1. Trong tâm thức nhân loại nói chung, người Á Đông nói riêng, tết là một dịp để gia đình tụ họp, sum vầy. Đó là dịp tốt nhất cho cả nhà cùng nhau xem lại thành quả của tất các thành viên sau một năm phấn đấu để cùng nhau chúc mừng, chia sẻ. Đồng thời cũng để chúc nhau, để hy vọng trong năm mới có thêm nhiều may mắn, phúc lộc. Chính vì vậy, dịp tết người ta hay nói tới những điều lành, tránh (tạm quên) những điều dữ trong cuộc sống. Đó như là một ước mong của con người vậy.
2. Trong tâm thức của người Á Đông, việc chúc nhau trong ngày tết ngoài họp mặt truyền thống còn có tặng quà. Với trẻ nhỏ thì tặng bao lì xì[1] đỏ, mong cho bé mau lớn hay học hành tiến bộ; với người thân, bạn bè thì đem chút ít bánh, mứt, rượu, trà gọi là “góp gạo nấu cơm” cho buổi họp mặt vui lại càng vui. Ở Việt Nam và các nước đồng văn nói chung, bên cạnh những món quà vật chất có tính “tượng trưng” ấy thì còn có “món quà” mang ý nghĩa tinh thần lớn lao khác, đó là lời chúc! Lời chúc ngày xưa thường được cố định thành văn dưới dạng câu đối. Câu đối tết được viết trên giấy son, mực đen hay vàng, dùng để treo trước nhà, thể hiện ước mong “phúc lộc như cầu”. Câu đối, hoa và pháo là biểu tượng cho sự tươi tắn, rộn ràng, là dấu hiệu đặc trưng cho ngày tết cổ truyền.
Ngày nay, tết đã khác xưa rất nhiều. Câu đối, khó có thể đẹp, “tao” trong khung cảnh nhà bằng vật liệu bê tông được xây dựng với thiết kế hiện đại. Câu đối để dán thì phải “sống” trong kết cấu cân xứng như nhà ba gian. Loại này ngày nay chủ yếu tồn tại ở các đình, chùa, miễu và khu vực nông thôn, nhưng cũng còn rất ít. Vì vậy mà câu đối mất đi môi trường để tồn tại đúng nghĩa. Người chuộng chữ nghĩa ngày nay thì tặng nhau bằng lịch chữ hoặc đôi ba câu viết trên giấy hoa, giấy màu. Nhưng về thực tế, đó đâu phải là một câu đối! Cả chữ Hán hay Quốc ngữ, người ta thường viết một chữ thật to thể hiện chủ đề, sau đó là một vài câu bằng chữ nhỏ để lý giải hay minh chứng cho chữ chủ đề ấy. Đây cũng là một hình thức chúc mừng gần với truyền thống nhưng đã có sự cách tân đáng kể. Pháo thì đã trở thành quốc cấm vì mục tiêu tiết kiệm và an toàn cháy nổ từ năm 1997. Đây là một chủ trương chung, tuy có làm giảm không khí tết một chút nhưng được lợi cho dân rất nhiều. Như vậy, chỉ còn hoa là “người tình chung thuỷ” của những ngày xuân!
Nhưng nét đẹp dùng chữ, đặc biệt là chữ Hán để chúc mừng có mất đi trong dịp tết hiện đại không? Theo quan sát của chúng tôi từ nhiều năm nay thì nét đẹp ấy không những không bị mai một mà còn có xu hướng hưng thịnh nữa. Chúng ta thử quan sát, hầu hết các “liễn đối hiện đại”, thiệp chúc hay những câu chữ trong các bao bì đựng bánh, mứt, rượu, trà trong dịp tết đều có xu hướng dùng chữ Hán. Chữ Hán này chỉ nhằm trang trí cho đẹp, tạo sự gần gũi và “quen mắt” mà thanh tao, sang trọng đối với người tiêu dùng. Hầu hết chúng đều là những câu, từ đơn giản, đọc thuận miệng trong tiếng Việt, khi đọc âm đó ra thì không cần dịch nghĩa, chú từ mà tuyệt đại đa số vẫn hiểu. Có nghĩa là những câu, từ ấy đã được lưu hành tới mức phổ thông, phổ biến. Chẳng hạn các từ 福 phúc, 祿 lộc, 壽 thọ, 富貴 phú quý, 榮華vinh hoa, 大吉 đại cát, 大利 đại lợi… hay các ngữ có kết cấu và cách dùng như một thành ngữ: 萬事如意 vạn sự như ý, 福祿安康 phúc lộc an khang, 富貴安康 phú quý an khang, 新春如意 tân xuân như ý, 新春得意 tân xuân đắc ý, 如意吉祥 như ý cát tường, 如意發財 như ý phát tài, 春日平安 xuân nhật bình an, 金玉滿堂 kim ngọc mãn đường… Đây là những ngữ có trên lịch hoặc bao bì sản phẩm trong dịp tết. Ngoài ra còn có những ngữ viết dưới dạng liễn ngang (tựa như hoành phi, nhưng không lớn bằng) treo ở cửa: 進財進祿 tấn tài tấn lộc,成功美滿 thành công mỹ mãn, 格財進寶 cách tài tiến bảo, 五福臨門 ngũ phúc lâm môn (năm điều phúc đến nhà, là 富 phú, 貴 quý, 壽 thọ, 康 khang, 寧 ninh)…
Trong dân gian còn tồn tài nhiều câu đối chữ Hán rất hay, được người ta treo trong nhà nhưng không ở mức phổ biến. Chúng tôi đã từng hỏi qua, có những người không đọc được những câu chữ ấy nhưng người ta vẫn thích, vì thấy nó toát lên vẻ trang trọng, rực rỡ, mang hương vị, dáng dấp của ngày xuân nên mua để treo. Đó vẫn là những lời chúc thể hiện ước mơ cháy bỏng của con người về phúc, lộc, thọ, tài. Đúng là trong tâm thức người Việt, chữ Hán vẫn là một cái gì đó gần gũi thân thương, chứ không hoàn toàn “chết” hẳn: 天增歲月人增壽/春滿乾坤福滿堂 Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ / Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường, 新年幸福平安進/春日榮華富貴來 Tân niên hạnh phúc bình an tiến / Xuân nhật vinh hoa phú quý lai, 福深似海/祿高如山 Phúc thâm tự hải / Lộc cao như sơn, 福如東海/壽比南山 Phúc như đông hải / Thọ tỷ nam sơn [2], 歲有四時春在首/人生百幸孝為先 Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ / Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên (một năm có bốn mùa, mùa xuân đứng đầu / người đời có trăm nết tốt, hiếu thảo là trước tiên)…
Không chỉ vậy, trên lịch xuân còn có dạng câu đối ngắn, thường bằng chữ Quốc ngữ, in cách điệu như cách viết chữ Hán ở hai bên (tạo sự cân xứng cho bố cục lịch). Đây cũng là một dạng dùng chữ nghĩa thú vị ngày xuân. Dĩ nhiên có những câu chẳng có chút gì gọi là đối ngẫu nếu xét trong hệ thống quy luật của câu đối. Điều này do sự không hiểu luật của chính người làm câu đối hiện đại. Nhưng ở đây ta không xét đến luật lệ ấy, ta chỉ xét đến “không khí” mà lượng ngôn từ trong câu ấy mang đến mà thôi. Chẳng hạn các câu: Mừng xuân vui phú quý an khang / Chúc bốn mùa cát tường như ý, Vui xuân lộc trỗi nhà no ấm / Đón tết phúc đầy nước thái bình, Tống cựu nghinh tân mừng xuân mới / Dân an quốc thái đón thanh bình… Ta thấy, ngay trong những câu đối Việt này thì lượng từ ngữ cố định là lời chúc ngày xuân gốc Hán cũng chiếm số lượng đáng kể. Chính lượng từ ngữ ấy đã tạo nên sự trang trọng, ấm cúng cần thiết cho câu đối tết của người Việt. Ngoài ra còn có những câu đối dạng tuyên truyền cổ động, thể hiên ước mơ chung của người Việt hiện đại: Làng văn hoá tết về tiếng thơm bay chín núi / Bản ấm no xuân đến lời hát rộn mười mường, Đất nước mừng xuân câu đối tết / Gia đình hoà thuận thiệp mừng xuân, Lộc biếc mai vàng xuân hạnh phúc / Đời vui sức khoẻ tết an khang …
Ở một số vùng miền, chủ yếu là miền nam Trung Quốc, vào ngày tết người ta còn dán ngược chữ 福 phúc với hy vọng “phúc đáo” gia. Chữ phúc dán ngược nghĩa là nó bị “đảo”, mà âm “phúc” và âm “đảo” đọc liền nhau sẽ trở thành “phúc đáo”, tức là phúc đến. Phúc đến nhà ai mà không thích! Đây của là một niềm mơ ước về những điều tốt lành trong dịp xuân về được thể hiện rất gọn gàng, ý vị qua chữ Hán. Hiện tượng này cũng đã xuất hiện trong một số gia đình người Hoa ở Việt Nam nhưng chưa phổ biến.
Đó không đơn giản chỉ là “sính chữ”, đó là nét văn hoá đặc thù thể hiện ước mơ, khát vọng của con người. Nếu mua để trưng thì nó thể hiện ước mơ, khát vọng được những những điều tốt lành của gia chủ; nếu mua để tặng thì nó là một lời chúc ý vị mà người tặng thể hiện với người được tặng nhân dịp “năm hết tết đến”.
3. Rõ ràng trong đời sống hiện đại, chữ Hán nói riêng, những truyền thống quý báo của ông cha nói chung đã không bị mai một. Chúng đã có cuộc “cách mạng” để ứng biến linh hoạt với bối cảnh mới, không gian mới rất hợp thời. Đây cũng là một dạng sáng tạo văn hoá cần được giữ gìn, phát huy. Nhất là chúng ta lại đang bước vào cuộc hội nhập có quy mô toàn cầu, thì yêu cầu giữ gìn truyền thống càng phải được tăng cường hơn bao giờ hết. Những câu, từ bằng chữ Hán hiện đại này không phải để vực dậy nền Nho học đã qua mà là vực dậy tâm thức con người Việt Nam đã có hơn ngàn sử dụng chữ Hán. Đó là một thị hiếu của dân tộc.
[1] Đây là một tập tục tốt có xuất xứ Trung Quốc. Âm Hán Việt của từ này là “lợi hỉ”, “lì xì” là cách đọc phỏng theo âm của Trung Quốc sang sống ở Việt Nam từ giai đoạn Minh Thanh. Một số tác giả cho rằng đây là từ được phiên từ “lợi thị”.
“Mã đáo thành công”(马到成功)
Ý nghĩa tranh Mã Đáo Thành Công Tranh Mã Đáo Thành Công là một món quà ý nghĩa, thường được mừng, tặng trong các dịp: khai trương, quà biếu sếp, mừng tân gia, quà tặng đối tác kinh doanh, quà tặng sự kiện, khởi công, … mang ý nghĩ như món quà may mắn.
Ngựa là con vật trung thành nhất, không những thế ngựa còn là hình ảnh của sự kiên nhẫn, sự bền bỉ, lâu dài, sự may mắn mang lại tài lộc, ngựa đứng hàng thứ 7 trong 12 địa chi. Nó đem lại nguồn tài lộc, sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến tiền tài, khiến những công việc dự định sẽ nhanh chóng hoàn thành hơn dự kiến và đạt kết quả cao hơn mong muốn. Thời xưa đánh giặc hay đi làm ăn, phương tiện duy nhứt để đi nhanh nhất là ngựa. Thời đó mổi lần đi xa là một chuyện rất gian nan, đi nhiều tháng hoặc nhiều năm mới quay về. Vì vậy “Mã Đáo” mang ý nghĩa: may mắn quay về.
Ngựa xuất hiện trong tranh như là biểu tượng của sự mau chóng và thành đạt. Ngựa là hình ảnh của sự trung thành, kiên nhẫn, sự may mắn mang tài lộc. Ngựa phi nước đại còn gọi là lộc mã đem lại nguồn tài lộc, sự phát đạt trong kinh doanh. Bức tranh có chủ đề phổ biến nhất là Mã Đáo Thành Công thể hiện một bầy ngựa có tám con đang phi nước đại gió bụi mịt mù. Sở dĩ bức tranh có tám con ngựa bởi vì số 8 "Bát" 八 đọc theo Hán cùng một âm với chử “Phát” là phát đạt. Ngựa phi trong gió cũng có ý là con ngựa đó khỏe mạnh.
Tranh bát mã phi nước đại tượng trưng cho sao bát bạch rất vượng khí đem lại nguồn tài lộc rất lớn. Dùng cho những người hay đi xa, chuyến đi thành công tốt đẹp. Trong đầu tư kinh doanh thì nó mang lại lợi lộc lớn cho chủ nhân. Tranh Mã Đáo Thành Công đặt ở phòng làm việc hoặc phòng khách, hướng ngựa quay đầu chạy vào trong nhà.
Bình thường tám con ngựa chạy về ý là tám con đều cùng một chí hướng, đó là ý nghĩa nguyên thủy của các tranh thời xưa: "mạnh dạn dồn hết nhiệt huyết, tiến về một hướng để đạt mục đích". Ngày nay, tranh Mã Đáo Thành Công được vẽ thêm chi tiết khác bình thường. Đó là có một con trong bầy quay đầu lại là điểm nhấn cho bức tranh thêm sống động. Con quay đầu thường ở vị trí giữa thứ tư hoặc thứ năm hay con đầu đàn, không khi nào là con cuối đàn, ý khuyến khích hay cổ vũ đồng đội tiến lên để đạt mục đích.
Nguyên ý câu “Mã Đáo Thành Công” là: “Kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công”. Có nghĩa: Cờ phất (làm hiệu) chiến thắng, ngựa quay về (báo tin) thành công. Năm 1789, sau khi đánh tan quân Thanh, vua Quang Trung đưa quân vào thành, mùng 5 tết mừng xuân. Để báo tin thắng trận, vua đã cho người mang một cành đào, cưỡi ngựa truyền qua các trạm ngày đêm chuyển cành đào về cho công chúa Ngọc Hân. Đó cũng là MÃ ĐÁO THÀNH CÔNG.Ý nghĩa câu “Mã Đáo Thành Công” tượng trưng cho sự tốc chiến tốc thắng. Và tranh Mã Đáo Thành Công làm quà khai trương tương tự như là “Khai trương Hồng Phát”.
Trong phong thủy, Mã Đáo Thành Công thường dành tặng những người mới bắt đầu làm ăn buôn bán, mới khai trương hoặc những người đang trên đường lập công danh. Những người được tặng tranh này, một khi đã thành công, thì không được đem tặng lại, làm mất, làm hư hủy bức tám con ngựa đó. Cũng chính vì thế, người tặng tranh Mã Đáo Thành Công thường tế nhị chọn những bức tranh được chế tác từ đá quý vừa có ý nghĩa, vừa bền vững suốt đời không hư hao.
Ngựa là con vật trung thành nhất, không những thế ngựa còn là hình ảnh của sự kiên nhẫn, sự bền bỉ, lâu dài, sự may mắn mang lại tài lộc, ngựa đứng hàng thứ 7 trong 12 địa chi. Nó đem lại nguồn tài lộc, sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến tiền tài, khiến những công việc dự định sẽ nhanh chóng hoàn thành hơn dự kiến và đạt kết quả cao hơn mong muốn. Thời xưa đánh giặc hay đi làm ăn, phương tiện duy nhứt để đi nhanh nhất là ngựa. Thời đó mổi lần đi xa là một chuyện rất gian nan, đi nhiều tháng hoặc nhiều năm mới quay về. Vì vậy “Mã Đáo” mang ý nghĩa: may mắn quay về.
Ngựa xuất hiện trong tranh như là biểu tượng của sự mau chóng và thành đạt. Ngựa là hình ảnh của sự trung thành, kiên nhẫn, sự may mắn mang tài lộc. Ngựa phi nước đại còn gọi là lộc mã đem lại nguồn tài lộc, sự phát đạt trong kinh doanh. Bức tranh có chủ đề phổ biến nhất là Mã Đáo Thành Công thể hiện một bầy ngựa có tám con đang phi nước đại gió bụi mịt mù. Sở dĩ bức tranh có tám con ngựa bởi vì số 8 "Bát" 八 đọc theo Hán cùng một âm với chử “Phát” là phát đạt. Ngựa phi trong gió cũng có ý là con ngựa đó khỏe mạnh.
Tranh bát mã phi nước đại tượng trưng cho sao bát bạch rất vượng khí đem lại nguồn tài lộc rất lớn. Dùng cho những người hay đi xa, chuyến đi thành công tốt đẹp. Trong đầu tư kinh doanh thì nó mang lại lợi lộc lớn cho chủ nhân. Tranh Mã Đáo Thành Công đặt ở phòng làm việc hoặc phòng khách, hướng ngựa quay đầu chạy vào trong nhà.
Bình thường tám con ngựa chạy về ý là tám con đều cùng một chí hướng, đó là ý nghĩa nguyên thủy của các tranh thời xưa: "mạnh dạn dồn hết nhiệt huyết, tiến về một hướng để đạt mục đích". Ngày nay, tranh Mã Đáo Thành Công được vẽ thêm chi tiết khác bình thường. Đó là có một con trong bầy quay đầu lại là điểm nhấn cho bức tranh thêm sống động. Con quay đầu thường ở vị trí giữa thứ tư hoặc thứ năm hay con đầu đàn, không khi nào là con cuối đàn, ý khuyến khích hay cổ vũ đồng đội tiến lên để đạt mục đích.
Nguyên ý câu “Mã Đáo Thành Công” là: “Kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công”. Có nghĩa: Cờ phất (làm hiệu) chiến thắng, ngựa quay về (báo tin) thành công. Năm 1789, sau khi đánh tan quân Thanh, vua Quang Trung đưa quân vào thành, mùng 5 tết mừng xuân. Để báo tin thắng trận, vua đã cho người mang một cành đào, cưỡi ngựa truyền qua các trạm ngày đêm chuyển cành đào về cho công chúa Ngọc Hân. Đó cũng là MÃ ĐÁO THÀNH CÔNG.Ý nghĩa câu “Mã Đáo Thành Công” tượng trưng cho sự tốc chiến tốc thắng. Và tranh Mã Đáo Thành Công làm quà khai trương tương tự như là “Khai trương Hồng Phát”.
Trong phong thủy, Mã Đáo Thành Công thường dành tặng những người mới bắt đầu làm ăn buôn bán, mới khai trương hoặc những người đang trên đường lập công danh. Những người được tặng tranh này, một khi đã thành công, thì không được đem tặng lại, làm mất, làm hư hủy bức tám con ngựa đó. Cũng chính vì thế, người tặng tranh Mã Đáo Thành Công thường tế nhị chọn những bức tranh được chế tác từ đá quý vừa có ý nghĩa, vừa bền vững suốt đời không hư hao.
Vào mỗi dịp Tết đến xuân về, người dân Trung Quốc thường tặng nhau bức tranh ngựa “Mã đáo thành công” để cầu may mắn, tài vận, thành công trong sự nghiệp.
Bức tranh ngựa “Mã đáo thành công” là tác phẩm vẽ 8 con ngựa tràn đầy năng lượng thể hiện chúng có sức mạnh vượt trội đồng thời đại diện cho quyền lực và uy lực siêu phàm.
Ở xã hội Trung Quốc thời xưa, chỉ có những người xuất thân từ tầng lớp thượng lưu mới có thể sở hữu ngựa. Trong bức tranh vẽ 8 con ngựa của người Trung Quốc, những con ngựa đang phi nước đại có nghĩa là chủ sở hữu của chúng có quyền lực và uy tín mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, Chu Mục Vương - vị vua thứ năm của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc cũng nổi tiếng sử sách vì sở hữu 8 con ngựa vô cùng đặc biệt. Bát Tuấn (tám con ngựa hay) của Chu Mục Vương (1001 - 746 TCN) đã trở thành là một chủ đề nổi tiếng mà giới làm tranh cổ và tranh hiện đại khai thác, biến nó thành món quà độc đáo cho người dân dành tặng nhau.
Theo một số tài liệu ghi chép, chu Mục Vương sở hữu 8 con ngựa tuyệt vời và được dân gian gọi là Bát Tuấn. Tương truyền, Chu Mục Vương đặt tên cho 8 tuấn mã lần lượt là: Xích Ký, Ðạo Ly, Bạch Mã, Du Luân, Sơn Tử, Cừ Hoàng, Hoa Lưu, Duyên Nhĩ. Xa phu điều khiển Bát Tuấn có tên Tạo Phụ. Tạo Phụ thường xuyên chở Chu Mục Vương đi vi hành khắp nơi trên cỗ xe ngựa đặc biệt do 8 con ngựa kéo. Dưới thời trị vì của Chu Mục Vương, cuộc sống của người dân khá thịnh vượng. Do đó, các họa sĩ thời đó đã vẽ bức tranh 8 con ngựa của vị hoàng đế nhà Chu này và gọi nó là Bát Tuấn đồ.
Con số 8 cũng là một con số may mắn của người Trung Quốc, tượng trưng cho sự giàu có và thành công. Bức tranh vẽ những con ngựa phi nước đại, tràn đầy sinh lực, tinh thần tuyệt vời sẽ truyền cảm hứng cho mọi người làm việc chăm chỉ và theo đuổi mục tiêu của mình.
Người ta thường tặng nhau bức tranh "Ngựa phi nước đại" để cầu may mắn và tài lộc. |
Vào dịp Tết âm lịch, người dân Trung Quốc và một số quốc gia châu Á thường tặng nhau bức tranh nổi tiếng “Mã đáo thành công”. Bức tranh đó có hàm ý đặc biệt, được đúc rút từ những chiêm nghiệm thâm thúy của tổ tiên.
Theo người xưa, sở dĩ trong bức tranh "Mã đáo thành công" có 8 con ngựa bởi số 8 "Bát" (chữ Hán là 八) đọc theo Hán ngữ thì gần âm với chữ Phát, có nghĩa là phát đạt.
Mã đáo có nghĩa là may mắn quay trở về. Ý nghĩa của cụm từ trên gắn liền với một điển tích. Vào thời xa xưa, ngựa là phương tiện đi lại vô cùng thuận tiện vì nó rất khỏe, chạy nhanh và liên tục trong suốt thời gian dài. Đồng thời, loài vật này rất thông minh và có mối quan hệ gần gũi với con người. Nó không chỉ được người dân sử dụng làm phương tiện di chuyển giúp việc giao thương dễ dàng hơn mà nó còn xông pha cùng binh sĩ trên chiến trường đánh địch. Những chuyến hành trình của ngựa với chủ nhân có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng thậm chí là cả năm mới quay về. Đặc biệt, đối với những người xông pha trận mạc thì khả năng quay trở về sẽ không cao. Có khi 10 người ra trận thì chỉ có 1 người quay về do cuộc chiến quá cam go, nguy hiểm. Do đó, người ta nói "mã đáo" dùng để ám chỉ cầu cho người nhận gặp may mắn và quay trở về nhà.
Trong bức tranh ngựa “Mã đáo thành công”, một con ngựa trong số 8 con quay đầu trở lại. Nó thường là con ngựa đứng ở vị trí thứ 4 hoặc thứ 5. Hành động quay đầu lại được cho là để khuyến khích những con ngựa còn lại trong đàn chạy nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Điều đặc biệt trong bức tranh này là con ngựa thứ 8 không bao giờ vừa chạy vừa quay đầu lại. Nếu quay đầu lại thì đồng nghĩa với việc một phần tiền bạc của gia chủ sẽ bị mất hay rơi vãi ở đâu đó.
Do đó, người dân thường tặng bức tranh “Mã đáo thành công” cho bạn bè, đối tác kinh doanh hay những người mới dấn thân vào sự nghiệp buôn bán, làm ăn hay quân ngũ với hy vọng cầu chúc cho đối phương gặp thuận lợi, may mắn trong sự nghiệp. Vì vậy, nó đã dần trở thành một món quà có ý nghĩa tuyệt vời.
Bức tranh “Ngựa phi nước đại” vẽ 8 tuấn mã chạy trên bãi biển là một trong những tác phẩm nằm trong loạt tranh "Mã đáo thành công". Trong Ngũ Hành, ngựa là hành Hỏa và hành động phi như bay trên nước là hành Thủy. Hai hành này tương khắc với nhau. Người ta tặng nhau bức tranh này với mục đích cầu mong người nhận có ý chí mạnh mẽ hơn, tinh thần phấn chấn hơn và luôn vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Bức tranh "Ngựa phi trên đồng cỏ" mang ý nghĩa may mắn, tài lộc. |
Đầu tiên ta nói tới từ "cung chúc" nó thể hiện sự thành kính, trân trọng với bậc trên
Tiếp theo là từ "tân xuân" tân là mới, xuân là mùa xuân, nó có nhiều nghĩa, ở mỗi ngữ cảnh người nói thì có một nghĩa riêng.
" Cung Chúc Tân Xuân" nghĩa là Chúc mừng mùa xuân mới; chào đón mùa xuân mới.
Cát tường
Cát (Kiết) có nghĩa là tốt, tường có nghĩa là phước/ lành hay điều lành. Cát tường ý nói đến đến những điều may mắn, tốt lành
an khang thịnh vượng vạn sự như ý phát tài phát lộc
an khang thịnh vượng (安康盛旺)
萬事如意 vạn sự như ý
Nhận xét
Đăng nhận xét