà, chân chất,
hiền lành và luôn cần cù, sáng tạo.
Qua bao đời người, họ đã lao động, vun
đắp tạo cảm giác thư thái cho những người ghé thăm chùa. Vào những dịp
lễ hội lớn như lễ Ok Om bok, lễ Chol Chnam Thmay, lễ Đôn Ta, không khí
chùa thật rộn ràng. Ngày nay, người ta cảm nhận một sắc thái văn hóa
đang phồn thịnh và rất đặc trưng của người Khmer đang từng ngày được gìn
giữ, phát huy nhằm làm đẹp hơn, phong phú và đa dạng hơn cho văn hóa
Việt Nam.
128. CHÙA TAM BẢO - Rạch Giá
Chùa Tam Bảo là một ngôi chùa cổ tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Chùa Tam Bảo được lập bởi bà Dương Thị Oán, ban đầu có kết cấu đơn sơ, vật liệu chính là tre nứa. Trong thời gian bị Tây Sơn truy đuổi Nguyễn Ánh đã từng trú ẩn tại đây và được bà tặng những cuộn tơ tằm quý giá để làm quai chèo không đứt khi vượt biển[1]. Chính vì thế sau khi lên ngôi, năm 1803, vua đã ban biển Sắc tứ cho chùa, từ đó, chùa được gọi là Sắc tứ Tam Bảo - 敕賜三寳[2].
Sau khi Hòa thượng Trí Thiền và Sư Thiện Ân bị bắt, chùa Tam Bảo bị đóng cửa, không ai được lui tới. Sau 1945 chùa mới được mở cửa lại. Tăng tín đồ Phật tử và nhân dân tổ chức một lễ cầu siêu lớn tại chùa để cầu nguyện cho Hòa thượng Trí Thiền, Sư và các đồng chí đã chết.
.
Chùa tọa lạc nơi cao ráo, thoáng mát, trước cửa chùa có ao sen rộng và hòn non bộ. Trước chánh điện là những tượng Phật lớn trang nghiêm, trầm mặc. Chánh điện được thiết kế theo kiểu thượng lầu hạ hiên. Các bàn thờ được chạm trổ công phu, thếp vàng rực rỡ theo dạng “Lưỡng Long triều Nguyệt”, “Song Phụng Triều Châu”, “Bát Tiên”… với màu sơn son thếp vàng còn rực rỡ. Các tượng phật, bồ tát bằng gỗ như Di Lặc, Chuẩn Đề, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm Thế Chí… được điêu khắc với trình độ mỹ thuật cao.
129. CHÙA HẢI SƠN - Hà tiên
Chùa này còn có tên là Chùa Hang. Chùa Hải Sơn tọa lạc ở xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. ĐT: 077.854544. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Đây là một di tích nằm trong khu Du Lịch Hòn Phụ Tử cách Ba Hòn 18km, và cũng là điểm hành hương và cũng là điểm tham quan của Hà Tiên-Kiên Giang. Chùa nằm nơi chân núi An Hải Sơn. Vì là núi đá vôi bị xâm thực hàng ngàn năm, nên phía sau chùa có một hang rộng ăn thông ra tới biển, nơi có Hòn Phụ Tử.
Chùa được thành lập vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Thời bấy giờ, một vài nhà sư Xiêm La theo đoàn ngư dân đánh cá đến vùng đất Hà Tiên đã đưa hai pho tượng đức Phật Thích Ca đến thờ phụng trong một hang núi tự nhiên tại hòn Chông. Ngôi chùa do các vị sư Xiêm La quản lý đến năm 1770. Sau đó, do chiến tranh, các vị sư Xiêm La về nước, chùa bị bỏ hoang một thời gian. Cư dân địa phương đã thỉnh các vị sư gốc Khmer đến trụ trì chùa, nhưng không bao lâu, các vị sư này chuyển sang xây dựng ngôi chùa Ba Trại (gọi Ba Trại vì chùa nằm trong vùng căn cứ nghĩa quân Ba Trại dưới chân núi Hòn Chông của Lãnh binh Nguyễn Trung Trực).
Năm 1800,
hai anh em ruột Võ Thường Lễ và Võ Thường Nghĩa (chưa xác định được
pháp danh) trùng tu lại ngôi chùa cũ và đặt tên là Chùa Hang. Kế tục trụ
trì chùa Hang cũng là một nhà sư người Việt có pháp danh là Thiện Tông.
Hang đá phía sau chùa Hải Sơn chạy theo trục Đông Bắc - Tây Nam, chiều dài hơn 50m, cửa động nhìn ra biển. Chiều dài hang ăn thông 40m, chỗ hẹp nhất chỉ khoảng 3-4 người đi lọt. Phía trong hang, có các hình dáng kỳ quái do nước ăn mòn tạo nên.
130. CHÙA LONG QUANG -Cần Thơ
Chùa Long Quang (tên chính thức là Long Quang Cổ Tự, chữ Hán: 隆光古寺) là một ngôi cổ tự bên bờ sông Bình Thủy; hiện tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, thuộc phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, Việt Nam.
Đường nhỏ vào chùa qua nhiều kênh rạch
Sau khi Thiền sư Thiện Quyền qua đời, khoảng năm Kỷ Mùi (1859)
có nhà sư Quảng Hiền (họ Trần) đến làm Trụ trì chùa. Lúc bấy giờ ngôi
chùa đã bị hư hỏng nặng, Sư bèn vận động đồ chúng góp công của xây dựng
lại chùa, đến khoảng năm 1861 thì hoàn thành và đổi tên lại là Long Quang.
Năm Kỷ Sửu (1889),
có Hòa thượng Từ Quang (pháp hiệu Ngộ Cảm), đến làm Trụ trì chùa. Ở
đây, nhà sư vừa tu, vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân, nên được nhiều
người tôn kính. Năm 1922, nhà sư Từ Quang đã cho tạc khoảng 50 pho tượng thờ bằng gỗ giáng hương. Đặc biệt hơn cả là bộ Thập Bát La Hán (mỗi tượng cao 80 cm,
có tư thế ngồi khác nhau trông rất sinh động) được chạm khắc và đục đẽo
từ một khối gỗ, chứ không chắp ghép từng phần. Các tác phẩm ấy đều do
một thợ nhóm điêu khắc (đứng đầu là ông Tài Công Kiểm) ở Cần Thơ xưa
thực hiện [1].
Chính điện chùa Long Quang
Sau khi Hòa thượng Từ Quang viên tịch (1924), học trò của Hòa thượng là nhà sư Trí Thới [4] lãnh nhiệm vụ Trụ trì chùa. Năm Canh Ngọ (1930),
ngôi chùa đã bị xuống cấp trầm trọng, lại được sự ủng hộ của các Phật
tử, nên sư Trí Thới liền cho tái thiết lại chùa, đến cuối năm 1930,
thì hoàn thành. Sau lần trùng tu này, chùa có quy mô kiên cố (tường
gạch, mái lợp ngói) gồm một ngôi chánh điện (3 gian) rộng rãi và một nhà
khói (nhà bếp).
Tòa chính điện chùa Long Quang
Sân chùa
Bia ghi lịch sử chùa
Nội điện
Điện Phật
Điện Phật
Tượng Ông Thiện
Ban thờ Quan Thế Âm Bồ Tát
Điện Phật
Mái chùa
Tòa chính điện chùa Long Quang
Nhà giảng pháp
Một bên chùa
Ban thờ Tổ
Tượng thờ các vị La Hán bằng gỗ
Không gian nội điện
Nhà khách
Trong khoảng thời gian này, nhà sư Trí Thới có mời ông Tòng Hiên (là một Văn Thân ở Quảng Ngãi chạy vào Nam lánh nạn) đến ở tại chùa, để bốc thuốc và dạy chữ cho người dân ở địa phương [5].
Tháng 9 năm 1945, quân Pháp trở lại Việt Nam
lần thứ hai. Ủng hộ công cuộc chống Pháp của nhân dân Việt, chùa Long
Quang trở thành nơi nuôi chứa của nhiều chiến sĩ hoạt động trong nội
thành. Năm 1947,
hưởng ứng lời kêu gọi "Tiêu thổ để kháng chiến", Thiền sư Trí Thới hiệp
cùng tăng chúng tại đây đã tháo dỡ toàn bộ chùa Long Quang để làm vật
cản ngăn tàu Pháp tại Rạch Cam; đồng thời hiến hết các đồ thờ bằng đồng
để đúc đầu đạn, trong đó có một đại hồng chung cổ [1].
Năm 1963, Thiền sư Trí Thới viên tịch. Năm sau (Giáp Thìn, 1964), thầy Thích Chơn Khánh [6] đến trông coi chùa. Lúc bấy giờ ngôi nhà chùa đã xuống cấp, lại được Phật tử và nhân dân trong vùng ủng hộ, nên thầy Chơn Khánh đã tiến hành xây cất lại chùa Long Quang trên nền cũ.
Vườn tháp
Khi công trình gần xong, thì bị bom đạn chiến tranh làm hư hạị nhiều nên phải làm lại, mãi đến năm Bính Ngọ (1966), ngôi chánh điện mới được xây xong. Theo tài liệu, thì trước năm 1975, trong cuộc đấu tranh chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, chùa Long Quang cũng từng là nơi ở, là điểm liên lạc của nhiều cán bộ thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Cần Thơ[1].
Trụ trì chùa được gần 20 năm, năm 1983,
nhà sư Thích Chơn Khánh viên tịch. Gần 10 năm sau đó, nhà chùa không có
nhà sư nào đến làm chủ trì. Việc nhang đèn được một số Phật tử ở gần
chùa trông coi.
Đàng sau chánh điện
Đến năm Nhâm Thân (1992), nhận được lời thỉnh cầu của các Phật tử tại địa phương, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Cần Thơ bổ nhiệm Đại đức Thích Bình Tâm[7]. Tháng 12 năm 1994, các ban ngành chủ quản hiệp cùng Trụ trì và các Phật tử đã tái thiết lại ngôi chùa Long Quang với dáng vẻ như hiện nay [1].
Điện thờ Phật
Chùa Long Quang tọa lạc trong một khuôn viên rộng khoảng 7.000 m2 nằm cạnh con đường nhỏ trải nhựa và một con rạch nhỏ. Từ ngoài vào trong, có các hạng mục đáng chú ý sau:
Cổng tam quan bằng gạch với hai tầng mái ngói, đầu mái uốn
công có gắn hoa văn. Bên trên nóc có gắn đôi rồng trắng ngẩng cao đầu
quay ngược vào bánh xe pháp luân ở giữa. Hai cột chính có đôi hai câu
liễn đối bằng chữ Hán.
Ngôi chánh điện rộng 324 m2, xây theo lối kiến trúc "Thượng
lầu Hạ hiên" (ảnh 2), với mái ngói và tường gạch, cà có tất cả 5 cửa ra
vào (trước: 2, sau: 1, bên hông: 2).
Hoa, cây cảnh
Ngay giữa trung tâm là điện thờ chính. Ở đây, bên trên có treo bức hoành phi bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo ở giữa gắn bốn chữ Hán Đại Hùng Bảo Điện; bên dưới gắn khung bao lam cũng được chạm trổ hoa văn tinh xảo thếp vàng, hai bên cũng có gắn hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Điện thờ chính được đóng bằng gổ có 2 bậc. Bậc cao kê 3 ghế thờ, tôn trí ba pho tượng Tam Thế Phật (A Di Đà, Đại Thế Chí, Quán Thế Âm) bằng gỗ cao hơn một mét tạc theo tư thế ngồi; bậc thấp tôn tượng Bồ Tát Di Lặc.
Vườn chùa
Ở phía trước bậc cao vừa kể là tượng Phật Thích Ca nhập niết-bàn, bằng gỗ dài một mét, được chạm trổ hoa văn tinh xảo. Đối diện điện thờ chính là bàn thờ Vi Đà Hộ Pháp và Tiêu Diện Đại Sĩ (Ông Tiêu).
131. LIÊN TRÌ CỔ TỰ -Cần Thơ,
131. LIÊN TRÌ CỔ TỰ -Cần Thơ,
Chùa Liên Trì – còn gọi là Liên Trì Cổ
Tự, có khuôn viên trên 3.000m2 nằm trên một diện tích đất rộng 21.000m2,
tọa lạc tại số 10/15, tổ 9, khu vực Thới Thạnh, phường Thới An Đông,
quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Hiện nay chùa thuộc hệ phái Bắc tông,
do Thượng tọa Thích Thiện Tài làm trụ trì.
Thời đó vùng đất này còn rất hoang sơ, bà con người dân tộc Khmer cùng với các sư sãi dựng lên ngôi tự viện trên một gò đất cao. Ban đầu chùa còn rất đơn sơ cột cây mái lá và chưa có tên, chỉ biết theo cách gọi truyền miệng với nhau là “Chùa ông Lục”. Lâu dần, vùng đất này có nhiều người Kinh đến định cư sinh sống, người Khmer và các sư sãi dần dần chuyển sang vùng kế cận, từ đó ngôi chùa nhỏ và mấy chiếc thảo am không người trông coi nhang khói. Đến năm Nhâm Ngọ - 1822 (năm Minh Mạng thứ 3), có vị Thiền sư Liễu Thông, tự Chơn Giác thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 37) tình cờ vân du đến đây, Ngài vận động bà con dân làng cùng sửa sang lại và thu nhận thêm nhiều vị tăng đến cùng tu học.
Đến năm Kỷ Dậu - 1849 (năm Tự Đức thứ 3) có thầy du tăng pháp danh Thiện Quả, (tục gọi ông Đạo Quạ) đến sửa sang lại ngôi chùa, thu nhận đệ tử, hành đạo và trụ trì chùa được 9 năm. Năm Mậu Ngọ - 1858, Thầy Thiện Quả đi hành đạo nơi khác, truyền trụ trì lại cho đồ đệ tên là Thầy Hai người ở Trà Cú (Trà Lòng) tiếp tục trông coi chùa được 18 năm, đến năm Bính Tý – 1876 Thầy Hai viên tịch. Từ đó chùa không còn người trụ trì, chỉ có bà con trong xóm sớm hôm nhang khói.
Mãi đến năm Canh Thìn – 1882 (năm Tự Đức thứ 36) có được vị Thiền sư Phước Định - húy Đạt Thiền, thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 38) về hành đạo. Thiền sư Phước Định là người Việt nhưng có thời gian sang học đạo tại chùa Tâm Băng, tỉnh Bát Tom Pong - Campuchia. Từ đó, ngôi chùa được trùng tu xây cất lại khang trang, nhiều bà con tín đồ tin tưởng quy tụ đến chùa ngày càng đông. Trong thời gian này, có nhiều người đến nhập môn tu học xin làm đệ tử của Thiền sư và đều tu đắc đạo như các vị: Yết Ma Phước Quang(1), Giáo Thọ Từ Quang(2), Phước Chơn, Từ Minh... Dựa vào quang cảnh có ao sen bên hông chùa, Thiền sư Phước Định chính thức đặt pháp hiệu cho chùa là “Liên Trì Cổ Tự”.
Hòa thượng Phước Định trụ trì chùa được 29 năm thì tạ thế vào ngày 30 tháng 7 năm Tân Hợi (1911) hưởng dương 52 tuổi. Sau khi Hòa thượng Phước Định viên tịch, đệ tử thứ hai của Ngài là Giáo Thọ Từ Minh, húy Ngộ Thúy kế thế trụ trì chùa Liên Trì, nối tiếp truyền trì sự nghiệp đạo pháp do Hòa thượng Phước Định để lại thêm được 19 năm sau. Đến năm Canh Ngọ - 1930 do phải chuyển tu nơi khác, Thầy Từ Minh đã trao truyền chùa cho đệ tử là Thầy Niệm Pháp.
Theo dân chúng, chùa hình thành cách đây gần 200 năm, vào đầu thế kỷ XIX, năm Nhâm
Thân – 1812 (năm Gia Long thứ 11).
Thời đó vùng đất này còn rất hoang sơ, bà con người dân tộc Khmer cùng với các sư sãi dựng lên ngôi tự viện trên một gò đất cao. Ban đầu chùa còn rất đơn sơ cột cây mái lá và chưa có tên, chỉ biết theo cách gọi truyền miệng với nhau là “Chùa ông Lục”. Lâu dần, vùng đất này có nhiều người Kinh đến định cư sinh sống, người Khmer và các sư sãi dần dần chuyển sang vùng kế cận, từ đó ngôi chùa nhỏ và mấy chiếc thảo am không người trông coi nhang khói. Đến năm Nhâm Ngọ - 1822 (năm Minh Mạng thứ 3), có vị Thiền sư Liễu Thông, tự Chơn Giác thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 37) tình cờ vân du đến đây, Ngài vận động bà con dân làng cùng sửa sang lại và thu nhận thêm nhiều vị tăng đến cùng tu học.
Đến năm Kỷ Dậu - 1849 (năm Tự Đức thứ 3) có thầy du tăng pháp danh Thiện Quả, (tục gọi ông Đạo Quạ) đến sửa sang lại ngôi chùa, thu nhận đệ tử, hành đạo và trụ trì chùa được 9 năm. Năm Mậu Ngọ - 1858, Thầy Thiện Quả đi hành đạo nơi khác, truyền trụ trì lại cho đồ đệ tên là Thầy Hai người ở Trà Cú (Trà Lòng) tiếp tục trông coi chùa được 18 năm, đến năm Bính Tý – 1876 Thầy Hai viên tịch. Từ đó chùa không còn người trụ trì, chỉ có bà con trong xóm sớm hôm nhang khói.
Mãi đến năm Canh Thìn – 1882 (năm Tự Đức thứ 36) có được vị Thiền sư Phước Định - húy Đạt Thiền, thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 38) về hành đạo. Thiền sư Phước Định là người Việt nhưng có thời gian sang học đạo tại chùa Tâm Băng, tỉnh Bát Tom Pong - Campuchia. Từ đó, ngôi chùa được trùng tu xây cất lại khang trang, nhiều bà con tín đồ tin tưởng quy tụ đến chùa ngày càng đông. Trong thời gian này, có nhiều người đến nhập môn tu học xin làm đệ tử của Thiền sư và đều tu đắc đạo như các vị: Yết Ma Phước Quang(1), Giáo Thọ Từ Quang(2), Phước Chơn, Từ Minh... Dựa vào quang cảnh có ao sen bên hông chùa, Thiền sư Phước Định chính thức đặt pháp hiệu cho chùa là “Liên Trì Cổ Tự”.
Hòa thượng Phước Định trụ trì chùa được 29 năm thì tạ thế vào ngày 30 tháng 7 năm Tân Hợi (1911) hưởng dương 52 tuổi. Sau khi Hòa thượng Phước Định viên tịch, đệ tử thứ hai của Ngài là Giáo Thọ Từ Minh, húy Ngộ Thúy kế thế trụ trì chùa Liên Trì, nối tiếp truyền trì sự nghiệp đạo pháp do Hòa thượng Phước Định để lại thêm được 19 năm sau. Đến năm Canh Ngọ - 1930 do phải chuyển tu nơi khác, Thầy Từ Minh đã trao truyền chùa cho đệ tử là Thầy Niệm Pháp.
Trong
thời gian này, nền chùa (ngôi chánh điện) nằm sát mép rạch, bị sạt lở
gần tới nền, và phần mái vách cũng xuống cấp mục nát, nên phải dời vào
bên trong cho an toàn. Thầy Niệm Pháp đã kêu gọi bà con dân làng và các
tín đồ phật tử cùng chung xây dựng lại ngôi chùa. Đồng bào, tích cực tham gia đóng góp nhiều tiền của, vật liệu
để xây dựng mới lại ngôi Tam Bảo (cách nền chùa cũ sát mép rạch vô
khoảng 40 mét), trên nền chùa hiện nay.
132 .CHÙA PHẬT HỌC NAM VIỆT -Cần thơ
Chùa tọa lạc ở số 11 đại lộ Hòa Bình, thành phố Cần Thơ. ĐT: 071.827685. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa trước đây là trụ sở của Hội Phật học Nam Việt tỉnh Cần Thơ, được Hội Phật học kiến tạo vào năm 1951.
Chùa
trải qua nhiều đời trụ trì. Hòa thượng Thích Thiện Phước về trụ trì
chùa từ năm 1965 là vị trụ trì lâu năm nhất. Hòa thượng viên tịch năm
1993. Đại đức Thích Minh Thông kế vị trụ trì đã tiếp tục có nhiều đóng
góp và phát huy vai trò của chùa trong những hoạt động Phật sự tại địa
phương.
Đại đức Thích Minh Thông đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa
vào hai năm 1998 — 1999. Ngày nay, chùa là một tòa phạm vũ uy nghiêm ở
trung tâm thành phố Cần Thơ.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Ba
pho tượng lớn tôn trí ở trung tâm là tượng đức Phật A Di Đà, đức Phật
Thích Ca và đức Phật Dược Sư.
Chùa là nơi quy tụ đông đảo Phật tử
đến sinh hoạt và nghe giảng pháp, cùng nhiều đoàn khách trong nước, nước
ngoài tham quan, chiêm bái.
133. CHÙA HỘI LINH- Cần Thơ
Chùa Hội Linh, còn có tên gọi khác Hội Linh Cổ Tự, thuộc hệ phái Bắc tông - tọa lạc trên diện tích 6.500m2 tại số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Chùa Hội Linh được khởi lập vào ngày rằm tháng hai
năm Đinh Mùi – 1907, theo dòng Thiền Tông Lâm Tế. Chùa do một gia đình
phật tử - ông Phạm Văn Bường (pháp danh Thông Lý) và bà Nguyễn Thị Tám
(pháp danh Thông Ngọc) cúng dường đất cho Hòa thượng Thích Khánh Hưng,
thế danh Quý Thanh Hương đứng ra trông coi xây cất.
Cổng chùa
Ban đầu chùa được cất đơn sơ bằng cột cây, vách và mái lợp lá, cửa chùa quay ra hướng (Đông Bắc) sông Hậu, đặt tên “Hội Long Tự”. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn có tên là chùa Xẽo Cạn. Vị trí chùa trên một diện tích đất khá rộng gần 1ha ở địa phận thôn Thái Bình, tổng Định Bảo (thời Pháp thuộc); đến năm 1958 đổi lại thành xã An Bình, tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh; đến năm 1992 được đổi lại phường An Thới, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ; Và hiện nay tọa lạc tại số 314/36 đường Cách mạng tháng Tám, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Hòa thượng Thích Khánh Hưng trụ trì chùa từ ngày khởi lập đến ngày mùng 5 tháng 3 năm Giáp Dần – 1914 viên tịch. Sau khi Hòa thượng Khánh Hưng mất, Hòa thượng Thích Hoằng Đạo, thế danh Võ Văn Nhuận sinh năm Mậu Dần – 1878 thay thế trụ trì cho đến ngày mùng 7 tháng 6 năm Nhâm Tuất – 1922 thì thâu thần thị tịch, hưởng dương 45 tuổi. Mặc dù thời gian trụ trì chùa chỉ 8 năm, nhưng hòa thượng Khánh Hưng là người được bà con phật tử tin tưởng. Theo 2 bảng khắc gổ còn lưu tại chùa, ghi công đức của 75 thiện nam, tín nữ phật tử đồng hỷ cúng 2078 đồng, để hòa thượng xây cất mới ngôi chùa bằng vật liệu kiên cố - tường gạch mái lợp ngói. Mặt tiền chùa được điều chỉnh quay ngược lại về phía đường Cách mạng tháng Tám, hướng Tây Nam và đổi tên thành “Hội Linh Cổ Tự”.
Toàn cảnh chùa
134. TÂY AN CỔ TỰ -Châu Đốc
Chùa tọa lạc ở ngã ba núi Sam, xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Chùa được Tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng vào năm 1847. Năm 1861, chùa được trùng tu chánh điện và hậu tổ. Kể từ đời Phật thầy Minh Huyên trụ trì đến nay, chùa đã trải qua 7 đời truyền thừa. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa ngày nay được tôn tạo dưới thời Hòa thượng Bửu Thọ vào năm 1958. Ngài cho xây 3 ngôi cổ lầu,mặt tiền chùa và sửa lại chánh điện, tạo nét kiến trúc phương Đông kết hợp với kiến trúc Ân Độ.
Ở chánh điện và hậu điện, có khoảng 200 pho tượng, đa số bằng danh mộc. Chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối. Chùa là ngôi danh lam bậc nhất ở An Giang và Nam Bộ. Hàng năm có hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Năm 1847, Tổng đốc An-Hà (An Giang và Hà Tiên) là Doãn Uẩn (1795-1850) vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân Xiêm La, bình định được Chân Lạp, nên đã cho xây dựng một ngôi chùa bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và đặt tên là Tây An tự với hàm ý trấn yên bời cõi phía Tây [2].
Năm 1861, Hòa thượng Hoàng Ân (Nguyễn Nhất Thừa) cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Năm 1958, Hòa thượng Thích Bửu Thọ (1893–1972) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Vị sư trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Nguyễn Văn Giác (1788–1875), pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái Lâm Tế, nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế [3].
Cũng trong khoảng thời gian này (tức vào những năm 1850) ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856), người sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (1849) đến tu tại chùa, nên chùa càng nổi tiếng.
Vườn tháp chùa Tây An Các vị sư trụ trì chùa Tây An gồm: Hải Tịnh (thế danh Nguyễn Văn Giác), Hoàng Ân (thế danh Nguyễn Nhất Thừa), Huệ Quang (thế danh Nguyễn Trang Nghiêm), Thuần Hậu (thế danh Huỳnh Văn Đắc), Thiện Pháp (thế danh Ngô Văn Hòa), Thích Bửu Thọ (thế danh Nguyễn Thế Mật), Huệ Châu (thế danh Hồ Thạch Hùng), Định Long (thế danh Phạm Văn Trực), Huệ Kỉnh (thế danh Trần Văn Cung).[4]
Sách Đại Nam nhất thống chí viết về chùa Tây An như sau:
Chùa ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy[5].[6] Chùa Tây An tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, trong khuôn viên có diện tích 15.000 m2. Phía sau có núi Sam như bức bình phong nổi bật lên với màu xanh thẫm. Điểm ấn tượng nhất của chùa là mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hòa.
Chùa cất theo lối chữ “tam”, có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc Việt. Chùa được xây dựng với các vật liệu bền chắc như gạchngói, xi măng. Nơi cổng tam quan là tượng Quan Âm Thị Kính, bên trong cổng là một sân chùa nhỏ có một cột phướn cao 16 m.
Mặt tiền chùa, ở giữa là tháp thờ Phật cao hai tầng. Tầng trên là tượng Phật đứng giữa lầu cao, mái tròn cong, đỉnh nhọn như các tháp xưa ở Ấn Độ. Bốn cột tháp ở tầng dưới có các hộ pháp trấn giữ, phía trước có tượng hai con voi: bạch tượng và hắc tượng.
Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng tứ linh (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm Tự Đức thứ 32 (1879).
Trong chính điện có khoảng 150 [7] pho tượng lớn nhỏ: tượng Phật, Bồ tát, La hán, Bát bộ kim cang, Ngọc hoàng,
Huỳnh đế, Thần nông v.v...Đa số tượng đều làm bằng danh mộc, chạm trổ
công phu và mỹ thuật, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc Việt Nam vào thế kỷ 19. Ngoài ra chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối, màu sắc rực rỡ.
Chùa thường được gọi là chùa Truông, tọa lạc ở tổ 24, ấp Châu Long 6, xã Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.Chùa thường được gọi là chùa Truông, Chùa được dựng vào giữa thế kỷ XIX, đại trùng tu vào năm 1934 và những năm gần đây. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, kiến trúc chùa mang cả phong cách A-Âu. Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng ở Châu Đốc.
136. TỊNH XÁ NGỌC GIANG -Long Xuyên.
Tịnh xá tọa lạc tại số 80B đường Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Xuyên, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang.Tịnh xá tọa lạc tại số 80B đường Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Xuyên, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tịnh xá được xây dựng vào năm 1960. Sư Giác Thảo đã tổ chức trùng tu, mở rộng vào năm 1992. Tịnh xá thuộc Giáo đoàn 1 của hệ phái Phật giáo Tăng già Khất sĩ Việt Nam.
137. CHÙA LONG HƯNG-Châu Đốc
Chùa Giồng Thành, tên chữ Long Hưng tự, thuộc xã Long Sơn, huyện Phú Tân, là một ngôi cổ tự danh tiếng của tỉnh An Giang.Chùa Giồng Thành tọa lạc trên một khu đất rộng, nhiều cây cối tươi tốt, cách đường lộ nhựa Phú Tân - Tân Châu và hữu ngạn sông Cái Vừng (một đoạn của sông Tiền) khoảng 300m, và chỉ cách thị trấn Tân châu (huyện Tân Châu, tỉnh An Giang) 3 km. Nghĩ địa thế đồn Châu Đốc (do Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường chủ trì xây dựng năm 1815)[1] chật hẹp, chưa được tiện lợi để bảo vệ bờ cõi, đầu năm Quý Tỵ (1833) vua Minh Mạng
đã ban lệnh cho Tổng đốc An Hà là Lê Bá Cương và Tuần phủ An Giang là
Ngô Bá Nhân (hay Nhơn) chọn địa điểm khác để xây dựng thành trì.
Sau khi lựa được đất Long Sơn (trước đây thuộc Tân Châu Bảo) là nơi ở về thượng du, địa thế cao ráo, qua lại tiếp ứng, thiệt là chỗ hình thế hiểm trở, bèn đem việc ấy tâu lên, được nhà vua chấp thuận[2]. Năm 1834, thành Châu Đốc bị triệt phá. Tuy nhiên chưa rõ lý do gì, nhà vua lại thay đổi quyết định, tức cho xây dựng lại ở nơi cũ, còn công trình ở Long Sơn thì bị bỏ dở dang (hào thành chỉ đào được một số đoạn và chưa xây một viên đá hay viên gạch nào).
Theo sách Địa chí An Giang thì năm 1875[3], trên một giồng đất của tòa thành bị bỏ dở dang, Hòa thượng Trí Trang (Trần Minh Lý, 1825 - 1899) đã dựng lên một ngôi chùa nhỏ bằng tre lá, và được gọi là chùa Giồng Thành [4].
Đến năm 1927, Hòa thượng Chánh Hườn (1879 - 1947)[5],
là người xã Long sơn, nhận thấy cửa thiền ngày càng đông tín đồ mà chùa
thì quá cũ kỹ và chật hẹp, nên đã xin với nhà cầm quyền Pháp, cho đi quyên góp để xây cất lại ngôi thờ Phật.
Năm 1970, Hòa thượng Chơn Như (1925 - 1972)[6]. cho trùng tu lại chùa theo kiến trúc kiểu Ấn Độ. Và đây là lần trùng tu lớn nhất, và tồn tại cho đến ngày nay.
Chùa Giồng Thành được cất theo chữ "Song Hỷ", gồm có 3 gian: chánh điện, nhà giảng và hậu tổ. Chánh điện và nhà giảng có 3 nóc [7], nhà hậu tổ có 3 nóc. Chánh điện thờ Phật Thích-ca Mâu-ni, Nam Tào, Bắc Đẩu. Nhà giảng thờ Phật Mẫu và nhà hậu tổ thờ các hòa thượng trụ trì chùa. Chùa lợp ngói móc, cột chánh điện bằng gỗ căm xe có vẽ rồng. Mặt gió của chùa cất theo kiểu Ấn Độ, phía trước trên nóc chùa có tháp hai tầng hình phễu úp ngược, nên phải và bên trái nóc chùa có hai tháp.
Vào những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 20, hội kín tên Thiên Địa hội (kèo xanh, kèo Vàng) của Phan Xích Long, đã chọn chùa Giồng Thành làm cơ sở để qui tụ người chống thực dân Pháp, bởi Hòa thượng Chánh Hườn là hội viên Hội kèo vàng [8].
Một bên chùa
138. CHÙA LINH SƠN- An Giang
Chùa Linh Sơn (Ba Thê) còn được gọi là chùa Phật bốn tay núi Ba Thê, tọa lạc tại xã Vọng Thê (nay là thị trấn Óc Eo), huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một trong những địa điểm hành hương nổi tiếng của tỉnh. Chùa Linh Sơn được xây dựng vào năm 1913 (và được trùng tu mấy năm gần đây), cách chợ Vọng Thê khoảng 2 km về hướng đông. Ngôi chùa nằm trên nền một gò đất cao, bên những đại thụ râm mát, nơi triền núi Ba Thê, cạnh Khu di tích Nam Linh Sơn thuộc nền văn hóa Óc Eo.
Vào năm 1913, dân địa phương phát hiện một pho tượng Phật bốn tay ở tư thế đứng, cao 1,7 m, nằm sâu trong lòng đất khoảng hai mét, tại khu vực dân cư gần chợ Ba Thê. Trước đó, người dân cũng đã tìm thấy hai tấm bia được làm bằng đá bùn có chiều cao khoảng 1,80m, dày khoảng 0,22m, khắc chữ cổ mà nhiều nhà nghiên cứu nói có thể là chữ viết của dân tộc Phù Nam xưa. Đặc biệt, khi đặt tượng Phật vào giữa hai tấm bia này thì rất khít khao. Do sự linh ứng ấy, dân chúng quanh vùng góp công của xây dựng chùa Linh Sơn để thờ phụng và cũng từ đó, chùa có tên dân gian là chùa Phật Bốn Tay cho đến ngày nay. Vì vậy, dân quanh vùng khi ấy bèn góp công, góp của dựng lên một ngôi chùa đặt tên là Linh Sơn Tự để tôn thờ tượng Phật và gìn giữ bia cổ.
Từ thành phố Long Xuyên, theo tỉnh lộ 943, băng qua những cánh đồng lúa chín vàng mơ mênh mang tận chân trời, du khách đến thị trấn núi Sập, thủ phủ của huyện Thoại Sơn. Vượt dòng Thoại Giang đi thêm hơn 10 cây số nữa, ta sẽ tới thị trấn Óc Eo, nơi đây được các nhà khảo cổ xem như là “cái rốn”, trung tâm của nền văn minh, văn hóa Óc Eo.
Văn hoá Óc Eo là tên gọi chung của một nền văn minh gắn liền với vương quốc Phù Nam huyền thoại, có địa bàn trải rộng từ Tây đến Đông Nam bộ ngày nay. Trải qua trên dưới một ngàn năm trăm năm với bao biến động của thiên nhiên và lịch sử, nền văn hóa ấy đã bị mai một và dần rơi vào quên lãng. Ở thị trấn Óc Eo, có một ngôi chùa được người dân gọi bằng cái tên rất ấn tượng là chùa Phật Bốn Tay, tên chữ là “Linh Sơn cổ tự”.
Tam quan Linh Sơn cổ tự.
Sân chùa Linh Sơn.
Chánh điện chùa Linh Sơn ở Óc Eo thờ pho tượng Phật Bốn Tay. Pho tượng nầy có hình thể và nét mặt không giống như những tượng Phật thường gặp ở đa số các chùa chiền thuộc hệ phái Bắc tông. Tượng Phật Bốn Tay mặc y tiểu thừa, vẻ mặt và hình dạng ngài phốp pháp, sắc màu lam nhã, mắt mở lớn, ngồi kiết già và mỗi tay cầm một linh vật nhỏ. Tay phải trên cầm xâu chuỗi. Tay trái trên bắt ấn, tay phải dưới cầm chuông nhỏ, tay kia cầm trái châu. Đặc biệt ngài có đội chiếc nón như các vị Lạt Ma Tây Tạng. Nguyên tượng bằng đá đen, bán thân, về sau được gia cố thành tư thế ngồi.
Theo lời kể của sư trụ trì Thích Thiện Trí và lời truyền tụng trong dân gian thì vào năm 1913, khi người Pháp cho xe ủi đất làm đường và xây bót Ba Thê dưới chân núi, gần chợ, người ta phát hiện một pho tượng bằng đá đen có bốn tay, cao 1,7 mét, còn nguyên vẹn, nằm sâu dưới mặt đất khoảng 2 mét. Người Khmer quanh vùng tập họp thanh niên trai tráng khỏe mạnh khiêng tượng về núi để thờ, vì cho đó là tượng Neata Phrom tức thần Núi - theo tín ngưỡng thờ ông Tà của người Campuchia. Nhưng không hiểu vì sao tượng quá nặng, không sao di chuyển nổi. Sau nhờ những bô lão người Kinh đứng ra lập bàn thờ khấn vái. Thật lạ lùng, lúc ấy pho tượng mới được khiêng đi nhẹ nhàng.
Bàn thờ trong chánh điện chùa Linh Sơn.
Tượng Phật có 4 cánh tay.
Trước
đó, hai tấm bia đá bùn cũng đã được tìm thấy. Mỗi bia cao khoảng 1,8
mét, dày khoảng 20 cm, bề ngang khoảng 80 cm. Trên bia có khắc chi chít
cổ tự, không ai đọc được. Đặc biệt, khi đặt tượng Phật vào giữa hai tấm
bia này thì rất khít khao. Do sự linh ứng ấy, dân chúng quanh vùng góp
công của xây dựng chùa Linh Sơn để thờ phụng và cũng từ đó, chùa có tên
dân gian là chùa Phật Bốn Tay cho đến ngày nay.
Chùa Phật Bốn Tay có khuôn viên rộng khoảng 4.000 mét vuông. Chánh điện có kiến trúc đơn giản, diện tích chừng 100 mét vuông, quét vôi vàng, mái lợp ngói vảy cá, hai góc mái trước được đắp rồng uốn lượn. Nhưng pho tượng Phật bốn tay được coi là “báu vật” vô giá.
Cây dầu Bốn Ngón.
Hòa thượng Thích Thiện Trí trụ trì từ năm 1967 cho biết: chùa Linh Sơn do sư tổ Thiết Ma Nhiên Chánh khai sơn năm 1912, tượng Phật đem về chùa sau một năm (1913). Chùa được trùng tu năm 1983. Pho tượng Phật bốn tay là một di sản văn hóa Óc Eo, có cùng niên đại với tượng Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc. Trong các chùa chiền Phật Giáo Việt Nam xưa nay không thấy có thờ tượng Phật bốn tay, chỉ có tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn có 18 tay. Theo các nhà nghiên cứu, thật ra, tượng Phật bốn tay chính là tượng thần Visnu có rắn thần Naga bảy đầu tạo thành tán che phía sau. Riêng hai bia đá có chữ khắc vẫn chưa được giải mã, đây là loại cổ tự có cùng gốc với chữ Brami của người Ấn Độ, được sử dụng từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên.
Ở phía sau chùa Phật Bốn Tay, gần di chỉ Nam Linh Sơn (thành cổ Óc Eo) có một cây dầu mọc từ gốc lên bốn nhánh thân suông thẳng đều tỏa ra rất lạ, thon thả như những ngón tay! Dân địa phương gọi cây dầu nầy là cây Bốn Ngón. Cây Bốn Ngón thuộc họ khộp (dầu lông) cao chừng 50 mét, mình trơn. Có người còn cho đó là những ngón tay của Phật .
Về thành cổ Óc Eo, xem tượng Phật Bốn Tay, cây Bốn Ngón, du khách như ngược về quá khứ, đắm mình trong không gian một thời của vương quốc Phù Nam, nay chỉ còn là huyền thoại.
141. TỔ ĐÌNH PHẬT GIÁO HÒA HẢO - Long Xuyên
Kể từ đó, ông lần lượt làm nhiều bài thơ ca, sau được tập hợp lại thành quyển Sấm giảng thi văn giáo lý, có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ lúc bấy giờ.
Phật giáo Hòa JHảio bắt nguồn từ phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An, kết hợp tam giáo nhưng Nho và Phật là trọng tâm, là tôn giáo của người cư sĩ, không cần đầu tròn, áo vuông, không cần chùa chiền to lớn, không thờ tượng ảnh. Bửu Sơn Kỳ Hương lấy trấn điều thay thế tượng Phật, sau Hòa Hảo lấy trần nâu thay trần điều.
Nói đến Phật giáo Hòa Hảo, là nói đến Bửu Sơn Kỳ Hương là nói đến nmột chuổi chùa chiền thờ Phật, thờ Phật Thầy, quan Cố Quản Trần Văn Thành, , Bùi Tăng chủ, Nguyễn Trung Trực...
Nơi giữ hóa thân của Đức PHẬT THẬY, "Trước khi viên tịch NGÀI dặn dò bổn đạo không được làm mồ mả nguy nga, không xây đấp nấm mồ, hãy trải phẳng mặt, để sau nầy hậu thế có thể dùng để canh tác.. thật cao quí thay quan đìểm hữu ích nhân loại chúng sanh của vị hoạt Phật"
Ngôi cổ mộ và thờ tự Đức Cố Quản TRÂN VĂN THÀNH, một trong những vị đại đệ tử của Đức PHẬT THẦY, được thế gian truyền tụng là một trong 12 vị hiền thủ của đạo.
Ngôi PHƯỚC ĐIỀN TỰ là nơi Đức PHẬT THẦY đặc chân chửa trị bệnh dịch lần đầu cho dân chúng, sau đó Ngài cho thành lập "Trại Ruộng" nhằm khuyết khích dân chúng lo làm ăn - tu hiền, phát triển đời sống trong các miền quê hẻo lánh. Thụôc vùng Lánh Linh.
Ngôi NAM THANH TỰ một trong những di tích sau khi Đức PHẬT THẦY viên tịch người tín đồ hệ phái Bửu Son Kỳ Hương lập nên những ngôi thờ tự để ghi nhớ công đức hoằng hóa độ sanh thuộc vùng Láng Linh.
Ngôi
chùa 'Tòng Sơn' tọa lạc tại Xẽo Môn, Long Kiến (Nay thuộc Đồng Tháp)
Nơi Đức Phật Thầy trị bệnh độ đời. (nay cũng bị thay đổi hẳn hình dáng)
Ngôi Cổ Tự "Tòng Sơn" hiên nay đã bị thay đổi hầu như toàn diện, mất hẳn tính chất nguyên thủy.
Chính điện Ngôi Tòng Sơn
Cây Lâm dồ (Đa) có từ khi tín đồ tu sửa Ngôi Cổ từ lúc còn cây lá. - Dinh Ông tọa lạc tại Cù Lao Ông Chưởng, Chợ mới (AG)
Ngôi Chùa PGHH tọa lạc tại Định Quán do một tín đồ ( sống ở Canada) phát tâm tạo dựng vào năm 2007.
Ngôi "Tây An Cổ Tự" tại núi Sam, trước là Tỉnh Châu Đốc. Có lúc nhà đương cuộc buộc Đức Phât Thầy về ngu tại Ngôi cổ tự nầy.
Phước Điền Tự" thuộc dòng Bữu Sơn Kỳ Hương tọa lạc tại Thới Sơn (Nay là Tỉnh Angiang). Trước đây Đức Phật Thầy cho lập trại ruộng hầu giúp cho đồng bào có thêm phưong tiện trong đời sống.
Chùa Phật Bốn Tay có khuôn viên rộng khoảng 4.000 mét vuông. Chánh điện có kiến trúc đơn giản, diện tích chừng 100 mét vuông, quét vôi vàng, mái lợp ngói vảy cá, hai góc mái trước được đắp rồng uốn lượn. Nhưng pho tượng Phật bốn tay được coi là “báu vật” vô giá.
Cây dầu Bốn Ngón.
Hòa thượng Thích Thiện Trí trụ trì từ năm 1967 cho biết: chùa Linh Sơn do sư tổ Thiết Ma Nhiên Chánh khai sơn năm 1912, tượng Phật đem về chùa sau một năm (1913). Chùa được trùng tu năm 1983. Pho tượng Phật bốn tay là một di sản văn hóa Óc Eo, có cùng niên đại với tượng Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc. Trong các chùa chiền Phật Giáo Việt Nam xưa nay không thấy có thờ tượng Phật bốn tay, chỉ có tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn có 18 tay. Theo các nhà nghiên cứu, thật ra, tượng Phật bốn tay chính là tượng thần Visnu có rắn thần Naga bảy đầu tạo thành tán che phía sau. Riêng hai bia đá có chữ khắc vẫn chưa được giải mã, đây là loại cổ tự có cùng gốc với chữ Brami của người Ấn Độ, được sử dụng từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên.
Ở phía sau chùa Phật Bốn Tay, gần di chỉ Nam Linh Sơn (thành cổ Óc Eo) có một cây dầu mọc từ gốc lên bốn nhánh thân suông thẳng đều tỏa ra rất lạ, thon thả như những ngón tay! Dân địa phương gọi cây dầu nầy là cây Bốn Ngón. Cây Bốn Ngón thuộc họ khộp (dầu lông) cao chừng 50 mét, mình trơn. Có người còn cho đó là những ngón tay của Phật .
Về thành cổ Óc Eo, xem tượng Phật Bốn Tay, cây Bốn Ngón, du khách như ngược về quá khứ, đắm mình trong không gian một thời của vương quốc Phù Nam, nay chỉ còn là huyền thoại.
139. CHÙA HÒA THẠNH (An Giang)
Chùa thường gọi là chùa Cây Mít, tọa lạc ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cách thị xã Long Xuyên 87km.Chùa Hòa Thạnh
Chùa thường gọi là chùa Cây Mít, tọa lạc ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cách thị xã Long Xuyên 87km. Chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ XIX và được trùng tu mở rộng vào những năm 1921-1923. Hòa thượng trụ trì Diên Minh là hội viên thường trợ của Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học vào những năm 1930. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ có giá trị nghệ thuật. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
140. CHÙA XVAY TON- An Giang
Chùa thường gọi là chùa Cây Mít, tọa lạc ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cách thị xã Long Xuyên 87km.Chùa Hòa Thạnh
Chùa thường gọi là chùa Cây Mít, tọa lạc ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cách thị xã Long Xuyên 87km. Chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ XIX và được trùng tu mở rộng vào những năm 1921-1923. Hòa thượng trụ trì Diên Minh là hội viên thường trợ của Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học vào những năm 1930. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ có giá trị nghệ thuật. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
140. CHÙA XVAY TON- An Giang
Chùa Xvay-ton (chùa Xà Tón) tọa lạc ở khóm 3, thị trấn Tri Tôn, huyện Tri
Tôn, tỉnh An Giang là một trong những ngôi chùa của đồng bào dân tộc
Khmer. Chùa được dựng sơ sài vào thế kỷ XVII. Đến năm 1896, chùa được
xây dựng kiên cố cho đến nay.
Các vị cao niên người Kher và các
vị sư sãi ở đây cho biết, chùa Xà Tón đã được xây dựng cách đây hơn 200
năm. Lúc đầu, chùa được dựng bằng gỗ, lợp lá, nền đất. Ngày xưa vùng
Tri Tôn còn hoang vu, rậm rạp, dân cư rất thưa thớt. Trên những ngọn cây
to cao nhiều cành, nhiều lá có từng đàn khỉ (Xvay) đu vào nhau, nối
đuôi nhau mà chuyền đi (ton). Bà con Khmer dựng chùa thờ Phật ở đây và
đặt tên chùa là Xvayton (biến âm thành Xà Tón cho dễ đọc).
Năm 1896 và 1933 chùa Xà Tón
được xây dựng lại bằng gạch ngói, cột bằng gỗ câm-xe, nền chùa đắp cao
1,8 m đễợc xây bằng đá xanh. Giống như các chùa Khmer khác ở đồng bằng
sông Cửu Long, chùa Xà Tón cũng theo cùng một quy cách bố cục và kiến
trúc thống nhất. Chính điện chùa Xà Tón nằm ở trung tâm khu đất của
chùa. Chính điện được xây theo hướng đông-tây có nóc nhọn và hai mái
cong gợi hình ảnh nằm dài uốn cong của rắn thần Naga, rắn thần chỉ sự dũng mãnh.
141. TỔ ĐÌNH PHẬT GIÁO HÒA HẢO - Long Xuyên
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4 tháng 7 năm 1939),
Huỳnh Phú sổ bắt
đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính
là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để
đặt tên cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo.
Sau đó, ông được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ mối đạo, và gọi ông
bằng cái tên tôn kính là Huỳnh Giáo Chủ. Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo, xưa
thuộc làng Hòa Hảo; nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang, Việt Nam.
Đây là nơi khai sinh ra đạo Phật giáo Hòa Hảo vào năm 1939 do Huỳnh Phú
Sổ (1920 - 1947?) sáng lập.
Kể từ đó, ông lần lượt làm nhiều bài thơ ca, sau được tập hợp lại thành quyển Sấm giảng thi văn giáo lý, có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ lúc bấy giờ.
Phật giáo Hòa JHảio bắt nguồn từ phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An, kết hợp tam giáo nhưng Nho và Phật là trọng tâm, là tôn giáo của người cư sĩ, không cần đầu tròn, áo vuông, không cần chùa chiền to lớn, không thờ tượng ảnh. Bửu Sơn Kỳ Hương lấy trấn điều thay thế tượng Phật, sau Hòa Hảo lấy trần nâu thay trần điều.
Nói đến Phật giáo Hòa Hảo, là nói đến Bửu Sơn Kỳ Hương là nói đến nmột chuổi chùa chiền thờ Phật, thờ Phật Thầy, quan Cố Quản Trần Văn Thành, , Bùi Tăng chủ, Nguyễn Trung Trực...
Nơi giữ hóa thân của Đức PHẬT THẬY, "Trước khi viên tịch NGÀI dặn dò bổn đạo không được làm mồ mả nguy nga, không xây đấp nấm mồ, hãy trải phẳng mặt, để sau nầy hậu thế có thể dùng để canh tác.. thật cao quí thay quan đìểm hữu ích nhân loại chúng sanh của vị hoạt Phật"
Cổng lên ngôi mộ của Đức THẬT THẦY TÂY AN tại núi Sam, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang)
Cổng vào ngôi cổ mộ của BÙI TĂNG CHỦ, là một trong các vị Hiền thủ được Đức PHẬT THÂY giao nhiều trọng trách hoằng hóa nền Đạo
Ngôi cổ mộ và thờ tự Đức Cố Quản TRÂN VĂN THÀNH, một trong những vị đại đệ tử của Đức PHẬT THẦY, được thế gian truyền tụng là một trong 12 vị hiền thủ của đạo.
Ngôi PHƯỚC ĐIỀN TỰ là nơi Đức PHẬT THẦY đặc chân chửa trị bệnh dịch lần đầu cho dân chúng, sau đó Ngài cho thành lập "Trại Ruộng" nhằm khuyết khích dân chúng lo làm ăn - tu hiền, phát triển đời sống trong các miền quê hẻo lánh. Thụôc vùng Lánh Linh.
Cổng trước ngôi Cổ Tự giờ được trùng tu khá khang trang, sau nhiều chục năm dài hoang vắng.
Ngôi NAM THANH TỰ một trong những di tích sau khi Đức PHẬT THẦY viên tịch người tín đồ hệ phái Bửu Son Kỳ Hương lập nên những ngôi thờ tự để ghi nhớ công đức hoằng hóa độ sanh thuộc vùng Láng Linh.
Cổng trước đền thở Quan Thượng Đẳng Đại Thần NGUYỄN-TRUNG-TRỰC tọa lạc tại Rạch gía, Tỉnh Kiên Giang.
Cây Lâm dồ (Đa) có từ khi tín đồ tu sửa Ngôi Cổ từ lúc còn cây lá. - Dinh Ông tọa lạc tại Cù Lao Ông Chưởng, Chợ mới (AG)
Phước Điền Tự" thuộc dòng Bữu Sơn Kỳ Hương tọa lạc tại Thới Sơn (Nay là Tỉnh Angiang). Trước đây Đức Phật Thầy cho lập trại ruộng hầu giúp cho đồng bào có thêm phưong tiện trong đời sống.
142. CHÙA TRÊN NÚI CẤM
- CHÙA PHẬT LỚN -
- CHÙA PHẬT LỚN -
Chùa Phật Lớn được xây dựng năm 1912, trên một khoảng đất rộng bên triền, gần đỉnh núi (ở độ cao 526 m so với mặt nước biển)[1]. Sở dĩ có tên như thế là vì trong chùa có thờ một tượng Phật cao 1,8 m. Vào thời điểm ấy, pho tượng này cao lớn hơn các tượng thờ khác ở trong vùng. Và gọi vậy, còn để phân biệt với chùa Phật Nhỏ ở hướng đông, cũng trên núi này.
Sau khi ông Bảy Do (Cao Văn Long), người đầu tiên xây dựng và tu ở chùa, bị thực dân Pháp bắt, chùa Phật Lớn trở nên hoang vắng. Mãi đến năm 1914, ông cựu hương quản làng An Khánh [2] đến núi Cấm thấy cảnh chùa hoang phế quá, bèn đến chùa Linh Sơn (Sài Gòn) nhờ Cò Mi Chấn (Phó Hội trưởng Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học) đứng ra xin phép để được tái thiết chùa.
Tìm mọi cách mà nhà cầm quyền không chấp thuận, ông Chấn bảo ông Lầu
làm liều cất đại một am lá để che mưa nắng cho tượng Phật. Có người mật
báo với Chủ tỉnh Châu Đốc,
ông Lầu bị tra vấn, còn Cò Mi Chấn thì nhận được công văn của tỉnh buộc
phải tháo dỡ am. Nhưng Cò mi Chấn trả lời qua thư rằng: Theo tục lệ An Nam, không thể để Phật ngồi giữa trời dầm mưa, dãi nắng như thế... Chủ tỉnh lại gởi công văn lần nữa, lần này Cò mi Chấn đáp: Cái am lỡ cất rồi, tôi là người đạo Phật, sợ phạm tội nên không dám dỡ!... Nhờ sự đôi co ấy mà am không bị phá bỏ và tượng Phật được bảo
quản tốt cho đến nay
.
Tượng có chiều cao từ chân đến đỉnh là 33,6 m, diện tích bệ 27x27 m, khuôn viên tượng Phật rộng 2,2 ha. Bức tượng đặc tả rõ nét nụ cười an nhiên, từ bi, hỉ xả và bụng to đặc trưng của Phật Di Lặc. Chân đế bệ tượng làm bằng đá gắn kính phản xạ cao cấp màu xanh ve mang ý nghĩa một khối kim cương.
-CHÙA VẠN LINH
Chùa Vạn Linh, thường được gọi là chùa Lá, tọa lạc ở ấp Vồ Đầu, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Chùa nằm trên núi Cấm vùng Thất Sơn, nơi có bảy ngọn núi nổi tiếng là núi Két (Anh Vũ sơn), núi Giài Năm Giếng (Ngũ Hồ sơn), núi Tượng (Liên Hoa sơn), núi Nước (Thủy Đài sơn), núi Dài (Ngọa Long sơn), núi Tô (Phụng Hoàng sơn) và núi Cấm (Thiên Cẩm sơn).
Ngôi chùa do chiến tranh đã bị hư hỏng từ những năm 1945-1946.
Đến năm 1976, ông Hai, pháp danh Thiện Thới, đệ tử của Hòa thượng Thiện Quang đã cho xây ngôi chùa nhỏ, được người dân địa phương gọi là chùa Lá.
Mặt tiền chùa
143. CHÙA ÂNG- Trà Vinh
Chùa Âng (tên Khmer là Angkorajaborey) là một ngôi chùa cổ trong hệ thống chùa Khmer của tỉnh Trà Vinh; hiện tọa lạc bên quốc lộ 53, thuộc khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Chùa nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5 km, nằm trong khuôn viên thắng cảnh Ao Bà Om, và đối diện với Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer của tỉnh.
Đây là một trong những ngôi chùa tiêu biểu trong hệ thống 141 ngôi chùa Khmer ở Trà Vinh [1]. Theo Bảng Di tích lịch sử chùa Âng, thì chùa có từ năm 990... Đến năm 1695, ngôi chính điện được xây dựng lại bằng tre lá. Năm 1842, chùa được xây dựng lại bằng gỗ quý (rui, mè và 60 cây cột), lợp ngói và tường xây. Sau đó, chùa còn được trùng tu vài lần nữa [2].
Chùa nằm trong khuôn viên có diện tích khoảng 4 ha, có hào nước sâu bao bọc, và được xây dựng theo lối kiến trúc-trang trí chùa Khmer Nam Bộ.
Cổng chùa Âng
Cổng chùa được xây dựng với ba ngọn tháp ở trên, có đắp hình chằn. Hai bên trụ cổng là hình vũ nữ Kẽn naarr và tượng người đầu chim (Krũd).
Chính điện chùa Âng (chính diện)
Chánh điện quay về hướng Đông, tọa lạc nên một nền cao 2 m [3]. Mái của chính điện được cấu tạo gồm ba cấp, hai mái trên cùng thì dốc và cao hơn mái còn lại. Các gò mái có thần rắn Naga, đuôi cong vút, tượng trưng cho sự dũng mãnh vĩnh cửu.
Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có các hạng mục công trình khác như: trai đường, giảng đường, các Tăng xá và các tháp chứa di cốt...
Các tượng Phật Thích Ca trong chính điện Như bao ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer khác, bên trong chính điện chùa Âng cũng chỉ thờ duy nhất là Phật Thích Ca. Bệ thờ Phật rộng gần 30 m² gồm bốn bậc. Tượng Phật chính cao 2,1 m.
Xung quanh có khoảng 50 tượng Phật khác nhỏ hơn. Ba phía vách chính điện có các bức tranh vẽ kể lại cuộc đời đức Phật Thích Ca. Trần chính điện được trang trí bốn bức bích họa lớn theo chủ đề: Phật Thích Ca đản sinh, xuất gia, đắc đạo và nhập niết bàn.
Và cũng như nhiều ngôi chùa Khmer khác, chùa Angkorajaborey không chỉ là nơi tu hành của các vị sư, là nơi thanh niên Khmer đến tu học, mà còn là một trung tâm văn hóa. Hàng năm, lễ hội Ok Om Bok (rằm tháng 10 âm lịch) là lễ hội lớn nhất của chùa.
144. SẮC TỨ QUAN ÂM CỔ TỰ - Cà Mâu
Chùa tọa lạc ở số 84/14 đường Rạch Chùa, phường 4, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. ĐT: 0780.831370. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Hòa thượng Tô Quang Xuân dựng vào giữa thế kỷ XIX, bấy giờ chỉ là một am nhỏ để ngài tu hành và chữa bệnh cho dân. Sau ngài về tu ở chùa Kim Chương (Gia Định) lấy pháp hiệu là Thượng Trí hạ Tâm. Vua Thiệu Trị đã sắc phong Hòa thượng cho ngài năm 1842 và sắc tứ chùa Quan Âm.
Kiến trúc chùa hiện nay được các Hòa thượng Thích Thiện Tường và Thích Thiện Đức xây dựng năm 1936.
Năm 1842 năm Thiệu Trị thứ II, Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, triều Nguyễn đã xuống chiếu sắc phong cho ngôi chùa của ông sáng lập với tên gọi là "Sắc Tứ Quan Âm Cổ Tự". Hiện nay nhiều hiện vật như tượng, hoành phi, câu đối và nhiều đồ thờ phụng khác như những di vật văn hóa Phật giáo của thời kỳ khẩn hoang. Đó là những hiện vật có giá trị về mặt lịch sử và mỹ thuật độc đáo còn được gìn giữ đến ngày nay.
Tưởng cũng nên nhắc lại Chiếu vua ban thuở nào :
Chiếu rằng :
Trẫm nghĩ chốn kỳ duyên mậu thạnh trăm hoa đua nở đầy cành, cảnh sắc ta bà.
Hương thủy bao trùm hoa tạng muôn xưa không diệt không sanh,
Bờ bỉ vơi vơi từng nghe nương một cành lau mà đến trời Tây vời vợi sang qua nhờ chiếc thuyền Từ đã trưng việc cổ để nghiệm đời nay,
Vừa đọc tố chương bỡ ngỡ ve vang trước mắt,.
Duyệt xem văn sớ từng ngày đã cỡi hạc quy tiên.
Người linh địa cảnh nên linh, vương pháp tâm đồng Phật pháp.
Triều đình không có chi hơn kính phong hòa thượng và ân ban gấm vóc,
Lễ kỳ siêu cho người quan thân nơi cảnh lạc ban.
Giờ đây người đã viên tịch nơi chùa danh thắng Kim Chương.
Hỡi ơi !
Tiên cảnh không trần thiên đường có nẻo,
Vinh hạnh thay ! Kính tỏ tấm lòng.
Hoàng thượng ân ban một đạo và gấm vóc đôi cây gọi là ân huệ triều đình làm sáng tỏ công đức của ngài.
Khả kính thay !
Hoàng triệu Thiệu Trị đệ nhị niên
Nhâm Dần niên 1842 Tháng 6 mùng 3.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa tôn trí tượng Di Đà Tam
Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí). Bàn
phía trước đặt tượng Thất Phật Dược Sư, Bồ tát Chuẩn Đề, Bồ tát Phổ
Hiền, Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Di Lặc. Nhà Tổ thờ tượng Tổ sư Đạt Ma,
Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng và long vị chư Tổ. Tiền đường đặt
thờ tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện.
Trong khuôn viên chùa có tháp mộ của Hòa thượng Thích Trí Tâm, một danh tăng ở miền Nam, với nhiều truyền thuyết về ngài, biết trước những việc sắp xảy ra và chữa lành những bệnh nan y cho nhiều người và thú vật.
Nhận xét
Đăng nhận xét