Hàng năm, nhất là mỗi độ Xuân về thì hàng triệu lượt người từ khắp nơi trong nước và cả từ các nơi trên thế giới đều đổ dồn về vùng Thất Sơn, Châu Ðốc để đi hành hương viếng Ðền Bà Chúa Xứ ở Núi Sam hay Núi Bà Ðen ở Tây Ninh, hoặc các Ðền Thờ Thánh Mẫu ở khắp nơi từ Bắc chí Nam. Ðông nhất là trong những Tháng Giêng, Tháng Hai và Tháng Ba Âm Lịch, đó là mùa lễ Vía Bà. Trong dân gian có câu: “Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ”, Cha chính là Hưng Ðạo Ðại Vương hay thường gọi một cách tôn kính là Ðức Thánh Trần là vị anh hùng của dân tộc; và Mẹ đây chính là Ðức Thánh Mẫu mà dân gian vẫn thờ phượng.
Vùng Thất Sơn hay nôm na là vùng Bảy Núi trong tỉnh Châu Ðốc, giáp với Campuchia và bao gồm những ngọn núi có tên rất đẹp tựa như trong truyện kiếm hiệp: Ngọa Long Sơn, Ngũ Hổ Sơn, Thiên Cấm Sơn, Anh Vũ Sơn, Thủy Ðài Sơn, Phụng Hoàng Sơn, và Liên Hoa Sơn. Trong vùng Thất Sơn có một ngọn núi lớn mà trên đó có xây một ngôi chùa cổ kính cao chót vót từng mây. Khách đi hành hương phải leo lên không biết là bao nhiêu bực thang trên sườn núi đá để lên chùa. Khi tới lưng chừng núi thì thấy chung quanh mình mây mù đã bao phủ và cảnh vật thiên nhiên đẹp tựa như trong tranh vẽ hay truyen thần tiên, thấy hồn mình như rũ sạch được bụi trần. Bên cạnh đó có một con suối chảy róc rách mà tương truyền rằng ai lên tới được chốn này rửa được tay chân mình thì sẽ tiêu tan được phần nào nghiệp chướng.
Ðặc biệt, ngọn núi Sam ở Châu Ðốc lại không nằm trong dãy núi Thất Sơn mà ở giữa vùng đồng nước bao la, là ngọn núi nhỏ đẹp có hình giống con sam, đầu quay về hướng Bắc, là nơi có Ðền Bà Chúa Xứ nổi tiếng linh thiêng. Dân chúng thường hay đến để xin xăm, cầu xin tài lộc, phước thọ, buôn may bán đắt, cầu xin con quý tử, xin giải trừ tật bệnh tai ương v.v..
Tượng Bà Chúa Xứ được đúc bằng đá xanh mà theo nhiều nhà khảo cổ học thì là một loại nham thạch trầm tích gọi là Diệp Thạch. Dân gian truyền tụng rằng mỗi năm đá xanh mỗi nở thêm ra và tượng Bà mỗi năm mỗi lớn hơn năm trước. Vị coi đền kể rằng xưa kia Ðền Thờ Bà Chúa Xứ được xây ở trên núi cao và có giả thuyết rằng bức tượng của Bà đã được đặt trên núi Sam cách đây cả ngàn năm trước bởi một hoàng tử xứ Ấn Ðộ. Vị hoàng tử Ấn Ðộ đã lưu luyến vùng đất này và dừng gót phiêu du tại nơi đây và lập nên xứ Phù Nam. Sau này tượng Bà mới được thỉnh xuống đồng bằng trong vùng núi Sam để dân chúng dễ đi lại cho việc thăm viếng. Hằng năm, trong Lễ Vía Bà thường tổ chức lễ tắm gội cho Bà, và các đệ tử Ngài cũng như những thiện nam tín nữ tham dự lễ này vẫn thường xin nước tắm cho Bà về để chữa bệnh.
Trong nhiều đền, chúng ta thấy dân chúng tạc tượng thờ Tam Tòa là ba vị Thánh Mẫu Áo Ðỏ, Áo Xanh và Áo Vàng. Vị Áo Ðỏ là Mẫu Thượng Thiên hay còn được gọi tôn kính là Ðệ Nhất Huyền Thiên Thánh Mẫu và dân chúng thờ Bà từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Nhiều nơi, dân chúng thờ Bà Chúa Liễu Hạnh là Ðệ Nhất Thánh Mẫu là vị đã được vua phong cho làm Mẫu Nghi Thiên Hạ vào cuối đời nhà Lê. Vị Áo Xanh là Mẫu Thượng Ngàn hay Ðệ Nhị Thánh Mẫu mà đền thờ lớn nhất là trong tỉnh Tuyên Quang. Vị Áo Vàng là Mẫu Thải Phủ hay Ðệ Tam Thánh Mẫu.
Huyền thoại lưu truyền lại rằng Mẫu Thượng Thiên nguyên là trên thượng giới chẳng may đánh rơi chén ngọc nên bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian đầu thai vào một gia đình quan lại tại thôn Vân Cát, xã Tiên Hương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Ðịnh là nơi sản sinh ra những trạng và những vị thánh. Vị quan này vốn hiếm muộn cho nên khi sinh ra được mụn con gái thì rất mực cưng chiều. Ðến năm hai mốt tuổi thì Bà đã hết hạn ở trần gian nên về lại thượng giới. Nhưng sau đó, khi Bà về Trời rồi thì một hôm nhớ trần gian cho nên lại lén Ngọc Hoàng xuống thế gian chơi và hai nàng tiên Quỳnh Hoa và Quế Hoa cũng theo chân Bà xuống thăm trần gian một chuyến và sau này thành ba vị Thánh Mẫu mà dân gian vẫn thờ phượng. Bà hóa thân thành người bán thuốc đi khắp nơi để cứu độ nhân gian bệnh tật, những ai không có tiền trả cho việc thuốc thang chữa bệnh thì Bà cho một nơi chốn đến đó để trả tiền. Sau này khi những bệnh nhân đó tìm đến ân nhân để đền đáp lại thì mới biết nơi đó chính là Ðền Phủ Giầy nơi thờ Mẫu.
Dân gian miền Nam có những câu hò thì miền Bắc cũng có những câu dân ca của những nàng thôn nữ hát ví von để đố những anh trai làng như sau để thấy rằng việc phụng thờ Mẫu đã đi vào trong sinh hoạt dân gian của người nông dân từ lâu rồi:
“Ở đâu năm cửa chàng ơi!.. Sông nào sáu khúc chảy xuôi một dòng.”
“Nước sông nào bên đục bên trong. Núi nào thắt cỏ bồng lại có Thánh sinh.”
“Ðền nào thiêng nhất xứ Thanh. Ở đâu mà lại có thành Tiên xây.”
“Ở đâu có chín tầng mây? Ở đâu lắm nước ở đâu nhiều vàng?”
“Chùa nào mà lại lắm hang? Ở đâu lắm gỗ thì chàng biết không?”
“Ai đi xin được túi đồng. Ở đâu lại có con sông Ngân Hà?”
“Nước nào dệt gấm thêu hoa? Ai sinh ra cửa ra nhà chàng ơi?”
“Kìa ai đội đá vá trời. Còn ai trị thủy cho đời an vui?”
“Em hỏi anh trong bấy nhiêu lời. Xin anh giảng rõ từng nơi từng người.”
Chàng bèn thủng thẳng đối đáp lại như sau:
“Thành Hà Nội năm cửa nàng ơi. Sông Lục Ðầu sáu khúc nước xuôi một dòng.”
“Nước sông Thương bên đục bên trong. Núi Tản thắt cỏ bồng lại có Thánh sinh.”
“Ðền Sòng thiêng nhất xứ Thanh. Ở trên tỉnh Lạng có thành Tiên xây.”
“Trên Trời có chín tầng mây. Dưới sông lắm nước, mỏ nay nhiều vàng.”
“Chùa Hương Tích lại lắm hang. Trên rừng lắm gỗ thì nàng biết không?”
“Ông Khổng Minh không xin được túi đồng. Trên Trời lại có con sông Ngân Hà.”
“Nước Tàu dệt gấm thêu hoa. Ông Hữu Lão sinh ra cửa ra nhà nàng ơi.”
“Bà Nữ Oa đội đá vá Trời. Vua Ðại Vũ trị thủy cho đời an vui.”
“Em hỏi anh trong bấy nhiêu lời. Anh đã kể rõ từng nơi từng người.”
Trong câu dân ca hát đối đáp bên trên, Bà Nữ Oa chính là một vị Mẫu mà dân chúng thờ nhiều nhất trên vùng thượng ngàn trong Thất Phẩm Nương Nương.
Bảy vị Thánh Mẫu này bao gồm Linh Sơn Thánh Mẫu (Núi Bà Ðen, Tây Ninh), Bà Chúa Xứ, Mẫu Diêu Trì, Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, Mẫu Nữ Oa, Mẫu Vân Hương, và Thiên Y Thánh Mẫu (Tháp Chàm, Nha Trang).
Theo kinh sách Phật thì con người ta sinh ra đời đã là một điều hy hữu rồi vì đứng ở giữa trời đất, trên các loài vật, ngạ quỷ súc sinh và địa ngục, và dưới các vị thần tiên, các chư thiên, các vị thánh, dưới chư vị Bồ Tát và chư tôn Phật.
Theo Hòa Thượng Thích Thiện Chánh khi thầy còn sinh tiền thì chư vị Thánh Mẫu đã đạt tới ngôi vị Thánh và đang tu tập để lên quả vị Bồ Tát. Trên là Ðức Phật Bà Quan Thế Âm là vị Ðại Bồ Tát vẫn thường lắng nghe những nỗi thống khổ của chúng sanh mà xuống cứu khổ cứu nạn, và dưới Ngài là Mẫu. Những đệ tử của Mẫu thường thiết lập các đàn để tế lễ Mẫu, nhất là vào những ngày giỗ chư vị Thánh Mẫu hàng năm vào Tháng Ba Âm Lịch, và cầu xin Mẫu giáng lâm khai sáng thêm, ban cho sự an lành hay để chữa những bệnh tật ngặt nghèo, hay để được lộc được tài trong năm mới v.v..
Sau khi miền Nam sụp đổ vào Tháng Tư đen năm một chín bảy lăm, các đệ từ Mẫu đã thiết lập một đàn chay để cầu Mẫu về soi sáng cho trong tình hình bi đát của đất nước, và có đặt câu hỏi là tại sao loài quỷ đỏ quá hung ác như vậy mà lại chiếm được miền Nam, trong khi người Quốc Gia có chính nghĩa thì lại nước mất nhà tan?
Lúc đó Hòa Thượng Thích Thiện Chánh có mặt tại buổi lễ và kể lại rằng Mẫu đã giáng lâm xuống đàn và phán rằng đó là vận nước đã suy vong lại nhằm vào trong thời mạt pháp nên quỷ dữ mới lộng hành, và cơ Trời không thể tiết lộ được. Mẫu đã khóc vì thương cho chúng sanh trong đó có những đệ tử của Mẫu sẽ phải trải qua bao nhiêu là thống khổ không thể kể xiết được, quan quân thẩy từ trên xuống dưới đều sẽ phải lầm than, đói khổ nhục nhằn, chân lấm tay bùn, kể mất người còn, gia đình ly tán.
Cuối cùng trước khi thăng thiên, Mẫu nhắn nhủ lại rằng loài quỷ đỏ vốn chỉ ngự trị trong bóng tối, trong rừng sâu núi thẳm, nếu còn ở trong bóng tối thì chúng sẽ còn mãi không thể tận diệt được chúng. Nay chúng đã ra ánh sáng và sẽ từ từ bị lộ chân tướng và cũng sẽ từ từ bị ánh sáng tiêu diệt.
Niềm tin tưởng thâm sâu vào Phật Pháp, vào Tam Bảo trong suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua đã giúp cho người Phật tử Việt Nam có những đóng góp vô lượng vô biên công đức trong việc xây dựng, tu sửa và bảo trì bao nhiêu là chùa chiền tại quê hương chúng ta cũng như tại hải ngoại để con cháu sau này có nơi đến để lễ Phật và giúp cho việc hoằng dương Phật Pháp được tiến triển qua bao thăng trầm của đất nước.
Ðối với những đệ tử của Mẫu, cũng với niềm tin sâu xa vào Thất Phẩm Nương Nương, nên đã ra công góp sức trong việc thiết lập lễ đàn hay dựng xây lên những đền đài thờ Mẫu ở trong nước cũng như hải ngoại. Ở tại Quận Cam trong thành phố Garden Grove chúng ta đang cư ngụ cũng có một đền thờ Mẫu mà các đệ tử của Mẫu cũng như những tín hữu vẫn duy trì được những lễ hội quanh năm.
Múa dâng hoa và lễ vật mừng lễ rước tượng Bà thành công.
Cùng với sự góp mặt của các dân tộc anh em như Hoa, Chăm, Khmer.
Vùng Thất Sơn hay nôm na là vùng Bảy Núi trong tỉnh Châu Ðốc, giáp với Campuchia và bao gồm những ngọn núi có tên rất đẹp tựa như trong truyện kiếm hiệp: Ngọa Long Sơn, Ngũ Hổ Sơn, Thiên Cấm Sơn, Anh Vũ Sơn, Thủy Ðài Sơn, Phụng Hoàng Sơn, và Liên Hoa Sơn. Trong vùng Thất Sơn có một ngọn núi lớn mà trên đó có xây một ngôi chùa cổ kính cao chót vót từng mây. Khách đi hành hương phải leo lên không biết là bao nhiêu bực thang trên sườn núi đá để lên chùa. Khi tới lưng chừng núi thì thấy chung quanh mình mây mù đã bao phủ và cảnh vật thiên nhiên đẹp tựa như trong tranh vẽ hay truyen thần tiên, thấy hồn mình như rũ sạch được bụi trần. Bên cạnh đó có một con suối chảy róc rách mà tương truyền rằng ai lên tới được chốn này rửa được tay chân mình thì sẽ tiêu tan được phần nào nghiệp chướng.
Ðặc biệt, ngọn núi Sam ở Châu Ðốc lại không nằm trong dãy núi Thất Sơn mà ở giữa vùng đồng nước bao la, là ngọn núi nhỏ đẹp có hình giống con sam, đầu quay về hướng Bắc, là nơi có Ðền Bà Chúa Xứ nổi tiếng linh thiêng. Dân chúng thường hay đến để xin xăm, cầu xin tài lộc, phước thọ, buôn may bán đắt, cầu xin con quý tử, xin giải trừ tật bệnh tai ương v.v..
Tượng Bà Chúa Xứ được đúc bằng đá xanh mà theo nhiều nhà khảo cổ học thì là một loại nham thạch trầm tích gọi là Diệp Thạch. Dân gian truyền tụng rằng mỗi năm đá xanh mỗi nở thêm ra và tượng Bà mỗi năm mỗi lớn hơn năm trước. Vị coi đền kể rằng xưa kia Ðền Thờ Bà Chúa Xứ được xây ở trên núi cao và có giả thuyết rằng bức tượng của Bà đã được đặt trên núi Sam cách đây cả ngàn năm trước bởi một hoàng tử xứ Ấn Ðộ. Vị hoàng tử Ấn Ðộ đã lưu luyến vùng đất này và dừng gót phiêu du tại nơi đây và lập nên xứ Phù Nam. Sau này tượng Bà mới được thỉnh xuống đồng bằng trong vùng núi Sam để dân chúng dễ đi lại cho việc thăm viếng. Hằng năm, trong Lễ Vía Bà thường tổ chức lễ tắm gội cho Bà, và các đệ tử Ngài cũng như những thiện nam tín nữ tham dự lễ này vẫn thường xin nước tắm cho Bà về để chữa bệnh.
Trong nhiều đền, chúng ta thấy dân chúng tạc tượng thờ Tam Tòa là ba vị Thánh Mẫu Áo Ðỏ, Áo Xanh và Áo Vàng. Vị Áo Ðỏ là Mẫu Thượng Thiên hay còn được gọi tôn kính là Ðệ Nhất Huyền Thiên Thánh Mẫu và dân chúng thờ Bà từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Nhiều nơi, dân chúng thờ Bà Chúa Liễu Hạnh là Ðệ Nhất Thánh Mẫu là vị đã được vua phong cho làm Mẫu Nghi Thiên Hạ vào cuối đời nhà Lê. Vị Áo Xanh là Mẫu Thượng Ngàn hay Ðệ Nhị Thánh Mẫu mà đền thờ lớn nhất là trong tỉnh Tuyên Quang. Vị Áo Vàng là Mẫu Thải Phủ hay Ðệ Tam Thánh Mẫu.
Huyền thoại lưu truyền lại rằng Mẫu Thượng Thiên nguyên là trên thượng giới chẳng may đánh rơi chén ngọc nên bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian đầu thai vào một gia đình quan lại tại thôn Vân Cát, xã Tiên Hương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Ðịnh là nơi sản sinh ra những trạng và những vị thánh. Vị quan này vốn hiếm muộn cho nên khi sinh ra được mụn con gái thì rất mực cưng chiều. Ðến năm hai mốt tuổi thì Bà đã hết hạn ở trần gian nên về lại thượng giới. Nhưng sau đó, khi Bà về Trời rồi thì một hôm nhớ trần gian cho nên lại lén Ngọc Hoàng xuống thế gian chơi và hai nàng tiên Quỳnh Hoa và Quế Hoa cũng theo chân Bà xuống thăm trần gian một chuyến và sau này thành ba vị Thánh Mẫu mà dân gian vẫn thờ phượng. Bà hóa thân thành người bán thuốc đi khắp nơi để cứu độ nhân gian bệnh tật, những ai không có tiền trả cho việc thuốc thang chữa bệnh thì Bà cho một nơi chốn đến đó để trả tiền. Sau này khi những bệnh nhân đó tìm đến ân nhân để đền đáp lại thì mới biết nơi đó chính là Ðền Phủ Giầy nơi thờ Mẫu.
Dân gian miền Nam có những câu hò thì miền Bắc cũng có những câu dân ca của những nàng thôn nữ hát ví von để đố những anh trai làng như sau để thấy rằng việc phụng thờ Mẫu đã đi vào trong sinh hoạt dân gian của người nông dân từ lâu rồi:
“Ở đâu năm cửa chàng ơi!.. Sông nào sáu khúc chảy xuôi một dòng.”
“Nước sông nào bên đục bên trong. Núi nào thắt cỏ bồng lại có Thánh sinh.”
“Ðền nào thiêng nhất xứ Thanh. Ở đâu mà lại có thành Tiên xây.”
“Ở đâu có chín tầng mây? Ở đâu lắm nước ở đâu nhiều vàng?”
“Chùa nào mà lại lắm hang? Ở đâu lắm gỗ thì chàng biết không?”
“Ai đi xin được túi đồng. Ở đâu lại có con sông Ngân Hà?”
“Nước nào dệt gấm thêu hoa? Ai sinh ra cửa ra nhà chàng ơi?”
“Kìa ai đội đá vá trời. Còn ai trị thủy cho đời an vui?”
“Em hỏi anh trong bấy nhiêu lời. Xin anh giảng rõ từng nơi từng người.”
Chàng bèn thủng thẳng đối đáp lại như sau:
“Thành Hà Nội năm cửa nàng ơi. Sông Lục Ðầu sáu khúc nước xuôi một dòng.”
“Nước sông Thương bên đục bên trong. Núi Tản thắt cỏ bồng lại có Thánh sinh.”
“Ðền Sòng thiêng nhất xứ Thanh. Ở trên tỉnh Lạng có thành Tiên xây.”
“Trên Trời có chín tầng mây. Dưới sông lắm nước, mỏ nay nhiều vàng.”
“Chùa Hương Tích lại lắm hang. Trên rừng lắm gỗ thì nàng biết không?”
“Ông Khổng Minh không xin được túi đồng. Trên Trời lại có con sông Ngân Hà.”
“Nước Tàu dệt gấm thêu hoa. Ông Hữu Lão sinh ra cửa ra nhà nàng ơi.”
“Bà Nữ Oa đội đá vá Trời. Vua Ðại Vũ trị thủy cho đời an vui.”
“Em hỏi anh trong bấy nhiêu lời. Anh đã kể rõ từng nơi từng người.”
Trong câu dân ca hát đối đáp bên trên, Bà Nữ Oa chính là một vị Mẫu mà dân chúng thờ nhiều nhất trên vùng thượng ngàn trong Thất Phẩm Nương Nương.
Bảy vị Thánh Mẫu này bao gồm Linh Sơn Thánh Mẫu (Núi Bà Ðen, Tây Ninh), Bà Chúa Xứ, Mẫu Diêu Trì, Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, Mẫu Nữ Oa, Mẫu Vân Hương, và Thiên Y Thánh Mẫu (Tháp Chàm, Nha Trang).
Theo kinh sách Phật thì con người ta sinh ra đời đã là một điều hy hữu rồi vì đứng ở giữa trời đất, trên các loài vật, ngạ quỷ súc sinh và địa ngục, và dưới các vị thần tiên, các chư thiên, các vị thánh, dưới chư vị Bồ Tát và chư tôn Phật.
Theo Hòa Thượng Thích Thiện Chánh khi thầy còn sinh tiền thì chư vị Thánh Mẫu đã đạt tới ngôi vị Thánh và đang tu tập để lên quả vị Bồ Tát. Trên là Ðức Phật Bà Quan Thế Âm là vị Ðại Bồ Tát vẫn thường lắng nghe những nỗi thống khổ của chúng sanh mà xuống cứu khổ cứu nạn, và dưới Ngài là Mẫu. Những đệ tử của Mẫu thường thiết lập các đàn để tế lễ Mẫu, nhất là vào những ngày giỗ chư vị Thánh Mẫu hàng năm vào Tháng Ba Âm Lịch, và cầu xin Mẫu giáng lâm khai sáng thêm, ban cho sự an lành hay để chữa những bệnh tật ngặt nghèo, hay để được lộc được tài trong năm mới v.v..
Sau khi miền Nam sụp đổ vào Tháng Tư đen năm một chín bảy lăm, các đệ từ Mẫu đã thiết lập một đàn chay để cầu Mẫu về soi sáng cho trong tình hình bi đát của đất nước, và có đặt câu hỏi là tại sao loài quỷ đỏ quá hung ác như vậy mà lại chiếm được miền Nam, trong khi người Quốc Gia có chính nghĩa thì lại nước mất nhà tan?
Lúc đó Hòa Thượng Thích Thiện Chánh có mặt tại buổi lễ và kể lại rằng Mẫu đã giáng lâm xuống đàn và phán rằng đó là vận nước đã suy vong lại nhằm vào trong thời mạt pháp nên quỷ dữ mới lộng hành, và cơ Trời không thể tiết lộ được. Mẫu đã khóc vì thương cho chúng sanh trong đó có những đệ tử của Mẫu sẽ phải trải qua bao nhiêu là thống khổ không thể kể xiết được, quan quân thẩy từ trên xuống dưới đều sẽ phải lầm than, đói khổ nhục nhằn, chân lấm tay bùn, kể mất người còn, gia đình ly tán.
Cuối cùng trước khi thăng thiên, Mẫu nhắn nhủ lại rằng loài quỷ đỏ vốn chỉ ngự trị trong bóng tối, trong rừng sâu núi thẳm, nếu còn ở trong bóng tối thì chúng sẽ còn mãi không thể tận diệt được chúng. Nay chúng đã ra ánh sáng và sẽ từ từ bị lộ chân tướng và cũng sẽ từ từ bị ánh sáng tiêu diệt.
Niềm tin tưởng thâm sâu vào Phật Pháp, vào Tam Bảo trong suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua đã giúp cho người Phật tử Việt Nam có những đóng góp vô lượng vô biên công đức trong việc xây dựng, tu sửa và bảo trì bao nhiêu là chùa chiền tại quê hương chúng ta cũng như tại hải ngoại để con cháu sau này có nơi đến để lễ Phật và giúp cho việc hoằng dương Phật Pháp được tiến triển qua bao thăng trầm của đất nước.
Ðối với những đệ tử của Mẫu, cũng với niềm tin sâu xa vào Thất Phẩm Nương Nương, nên đã ra công góp sức trong việc thiết lập lễ đàn hay dựng xây lên những đền đài thờ Mẫu ở trong nước cũng như hải ngoại. Ở tại Quận Cam trong thành phố Garden Grove chúng ta đang cư ngụ cũng có một đền thờ Mẫu mà các đệ tử của Mẫu cũng như những tín hữu vẫn duy trì được những lễ hội quanh năm.
Những hình ảnh trong ngày lễ “Phục hiện rước tượng Bà” năm 2012.
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được chính thức bắt đầu vào ngày 22 tháng 04 âm lịch hằng năm bằng lễ “Phục hiện rước tượng Bà” từ trên đỉnh núi Sam xuống miếu thờ. Nghi thức trên đã khắc họa lại một cách rõ nét rằng cách nay hơn 200 năm khi người dân đến khai phá vùng này rất cần một chỗ tựa tâm linh để vui sống và tồn tại trước thiên nhiên hoang dã quá ư khắc nghiệt. Việc tái hiện lại những hình ảnh trên làm sống lại lịch sử của thời khai hoang lập ấp. Sự hòa trộn giữa hiện thực và huyền thoại khiến cho lễ "phục hiện rước tượng Bà " này được sự đồng thuận và ngưỡng mộ của mọi tầng lớp nhân dân. Từ miếu Bà Núi Sam đến đỉnh núi nơi Bà ngự trên 3 km, hàng chục ngàn người dân đứng hai bên đường hòa mình vào lễ hội với lòng thành kính và ý thức trật tự rất cao. Đây cũng là một nét đẹp về văn hóa trong lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam. Dưới đây là những hình ảnh trong ngày lễ phục hiện rước tượng Bà năm 2012 được tổ chức vào ngày 12 tháng 5 ( 22 tháng 4 âm lịch).
Trưởng làng báo tin cho dân chúng đã tìm được tượng bà trên đỉnh núi.
Trống dục và loa vang báo tin vui cho dân làng.
Dân làng sắm sửa lễ vật để lên núi rước tượng Bà về.
Trưởng làng thắp hương cầu nguyện xin rước tượng Bà.
Dân chúng từ các nơi đứng đợi đoàn kiệu rước lễ trên đỉnh núi.
Thậm chí còn trèo lên cây cao để được nhìn rõ hơn.
Sau chuyến hành trình đầy gian lao, đoàn kiệu rước lễ mới đến được đỉnh núi.
Kiệu rước lễ đã được an vị nơi đỉnh núi.
Các vị bô lão thắp hương xin rước “Bà” xuống núi.
Áo mão của Bà được đặt nơi bệ thờ.
Rước Áo mão của Bà vào kiệu.
Các thanh niên khỏe mạnh vẫn không nhấc được kiệu.
Bà nhập đồng về bảo phải chọn ra 9 thiếu nữ đồng trinh để khiêng kiệu.
9 thiếu nữ đồng trinh được chọn để khiêng kiệu.
Dân chúng hai bên đường lập bàn thờ thắp hương đón đoàn kiệu rước lễ.
Múa dâng hoa và lễ vật mừng lễ rước tượng Bà thành công.
Điệu múa hoa đăng cung đình cũng được cải biên để đưa vào lễ hội.
Cùng với sự góp mặt của các dân tộc anh em như Hoa, Chăm, Khmer.
Tượng Bà Chúa Xứ núi Sam nơi chính điện.
Rước áo mão của Bà vào chính điện.
Điểm du lịch quan trọng nhất ở Châu Đốc là miếu bà chúa Xứ, thu hút hơn 2 triệu du khách đến thăm viếng, gần bằng phân nửa số du khách quốc tế đến thăm viếng nước Việt Nam mỗi năm.
Du khách đến đây từ mọi vùng đất nước, Nam, Trung, Bắc để thăm viếng miếu Bà Chúa Xứ, không khí rộn ràng, náo nhiệt, vui lắm.
Mặc dầu được sanh ra và lớn lên tại miền Nam, do chiến tranh tôi chỉ sống lẩn quẩn ở Saigon, không biết gì nhiều về quê hương của tôi, không biết gì nhiều về miền Tây nơi ông bà cha mẹ tôi đến đây lập nghiệp từ mấy trăm năm trước.
Mỗi lần về thăm lại quê hương sau nhiều năm xa cách, tôi lại trở về miền Tây, tìm hiểu nhiều hơn về tâm tình, cách sống, và thưởng thức những món ăn ông bà cha mẹ tôi đã từng ăn, thú vị lắm.
Tôi cũng du lịch nhiều nơi trong nước, thăm viếng tất cả những danh lam thắng cảnh trong các tour du lịch từ Nam chí Bắc. Nhưng có một sức lôi cuốn nào đó vẫn đưa tôi về miền Tây mỗi lần trở về quê hương. Một lý do có thể hiểu được, là về thăm lại mồ mã ông bà, đã yên nghỉ tại miền đất này.
Một lãnh tụ nào đó đã nói, quê hương là miền đất nơi ông bà cha mẹ tôi yên nghỉ giấc ngàn thu. Có lẽ điều đó đúng phần nào. Đối với tôi, quê hương hơn thế nữa. Đối với tôi, quê huong còn là nơi dân chúng ở đây giang tay rộng đón tôi trở về, như một đứa con trong đại gia đình dân tộc. Chính vì vậy, tôi không thích du lịch ở những nơi dân chúng còn ngó tôi với cặp mắt hận thủ. Trở về miền Tây, tôi cảm thấy vui vô cùng.
Về thăm quê hương kỷ niệm 50 năm ngày cưới, tôi và người tình trăm năm cũng đi du lịch miền Tây. Đi hoài không chán. Mỗi lần đi mỗi lần hiểu nhiều hơn người dân miền Nam, do tình cờ lịch sử tôi được sanh ra ở miền đất này.
Trong entry nầy, xin chia sẻ với các bạn một vài hinh ảnh miếu Bà Chúa Xứ ở chợ Châu Đốc một buổi sáng mùa thu năm 2009, khi vợ chồng tôi đến đây kỷ niệm 50 năm hôn nhân.
“ Miếu Bà Chúa xứ là một di tích nổi tiếng ở Núi Sam, hàng năm thu hút gần 2 triệu lược người đến cúng bái, tham quan. Khách hành hương, du lịch không những đến từ các tỉnh lân cận mà còn từ các tỉnh xa như miền Đông, miền Trung… tạo nên một mùa lễ hội sôi nổi, đông đảo ở núi Sam suốt nhiều tháng.
Miếu Bà có từ bao giờ? Đến nay chưa có sử liệu nào ghi lại một cách chính xác. Trong dân gian tương truyền rằng: Cách đây gần 200 năm, núi Sam còn hoang vu, cây cối rậm rạp, nhiều thú dữ, dân cư thưa thớt, giặc biên giới thường sang khuấy nhiễu.
Một hôm, có một toán giặc Xiêm leo lên núi Sam phát hiện được pho tượng cổ bằng đá rất đẹp. Động lòng tham, chúng xeo nại, tìm cách khiêng đi nhưng không thể nào xê dịch được. Sau hàng giờ vất vả với pho tượng, chúng tức giận đập phá làm gãy cánh tay trái pho tượng.
Sau khi chúng bỏ đi, trong làng có một bé gái đang đùa giỡn bỗng dưng ngồi lại, mặt đỏ bừng, đầu lắc lư, tự xưng là Chúa xứ thánh mẫu, nói với các bô lão: “Tượng bà đang ngự trên núi, bị giặc Xiêm phá hại, dân làng hãy đưa Bà xuống”. Dân làng kéo nhau lên núi, quả thật tượng Bà đang ngự gần trên đỉnh. Họ xúm nhau khiêng tượng xuống làng nhằm mục đích để gìn giữ và phụng thờ. Bao nhiêu tráng đinh lực điền được huy động, các lão làng tính kế để đ ưa t ượng đi, nh ưng không làm sao nhấc lên đ ược dù pho t ượng không phải là quá lớn, quá nặng.
Các cụ bàn nhau chắc là ch ưa trúng ý Bà nên cử ng ười cầu khấn. Quả nhiên bé gái hôm nọ lại đ ược Bà đạp đồng mách bảo: “Hãy chọn chín cô gái đồng trinh để đem Bà xuống núi”.
Dân làng mừng rỡ tuyển chọn chín cô gái dẫn lên núi, xin phép Bà được đưa cốt tượng xuống. Lạ thay, chín cô gái khiêng bà đi một cách nhẹ nhàng.
Xuống đến chân núi, tượng bỗng nặng trịch, các cô phải đặt xuống đất và không nhấc lên nổi nữa. Dân làng hiểu rằng Bà muốn ngự nơi đây nên tổ chức xin keo, được Bà chấp thuận và lập Miếu thờ. Hôm đó là ngày 25 tháng 4 âm lịch, dân làng lấy ngày này làm lễ vía Bà.
Lúc đầu, miếu Bà được xây dựng đơn sơ bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng, lưng quay về vách núi, chánh điện nhìn ra cánh đồng bát ngát. Sau nhiều lần trùng tu, miếu Bà khang trang hơn. Năm 1870, miếu được xây lại bằng đá miểng và lợp ngói, thu hút khách thập phương đến chiêm bái, tín ngưỡng.
Đến năm 1972, miếu được xây dựng mới, đồ sộ và lộng lẫy theo lối kiến trúc cổ kính phương Đông. Mái cong nhiều tầng lợp ngói xanh, tường ốp gạch men bóng láng nhập từ nước ngoài, các khung cửa bằng gỗ quí được chạm trổ hoa văn công phu, mỹ thuật. Chánh điện cao rộng, thoáng khí, vừ uy nghi vừa ấm cúng. Công trình là một quần thể hoành tráng trên mặt bằng rộng với dãy đông lang, tây lang, nhà khách…bao bọc xung quanh cũng với kiến trúc mái cong, lợp ngói xanh, theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng, nhưng xây dựng dở dang. Mãi đến năm 1995, Ban Quản trị lăng miếu núi Sam mới tiếp tục xây dựng phần còn lại. Trường học được cải tạo thành nhà trưng bày đồ sộ, hài hòa với miếu.
Tượng Bà đặt giữa chánh điện, đội mão sặc sỡ, mặc áo bào thêu rồng phụng, kim tuyến lấp lánh. Khách hành hương đã dâng cúng cho Bà hàng ngàn áo mão, không sử dụng hết, có cái được may từ nước ngoài trị giá vài cây vàng.
Tượng Bà là một tác phẩm nghệ thuật tạc bằng đá son, có từ thế kỷ thứ 6. Dáng người ngồi nghĩ ngợi, khoan thai, thuộc loại tượng thần Vít-nu, có nhiều ở Ấn Độ, Lào, Campuchia. Trước kia có nhiều hình thức cúng bái mê tín như xin xăm, xin bùa, uống nước tắm Bà để trị bệnh… Ngày nay, những hủ tục đó không còn nữa. Đa số khách đến viếng thăm để dâng hương cầu tài, cầu lộc, thể hiện lòng tạ ơn Bà bằng nhiều hình thức: Cúng heo quay, cúng tiền, lễ vật lưu niệm hoặc các tiện nghi phục vụ cho miếu. Các vật lưu niệm ngày nay quá nhiều, Ban Quản trị đưa vào khu nhà lưu niệm để trưng bày. Tiền hỉ cúng hàng năm lên tới vài tỉ đồng (trong đó có vàng, đô-la). Nguồn tài chánh này ngoài việc trùng tu, xây dựng lăng, miếu còn góp phần vào nhiều công trình thủy lợi xã hội địa phương như làm đường, xây trường học, bệnh xá, đóng góp quỹ từ thiện, khuyến học…
Các lễ cúng ở miếu Bà vẫn được duy trì theo nghi thức cổ truyền. Vào lúc nửa đêm 23 rạng 24 tháng tư âm lịch, lễ tắm Bà được tiến hành khoảng hơn một giờ đồng hồ nhằm lau sạch bụi bặm sau một năm dài. Lễ được chuẩn bị từ lúc 23 giờ 30 và bắt đầu lúc 0 giờ. Các vị bô lão trong lễ phục áo dài khăn đóng lên đèn, niệm hương, dâng rượng, dâng trà… Xong phần nghi thức, khoảng 4 đến 5 phụ nữ đứng tuổi, có uy tín trong làng tiến hành việc tắm Bà. Sau khi cởi áo mão, các vị dùng nước sạch có ngâm hoa lài tỏa mùi thơm ngào ngạt để lau cốt tượng. Xong, xịt nước hoa rồi mặc áo mão mới cho Bà. Mặc dù công việc được thực hiện sau bức màn che nhưng có hàng ngàn người chen chúc nhau đến chứng kiến ngoài vòng rào chánh điện.
Lễ túc yết và lễ xây chầu được tiến hành trong đêm 25 rạng 26 tháng 4 âm lịch, đây là cuộc lễ chính trong lễ hội vía Bà. Từ đầu hôm, hàng chục ngàn người đã tụ về miếu Bà để được tham dự cuộc hành lễ này. Trước đó, hồi 15giờ cuộc lễ thỉnh sắc thần được tiến hành trọng thể trong tiếng trống lân rộn rã. Các bô lão và thanh niên trong lễ phục, xếp hai hàng dưới bóng cờ, lộng sặc sỡ, hộ tống long đình rước bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu và hai vị phu nhân từ lăng về miếu.
Đúng 0 giờ, cuộc lễ túc yết bái bắt đầu với sự điều khiển của chánh bái và bốn đào thầy. Lễ vật dâng cúng là một con heo trắng đã cạo mổ xong và một dĩa mao huyết tượng trưng cho con heo sống cùng với các mâm xôi, ngũ quả… trong tiếng nhạc lễ và chiêng trống trỗi lên từng hồi, ông chánh bái và các đào thày dâng hương, dâng rượu, đọc văn tế, dâng trà. Lễ xây chầu được nối tiếp khi ông chánh bái cầm nhành dương vãi nước và đọc: “Nhất xái thiên thanh, nhị xái địa ninh, tam xái nhơn đường, tứ xái quỉ diệt hình” (có nghĩa là thứ nhất vãi lên trên trời xanh mong điều cao đẹp, thứ hai vãi xuống đất cho được màu mỡ, trúng mùa, thứ ba vãi loài người được trường thọ, thứ tư vãi diệt loài quỉ dữ). Xong, chánh bái ca công nổi trống ba hồi. Đoàn hát bộ trên sân khấu trong võ ca trước chánh điện đã chuẩn bị sẵn, nổi trống theo và kéo màn trình diễn.
Đến 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 âm lich, lễ chánh tế được tiến hành như lễ túc yết nhưng đơn giản hơn. Và 15 giờ cùng ngày đoàn thỉnh sắc làm lễ hồi sắc, đưa bài vị ông Thoại Ngọc Hầu và hai phu nhân trở về lăng, kết thúc một mùa vía.
Nhận xét
Đăng nhận xét