| |||||||
Các triều đại độc lập của nước ta từ nhà Đinh (968 - 980), nhà Tiền Lê (980 - 1010), nhà Lý (1010 - 1224), nhà Trần (1225 - 1400), nhà Hồ (1400 - 1407) đã có những quy định khá cụ thể về việc đón tết, nhất là ở nơi cung điện triều đình, bởi đây là lễ tiết rất quan trọng trong năm theo quan niệm truyền thống.
Trong chốn cung điện thời Lý - Trần, ảnh hưởng Nho giáo còn ít, ảnh hưởng của Phật giáo phương Nam cộng với tinh thần chấn hưng văn hóa dân tộc khiến ngày tết thiên về hội hè hơn là các nghi lễ trang nghiêm. Chính vì thế, thời này, tết ở chốn cung đình và ngoài dân gian cũng ít cách biệt. Ngày lập xuân: Nhà vua mở đại yến trong Đại Nội. Toàn bộ văn võ bá quan làm việc tại kinh đô đều phải trang phục chỉnh tề, cài hoa lên đầu vào Đại Nội dự yến. Ngày 28 tháng Chạp: Vua ngự xe, các quan mặc triều phục đi phò tá. Xe vua đi đến tế lễ ở đền Đế Thích ngoài thành Thăng Long. Ngày 30 tết: Vua ngồi giữa cửa Đoan Củng, các quan đến hành lễ rồi xem các con hát múa trăm lối. Buổi tối, vua lại qua cung Động Nhân, bái yết Tiên Vương. Đêm ấy, có đạo thầy tu vào nội điện làm lễ “Khu Na” (đuổi tà ma, quỷ mị). Ngày mồng Một tết: Vào khoảng canh năm, vua ngồi trên điện Vĩnh Thọ, các tôn tử (con cháu nhà vua) cùng các quan cận thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, vua ngồi trên điện Thiên An, các phi tần sắp lớp ngồi bên dưới, các quan đứng trước điện, chơi các bài nhạc trước đại đình. Con cháu nhà vua và các bề tôi sắp thành hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong xuôi, các tôn tử lên chầu và dự yến. Các quan nội thần ngồi hai bên ăn tiệc, đến trưa thì lần lượt ra về. Ngày mồng Hai tết: Các quan đều làm lễ riêng ở nhà. Ngày mồng Ba tết: Vua ngồi trên gác Đại Hưng, xem các tôn tử và các quan nội cung đánh bóng cầu thêu, hễ bắt được mà không rơi xuống đất là thắng. Mồng Năm tết: Tổ chứ lễ khai hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ các chùa miếu và du ngoạn các vườn hoa. Đêm Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng): Người ta trồng những cây đèn ở giữa sân rộng, gọi là đèn “Quảng Chiếu”, thắp đến mấy vạn ngọn, sáng rực cả trên trời dưới đất, thầy tu đi quanh tụng kinh phật, các quan lễ bái, gọi là chầu đèn. Đến thời Lê - Trịnh thì người thực sự nắm mọi quyền hành trong nước không phải là vua Lê, mà là chúa Trịnh và thế tử. Tuy nhiên về mặt nghi thức, trong các ngày lễ tết, vua Lê vẫn được coi là người chủ trì các nghi thức quan trọng trong triều. Sáng ngày mồng Một tết, theo lệnh chúa Trịnh, quan Tiết chế (Tiết chế phủ) hướng dẫn các văn võ mặc phẩm phục vào chầu mừng nhà vua. Vua Lê ngự giữa Điện Kính Thiên, Tiết chế phủ đứng ở phía đông sân rồng, các văn võ đứng hai bên sân rồng. Các quan quỳ xuống nghe quan Đại trí từ đọc tờ biểu của Tiết chế phủ. Sau đó Quan truyền chế tuyên đọc tờ chế của vua với nội dung ngắn gọn: “Hoàng thượng chế rằng: Phúc thịnh vượng hanh thông với các ngươi cùng hưởng”. Sau nghi lễ chúc mừng năm mới tại cung điện vua Lê, Tiết chế phủ lại dẫn các quan đến phủ chúa để chúc mừng chúa Trịnh. Sáng mồng một tết, chúa Trịnh đến hành lễ ở Thái miếu và Cung miếu rồi quay về phủ, ngồi trên sập rồng để bách quan lạy mừng. Xong nghi thức, chúa ban tiền thưởng xuân cho các quan từ nhất phẩm triều đình trở xuống và cho mọi người được dự yến. Tiệc yến xong, các quan làm lễ tạ ơn, chúa lui vào cung, Tiết chế phủ về phủ chúc mừng thế tử. Đến đó thì nghi thức rườm rà ngày mồng một tết mới kết thúc. Giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes từng sống ở Đàng Ngoài trong những năm từ 1627-1630, dưới thời vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng, từng chứng kiến lễ tết tại thành Thăng Long có kể lại rằng, ngoài những nghi thức trong ngày lễ chính đán, ngày mồng ba tết, bách quan tề tựu tại cung điện để tháp tùng vua Lê và chúa Trịnh đi hành lễ ở một địa điểm ngoại thành. Vua ngồi trên ngai vàng do binh lính khiêng trên vai, còn chúa thì ngồi trên xe thếp vàng, theo sau là các tiến sĩ, cử nhân địa phương. Ngày lễ trên gọi là lễ Hạ Điền. Cuối thời Lê và dưới triều Nguyễn, còn có hai nghi thức quan trọng khác trước ngày tết, đó là lễ Tiến Xuân ngưu và lễ Hạp Ấn. Chỉ có chúa Trịnh và bá quan văn võ mặc phẩm phục mới được vào triều làm lễ. Lễ Hạp Ấn được diễn ra vào ngày 25 tháng Chạp. Quan giữ ấn của triều đình và ở các công đường cho lau rửa ấn thật sạch sẽ rồi bọc vải lụa cất kỹ, đợi sang năm mới sẽ mở ra để sử dụng. Làm như thế không có nghĩa là mọi việc ở triều đình và các công sở đều bị đình chỉ hoàn toàn. Những nơi này vẫn giải quyết những việc khẩn cấp và bất thường, có điều quyết định phải chờ đến sang năm mới đóng dấu. Dưới triều Nguyễn, do việc ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo nên việc tổ chức đón tết trong cung điện thiên về phần lễ hơn phần hội. Ngày tết thời vua Gia Long được một chứng nhân đương thời là Michel Đức (con trai ông Jean Chaigneau, người từng làm quan qua hai triều Gia Long, Minh Mạng với tên Việt là Nguyễn Văn Thắng) miêu tả trong tác phẩm “Souvenrs de Hue” (những hồi ức về Huế) xuất bản năm 1967 tại Pháp. Theo Michel Đức, hằng năm, vua Gia Long có lệ tặng quà cho các quan đại thần. Quà thường gồm quần áo hay vải vóc dệt ở Trung Quốc, dựng trong hộp màu vàng, được quân lính dùng lọng che và mang đến tận nhà người nhận quà. Dịp lễ tết hằng năm, một giám mục Pháp tên De Veren thường ngồi kiệu đến cung điện, biếu nhà vua hai chai nước thơm Eau de Cologne và nhà vua rất yêu thích món quà này. Sáng mồng Một tết, bá quan mặc phẩm phục đại triều, tập hợp ở cung điện. Các quan quỳ xuống chúc tụng nhà vua muôn tuổi, rồi sau đó ai về nhà nấy. Thời vua Minh Mạng, vào ngày mồng Một tết hằng năm, nhà vua đội mũ chín rồng, mặc áo vàng, thắt đai ngọc, hành lễ tại nhà Thái miếu. Đàn Nam Giao được xây dựng vào năm 1806 để hợp tế trời đất, thờ trời. Thời vua Bảo Đại vẫn còn và là một trong những nghi lễ chính vào mùa xuân mỗi năm. Như vậy, không như tưởng tượng của nhiều người, lễ tết của vua chúa xưa thường không nặng về hưởng thụ vật chất mà luôn hướng tới lễ nghi và truyền thống văn hóa của dân tộc. Điều đó đáng để suy nghĩ khi những nghi lễ truyền thống dân tộc mỗi dịp tết thời nay đang dần mai một. |
Nhận xét
Đăng nhận xét