Tôn giáo là một hiện tượng xã hội nhân loại, mà khi xã hội đó phát triển đến một giai đoạn lịch sử nhất định thì sản sinh hiện tượng này. Cũng như vậy do nhu cầu tín ngưỡng cũng như sự hoằng truyền giáo nghĩa, cho nên kiến trúc của tôn giáo từ đó mà sanh.
Kiến trúc tôn giáo bao gồm sự dung hợp của luận lý tôn giáo và văn hóa dân tộc tạo nên một phong cách thống nhất, tập hợp những kỷ thuật kiến trúc và mỹ thuật tạo hình kết tinh thành tập đại thành của nền kiến trúc nghệ thuật tôn giáo và là điểm nhấn sáng chói trong nghệ thuật kiến trúc nhân loại.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc thừa hưởng nền kiến trúc vĩ đại của nghệ thuật kiến trúc cổ đại Trung Quốc. Từ nền tảng này Phật Giáo kế thừa và sáng tạo, tạo nên một phong cách kiến trúc đặc biệt và mê ly của riêng mình. Kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc được đề cao và có một vị trí đặc biệt trong nền kiến trúc nghệ thuật cổ đại nhân loại và sự phát triển tôn giáo.
Kiến trúc cổ đại Trung Quốc được hình thành có hệ thống, bắt nguồn từ thời đại nhà Hán, thời kỳ này xã hội phong kiến Trung Quốc về chính trị, văn hóa, kinh tế đã đạt đỉnh cao. Đương thời kiến trúc được coi như sự thể hiện uy quyền của Thiên tử, là công cụ thống trị tinh thần của chế độ phong kiến, do lồng ghép thể chế của Nho gia và văn hóa tôn giáo trong nghệ thuật kiến trúc. Các đế vương lợi dụng bối cảnh văn hóa tôn giáo của nền kiến trúc này để hổ trợ cho việc cai trị của mình, cho nên đẩy mạnh và phát triển các kỷ năng nghệ thuật kiến trúc.
Phật Giáo thời kỳ này đã có mặt ở Trung Quốc và được vua chúa sùng phụng. Vua quan nhà Hán một mặt ra sức xây dựng chùa chiền cử hành những hoạt động tôn giáo. Từ ngôi chùa đầu tiên của Phật Giáo được hình thành bao gồm Phật điện, Phật tháp, Kinh tràng, thạch quật. kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc đã trở thành một trong những nội dung chính của nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc, được sùng phụng và hộ trì của các bậc đế vương cho nên nền kiến trúc này có giá trị đặc biệt và trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kiến trúc cổ đại Trung Quốc.
Kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc so với kiến trúc cung điện về qui mô thì không bằng, nhưng về nghệ thuật thì trội hơn rất nhiều so với kiến trúc cung điện. Nếu so về số lượng, vật liệu xây dựng hình dáng kiến trúc cũng có thể sánh ngang bằng với kiến trúc cung điện. Nếu nói về nội hàm văn hóa và chiều sâu nghệ thuật giá trị thẩm mỹ thì hơn hẳn kiến trúc cung đình.
Kiến trúc cổ đại Trung Quốc lấy kết cấu gỗ làm phương thức kết cấu chính, ngoài ra dùng phương thức giá đỡ để làm kết cấu phần đầu cột cũng như phần chịu lực của phần dang rộng mái. Ngoài ra giá đỡ còn mang tính văng trang trí cho kiến trúc cũng như sự khéo léo của nghệ thuật sắp xếp kiến trúc. Kết cấu giá đỡ được dùng trong kiến trúc cổ đại Trung Quốc đến đời Hán thì việc sử dụng kết cấu này trong kiến trúc quan trọng của quốc gia đã được thể chế hóa.
Có chế độ và đẳng cấp nghiêm ngặt, việc sử dụng kết cấu giá đỡ trong kiến trúc rất hạn chế, duy chỉ có cung điện, tự viện và các kiến trúc cao cấp khác của nhà nước mới được cho phép sử dụng kết cấu này. Ở chỗ này kiến trúc Phật Giáo và kiến trúc cung điện hưởng chung một thể chế đặc thù, cho nên kiến trúc Phật Giáo sử dụng kết cấu giá đỡ trong phạm vi rất rộng, số lượng rất nhiều về kiểu dáng và chất liệu làm cho người thời đó phải tán thán.
Phật tự Trung Quốc được xây dựng thịnh hành, Phật Giáo Trung Quốc bắt đầu phát triển mạnh, có thể nói là từ thời Nam Bắc triều cho đến Tùy Đường. Bất luận từ đô thành cho đến làng xóm, đâu đâu cũng đều có chùa chiền do quốc gia xây cất hoặc là chính quyền địa phương xây dựng, tập trung nhân lực tài lực xây dựng chùa chiền tháp miếu điêu khắc Phật động. Đương thời thủ đô Nam triều là Kiến Khang có hơn 500 ngôi chùa. Thời Bắc Ngụy thủ đô Lạc Dương có hơn 1367 ngôi chùa. Đến đời Tùy chùa chiền đã đạt đến 1434 ngôi, chiếm diện tích 60% của kinh đô nhà Tùy.
Đời nhà Đường vào thời kỳ hoàng kim của Phật Giáo có 45000 ngôi chùa. Cho đến đầu đời nhà Thanh chùa chiền đã đạt tới ngưỡng 80.000 ngôi. Trong đó những ngôi chùa nổi tiếng và được bảo tồn còn tương đối tốt cũng hơn 1000 ngôi. Ngũ Đài Sơn, Nga My Sơn, Phổ Đà Sơn, Cửu Hoa Sơn cùng với Đôn Hoàng, Mai Tích Sơn, Vân Cương, Thiên Long Sơn, Long Môn.v.v…
Đều là những chỗ tập trung điện đài tháp miếu cũng như Phật động nhiều nhất của Phật Giáo Trung Quốc. Sự hiện hữu của Phật tự Trung Quốc có thể nói Đông từ Thượng Hải, Tây đến Tân Cương, Bắc từ Hắc Long Giang, Nam đến Quảng Đông Nam Hải, nơi đâu cũng có dấu tích của Phật Giáo, có một lượng vật thể kiến trúc vô cùng phong phú, đứng nhất trong nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc thuộc về không gian tạo hình nghệ thuật, từ thuộc tính tôn giáo, nhu cầu xây dựng kiến trúc và bố cục kiến trúc cần phải tuyển trạch cục đất để phù hợp với tổ hợp và quần thể kiến trúc phục vụ tôn giáo, nội bộ không gian của kiến trúc cùng với hoa văn trang trí cũng như các đề tài điêu khắc và sử lý ánh sáng màu sắc không gian dựa trên ý niệm, tâm lý cảm ứng của người học Phật đối với sự truy cầu ý thức cảnh giới của chư Phật.
Cho nên thông qua các thủ pháp nghệ thuật tạo nên một không khí linh thiêng thần bí và thanh khiết của Đạo Phật, dùng cảm giác tinh thần mạnh nhất và thẩm thấu lực cao nhất để giáo hóa người học Phật, đây chính là sự vận dụng tổng hợp thủ pháp tạo hình nghệ thuật biểu hiện công năng của tôn giáo trong kiến trúc của Phật Giáo.
Bắt đầu từ thời Nam Bắc triều kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc đã dùng đến điêu khắc, hội họa, thư pháp cùng với khắc bia kết hợp với kiến trúc tạo thành một tổ hợp kiến trúc nghệ thuật, bắt đầu các công trình đào các động đá để thờ Phật, sáng tạo nên một kiểu kiến trúc mới, tổng hợp hết các thành tố nghệ thuật đã nêu trên, từ đó về sau lối kiến trúc này có ảnh hưởng sâu rộng và hầu hết trong các công trình kiến trúc Phật Giáo cổ đại cũng như trong hiện đại. Do đó Phật tự, Phật tháp, Kinh tràng, Thạch quật.v.v…
Từ kết cấu cho đến trang trí, lớn cho đến cả ngôi tự viện, nhỏ cho đến những chỗ trang trí vi tế nhất đều dùng cơ chế tạo hình nghệ thuật, do đó kiến trúc cung điện được làm giàu thêm bởi những biểu hiện của hình thức và nội hàm văn hóa kiến trúc Phật Giáo, thêm những ý niệm về cảm thụ mỹ học.
Đi ngang qua lịch sử cổ đại Trung Quốc, những thành tựu của kiến trúc nghệ thuật Trung Quốc không thể không nói đến nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc. Cho đến ngày hôm nay những kiến trúc gỗ còn tồn tại lâu nhất và sớm nhất, những hoa văn họa tiết, các tác phẩm tượng Phật và Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ Thần chúng.v.v…các tác phẩm bích họa, khắc đá đều là những tác phẩm hy hữu truyền thế quốc bảo của nền nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc nói riêng và nền nghệ thuật kiến trúc văn hóa nói chung, cũng là một hiện tượng hiếm thấy của một trong những nền kiến trúc cổ đại thế giới.
Kiến trúc nghệ thuật Phật Giáo Trung Quốc hình thành vị trí đặc thù trong nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc, không phải là việc ngẫu nhiên. Các triều đại đế vương sùng kính Phật Giáo, dùng lực lượng tài vật của quốc gia xây dựng các công trình kiến trúc Phật Giáo, nguyên nhân này khởi nguồn từ chỗ Phật Giáo và chính trị có sự liên kết chặt chẽ với nhau.
Giáo nghĩa nhân quả báo ứng, lý luận sanh tử luân hồi của Phật Giáo và lấy sự cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sanh, lợi người tức là lợi mình để giáo hóa chúng sanh, dung hợp triết học cổ đại Trung Quốc, làm cho chẳng những thượng tầng xã hội có thể tiếp thu được Phật Giáo, mà tầng lớp cùng khổ có địa vị thấp nhất trong xã hội cũng có thể thấm nhuần giáo nghĩa này.
Chính giáo nghĩa này đã làm cho Phật Giáo lưu truyền và phát triển rộng rãi trong các tầng lớp xã hội Trung Quốc, đối với chế độ phong kiến quan lại giáo nghĩa này có tính an định xã hội và tạo sự cần thiết cho một trật tự xã hội mà ý tưởng thống trị luôn luôn quan tâm và tìm cách điều phối, có lợi đối với lợi ích chính trị, cho nên được nhà nước bảo hộ.
Vì thế không gian hoạt động tôn giáo của Phật Giáo mở rộng, những thể loại kiến trúc cao quí nhất của kiến trúc cung đình Trung Quốc được Phật Giáo sử dụng, hết thảy những hoa văn họa tiết cũng như vật liệu, kết cấu của kiến trúc cung đình như kết cấu giá đỡ, ngói lưu ly, si vĩ, tích thú, lưu kim, đúc đồng, trát ngọc và hội họa điêu khắc, thư pháp, các thủ pháp nghệ thuật khác, thậm chí những nơi nhỏ nhất của kết cấu kiến trúc cũng đều dùng tâm sử lý bằng những thủ thuật nghệ thuật hết sức tinh vi.
Các đế vương thời xưa khâm định chức vụ trụ trì các ngôi quốc tự cho các vị Tăng, sắc tứ tên chùa, biển cũng như đề thơ tán tụng, việc làm này là một động lực rất lớn dần khởi sự phát triển thuần thục nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo. Trãi qua năm tháng của lịch sử, theo sự hoằng dương và phát triển của Phật Giáo, người xưa đã sáng tạo nên nền nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo đặc sắc, độc đáo cho đến bây giờ khi chúng ta đứng nhìn lại không khỏi không thán phục tài nghệ của người xưa và ghi nhớ công đức của liệt vị Tổ sư đã dày công xây dựng.
Long Môn Thạch Quật - Lạc Dương
Cổng Đá- Phổ Đà Sơn
Bia Đá-Chùa Hưng Giáo-Tây An
Đôn Đá - Di Hòa Viên- Bắc Kinh
Chùa Đồng-Di Hòa Viên-Bắc Kinh
Chuông Chùa Đại Chung-Bắc Kinh
Giá Đỡ Gỗ
Thạch Tràng
Đăc Trưng Hình Thành Lịch Sử Văn Hóa Nghệ Thuật Kiến Trúc Phật Giáo Trong Nền Kiến Trúc Tôn Giáo Trung Quốc.
(CMT) Phật Giáo là một tôn giáo ngoại lai không có nguồn gốc từ Trung Quốc, kiến trúc Phật Giáo cũng không được sinh ra từ nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc. Phật Giáo từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và phát triển ở vùng đất có nền văn minh cổ xưa này, dựa vào tư tưởng văn hóa truyền thống của Trung Quốc kết hợp thành một tôn giáo ngoại lai có sự kết hợp giữa giáo nghĩa Phật Giáo và truyền thống văn hóa Trung Quốc. Điều dễ nhận thấy nhất là nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc không phải là phiên bản của kiến trúc Phật Giáo Ấn Độ, nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo là sự kết tinh của văn hóa Phật Giáo và truyền thống văn hóa tư tưởng Trung Quốc.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo thể hiện sự hoằng truyền giáo nghĩa Phật Giáo, biểu đạt ý niệm Phật Giáo, lấy sự sùng kính Đức Phật làm mục đích sáng tạo nghệ thuật. Trong kiến trúc Phật Giáo, Phật tự là quần thể kiến trúc chính, là nơi biểu thị sự sùng bái mẫu vật hình tượng, Phật tháp, thạch quật cũng có chung một mục đích. Phật Giáo lý tưởng hóa ý thức sùng bái lên hình tượng Phật tự, Phật tháp, thạch quật, các kiến trúc thờ Phật khác, vay mượn nhiều hình thức nghệ thuật để biểu đạt những cảm tình của tôn giáo, cử hành cả những nghi thức tôn giáo.
Phật tự là nơi Tăng Lữ phụng thờ Đức Phật, Xá Lợi, các di vật của Đức Phật, và là chỗ ở hằng ngày của chư Tăng cũng như cử hành các hoạt động tôn giáo, nghi lễ Phật Giáo là nơi đại diện cho văn hóa Phật Giáo, đồng thời cũng là cơ sở truyền giáo của Phật Giáo. Phật tự có nguồn gốc từ Ấn Độ, tại Ấn Độ được gọi là Tăng Già Lam, khi truyền đến Trung Quốc được gọi bằng nhiều danh xưng như Phù Đồ, Lan Nhã, Thiền Lâm, Tháp Miếu, Tự, Am, Miếu…
Phật tự là danh xưng được bắt nguồn từ một cơ sở hành chính quan lại nhà nước đời nhà Hán. Năm Vĩnh Bình thứ 10 đời nhà Hán, công nguyên năm 67 từ Ấn Độ có hai vị cao Tăng là Trúc Pháp Lan và Nhiếp Ma Đằng đến Trung Quốc. Khi đến hai vị Tăng ở Hồng Lô Tự là cơ quan ngoại giao của nhà Hán, sau đó nhà vua cho xây dựng già lam làm cơ sở cho hai vị Cao Tăng hoằng pháp nhưng vẫn giữ tên cũ là “Tự” để đặt cho cơ sở mới, vì con ngựa trắng có công chở tượng Phật, Kinh điển đến Trung Quốc nên ngôi chùa đầu tiên có tên là Bạch Mã Tự và từ đó cơ sở Phật Giáo được gọi là Tự cho đến ngày nay.
Từ hình chế kiến trúc, bố cục của tự viện thể hiện lên văn hóa Phật Giáo và tư tưởng văn hóa truyền thống Trung Quốc được kết hợp trong nghệ thuật kiến trúc của Phật GiáoTrung Quốc. Bố cục chính của kiến trúc Phật Giáo Ấn Độ là “ Tứ Phương Cung Phật Tháp”, tháp là kiến trúc chính nơi thờ phụng Xá Lợi và di vật của Đức Phật làm trung tâm, bốn bên xây các phòng ốc làm nơi cư trú cho chư Tăng, hầu hết các kiến trúc tự viện Phật Giáo Ấn Độ đều dùng gạch đá làm vật liệu xây dựng chính. Khi kiến trúc phật Giáo được truyền đến Trung Quốc, do sự ảnh hưởng của phương thức xây dựng và các qui phạm của lễ chế, lối kiến trúc Tứ Phương Cung Phật Tháp bị dần dần thay thế bằng lối kiến trúc Lầu Các.
Phật tháp là kiến trúc trung tâm diễn hóa thành, Điện Đường là nơi cung phụng Phật Tổ, kiến trúc gạch đá được thay thế bằng kết cấu gỗ, xuất hiện một lối kiến trúc mới Lan Viện Phật Tự, hình thành một bố cục đa nguyên hóa gồm một tổ hợp: Điện, Tháp, Lầu Các, Viện, Phường. Làm cho Phật Giáo hoàn toàn thích ứng với văn hóa truyền thống Trung Quốc. Tăng lữ cũng như Phật tự từ nơi quần thể kiến trúc đó cảm nhận được những luân lý, quan niệm và những nhu cầu tâm lý về Phật Giáo.
Nghệ thuật kiến trúc tháp Phật có nguồn gốc từ Ấn Độ. Ấn Độ gọi Phật tháp là Tốt Đổ Ba, gồm đài tháp, thân tháp bát úp, bảo sàng, tướng luân tạo thành. sự chuyển hóa của Tốt Đổ Ba thành Phật tháp ở Trung Quốc chẳng những là sự biến đổi về hình thức, mà là phản ánh sự tiếp nối của nội dung. Văn hóa Phật Giáo và tư tưởng truyền thống văn hóa Trung Quốc, nghệ thuật kiến trúc đã hòa hợp để biến cải hình chế Phật tháp của Ấn Độ, thành hình chế kiến trúc lâu các tháp của Trung Quốc, nhiều tầng nhiều mái và kết hợp giữa đình và lâu, hình chế Tốt Đổ Ba được cải thành tháp sát được đặt trên vị trí cao nhất của đỉnh tháp, khiến cho Phật tháp của Trung quốc cụ bị tính chất tôn giáo, và công năng lên cao nhìn rộng tượng trưng cho trí tuệ siêu việt của Phật Giáo.
Chiếu theo vật liệu xây dựng, có thể phân ra được những chủng loại tháp như sau: Tháp Đá, Tháp Gạch, Tháp Gỗ, Tháp Đồng, Tháp Lưu Ly… Từ công dụng của tháp có thể phân ra những loại tháp như sau: Lầu Các Tháp, Mật Diêm Tháp, Kim Cang Tháp, Lạt Ma Tháp, Hoa Tháp, Nhiên Đăng Tháp, Tổ Sư Tháp, Song Tháp, Tam Tháp, Tháp Lâm.v.v… Hình dáng của tháp cũng được phân ra những loại như sau: Tháp 4 cạnh, 6 cạnh, 8 cạnh, 12 cạnh, 16 cạnh.v.v… Lối vẽ bích họa và tô màu truyền thống của Trung Quốc cũng được sử dụng rộng rãi cho việc trang trí các công trình kiến trúc của Phật Giáo, thư pháp và nghệ thuật khắc bia của Trung Quốc cũng được Phật Giáo sử dụng nhiều trong các công trình kiến trúc của mình. Có thể nói Phật Giáo đã dung hợp văn hóa của chính mình vào nền văn hóa truyền thống tư tưởng và nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc.
Thạch quật, Tự viện là kiến trúc Phật Giáo Ấn Độ, tuy về hình thức kiến trúc cũng như phong cách kiến trúc không giống với kiến trúc tự viện nhưng nghệ thuật và công năng đều không khác với tự viện. Hình chế của thạch quật tự viện là một động vuông, hoặc là một động có 2 phòng, hoặc ở giữa động có 1 trụ tháp, mặt bằng của động được phân bố cân xứng, trong động các tượng Phật được đặt để các vị trí lớn nhỏ, chủ khách phân minh, trên dưới rõ ràng, những thủ pháp nghệ thuật này thể hiện những qui phạm về quan niệm luân lý, lễ chế qui phạm của văn hóa truyền thống cổ đại Trung Quốc. Trên các trần nhà Phật động thường trang trí đường viền xung quanh hoa sen chính giữa và các họa tiết phi thiên, rồng, đây là lối không hoàn toàn của nghệ thuật trang trí Ấn Độ.
Trụ tháp giữa động không còn hình dáng bát úp của tháp Ấn Độ mà đã cải thành hình chế nhiều tầng lầu theo kiến trúc truyền thống cung đình Trung Quốc, mỗi tầng tháp đều có điêu khắc giá đỡ, tháp trụ cũng như diềm mái và Phật tượng ngồi ở trong tháp. Có một số thạch quật Phật tự phần ngoài được dùng kết cấu gỗ để thể hiện, một số thạch quật được chạm khắc cổng vòm, hoặc phù điêu hình dáng giống như kiến trúc gỗ, làm cho quần thể thạch động nhìn bên ngoài giống như được dùng gỗ để cấu tạo thành, đây là sự thể hiện rõ nét văn hóa dân tộc Trung Quốc hòa nhập vào nghệ thuật kiến trúc thạch quật Phật tự, đồng thời cũng thể hiện nên những đặc trưng văn hóa và lịch sử hình thành của nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc.
Chùa Bạch Mã-Lạc Dương
Tháp Chùa Kim Sơn- Trấn Giang
Tháp Chùa Hàn Sơn-Tô Châu
Ý Nghĩa Thẩm Mỹ và Giá Trị Phẩm Vị của Nghệ Thuật Kiến Trúc Phật Giáo Trung Quốc
Giáo nghĩa uyên thâm của Phật Giáo có ảnh hưởng sâu rộng đến nền tư tưởng tôn giáo của Trung Quốc. 2000 năm nay Phật Giáo hoằng truyền tại Trung Quốc từ việc phiên dịch kinh điển từ Phạm văn thành văn Trung Quốc số trên ngàn bộ xây dựng chùa chiền trên một vạn ngôi, trong đó Phật tự là nơi thể hiện văn hóa của Phật Giáo đồng thời cũng là nơi giới thiệu giáo nghĩa của Phật đà và những phương pháp tu tập của Phật Giáo, đây là cơ sở chính trong việc hoằng giáo của Tăng lữ Phật Giáo với công cuộc phổ cập Phật Giáo đến dân gian.
Trong đó nghệ thuật kiến trúc và tư tưởng truyền thống văn hóa Trung Quốc, đặc biệt triết học cổ đại Trung Quốc, điêu khắc, thư pháp và các loại tạo hình nghệ thuật khác được hổ tương thẩm thấu hòa hợp thành một di sản nghệ thuật Phật Giáo cụ bị văn hóa truyền thống Trung Quốc có ý nghĩa thẩm mỹ và nghệ thuật cao siêu. Hình tượng nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo thể hiện nội hàm văn hóa và lịch sử phát triển của Phật Giáo Trung Quốc.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc là sự thể hiện công năng, hình thức của Phật Giáo ra bên ngoài, phục vụ cho công việc tuyên truyền giáo nghĩa, ý niệm của Đạo Phật, xuyên qua ý thức và sùng bái, sự trừu tượng của ý thức được thể hiện qua hình thể của nghệ thuật kiến trúc, cụ thể và dễ làm cho người sùng kính Phật Giáo tiếp xúc với giáo nghĩa của Đức Phật. Phật Giáo từ các vật thể kiến trúc thể hiện cảnh giới cực lạc để đối lập với cảnh giới khổ hải của nhân sinh. Hình tượng của Đức Phật được miêu tả một cách tôn kính thể hiện tính cách tôn nghiêm oai hùng dựa theo kinh điển của Phật Giáo để hình tượng hóa, hướng dẫn cho người học Phật qua hình tượng nghệ thuật cũng như kiến trúc cảm thọ được nội hàm của Phật Giáo, dần tiến tới lĩnh ngộ chơn đế của Phật Giáo.
Chúng ta có thể nhận thấy từ sự tìm những địa điểm các ngôi chùa Phật Giáo Trung Quốc, sự sùng thượng về thanh tịnh, tinh khiết, siêu thoát trần duyên, tịnh hóa ý thức. Từ bố cục kiến trúc của ngôi chùa ta có thể trực ngộ Phật Giáo truy cầu sự quân bình và thống nhất, trang nghiêm trân trọng, trật tự của một Phật quốc thanh tịnh. Từ điện đường lầu các, quan sát thể nghiệm được quả vị tu hành của Phật Giáo, thông qua những phương thúc tu hành, công năng tu tập để đạt đến quả vị tu tập cuối cùng là Niết Bàn tịch tịnh.
Mộ cổ thần chung, thể hiện lối sống tỉnh thức của Đạo Phật, giải trừ phiền não nhân sinh. Xá Lợi là tiêu chí tượng trưng của Niết Bàn và sự tu chứng quả vị của Đạo Phật, cho nên thông qua tầng tầng lớp lớp vươn cao của tháp Xá Lợi, trên bảo tòa liên hoa tháp sát kim quang xán lạn, khiến cho người học Phật khi đối diện trước tháp phải cung kính cuối đầu, khởi niệm lễ bái quán niệm công đức của chư Phật mà phát tâm tu hành. Không những như thế, cho đến hình thức của tháp cũng tượng trưng cho sự xiển dương giáo lý Đạo Phật, tháp vuông 4 góc tượng trưng cho Tứ Thánh Đế, Lục Độ, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên.v.v… tháp hình tròn biểu thị cho viên mãn, viên thông, viên dung của Phật Giáo.
Trong kết cấu kiến trúc của Phật Giáo bao gồm cả thế giới và vũ trụ quan, chư Phật Bồ Tát, la Hán, chư Long Thiên và các vị thần Hộ Pháp, tổ hợp phức hợp này tạo thành một thế giới thần kỳ, một trận đồ dung nạp khái quát, khái niệm pháp giới, vũ trụ quan của Phật Giáo, thế giới quan này thể hiện thiện ác phân minh, phước họa rõ ràng, trừ ma giáng phước và những chức trách phổ độ chúng sanh cùng những pháp lực tôn giáo làm cho tổ hợp không gian kiến trúc của ngôi chùa thể hiện đầy đủ tính cách thần bí linh thiêng, thoát tục siêu phàm vốn có của kiến trúc tôn giáo.Ví dụ Trung Quốc Phật Giáo Tứ Đại Danh Sơn, gồm những quần thể kiến trúc tự viện, phụng thờ riêng biệt riêng biệt 4 vị Bồ Tát tượng trưng cho tinh thần cốt lõi của Đại Thừa Phật Giáo: “Trí, Hạnh, Bi, Nguyện”. Bốn vị Bồ Tát được phụng thờ: Ngũ Đài Sơn-Văn Thù Bồ Tát, Nga Mi Sơn- Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Đà Sơn-Quan Thế Âm Bồ Tát, Cửu Hoa Sơn-Địa Tạng Bồ Tát.
Một số tự viện là tổ đình của một tông phái hoặc là đại diện cho một hệ tư tưởng của Phật Giáo như: Triết Giang Thiên Đài Quốc Thanh Tự-Tổ Đình Thiên Đài Tông; Giang Tô Nam Kinh Thê Hà Tự-Tổ Đình Tam Luận Tông; Thiểm Tây Tây An Từ Ân Tự-Tổ Đình Pháp Tướng Duy Thức Tông; Sơn Tây Đại Đồng Hoa Nghiêm Tự-Tổ Đình Hoa Nghiêm Tông; Tây An Chung Nam Sơn Tịnh Nghiệp Tự-Tổ Đình Luật Tông; Thiểm Tây Tây An Đại Hưng Thiện Tự-Tổ Đình mật Tông; Thiểm Tây Tây An Hương Tích Tự-Tổ Đình Tịnh Độ Tông; Hà Nam Tung Sơn Thiếu Lâm Tự-Tổ Đình Thiền Tông; Đây là những chốn tổ của 8 tông phái lớn của Phật Giáo Trung Quốc, những ngôi tự viện này có phong cách kiến trúc, bố cục bài trí kiến trúc đều thể hiện tư tưởng quan niệm của tông phái mình, sự kết hợp hài hòa giữa địa vực phong cách kiến trúc dân gian địa phương và hình chế kiến trúc Phật Giáo.
Phật tự Trung Quốc, Phật tháp Trung Quốc hình chế được diễn hóa theo phong cách kiến trúc Trung Quốc. Kinh Tràng, bia đá, tượng Phật và bích họa của Phật Giáo Trung Quốc trãi qua quá trình hòa nhập, phát triển đã tạo cho mình một phong cách riêng biệt, và có thể đại diện cho phong cách của từng thời đại nghệ thuật văn hóa Phật Giáo, cũng như sự phát triển của Phật Giáo trong nền văn hóa tư tưởng nghệ thuật truyền thống cổ đại Trung Quốc. Nói khoa trương một chút kiến trúc Phật Giáo mỗi tòa là một hình tượng xinh động về nghệ thuật, là bảo tàng quí giá nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc khắc sâu và phản ánh tư tưởng văn hóa truyền thống cổ đại Trung Quốc. thời cổ đại Trung Quốc tư tưởng Nho gia có địa vị chủ đạo về tư tưởng, tinh thần của xã hội phong kiến Trung Quốc. Sau khi Phật Giáo truyền nhập vào Trung Quốc với giáo nghĩa nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi và đề ra một phương pháp lễ Phật tu hành, khắc phục dục vọng, tích thiện tích đức, nương nhờ những công đức này mà thoát ly khổ nạn, đạt đáo quả vị Phật thừa, đây là con đường thăng hoa của nhân sanh và thực hiện nhân cách của sinh mạng.
Ngũ giới, Thập Thiện cùng với chủ trương thưởng thiện phạt ác, những giá trị tinh thần này được phổ biến cùng khắp xã hội cổ đại Trung Quốc. Một số nghĩa lý của Phật Giáo có sự tương thông với tư tưởng Nho gia. Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo phản ánh rõ ràng những đặc trưng về truyền thống tư tưởng văn hóa cổ đại Trung Quốc, đều do văn hóa Phật Giáo và lễ chế của Nho gia tương dung, rõ ràng nhất Trung Quốc Phật tự là sự chuyển hóa từ thể chế quan thự phong kiến, và đẳng cấp theo quan niệm tư tưởng của lễ chế Nho gia. Đây là đặc trưng điển hình của kiến trúc Hán truyền Phật Giáo.
Kiến trúc Hán truyền Phật Giáo có ảnh hưởng rất lớn tại Trung Quốc, từ bố cục của kiến trúc cho đến hình thể của kiến trúc tự viện, kết cấu nội ngoại trang trí đều có sự ảnh hưởng sâu đậm của lễ chế Nho gia, trong quan niệm và chế độ “lễ vi thiên hạ chi tự” sự can thiệp mạnh mẽ về luân lý và qui phạm chính trị.
Đồng thời do sự ảnh hưởng của quan niệm âm dương vũ trụ và triết học nhân sinh, sùng thượng đối xứng, quân bình, ổn định tâm lý thẩm mỹ này hoàn toàn chi phối việc chọn nơi làm chùa cũng như hình chế của tự viện, cường điệu lý niệm “ thiên nhân hợp”, “biện phương chánh vị”, làm cho kiến trúc của Phật Giáo dung nhập vào hoàn cảnh của tự nhiên, mặt bằng kiến trúc thường xử dụng hình vuông lấy tâm điểm đặt để kiến trúc theo thứ tự và đối xứng cấu thành một quần thể kiến trúc trang nghiêm trật tự và khí thế.
Từ những hình chế của kiến trúc tự viện như quy mô , số lượng, to nhỏ, cao thấp, sâu rộng, giá đỡ và những số tầng của bảo tháp, những đồ hình trang trí trên nóc chùa.v.v… đều có những quy phạm nghiêm khắc hạn chế và qui định của lễ chế phong kiến. Kiến trúc Phật Giáo được sử dụng con số kiết tường đặc trưng của thể chế phong kiến Trung Quốc như số 9 hoặc là 99 và các hình tượng tượng trưng tôn quí cát tường của kiến trúc cung điện Trung Quốc.
Bất cứ là chùa xây dựng trên núi hoặc làm ở dưới đồng bằng, nơi thờ tự Đức Phật cũng như hoạt động các nghi thức tôn giáo là kiến trúc chính trong quần thể kiến trúc của Phật Giáo được chú trọng đặc biệt trong việc kiến tạo cũng như loại hình kiến trúc và trang trí kiến trúc, vị trí kiến trúc thể hiện rõ ràng sự tôn quí cũng như quan trọng của kiến trúc này.
Quan niệm và luân lý truyền thống cổ đại Trung Quốc cho rằng trong quần thể kiến trúc, Điện có địa vị thần thánh và được tôn sùng cao nhất, duy chỉ có nhà vua thương nghị triều chính cử hành các đại lễ của quốc gia, lễ tế thiên địa thần linh và liệt vị tổ tông tiên đế mới đủ tư cách được gọi là Điện, nơi cung phụng Phật tượng, lễ Phật, tụng Kinh được đặc cách tôn xưng là Điện.
Đại đa số các tự viện Phật Giáo ngoài Đại Hùng Bảo Điện ra còn có Bồ Tát điện, Thiên Vương điện, La Hán đường, hai bên sơn môn còn có lầu chuông trống nghiễm nhiên đây là lễ chế kiến trúc của Cung Điện và Quan Thự mà Phật Giáo được hoàn toàn sử dụng trong công trình kiến trúc tôn giáo mình.
Tự viện Trung Quốc chiếu theo sự hoằng truyền và ảnh hưởng của chùa, cũng như cấp độ trọng thị của nhà vua mà qui hoạch theo những đẳng cấp đã được qui định. Đẳng cấp và địa vị cao nhất là hoàng gia công đức tự, thứ đến là sắc kiến quốc tự, mỗi địa phương gồm có tự viện của kinh đô, của châu, quận, huyện.v.v…
Những ngôi chùa có đẳng cấp thấp nhất như am viện, lan nhã trong núi rừng, Phật tự địa vị càng cao thì qui mô càng lớn, viện thất càng nhiều, đại điện giá đỡ số tầng lớp được nâng cao, nghệ thuật kiến trúc cũng như trang trí thể hiện rõ ràng sự tôn quí hoa lệ. Các vị vua thường sắc phong khâm định chức vị trụ trì các ngôi quốc tự, ban tứ tự hiệu cho các ngôi chùa cũng như đề thơ lập bia để phổ cáo trong thiên hạ.
Chúng ta từ việc này có thể cảm thọ được tư tưởng văn hóa truyền thống Trung Quốc ảnh hưởng sâu sắc đến nền Nghệ Thuật Kiến Trúc Phật Giáo Trung Quốc. (Hết)
Ngũ Đài Sơn-Văn Thù Bồ Tát
Nga Mi Sơn-Phổ hiền Bồ Tát
Nga Mi Sơn-Phổ hiền Bồ Tát
Cửu Hoa Sơn-Địa Tạng Bồ Tát
Phổ Đà Sơn-Quán Thế Âm Bồ Tát
Thiểm Tây-Tây An-Đại Hưng Thiện Tự-Tổ Đình Mật tông
Thiểm Tây-Tây An-Hương Tích Tự-Tổ Đình Tịnh Độ Tông
Thiểm Tây-Tây An-Tịnh Nghiệp Tự- Tổ Đình Luật Tông
Giang Tô-Thê Hà Tự-Tổ Đình Tam Luận Tông
Hà Nam-Tung Sơn Thiếu Lâm Tự-Tổ Đình Thiền Tông
Thiểm Tây-Tây An-Hoa Nghiêm Tự-Tổ Đình Hoa Nghiêm Tông
Nhận xét
Đăng nhận xét