3 – HẢI-SINH-VẬT BIỂN-ĐÔNG.
Động-vật chính ngoài Biển Đông là các loài chim, rùa, tôm cá.
3.1 – CHIM CHÓC.
3.1.1 - Biển Đông, Vùng bay của Di-điểu
Việt-Nam nằm trên bờ phía Ðông của bán-đảo Ðông-Dương. Động vật nước ta được xếp vào phạm vi “động vật viễn đông”. Bản-đồ ghi nhận Bán-đảo Ðông-Dương và Biển Ðông nằm ở khu trung-ương những đường bay thường-xuyên của các giống chim di-cư, gọi theo một tên quen thuộc của giới điểu-học là Đường Bay Á-Ðông / Úc-Ðại-Lợi “East Asian – Australasian Flyway”.
Có nhiều loại di-điểu nhận nước ta làm nơi tạm-trú trong cuộc đời nay đây mai đó của chúng. Nhiều loài chim từ Tây-Bá Lợi Á bay xuống cũng như Úc-Châu bay lên, ghé qua và tạm ngừng nghỉ một vài tuần hay năm ba tháng tại đây.
Người ta biết rằng động-vật di-chuyển để kiếm thực-phẩm. Khi mùa thay đổi, thường là vào mùa Ðông, đồ ăn khan-hiếm ở vùng vĩ-độ cao, thú-vật và chim-chóc đều đi tìm thực-phẩm. Giống chim nhờ bay nhanh, hợp thành đoàn cùng di-chuyển về phía xích-đạo có nắng ấm để kiếm ăn.
Ngỗng và Vịt trời bay rất xa ở cao-độ tới 29,000 feet, tức là cao hơn cả núi Everest. Bộ lông chúng giữ nhiệt rất tốt, ta dùng may áo ấm. Trước khi bay hay trong khi bay bị đói, mệt phải nghỉ lại, các loài di-điểu cần ăn thật nhiều để có sức thực-hiện cuộc hành-trình. Có con tăng trọng-lượng thân-thể lên tới gấp rưỡi.
Trong hơn 200 loài chim tham gia vào đường bay này có nhiều chim biển, chim nước. Đặc-biệt một số chim quý gồm 15 loài di-điểu đang bị đe doạ tuyệt-chủng trên thế giới cũng tìm thấy ở Việt-Nam. Những loài tiêu-biểu thuộc họ vịt trời, cò, én… có tên khoa-học kèm Anh-Ngữ như sau:
Gaviidae Loons Vịt
Podicipedidae Grebes Cộc trắng
Phalacrocoracidae Cormorants Còng Cọng
Pelecanidae Pelicans Chằng bè
Ciconiidae Storks Hạc
Threskiornithidae Ibises and Spoonbills Cò Thìa
Phoenicopteridae Flamingos Hồng-hạc
Anatidae Swans, Geese and Ducks Ngỗng
Gruidae Cranes Sếu
Laridae Gulls, Terns and Skimmer Hải-âu
Rallidae Rails, Gallinules and Coots Cuốc
Charadriidae Plovers Óc cau
Heliornithidae Finfoots Chân bơi
Scolopacidae Sandpipers Rẽ
Dromadidae Crab Plover Choi choi
Jacanidae Jacanas Gà lôi nước
Recurvirostridae Stilts and Avocet Phân họ Cà kheo
Glareolidae Pratincoles (Họ Dô nách)
Haematopodidae Oystercatchers Chim ăn sò, ốc
Hình 38. Ðường bay của di-điểu “East Asian – Australasian Flyway”.
Những loài chim sinh sống trên các bãi biển cũng có thể là các loài chim di-điểu tham-dự vào đường bay East Asian – Australasian Flyway. Ðó là những con chim ăn cua, ốc, dã-tràng, sò hến...
Chim di cư là một trong những yếu tố khiến dịch cúm gia cầm lây lan trên toàn cầu. Virus như H5N1 được mang từ châu lục này sang châu lục khác. Tuy vậy theo với “luật tiến-hoá” để sinh tồn, các loài chim hoang dã, kể cả chim di-cư đều có một số khả-năng miễn nhiễm với bệnh tật. Khi một con bị bệnh, cả đàn sẽ tách ra để tránh lây nhiễm. Chúng tiếp-tục tồn-tại sau hàng chục triệu năm trên trái đất này.
Vì sinh-hoạt của chim-chóc khác nhau, có con sống trong lục-địa, con ngoài đại-dương, con trên bãi biển, gần hay xa khơi ngoài biển. Người ta quan-sát và ghi vào tài-liệu hình vẽ như sau đây:
Hình 39. Một số loài chim của biển.
3.1.2 - Hải-Âu, bạn thân-thiết của người đi biển
Đối với người đi biển, hải-âu là loài chim mà họ thường gặp nhất khi hải-hành.
Các đảo là những nơi ẩn-trú của các loài chim biển, nhất là chim hải-âu. Chim bay ra biển kiếm ăn rồi trở về đảo, chúng đẻ ngay trên đất, không cần làm tổ. Trứng của chúng to hơn trứng gà, vỏ mỏng mầu trắng điểm nhiều đốm đen. Hải-âu trên Biển Đông (họ Laridea) không lớn lắm, ít con nào sải cánh (wing-span) tới 80cm. Người Việt chúng ta thường gọi chung các chim biển đủ mọi loại là "hải-âu". Thật ra, theo khoa-học, hải-âu có nhiều loại khác nhau.
Những chim Biển Đông không phải cùng họ với loài hải-âu to lớn Albatros (họ Diomedeidae). Vì chúng có đôi phần tương-cận, nên nhân-tiện đây chúng tôi xin kể vài tính-chất của loài hải-âu Albatros như sau:
- Là loài chim có cánh sải ra rất dài. Wandering Albatros đo được 12 feet (3.65 m) từ đầu cánh này tới đầu cánh kia. Chúng là loài chim lớn nhất khi bay. Dạng bay lượn của chim rất nhẹ nhàng đẹp mắt, chim bay xa nhiều ngàn hải-lý và sống lâu hơn hầu hết các loài chim khác. Một hải-âu được đánh dấu năm 1860, đã sống qua nhiều thập-niên cho đến khi bị ngẫu-nhiên giết chết vào năm 1894 tại đảo Faero Island (bắc Tô-cách-Lan).
Hình 40. Bề sải cánh của Hải-Âu Albatros, so sánh với người cao 6ft và chim hummingbird loại nhỏ.
- Nhờ cánh dài và hẹp bề ngang, chim rất giỏi liệng qua liệng lại nhưng vì đập cánh một cách khó khăn nên albatros thích sinh sống trong những vùng biển có gió mạnh.
- Là loài chim di-cư sinh sống trên đại-dương vùng Nam-bán-cầu, bay theo gió mùa vòng quanh thế-giới. Chim Albatros không có nhiều lắm ở Bắc-bán-cầu và người Âu-châu chỉ mới biết loài hải-âu này vào những thế-kỷ gần đây khi họ khởi sự giương buồm về Nam, đi thám-hiểm.
- Là bạn thân-thiết của người đi biển, hải-âu đôi khi liệng cánh bay theo tàu nhiều ngày liên-tiếp. Thủy-thủ kiêng-cữ việc giết hải-âu, tác-phẩm văn-học nổi-tiếng nhất đã bi-hùng-hóa niềm mê-tín này là "The Rime of the Ancient Mariner" của thi-hào Anh-cát-Lợi, ông Samuel Taylor Coleridge (1772-1834).
3.1.3 – Chim trên các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa
Về các loại chim trên các đảo ngoài Biển Đông, chúng được chia làm ba họ: Laridés, Stéganopodés và Zosterops. Theo Jean de Lacour và Jabouillé, người Việt-Nam thường gọi chim thuộc họ Zosterops là "Chim Sâu Nghệ". Hai ông thấy chúng trên đảo Phú-Lâm.[32]
Hình 41. Một loài chim thuộc họ Zosterops.
Chim Laridea sinh sống suốt đời ngoài biển, chúng chỉ dành một phần nhỏ cuộc đời trên hải-đảo. Theo sự tiến-hóa chân chim biến-đổi, có màng để bơi lặn trong nước. Đường thực-quản của chim có cơ-phận đặc-biệt để loại bớt chất muối hiện-hữu quá nhiều trong nước biển. Chim rất nhanh nhẹn ngoài biển cả, trên không lẫn dưới nước; nhưng di-chuyển chậm chạp trên bờ. Chúng không biết leo cây, thường đậu trên bãi, đẻ trứng trên cát và không làm tổ. Đời các hải-âu khá dài, chúng có thể sống tới 36 tuổi hay lâu hơn nữa.
Hình 42. Chim hải-âu thuộc họ Laridés.
Chim biển có thức ăn thường ngày là hải-sản nên phân chứa nhiều acid phosphoric. Chất này tác-dụng lên chất vôi là biến-chất của xác thân san-hô sau khi chết, tạo thành phosphate, song-hành với sự bay hơi của khí CO2. Chất phosphate này là một thứ phân-bón giúp cây cối có cơ-hội phát-triển nhanh chóng.
3.2 - RÙA VÀ SINH-VẬT TRÊN ĐẢO NGOÀI BIỂN ĐÔNG.
Bên cạnh chim biển, động-vật đáng kể đến là rùa biển.
Rùa biển sinh sản trong vùng nhiệt-đới. Rùa đẻ trứng vùi trong cát. Trứng rùa cần nhiệt-độ cao mới nở được. Đối với người Trung-Hoa thời cổ sống nơi vùng ôn-đới thì những con rùa to lớn xuất-xứ từ vùng Biển Đông xem ra rất lạ lùng với họ. Sử Tàu ghi-nhận chứng-cớ đó.
“Câu truyện "cống rùa thần" được chép trong sách Cương-Mục Tiền-Biên của Kim-Lý-Tường và sách Thông-Chí của Trịnh-Tiều, theo đó đời vua Đường-Nghiêu bên Tàu (2357-2258 tr T.C.), họ Việt-Thường có đến chầu và cống con rùa thần, sống tới cả ngàn năm, lưng có mang chữ viết ghi việc từ khi trời đất mới mở mang. Vua Nghiêu sai người chép lại gọi là lịch rùa".[33]
Một loại rùa biển có giá-trị thương-mại đáng kể là đồi-mồi. Nhiều sản-phẩm rất mỹ-thuật làm bằng mai đồi-mồi bán được giá cao trong cả hai thị-trường quốc-nội và quốc-ngoại. Khi để lớn hết cỡ, mỗi con có thể cho tới 3.6 kg đồi-mồi.
Người dân duyên-hải, kể cả ngoại-nhân xâm-nhập bất hợp-pháp, đã khai-thác bừa bãi khiến cho giống đồi mồi đang suy-giảm rõ rệt và có cơ tuyệt-chủng.
Hình 43. Mai đồi-mồi rất đẹp, có giá-trị thương-mại.
Rùa biển khác với rùa sống trên cạn ở vài điểm như 4 chân biến thành vây để bơi. Rùa biển bơi lẹ làng và vì sự tiến-hóa, vây dài thêm không còn thu gọn lại được trong mai như rùa đất. Rùa biển có thể lớn tối-đa tới 6 feet (1.85m), sống lâu hàng trăm năm. Đồi-mồi nhỏ hơn, mai rộng chừng 80cm gồm nhiều miếng vẩy xếp như mái ngói. Vẩy đồi-mồi có vân mầu nâu óng ánh rất đẹp, dùng làm quạt, gương, lược, bìa sách... thật đẹp mắt. Đồi-mồi sống nhiều trong vịnh Thái-Lan, nhất là vùng Phú-Quốc.
Rùa biển nằm trong danh-sách các loài sinh-vật cần được bảo-tồn của tổ-chức Liên-Hiệp-Quốc.
Hình 44. Vít cũng như các loại rùa biển khác đẻ trứng trên bãi cát. Đẻ trứng xong, con rùa này đang trở ra biển.
Ngoài đồi mồi còn một loài rùa biển mà người ta gọi là con Vít. Ban đêm vít từ biển bò lên bãi đẻ trứng. Trứng vít lớn như trứng vịt, có thể ăn được. Muốn bắt Vít hay lấy trứng, người ta cứ đi theo những vết chân của nó như hai vệt bánh xe tăng kéo dài trên cát. Vít bị lật ngửa thường không tự lật lại được. Thịt vít cũng ăn được, lại có thể sẻ ra làm khô. Chúng đẻ trứng vùi dưới cát. Nhờ cát nóng, trứng nở ra vít con chạy tứ tán ra biển. Trên đường chạy ra biển như vậy, vô-số vít sơ-sanh bị chim ăn thịt nhưng vẫn còn nhiều con sống sót nhảy được xuống nước.
Cũng có chuột trên các đảo, loại to bằng chuột cống. Người đi biển cho biết ở đảo nào cũng có muỗi.
Theo các nhà Địa-chất-học như Linh-mục La Fontaine mà nhiều tài-liệu của ông được tra-cứu và trích-dẫn trong sách này, thì thú-vật sống trên các đảo của Biển Đông đều là các loài đã gặp trên đất liền. Ông R. Bournet (1937) đã tìm thấy rắn mối Emoia Atrocostatum tại Hoàng-Sa, loài này sống ở khắp nơi từ bán-đảo Mã-Lai qua Phi-luật-Tân và Đại-dương-Châu.
3.3- HẢI-SINH-VẬT NGOÀI BIỂN
Một số lớn các thủy-tộc thông-thường mà ta thấy ở bờ biển Việt-Nam cũng sinh-sống ngoài biển Hoàng-Sa và Trường-Sa như cá thu, cá nhám, cá hồng, cá mú, lươn bể, cá đuối, cá mực, đồn đột, tôm cua, sò ốc...
Thống-kê về những hải-sinh-vật Biển Đông cho đến nay vẫn còn thiếu sót. Các chuyên-viên tiếp-tục phát hiện nhiều loài cá mới.
Theo công bố của Viện Nghiên cứu hải sản (NCHS), Bộ Thủy sản, nguyên vùng quần đảo Trường-Sa, các nhà nghiên cứu đã tìm được tới 414 loài cá, trong đó hơn 35% là loài mới phát hiện lần đầu ở vùng biển Việt Nam.
Đặc biệt lần đầu tiên, Việt Nam đã phát hiện họ cá bống biển sâu (Microdesmidae) gồm có 2 giống và loài mới. Theo Viện NCHS, khu hệ sinh vật trong vùng biển quần đảo Trường-Sa rất phong phú và có tính đa dạng rất cao: 223 loài thực vật phù du đã được phát hiện, trong đó có 2 giống và 43 loài mới ở biển Việt Nam; tìm thấy 223 loài động vật phù du, trong đó phát hiện 8 giống và 19 loài mới.
Biển Đông có nhiều loại cá đáng kể là những mối lợi lớn về kinh-tế. Chúng tôi sẽ trình bày về các loài cá của ngư-nghiệp trong phần tài-nguyên hải-sản ở những trang sau. Ở đây chúng tôi xin đề-cập trước vài điều về những hải-sinh-vật lớn như cá voi, cá heo.
- Chúng ta thường hay gọi cá voi, cá kình, cá heo nhưng trong sinh-vật-học, chúng không phải loài "Cá" mà được xếp hạng cùng với con người trong loài "có vú” (hữu-nhũ, mammalia) máu nóng, thở bằng phổi, đẻ con nhỏ (không đẻ ra trứng). Cá voi thực-sự (true whale) không có răng cứng mà chỉ có những màng lưới bằng sụn mềm xếp kín như cái lược. Chúng sống bằng các phiêu-sinh-vật (plankton) là những sinh-vật nhỏ li-ti sống trôi nổi trong nước.
- Viện Nghiên-cứu Đông-Tây tại Hawaii cho biết ở Đông-Nam-Á có tới 11 loài cá voi được xếp thứ-tự nhìn thấy sinh-sống nhiều ít như sau: Bryde's whale, Sperm whale, Sei whale, Fin whale, Blue whale, Minke whale, Goosebeaked whale, Humpback whale, Beaked whale, Black right whale, Pygmy sperm whale.
- Riêng ở khu trung-ương của Biển Đông, những cá voi mà người ta thường thấy nhất là loại cá voi có vi (fin whale), tên khoa-học là Balaenoptera Physalus. Cá voi này có thể dài tới 70 hay 80ft, mầu xám trên lưng trắng ở bụng, mang thai trong 10 tháng. Cá voi lưng gù (humpback) Megaptera Novaeangliae là loại cá voi thường thấy sau loại trên. Cá này dài đến 50ft, tương đối ngắn nhưng to ngang.
- Người Việt lúc xưa cũng săn giết cá voi như mọi giống dân Á-Đông khác. Dân duyên-hải nước ta chỉ mới thờ cá voi và ngưng giết cá voi cách nay không lâu thời Nam-tiến, khi tiếp-xúc nhiều với người Chiêm-Thành.
Hình 45. Cá voi lưng gù, một loài có thể sắp bị tuyệt-chủng.
Những loài cá lớn nhất như cá voi xanh (dài tới 100ft) chỉ thỉnh-thoảng mới xuất-hiện ở vùng biển phía Nam gần Nam-Dương. Hàng năm, một vài con bị săn và bị bắn chết khi chúng di-chuyển từng đàn theo mùa. Một loài cá voi khác cũng xuất hiện quanh vùng đáy biển nông Sunda như Sperm whale (Physeter catadon), Sei whale (Balaenoptera borealis).
- Ngoài cá voi, Biển Đông cũng là nơi sinh sống của loại cá heo (Delphinadae). Trong sinh-vật-học, người ta cho rằng cá voi và cá heo có nhiều điểm tương-tự; trừ ra cá heo có hàm răng, chúng sinh sống bằng các loại cá và cá mực. Cá heo vùng biển nước ta có vài điểm hơi khác biệt nên thường được gọi là cá heo South China Sea hay cá heo Malacca Dolphin. Chúng đi từng bày, thân dài trong khoảng từ 1.5m tới 2m, bơi rất nhanh và thích đùa giỡn khi chạy qua chạy lại trước mũi tàu những khi đẹp trời.
Hình 46. Cá heo của Biển Đông cũng cần được bảo-vệ…
Ở Việt-Nam không thấy người ta nuôi dậy cá heo nhưng ở Thái-Lan, Mã-lai-Á và vịnh Bengal, cá heo rất hữu-ích vì giúp ngư-dân lùa cá vào lưới.
3.4 - BIỂN ĐÔNG VÀ MÔI-TRƯỜNG SINH-VẬT-HỌC VIỆT-NAM
Như đã trình-bày ở trên về môi-trường thực-vật, Biển Đông hoàn-toàn có tính-chất Việt-Nam. Những cuộc khảo-cứu về phương-diện sinh-vật-học lại còn cho biết thêm rằng Biển Đông cũng có môi-trường sinh-sống gần với Việt-Nam hơn là gần Trung-Hoa hay Phi-Luật-Tân.
3.4.1 – VÙNG MÔI-SINH Á-ĐÔNG.
Theo khoa Sinh-vật Địa-lý-học, thế-giới được chia làm 6 vùng môi-sinh (biogeographical zones); Bắc-Mỹ, Nam-Mỹ, Bắc Á Âu, Phi-Châu, Đông-Phương và Úc-châu.
Hình 47. Sáu vùng môi-sinh trong khoa Sinh-vật Địa-lý-học. Biển Đông và Việt-Nam cùng nằm trong vùng Oriental Region.
Khu-vực phía nam dẫy núi Hi-mã-lạp-Sơn bao gồm Ấn-Độ và Đông-Nam-Á được đặt tên là Vùng Đông-Phương (Oriental Region). Vùng này không lớn lắm nhưng là khu-vực mà môi-trường sinh-vật phong-phú nhất trên trái đất, trong đó có Việt-Nam cũng như Biển Đông.
Trong khi đó, hầu hết lãnh thổ Trung-Hoa nằm trong khu-vực mà khoa sinh-vật-học gọi là Palearctic. Vùng này tuy rộng lớn nhất, bao-trùm hết cả Bắc-Á, toàn-thể Âu-châu và Tây-Bắc Phi-châu nhưng lại ít có những loài sinh-vật đặc-thù.
Căn-cứ theo giới-tuyến Himalaya - Đông-Nam-Á, Biển Đông không có nhiều liên-hệ về sinh-vật với Trung-Hoa.
3.4.2 – ĐƯỜNG WALLACE – HUXLEY.
Môi-sinh Biển Đông cũng xa lạ với Phi-luật-Tân, miền đông Nam-Dương và Úc-Châu. Ranh-giới chia cắt môi-sinh này thường được gọi là đường Wallace-Huxley.
Hình 48. Về môi-sinh, Biển Đông thuộc về Việt-Nam: Đường Wallace/Huxley cắt Phi-luật-Tân ra khỏi Biển Đông.
Nước Việt-Nam nằm trong khu-vực mà các nhà sinh-vật gọi là Wallacea, đặt theo tên của Alfred Russel Wallace. Wallacea là vùng đất sinh-sống của các động-vật Á-đông. Không những Trung-Hoa nằm ngoài vùng môi-sinh Á-đông như đã nói ở trên, Phi-luật-Tân cũng không ở trong vùng này.
Nhà thiên-nhiên-học người Anh này nhận ra rằng ở đảo Bali có tới 94% loài bò-sát và 87% loài chim nguồn gốc Á-Đông, nhưng ở Lombok là đảo kế cận hướng đông của Bali, thì các tỷ-lệ trên sụt giảm xuống còn 85% và 72.5%. Nhiều loài hữu-nhũ từ Á-Đông sang sinh-sống ở Java, chúng tới được Bali nhưng không thấy tồn-tại xa hơn về hướng Đông như Lombok, Celebe.
Tiếp theo Wallace, một nhà sinh-vật-học người Anh nữa là Huxley nghiên-cứu thêm và thấy rằng tình-trạng sinh-vật ở Phi-luật-Tân (trừ đảo Palawan) cũng giống như ở Lombok và Celebe, nghĩa là khác-biệt với Việt-Nam. Bên bờ phía Tây của đường này sinh-vật mang đậm những nét Á-Đông đáng kể (overwhelmingly Oriental fauna). Càng đi xa về phía Đông của đường Wallace-Huxley, ảnh hưởng môi-trường sinh-vật Úc-châu (Australian fauna) càng nhiều hơn; cho tới đường Weber thì bách-phân sinh-vật Á-đông chỉ còn lại là 50%.
Tóm lại, các lý-lẽ trên chứng-minh rõ ràng Biển Đông thuộc Việt-Nam về phương-diện Sinh-vật Địa-lý-học.
3.5 - TRỮ-LƯỢNG HẢI-SẢN BIỂN ĐÔNG
Biển Việt Nam có trên 2,000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài cá có giá trị kinh tế. Theo những đánh giá mới nhất, là 4.2 triệu tấn, trong đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm 850 nghìn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương. Sau cá có tôm, mực, cua được coi là có giá trị kinh tế cao.
Toàn ngành thủy sản có khoảng nửa triệu lao động đánh bắt hải sản, trong đó hoạt động gần bờ chiếm tới khoảng 70%. Trong khi ngành được ghi nhận trả lương cho người lao động cao nhất tại Việt-Nam là sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước, với mức thu nhập bình quân của người lao động là 4 triệu đồng/người/tháng. Người lao động có mức thu nhập thấp nhất là ngành thủy sản, với mức thu nhập bình quân 819,000 đồng/người/tháng.
Ngành thủy sản đang tích cực đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ lao động nghề cá để họ tiến kịp với sự phát triển về ứng dụng khoa học, công nghệ, trang bị của đội tàu xa bờ.
Tuy vậy sự thu-hoạch thủy-sản ngoài thiên-nhiên có giới-hạn. Người Việt sẽ phải nuôi trồng thêm tôm cá trong các trại tôm, trại cá.
Từ năm 1990 trở lại đây với tôm nuôi cho xuất khẩu là mũi đột phá quan trọng. Năm 1991, diện tích nuôi trồng thủy sản mới đạt 520,000ha, sản lượng đạt 335,910 tấn, đến năm 1996 diện tích nuôi trồng thủy sản là 585,000ha, sản lượng nuôi trồng đạt 411,000 tấn, năm 2000, diện tích nuôi là 652,000ha, sản lượng đạt 723,110 tấn, năm 2003 sản lượng nuôi trồng đã đạt hơn 1 triệu tấn. Nuôi trồng thủy sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng hoá chủ lực.
Hiện nay ngành nuôi trồng hải sản nước mặn tuy có phát triển kém hơn ngành nuôi trồng thủy sản nước ngọt và nước lợ, nhưng xin nhớ rằng môi-trường nước mặn ngoài biển rộng lớn bao la hơn nội-địa rất nhiều, còn chờ được khai thác quy-mô.
Hình 49. Thống-kê cho biết mức-độ nuôi trồng thủy-sản gia-tăng đáng kể tại Việt-Nam.
3.6 – BẢO-VỆ MÔI-TRƯỜNG BIỂN
Con người càng ngày càng chiếm đóng thêm nhiều hải-đảo. Những nơi xưa kia chim chóc, rùa vít... thường làm tổ một cách tự-do thì nay không còn nữa. Chẳng những người đã chiếm đất của vật, con người lại còn tàn-sát các sinh-vật khác không tiếc tay. Trên Biển Đông số lượng sinh-vật đang suy-giảm nhiều, đặc-biệt là những loài rùa biển, như vít, đồi mồi, như cá voi, cá heo... Nếu không được bảo-tồn, chúng có thể bị tuyệt-chủng. Những cơ-quan bảo-vệ thiên-nhiên đã kêu gọi các quốc-gia duyên-hải lưu-tâm tham-gia những chương-trình của họ.
Theo đà tiến-bộ chung của nhân-loại, các nước Đông-Nam-Á cũng bắt đầu khởi-sự những chương-trình bảo-vệ môi-sinh quan-trọng từ hơn một thập-niên qua. Dẫn đầu những công-tác ngoài Biển Đông là Nam-Dương. Nhờ nền kinh-tế phát-triển mạnh, tiền bạc dồi dào, các chính-phủ Mã-lai-Á và Tân-gia-Ba cũng đang hăng-hái tham-gia và đã chi-phí những khoản tiền lớn về chống ô-nhiễm, bảo-vệ môi-sinh.
Mới đây, Bộ Thủy Sản đã xây dựng quy hoạch tổng thể hệ thống các khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2010, dự kiến trình Chính phủ vào cuối năm nay. Bản quy hoạch đề xuất 15 khu bảo tồn biển dọc theo chiều dài đất nước, với mục tiêu khoảng 2% diện tích vůng biển nước ta được bảo tồn vào năm 2010.
Hệ thống các khu bảo tồn này được phân làm 3 loại theo tiêu chí của IUCN, gồm: Vườn quốc gia (biển), Khu bảo tồn loài và nơi cư trú, và Khu dự trữ tài nguyên thủy sinh vật. Tồn tại song song với hệ thống này là các khu bảo tồn được phân loại theo những hệ thống khác như Khu bảo tồn đất ngập nước (điểm RAMSAR, Xuân Thủy), Khu dự trữ sinh quyển (Cát Tiên)...
Hình 50. Các khu bảo tồn biển Việt Nam .
Hình 51. Các khu bảo tồn biển Việt Nam (tiếp theo).
Danh sách các điểm được đề xuất thành khu bảo tồn biển:
- Đảo Trần,
- Đảo Cô Tô (Quảng Ninh)
- Đảo Cát Bà,
- Bạch Long Vĩ (Hải Phòng)
- Hòn Mê (Thanh Hoá)
- Đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị)
- Sơn Trà - Hải Vân (Thừa Thiên Huế)
- Cù Lao Chàm (Quảng Nam)
- Đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
- Hòn Mun,
- Nam Yết (Khánh Hoà)
- Hòn Cau,
- Đảo Phú Quý (Bình Thuận)
- Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu)
- Phú Quốc (Kiên Giang)
Vì thiếu ngân-khoản, sự thành lập các “khu bảo tồn biển” rất chậm-trễ. Với sự trợ giúp của Chính phủ Đan Mạch, khu bảo tồn biển đầu tiên của Việt Nam được xây dựng tại Hòn Mun (Khánh Hòa) vào năm 2000. Bốn năm sau, khu bảo tồn thứ hai trong mạng lưới khu bảo tồn biển Việt Nam chỉ vừa mới được thiết lập tại vùng biển Cù lao Chàm (tỉnh Quảng Nam).
3.7 – HẢI SINH-VẬT CẦN BẢO-VỆ
Những hải-sinh-vật như rùa biển, cá heo, cá voi... được ghi trong danh-sách những sinh-vật cần bảo-vệ. Cơ-quan International Whaling Commission (IWC) thuộc Liên-Hiệp-Quốc, đặc-trách việc này đã thông-báo nguy-cơ tuyệt-chủng của các loài cá voi, cấm săn-bắn cá voi lưng gù (Humpback whale, Megaptera novaeangliae) vào năm 1966, cá voi xanh (Blue Whale, Balaenoptera musculus) năm 1967 và cá voi có vi (Fin whale, Balaenoptera physalus) vào năm 1975.
Hình 52. Cá voi xanh, dài tới 100ft, là loài động-vật lớn nhất của địa-cầu. Một số di-chuyển theo mùa trong vùng biển ĐNÁ. Số lượng đang suy-giảm rõ rệt.
Trong khi đẩy mạnh sản-lượng ngư-nghiệp, hầu hết các quốc-gia duyên-hải đã có kế-hoạch khuyến-cáo những ngư-dân tránh sát-hại các loài hải-vật nào cần-thiết được bảo-tồn để chúng tiếp-tục sinh-sản.
Trường-hợp Việt-Nam, ý-thức về việc bảo-vệ môi-sinh rất thấp, đặc-biệt về môi-sinh ngoài biển có lẽ còn xa lạ với phần đông dân ta. Chính-quyền nào cũng cần lưu-tâm đến công-tác này, sự giáo-dục phải khởi-sự ngay từ học-đường ra đến đại-chúng.
Trong số lượng lớn quân-nhân trú-phòng trên các hải-đảo, không chắc có bao nhiêu cá-nhân ý-thức đến môi-trường sinh-sống chung quanh. Một khi nước biển bị ô-nhiễm, ánh-sáng không còn chiếu xuống được sâu, nước biển đục ngầu thì san-hô chết và sự tồn-tại của hải-đảo lệ-thuộc vào đó. Người quân-nhân cũng như thường-dân phải ý-thức được sự sinh-tồn của con người liên-hệ ra sao với san-hô, với biển, với hải-sinh-vật... Đời sống vốn là sự cộng-sinh giữa muôn loài, sẽ thay đổi theo chiều-hướng tốt đẹp hơn.
Hình 53. Số lượng Bò Biển đang suy-giảm rõ rệt, gần tuyệt-chủng.
4 – KHÍ-TƯỢNG BIỂN ĐÔNG
Khí-tượng Biển Đông khác với khí-tượng trong lục-địa.
4.1- TÌNH-TRẠNG KHÍ-TƯỢNG TỔNG-QUÁT
Nói chung Hoàng-Sa Trường-Sa nhờ nằm giữa Biển Đông nên khí-hậu điều-hòa, không lạnh quá về mùa Đông, không nóng quá về mùa hè nếu so với những vùng đất cùng vĩ-độ trong lục-địa. Không-khí Biển Đông ít bị ô-nhiễm. Bầu trời thường trong trẻo, tuy đôi khi u-ám và có mưa lớn trong giông bão nhưng thời-gian này tương-đối qua đi khá nhanh. Mưa ngoài biển qua nhanh, ở Hoàng-Sa không có mùa nào ảm-đạm kéo dài như kiểu mưa dầm gió bấc ở Bắc-phần hay mù-mịt như trong mùa mưa ở Huế. Buổi sáng cũng ít khi có sương mù.
- Nhiệt-độ. Nhiệt-độ ở Hoàng-Sa không chênh lệch lắm giữa mùa Hạ (28-29 độ bách-phân) và mùa Đông (24-25 độ). Tuy xa cách Hoàng-Sa tới 6, 7 độ vĩ-tuyến, gần hơn về phía Xích-đạo nhưng Trường-Sa cũng chỉ nóng hơn Hoàng-Sa chừng vài độ. Có thể nói hai quần-đảo Hoàng-Sa Trường-Sa không có mùa lạnh, khí-hậu dịu mát nhờ ảnh-hưởng đại-dương.
- Vũ-lượng. Ở Hoàng-Sa mưa trung-bình trong năm lối 1,170mm, tuy được kể là mưa nhiều nhưng không quá đáng như ở Huế (3,000mm). Mưa nhiều nhất trong tháng 10 (17 ngày/228mm). Trường-Sa là vùng rộng lớn gấp 10 lần hơn Hoàng-Sa, hiện không đủ dữ-kiện nhưng chúng ta có thể ước-đoán rằng vũ-lượng tổng-quát thấp hơn Hoàng-Sa một chút.
- Ẩm-độ. Không-khí Biển Đông tương-đối ẩm-thấp hơn những vùng biển khác trên thế-giới. Ở cả Hoàng-Sa lẫn Trường-Sa, ẩm-độ đều cao, ít khi nào bách-phân ẩm-độ xuống dưới 80%. Trung-bình vào tháng 6, ẩm-độ ở Hoàng-Sa suýt soát 85%.
Những sự kiện khí hậu ở Hoàng-Sa
| ||||||||||||
Tháng
|
Giêng
|
Hai
|
Ba
|
Tư
|
Năm
|
Sáu
|
Bảy
|
Tám
|
Chín
|
Mười
|
M.Một
|
M.Hai
|
TB Nhiệt
TB Ẩm Độ
TB Vũ Lượng
Số Ngày Mưa
|
23,5
82,1
21
8
|
24
83,7
17
5
|
26,2
83,8
21
3
|
27,7
83,5
60
5
|
29,2
83,9
73
8
|
29,1
84,8
128
8
|
28,9
84,2
93
7
|
28,7
83,7
141
9
|
28,1
84,4
197
15
|
27,1
83,8
228
17
|
25,8
83,7
143
14
|
24,4
81,5
47
13
|
(Trích Khí Hậu V.N. – Nha Giám Đốc Khí Tượng 1964)
|
Hình 54. Nhiệt-độ, ẩm-độ, vũ-lượng ở Hoàng-Sa.
4.2 – MÙA GIÓ
Có hai mùa gió Đông-Bắc và Tây-Nam rất rõ rệt:
* Mùa gió Đông-Bắc thổi mạnh trên Biển Đông, từ tháng 11 đến tháng 1, gió 20-25 gút, biển động mạnh, tới cấp 4 cấp 5. Người đi biển hay dân đánh cá rất khổ cực. Vịnh Thái-Lan trong mùa này tương-đối êm-dịu.
* Mùa gió Tây-Nam thổi trong những tháng 3, 4, 5. Gió mùa này thường yếu hơn gió mùa Đông-Bắc và biển cũng ít động. Trong mùa gió Tây-Nam, biển Hoàng-Sa khá êm dịu trong khi Trường-Sa và vịnh Thái-Lan bị ảnh-hưởng sóng gió nhiều hơn.
4.3 – THỦY-TRIỀU
Thủy-triều là một hiện-tượng nước biển lên xuống, nguyên-do vì hấp-lực của các tinh-tú mà chính-yếu là mặt trăng và mặt trời. Hiện-tượng này tuy phức-tạp nhưng lại đi theo chu-kỳ. Sau nhiều nghiên-cứu, chiêm-nghiệm; ngày nay người ta có thể tiên-đoán khá chính-xác cao-độ thủy-triều tại bất cứ một hải cảng trong bất cứ một thời-điểm nào
Hoàng-Sa và Trường-Sa nằm ngoài khơi Việt-Nam nhưng thủy-triều lên xuống tại đây lại không theo đúng nhịp điệu, chu-kỳ hay biên-độ của những con nước lớn và nước ròng ở các bến quy-chiếu chính của Việt-Nam là Đồ-Sơn và Vũng-Tàu.
Hình 55. Một đường biểu-diễn cao-độ tiêu-biểu cho thủy-triều loại hỗn-hợp.
Nói chung, biên-độ thủy-triều không lớn lắm, khoảng 4-5ft (1.2m-1.5m). Chu-kỳ thủy-triều Hoàng-Sa thuộc loại hỗn-hợp giữa bán-nhật và toàn-nhật; với đặc-tính toàn-nhật vượt trội hơn (chiefly diurnal). Thông-thường, mỗi ngày một con nước lớn, một con nước ròng, chuyển qua hai con nước một ít ngày, rồi trở lại một con.
Người đi biển thường dùng những Bảng Thủy-triều (Tide Table) để tính-toán thời-gian và cao-độ mực nước lên xuống.
Hình 56. Tài-liệu trích trong "Bảng thủy-triều". Thủy-triều các cảng Việt-Nam có bến quy-chiếu tại Manila, Phi-luật-Tân.
Sự tiên-đoán thủy-triều ngày nay khá chính-xác, Tide Table trợ giúp rất đắc-lực cho những nhà hải-hành khi đi qua các vùng nước cạn, đưa tàu chui dưới những cây cầu thấp, ra vô hải-cảng, tính toán giờ giấc vận-chuyển v.v...
Bảng Thủy-triều do Bộ Thương-mại Hoa-Kỳ biên-soạn, chỉ-dẫn việc dùng bến quy-chiếu ở Manila, Phi-luật-Tân cho thủy-triều Hoàng-Sa và các bến vùng Đà-Nẵng, cộng trừ thêm những sai-biệt đã được cơ-sở Thủy-Đạo tính toán sẵn. Chúng tôi xin trích-dẫn một vài dòng trong sách trên làm tài-liệu.
Trong khi đó ở Vũng-Tàu, Kê Gà, Côn-Sơn, Hòn Khoai, Vịnh Phú-Quốc, Sài-Gòn; thủy-triều là loại bán-nhật (semi-diurnal) với con nước dâng lên hạ xuống mỗi ngày hai lần. Bến quy-chiếu tại Mũi Vũng-Tàu.
Đồ-Sơn là một bến quy-chiếu khác trong bảng Tide Table dùng tính toán thủy-triều các bến dọc theo Vịnh Bắc-Việt, trải dài từ đảo Cái Bầu, Hải-Phòng, Hòn Me đến cửa Nhật-Lệ và ra ngoài xa đến đảo Bạch-long-Vĩ. Thủy-triều này là loại toàn-nhật (diurnal).
Hình 57. Bản-đồ nhiệt-độ nước biển, biên-độ thủy-triều, năng-lực sóng Biển Đông.
Theo Giáo-Sư Lê-Bá-Thảo, Thủy-triều trong Biển Đông rất phức tạp với sự biểu hiện đồng thời của 4 loại khác nhau trên những đoạn bờ biển khác nhau. Trên bờ biển Việt Nam, chế độ nhật triều, quan sát thấy rõ nhất ở đoàn từ Hòn Gai về đến Đồ Sơn, càng lên phía bắc càng giảm tính thuần nhất cũng như càng xuống phía nam. Từ nam Đồ Sơn đến nam Thanh Hóa, nếu nhật triều còn chiếm 2/3 số ngày trong tháng thì ở ven biển Nghệ Tĩnh, số ngày đó chỉ còn chiếm già nữa tháng, và như vậy là đã xuất hiện nhật triều không đều.
Đoạn Quảng Bình - Quảng Trị đã thấy có chế độ bán nhật triều không đều nhưng ở bờ biển Thừa Thiên lại thấy có bán nhật triều đều và là đoạn duy nhất ở Việt Nam có chế độ ấy.
Tính chất bán nhật triều lại chuyển dần sang nhật triều không đều từ bờ biển Quảng Nam xuống đến bắc Nam Bộ. Từ đó trở đi đến mũi Cà Mau, chế-độ bán nhật triều lại trở nên rõ rệt nhưng ở vịnh Thái Lan thì đã có nhật triều không đều và đều.
Như có thể thấy, chế-độ thủy-triều trên suốt chiều dài của bờ biển Việt Nam luôn thay đổi và người ta chỉ có thể cắt nghĩa điều đó bằng ảnh hưởng của các điều kiện địa phương, trong đó các dao động nước khu vực và các dao động của sóng triều tạo nên những hiện tượng cộng hưởng phức tạp.
Sóng và thủy-triều là hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến dải đất ven biển: các cửa sông hình phễu, các hiện tượng xói lở bờ và bồi tụ, các lạch triều và bãi triều, các quần xã thực vật ngập mặn v.v... nói lên điều đó.[34]
4.4 – VÙNG NƯỚC XOÁY
Nước thủy-triều di-chuyển lên xuống theo đường thẳng đứng, Nước cũng di-chuyển ngang, tạo nên những dòng nước chảy qua chảy lại trên biển. Vì nhiều yếu-tố ngoại-lai như địa-thế bờ đất, hải-đảo, đáy biển, luồng gió ảnh-hưởng đến, những dòng nước thủy-triều có thể chạy ngược lại với nhau trong một vùng nào đó làm nước xoáy tròn.
Hiện-tượng nước xoáy này làm những khối lượng nước bị cuốn xuống đáy biển theo vòng trôn ốc như tại khu-vực ngoài khơi những ghềnh đá Na-Uy. Trong những trường-hợp đặc-biệt, vùng nước xoáy mạnh đến nỗi có thể hút cả ghe thuyền, đáng sợ nhất là ở khu-vực nằm giữa hai vùng biển Phi-luật-Tân và Nhật-Bản.
Tại Biển Đông, biên-độ thủy-triều thường nhỏ nên những dòng nước gây nên bởi thủy-triều không mạnh lắm. Dân đánh cá thường biết rõ những vùng nước xoáy gần bờ để lái ghe thuyền nhỏ bé của họ tránh ra xa. Ngoài biển khơi, tuy nước có xoáy ở vài nơi nhưng không gây nguy-hại hiểm-nghèo cho các tàu thuyền đi biển lớn hơn mức trung-bình.
Hình 58. Cách giải-thích hiện-tượng những con nước xoáy. Hình vẽ có hơi phóng-đại cơ-nguy trên Biển Đông.
4.5 – NƯỚC BIỂN, NỒNG-ĐỘ MUỐI
Nước biển các vùng Hoàng-Sa và Trường-Sa lúc nào cũng ấm-áp. Nhiệt-độ cả năm thường cao hơn 20 độ bách-phân. Nước biển chứa nhiều oxy, rất trong vì không bị ô-nhiễm và cũng vì xa các cửa sông nước đục. Độ mặn của muối dưới mức trung-bình, thường không cao quá 35 phần ngàn (%o). Bầu trời Hoàng-Sa và Trường-Sa thường quang đãng ít mây, mặt trời nhiệt-đới quanh năm chiếu ánh-sáng thật sâu xuống dưới nước. Những điều-kiện này tạo môi-trường lý-tưởng cho san-hô sinh-tồn và phát-triển ở độ sâu hàng trăm thước.
4.6 – HẢI-LƯU
Hải-lưu là dòng nước chảy ở giữa biển mà nguyên-nhân chính phát-sinh là gió, sau đó là sự khác-biệt về tỷ-trọng, nhiệt-độ nước biển, sự quay của trái đất, thủy-triều...
Hải-lưu trong Biển Đông không chảy thường-trực cố-định suốt năm một chiều như các đại-hải-lưu của Thái-bình-Dương. Gió mùa địa-phương tạo nên những dòng hải-lưu chuyển-vận nước theo chiều gió thổi, khi gió mùa đổi ngược chiều thì hải-lưu chảy ngược lại.
- Trong mùa gió Đông-Bắc, hải-lưu Biển Đông chảy ngược theo chiều kim đồng-hồ. Dòng nước biển chảy mạnh từ Đài-Loan ngang qua Hoàng-Sa vận-tốc chừng 1 gút. Khi xuống ngang bờ biển Trung-phần, vận-tốc dòng nước tăng thêm, có khi tối-đa tới 3, 4 gút trên mặt nước. Các nhân-viên khí-tượng Việt-Nam ở Hoàng-Sa (sau vụ Nhật đảo-chính Pháp tháng 3/1945) và quân-nhân Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà (sau khi Trung-Cộng tấn-chiếm đảo tháng 1/1974) đã nhờ nhờ dòng nước này thả bè trôi về được tới Quy-Nhơn và ngoài khơi Cù-lao Ré để được cứu vớt. — phía Tây vùng Trường-Sa, nước chảy ngược lại như một đối-lưu hướng về phía Đông-Bắc. Vận-tốc đối-lưu thường thấp. Vùng gần Palawan nước chảy theo chiều Tây-Nam.
- Trong mùa gió Tây-Nam, hải-lưu chảy theo chiều kim đồng-hồ, từ phía Mã-Lai đi dọc bờ biển Trung-phần ra Hoàng-Sa với vận-tốc chừng .5 gút. Đối-lưu từ phía Đông của quần-đảo Hoàng-Sa chảy về Trường-Sa rất yếu.
- Hải-lưu Biển Đông không hoàn-toàn là một vòng kín. Trong những khi gió mùa thổi mạnh, những khối lượng nước biển lớn lao được đẩy ra ngoài qua các eo biển. Vào mùa gió Đông-Bắc, nước Biển Đông thoát ra Ấn-độ-Dương. Vào mùa gió Tây-Nam, nước biển thoát ra Thái-bình-Dương.
Theo tài-liệu trong sách Regional Oceanography[35], tác-giả Matthias Tomczak & J. Stuart Godfrey thì dòng nước chảy qua chảy lại như một máy điều hòa làm nồng-độ muối ở Hoàng-Sa và Trường-Sa trong suốt năm giữ nguyên trong mức độ 33.5 và 33 phần ngàn. Chiều nước chảy của các hải-lưu Biển Đông được trình-bày như trong hai hình dưới đây.
Như vậy quanh năm, hải-lưu vùng Hoàng-Sa và Trường-Sa thay đổi chiều hai lần. Dòng nước vùng Trường-Sa không mạnh như dòng nước vùng Hoàng-Sa.
Sau trận hải-chiến năm 1988 khi chiến-hạm bị chìm, các thủy-thủ Việt-Nam Cộng-sản sống sót trên các bè nổi không trôi đi đâu xa. Vì nước chỉ chảy chừng 1/4 đến 1/2 gút, sự cấp-cứu đã được thi-hành trong "khu-vực cánh quạt" sát gần nơi hải-chiến.
Sea surface salinity in the South China Sea. (a) During the southwest monsoon (August), (b) during the northeast monsoon (February). Arrows indicate the inferred direction of flow. After Wyrtki (1961).
|
Hình 59. Hải-lưu và nồng-độ muối Biển Đông.
Sự vận-hành của hải-lưu liên-hệ đến những thay đổi về thời-tiết, khí-tượng trong vùng, gây ảnh-hưởng đến môi-trường sinh-sống của người và sinh-vật dưới biển cũng như trên bờ.
4.7 - NƯỚC, GIÓ VÀ NẠN DẦU LOANG
Khi dàn khoan hoạt-động, các tàu chuyên chở dầu đi lại nhiều hơn và những ống dẫn dầu khí vào bờ khởi-sự; đây cũng là lúc người ta nghĩ đến những tai-nạn dầu loang và sự hiểu-biết về hải-lưu càng cần-thiết hơn. Các kế-hoạch phòng-tai bao gồm nhiều giả-thuyết kèm các biện-pháp ứng-phó. Nước trôi ra sao cùng gió thổi thế nào cần được tính-toán sẵn sàng.
Các phỏng-định sau đây đặt ra với giả-thuyết vài triệu gallons dầu thô, vì tai-nạn hay lầm-lỗi kỹ-thuật lúc khai-thác hay chuyên-chở, bị thất-thoát ra ngoài biển.
Chừng 24% số dầu đó sẽ bay hơi hay tan-biến sau 2 ngày, 42% sau 5 ngày, 45% sau 8 ngày. Bách-phân tiêu-tán này đạt đến tối-đa là 48% qua 14 ngày. Sau đó thời-tiết không còn ảnh-hưởng bao nhiêu và số dầu còn lại sẽ nằm vật vờ trôi nổi trên mặt biển. Phải qua rất nhiều thời-gian để dầu loang tự nó phân-hóa qua những phản-ứng thoái-hóa sinh-học (Biological Degradation), oxide hóa quang-năng (photo-oxidation) mà từ từ tan-biến. Khi dầu thoát ra, vì nhẹ nên nổi và nước gió làm dầu trôi đi trên mặt biển.
Phần nặng hay chất cặn bã của dầu thường không độc-hại bằng phần lỏng của nó. Chim chóc, cua cá, cây cối... tiếp-xúc với dầu hay nằm trong lớp dầu bao-phủ sẽ bị chết hại rất nhiều. Nếu không được làm sạch sẽ đúng cách, tình-trạng môi-sinh trong vùng bị dầu loang chỉ trở lại bình-thường sau nhiều năm hay nhiều chục năm.
Hình 60. Các giả-thuyết dầu loang ngoài khơi Biển Đông trong hai mùa gió Đông-Bắc và Tây-Nam.
Chúng ta hãy xem vài giả-thuyết dầu loang dọc duyên-hải Việt-Nam theo tài-liệu của sách Atlas for Marine Policy in East Asian Seas:[36]
- Dầu loang ngoài khơi Vũng-Tàu (9o40' N, 108o00' E). Nếu tai-nạn dầu loang xảy ra vào ngày 1 tháng 7 khi mùa gió Tây-Nam đang thổi mạnh, dầu loang sẽ trôi theo hướng Đông-Bắc một khoảng 600km (372hl) sau 29 ngày. Chỉ trong vòng 14 ngày, dầu loang sẽ tràn tới vùng Cam-Ranh.
Nếu tai-nạn trên xảy ra vào ngày 1 tháng 12, trong mùa gió Đông-Bắc; dầu loang sẽ trôi theo hướng Tây-Nam một khoảng 400km (248hl) sau thời-gian 14-17 ngày.
- Dầu loang ngoài khơi Tây-Nam Hải-Nam (23o0' N, 109o0' E.) Bờ biển Hải-Nam sẽ bị ô-nhiễm nếu dầu thất-thoát trong mùa gió Tây-Nam vào những tháng 5, 6, 7 và 8.
Nếu tai-nạn trên xảy ra vào lúc giao mùa hay giữa mùa gió Đông-Bắc, dầu loang sẽ trôi về phía bờ biển Việt-Nam: tháng 8, vào Bắc-phần và các tháng 9, 10, 11, 12, 1, 2, 3 vào vùng Bắc Trung-phần.
Trong tương-lai nếu Trung-Cộng khởi sự đào dầu tại Hoàng-Sa, cơ-nguy bờ biển Trung-phần Việt-Nam bị nạn dầu loang tràn ngập rất trầm-trọng, nhất là về mùa gió Đông-Bắc. Hải-lưu vùng này mạnh, đôi khi vượt 30hl. một ngày. Dầu loang có thể tràn đến khu Cù-Lao Ré, Quảng-Ngãi trong vòng 10 ngày và đến Quy-Nhơn chừng 2 tuần-lễ.
Hình 61. Nếu dầu loang từ Hoàng-Sa hay ngoài khơi Hải-Nam, bờ biển Việt-Nam có cơ nguy bị ô-nhiễm nhiều hơn phía Trung-Hoa.
5 – THIÊN-TAI TRÊN BIỂN ĐÔNG
Thiên-tai Biển Đông xếp thành nhiều loại:
5. 1 – BÃO-TỐ
Bão-tố có mùa. Bão Biển Đông là bão nhiệt-đới, thường xảy ra những lúc giao mùa, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Gió mạnh đến 90 gút. Bão giảm đi từ tháng 9 nhưng cũng vẫn còn đến tháng 1. Tuy vậy, vào giữa mùa gió Đông-Bắc, bão làm biển trở nên động dữ dội hơn và kéo dài trong nhiều ngày.
Hình 62. Bão và các thiên-tai động đất, sóng thần vùng Biển Đông.
Người Pháp gọi tên đảo Trường-Sa là Đảo Bão-Tố (Ile de la Tempête), nhưng biển Trường-Sa cũng như toàn thể Biển Đông không phải là nơi phát-sinh những trận bão lớn vùng nhiệt-đới. Những trận Đại-phong hay Typhoon thường khởi-sự từ phía Đông của Phi-luật-Tân, di-chuyển theo hướng Tây-Bắc về phía Bắc Việt-Nam, Hồng-Kông, Đài-Loan Nhật-Bản. Không tới 1% giông bão phát sinh từ Biển Đông tiến về Hoa-Nam và cũng không tới 1% giông bão phát-sinh ngoài khơi Brunei thổi về Vịnh Thái-Lan. Có tới chừng 1 phần 3 các trận đại-phong đi từ Thái-bình-Dương thổi về, qua Trường-Sa và Hoàng-Sa, tiến vào bờ biển Trung-Việt và vịnh Bắc-phần.
Sau khi thành-lập, bão thường di-chuyển hướng Tây, nhưng rồi chuyển lên hướng Đông-Bắc, nên Nam-phần không mấy khi bị bão lớn tàn-phá.
Khi bão phát xuất từ đảo Lữ Tống đi ngang Hoàng-Sa thì binh-sĩ đóng trên đảo thấy các triệu chứng như sau: Trời oi, khí áp xuống nhanh. Trên bầu trời xuất hiện những mây cao bay nhanh như bó lông (cirrus panachés). Vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một lớp mây rất mỏng (cirro status), mặt trời chung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. Sau đó đến lượt những mây thấp có hình vẩy cá (cirro cumulus). Rồi đến một lớp mây đen, dày cao lối 3,000m (altostatus), tất cả trở nên đen, u ám; mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống nhanh. Trần mây thấp dần xuống (100m hay 50m), mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, bão đã tới...
Cường-độ gió bão có thể lối 50 gút đến 90 gút.
Khi sấm sét đã xuất hiện thì có thể coi như cơn bão đã qua...
Hình 63. Số lượng trung-bình các trận bão xảy ra trong những tháng của một năm.
Hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa bao gồm các đảo nhỏ bé trơ trụi, không phải là chỗ neo tránh bão lý-tưởng. Mỗi khi các đài khí-tượng thông-báo có bão (typhoon) là các tàu thuyền thường vội vã di-tản khỏi vùng.
Hình 64. Khi bão di chuyển với vận tốc v, vận tốc gió xoáy là v1: tại vùng bán-nguyệt an-toàn, sức gió nhẹ hơn (v1-v) phía bán-nguyệt kia khá nhiều (vận-tốc gió v1+v).
Trường-hợp không kịp, phải cố chạy về phía Nam, làm sao nằm được trong "bán-nguyệt an-toàn" của bão. Trong thế-chiến II, Hạm-đội Hoa-Kỳ một lần đã bị thiệt-hại nặng vì bão như vậy ở ngoài biển Phi-luật-Tân chỉ vì phải tiếp-tục hành-quân, không kịp lẫn trốn.
Hình 65. Ðường đi tiêu-chuẩn của các trận bão trong những tháng 7, 8, 9, 10. Mùa mưa bão ở các tỉnh miền Bắc thường đến sớm hơn các tỉnh miền Trung khoảng 1 đến 2 tháng.
Hai lần Trung-Cộng hành-quân lớn, chiếm trọn Hoàng-Sa (19 tháng 1 năm 1974) và nuốt gọn 7 đảo Trường-Sa (14 tháng 3 năm 1988), chúng đều khởi-sự ồ-ạt chuyển quân xuống Biển Đông trong mùa biển ít bão-tố.
Hình 66. Thang sức gió bão Beaufort hay đơn giản là cấp gió là thang đo kinh nghiệm về sức gió, chủ yếu dựa trên trạng thái của mặt biển hay các trạng thái sóng. Cũng cần lưu ý rằng độ cao của sóng tính trong điều kiện tìm thấy ở các biển vắng.
Qua các tài-liệu lịch-sử, người ta đọc được nhiều lần thiên-tai khủng-khiếp gây thiệt hại sinh-mạng và tài-sản cho nước ta. Vì người dân đói khổ nên quốc-gia loạn lạc. Tai-nạn ngoài Biển Đông mang đến chết chóc, mất tích, tản-lạc cho ngư-phủ như:
* Vào đầu thế-kỷ 18, bão thổi thuyền bè của đội Hoàng-Sa ra biển sang Hải-Nam. Hai nhân-viên được người Tàu cứu và được trả về sau đó.
* Vào thời Nam-Bắc phân-tranh, khi hai hạm-đội chuẩn-bị tác-chiến thì bão thổi tới. Chiến-thuyền đôi bên rời nhau để chạy trốn nhưng không kịp. Một số bị chìm, một số bị thổi ra biển. Có chiếc trôi ra Hoàng-Sa, có chiếc giạt tới Hải-Nam.
Thiên-tai về bão-tố đẩy thuyền ra Hoàng-Sa cũng là một yếu-tố để chứng-minh dân địa-phương như người Việt chúng ta đã đến Hoàng-Sa Trường-Sa, do vô-tình hay cố-ý từ nhiều ngàn năm xưa. Người Việt cũng như các người Đông-Nam-Á khác đã khám-phá các đảo ngoài Biển Đông ngay từ khi phát-minh ghe thuyền, không chờ đợi đến khi người Trung-Hoa hàng ngàn vạn dặm xa-xăm đến đây để ghi công “khám-phá” hão!
5.2 – NHỮNG HIỆN-TƯỢNG THIÊN-NHIÊN KHÁC
Ngoài bão-táp là thiên-tai khủng-khiếp nhất, các vùng đất Đông-Nam-Á nằm ngoài đại-dương còn trải qua một số các thiên-tai khác như, động đất, núi lửa, đất trùi, sóng thần, lụt lội v.v...
5.2.1 – SÓNG THẦN
Ngoài khơi Việt-Nam, tuy có một số chấn-động địa-chất ngầm dưới biển xảy ra ngay trong thế-kỷ thứ XX nhưng đã không gây nên một thiệt-hại nào. Vùng Hoàng-Sa và Cù-lao Thu ghi-nhận ít nhất 6 lần địa-chấn. May mắn không có cơn sóng thần nào tàn-phá duyên-hải nước ta.
Sóng Thần (Tsunamis) gây nên bởi những trận động đất dưới lòng biển sâu. Sóng thần không do gió phát-sinh và vì chúng có độ dài sóng rất lớn nên mắt thường của chúng ta không thể nhận ra được khi sóng thần còn ở ngoài biển rộng. Chấn-động của cơn địa-chấn truyền đi trong lòng biển với vận-tốc nhanh tới 400-500 gút. Trên mặt biển, đó là những làn sóng chỉ cao đến vài ba bộ Anh, nhưng chiều dài lên tới trên 100 hải-lý. Tuy thủy-thủ hải-hành trong khu-vực động đất không nhìn thấy sóng nhưng thường cảm thấy tàu thuyền của họ bị đập mạnh một hay hai cái theo chiều thẳng đứng giống như bị mắc cạn rồi thôi.
Khi tiến đến gần bờ, vì vận-tốc sóng vẫn cao trong khi đáy biển trở thành nông cạn, sóng bất thần bị chận lại nên trong khoảnh-khắc, biên-độ vụt gia-tăng ghê gớm. Những đợt sóng khi đó có thể cao tới 50-100 feet, di-chuyển rất nhanh, tàn-phá tất cả những gì trên đường đi của chúng, vào sâu trong nội-địa nhiều cây-số.
Hai nước Phi-luật-Tân và Nam-Dương chịu đựng liên-tiếp nhiều tai-ương về động đất. Sóng thần đã cuốn trôi nhiều làng mạc, quét sạch nhà cửa, ghe thuyền, con người và súc-vật ra biển. Các đảo phía cực đông của Trường-Sa, nằm gần với rãnh sâu Palawan có thể chịu những tai-họa thảm-khốc nếu sóng thần xảy ra.
Bờ biển Việt-Nam chạy lài lài ra khơi, nước ta may mắn không tiếp giáp với một bất cứ một rãnh sâu nào của đại-dương (trench) nên thoát tai-nạn những cơn sóng thần.
Việt-Nam và Biển Đông còn may mắn hơn nữa vì nằm ngoài Vòng Lửa Thái-bình-Dương (Cercle de Feu) là khu-vực không từng bị nạn động đất nào tàn-phá trầm trọng. Nói về sự bền vững của nền lục-địa xứ ta, Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ viết rằng "Việt Nam nằm trên khối Indosinias của vỏ Trái đất bền vững từ mấy trăm triệu năm nay" (Cây cỏ Việt-Nam, 1993).
Hình 67. Hình-ảnh cơn sóng thần tiến vào bờ biển.
Theo rất nhiều tài liệu nghiên cứu của các nhà địa chấn và các nhà hải dương học trong nước và quốc tế, sóng thần ít xảy ra và không quá nguy hiểm ở vùng biển Việt Nam.
Tuy nhiên, theo “Trang thông tin trực tuyến của The Vietnamese Geosciences Group” ngày 10/12/2005 00:40, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra, tại phía tây Philippines (tức rìa phía đông Biển Đông), từng xảy ra động đất mạnh với đầy đủ các điều kiện để gây ra sóng thần như năng lượng đủ lớn (M > 8), độ sâu chấn tiêu nhỏ (h < 30 km) và có cơ chế trượt thuận. Đồng thời tại đây thực tế cũng đã xảy ra sóng thần.
Trang www.vngg.net cho biết thêm: Mặt khác, các số liệu GPS đo dịch chuyển tuyệt đối ở Việt Nam và Thái Lan cho thấy chuyển dịch của Đông Dương về phía đông có vận tốc 3±0,2 cm/năm. Chuyển dịch của Philippines về phía tây không dưới 8 cm/năm. Như vậy, tốc độ chuyển dịch tương đối giữa hai mảng không dưới 10 cm/năm. Tốc độ này lớn hơn so với tốc độ của mảng Ấn Độ hút chìm dưới mảng Burma. Vì thế, nếu động đất có khả năng gây sóng thần xảy ra tại ranh giới giữa mảng Philippines và mảng châu Á, nguy cơ sóng thần đối với vùng bờ biển Việt Nam sẽ rất cao.
5.2.2 – VÒI RỒNG
Người đi biển và dân duyên hải thường thấy các cột nước bị cuốn hút lên trời mà họ gọi là rồng hút nước.
Rồng Hút Nước hay Vòi Rồng là một hiện-tượng sáo trộn của không-khí ngoài biển, chẳng hạn như sự đụng-chạm giữa hàn-diện và nhiệt-diện khi hai luồng không-khí nóng lạnh gặp nhau.
Hình 68.Hình-ảnh Rồng hút nước.
Tương-tự như bão nhưng Vòi Rồng xảy ra trong một phạm-vi nhỏ hẹp hơn với những đặc-điểm hơi khác-biệt như sau:
- Vòi Rồng là một cơn lốc có hình-dáng như chiếc phễu, cột nước từ mặt biển bị gió cuốn xoáy cao dần lên bầu trời đầy mây đen cumulus.
- Nước của Vòi Rồng có thể là nước mặn bị hút từ biển lên hay có thể là nước ngọt do hơi nước đọng lại thành mưa.
- Gió thổi của giông bão ở Bắc-bán-cầu xoáy theo chiều kim đồng-hồ và nghịch lại ở Nam-bán cầu. Chiều gió trong hiện-tượng Vòi Rồng không theo quy-luật đó, gió có thể thổi theo cùng chiều hay ngược chiều với kim đồng-hồ tuỳ theo với chiều gió lúc thành-lập.
- Vòi Rồng thường có đường kính từ vài bộ đến nhiều trăm bộ Anh, chiều cao từ vài trăm đến nhiều trăm bộ Anh. Vòi Rồng ít khi kéo dài tới hơn một tiếng đồng-hồ.
- Sức mạnh của Vòi Rồng thay đổi, nhẹ thì như một con trốt cuốn bụi, mạnh thì có thể đánh chìm thuyền nhỏ, làm hư-hại tàu thuyền hạng trung. Dù mạnh nhất, Vòi Rồng cũng không ảnh-hưởng mấy cho các tàu viễn-duyên, cho dù tàu có đi lọt ngay vào trung-tâm của nó.
- Thủy-thủ các tàu thuyền đi ngang Vòi Rồng cho biết có khi thấy sâu bọ hay tôm cá rơi rớt trong mưa.
5.2.3 - Thủy-triều đỏ và Thủy-triều đen.
Thủy-triều đỏ và thủy-triều đen không phải là hiện-tượng nước biển lên xuống do hấp-lực của các vì tinh-tú.
"Thủy-triều đỏ" được biết từ nhiều ngàn năm trước. Sách sử ghi lại một cách rùng-rợn là “âm-binh của Thần Biển”: Nước biển từ màu xanh dần-dần bị nhuộm đỏ hồng như màu máu. Đêm đêm, những ngọn sóng lớn bừng lên trên mặt đại dương. Những con rắn màu lửa khổng lồ, xô đuổi nhau vào bờ... Thổ dân sống ven bờ Bắc Mỹ khi phát hiện được hiện tượng này đã đoán chắc một tai họa đang đến với họ trong cuộc sống chài lưới: cá biển sẽ chết trắng trên mặt nước; trai, ốc, sò hến… sẽ “sinh độc” không thể ăn được như trước đó. Cả bộ-lạc sống bằng nghề cá không bị ngộ độc, rồi cũng sẽ chết đói hầu hết... Thiên-tai khủng khiếp!
Ngày nay, người ta biết "Thủy-triều đỏ" do sự "nở hoa" của tảo. Đó là cách gọi để chỉ hiện tượng bùng nổ về số lượng của tảo biển. Sự "nở hoa" của tảo có khi làm nước biển màu đỏ, có khi màu xanh, màu xám hoặc như màu cám gạo... Hiện tượng "nở hoa" thường đồng hành với sự giảm thiểu nhanh chóng hàm lượng ô-xy trong nước, và đó chính là nguyên nhân làm chết nhiều loài sinh vật biển trong tự nhiên và nuôi trồng. Cũng có những loài tảo không "nở hoa" nhưng sản sinh độc tố; cá và các loài hai mảnh vỏ ăn tảo sẽ tích lũy độc tố trong cơ thể.
Tảo gây thủy-triều đỏ thường thuộc các giống Goniaulax, Gynodinium, Perdinium… ngành “tảo hai rãnh” Dinophyta.
Hình 69. - Tảo Hai rãnh (Dinophyta).
Cách đây mấy năm "Thủy-triều đỏ" xảy ra ở Bình Thuận và vài vùng biển khác. Theo tiến sĩ Nguyễn Ngọc Lâm, cán bộ Viện Hải dương học Nha Trang, mầm mống của tảo sẵn có trong nước biển nên có thể "nở hoa" bất cứ ở đâu khi gặp điều kiện thuận lợi, chẳng hạn như nhiệt độ tăng, việc trao đổi nước kém, hoặc điều kiện dinh dưỡng trong môi trường tăng, hay ô nhiễm môi trường biển... ở ven biển nước ta có khoảng 70 loài tảo có thể gây hại như vậy.
Ông Lâm cho rằng chúng ta có thể hạn chế thiệt hại do "thủy-triều đỏ" gây ra, với điều kiện phải đầu tư thích đáng cho các nghiên cứu cơ bản. Đối tượng nghiên cứu ở đây không chỉ là tảo gây hại, mà phải điều tra cả những yếu tố tác động đến môi trường biển như tính chất vật lý, hóa học, nhiệt độ, dòng chảy, nguồn nước thải ra biển, đặc điểm kinh tế - xã hội...
Còn Thủy-triều đen là một sự ô nhiễm biển cả, do dầu tràn ra biển.
Diễn-tiến tác-hại dầu tràn trên môi-sinh theo các bài viết: Oil Spills, Greenpeace USA, National Geographic như sau:
- Với dây truyền thức ăn: Dầu làm nhiễm độc phiêu-sinh-vật plankton. Cá nhỏ ăn phiêu-sinh-vật, cá lớn ăn cá nhỏ. Hải-cẩu, cá voi, cá heo, chim và người ăn cá. Tất cả trúng độc.
- Với các loài hải-sinh-vật có vú: Dầu dính vào bộ lông các loài có vú, làm mất đặc-tính cách nhiệt. Khi thân-nhiệt bị mất, con thú chết. Cá voi và cá heo ngạt thở, bị chết khi dầu làm nghẹt đường khí-quản. Dầu làm gan và thận của rái cá và hải-cẩu trúng độc, chúng thường chết. Hơi từ dầu bốc hơi cũng gây nạn ngộp thở.[37]
- Với các loài chim. Chim ngộ độc vì cố rỉa lông khi bộ lông của chúng dính dầu. Thường chúng chết sau vài giờ. Khi bộ lông đã bị dính dầu, thân chim không giữ thân-nhiệt. Chỉ cần chừng 1 inch trên thân chim hở ra trong vùng khí-hậu lạnh là chim chết. Nếu dính nhiều dầu, vì quá nặng, chim không bay được và cũng có thể không bơi nổi mà bị chìm. Cho đến một giọt dầu nhỏ cũng có thể làm chim không còn đẻ trứng được.
- Với cá. Dầu làm cá trúng độc rất nhanh khi dầu được hút qua mang cá hay khi cá ăn phải thức ăn dính dầu. Dầu phá-hủy trứng cá hay nhẹ hơn, làm thành cá "quái-thai".
- Trên bãi biển. Khi dầu tràn vào bờ biển, nếu không được làm sạch sẽ, dầu sẽ thấm vào đất và cả vùng bờ "chết" và không còn là nơi sinh sống của bất cứ loài vật nào.[38]
Khi dầu tràn trôi vào bờ, nhiều bãi biển bị ô-nhiễm và không có khách du-lịch nào lai vãng. Dầu tác-hại cơ-thể con người cũng như tác-hại mọi sinh-vật khác, nặng thì gây tử-vong, cần phải điều-trị ngay.
Khoảng 200 triệu tấn dầu được vận chuyển hàng năm qua các vùng biển ngoài khơi Việt Nam từ Trung Đông tới Nhật Bản và Triều Tiên. Các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi Việt Nam đang tăng lên hàng năm.
Biển Đông đã trở thành một trong các địa điểm thăm dò và khai thác dầu khí nhộn nhịp nhất thế-giới. Các vùng có các hoạt động dầu khí là vùng biển vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái Lan và Quần đảo Trường-Sa. Các hoạt động giao-thương kèm theo việc khai thác và vận chuyển dầu gây ra tình trạng ô nhiễm dầu nghiêm trọng. Các tầu trở dầu làm thoát ra biển tới 0,7% tải trọng của chúng trong quá trình vận chuyển thông thường. Sóng biển và gió đều có chiều hướng đưa lượng dầu thoát ra tấp vào bờ biển Việt Nam.
Theo thống kê của cục Môi trường, bộ Khoa học và Môi trường, từ năm 1987-2006 đã xảy ra hơn 90 vụ tràn dầu tại các vùng sông và biển nước ta. Nghiêm trọng hơn cả, dầu tràn ngoài biển, sau khi phá-hoại môi-trường biển, bãi biển, dầu đã theo nước trôi sâu vào các dòng kênh rạch nơi tập trung đông đảo dân cư...
Trong những tháng dầu năm 2007, tại-nạn dầu loang tệ-hại nhất trong vùng Đông-Nam-Á dã đến với Việt-Nam. Tất cả biển miền Trung và miền Nam đều thấy váng dầu, nhiều bãi biển danh tiếng bị ô-nhiễm. Giới am-hiểu vấn-đề cho biết rất có thể dầu đã tràn ra từ các giàn khoan của Trung-Cộng. Khả-năng chống nạn này của Việt-Nam cho dù cố-gắng, nhưng đã bị vượt quá xa tầm tay.
Khi bình-luận việc này, Ông Vũ Quang Việt viết rằng: Quyết định của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn-Tấn-Dũng cho thấy Việt Nam hình như rất lúng túng chưa biết mình phải làm gì vì chỉ nói đến điều tra quốc tế một cách quá chung chung... Tuy nhiên con đường để giải quyết chính có thể là trên cơ sở Công ước về Luật Biển Liên Hợp Quốc (Convention on the Law of the Sea) mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều đã ký kết. Do khả năng rất giới hạn về kỹ thuật để theo dõi, kiểm tra một diện biển rất rộng, khả năng phân tích hạn chế của nhà nước Việt Nam cũng như tính quốc tế của vấn đề, việc sử dụng tới sự giúp đỡ tìm nguyên nhân, xác định thiệt hại và làm trọng tài để giải quyết đền bù các thiệt hại do một bên gây ra chính là cơ quan Liên Hợp Quốc, thông qua International Seabed Authority - Hội đồng quyền lực quốc tế về đáy biển.[39].
Trước đó, Bà Đỗ Tuyết Khanh cũng dã nói đến “Quyền tự chủ quốc gia và chuẩn quốc tế trong kinh tế” khi đề cập đến những tai-nạn gây thiệt-hại rất lớn liên-hệ quốc-tế loại này.[40]
6 – BIỂN ĐÔNG, NHỮNG SỰ KỲ-DIỆU THIÊN-NHIÊN.
Ngoài những hiện-tượng thiên-nhiên xảy ra như đã nói ở trên, Biển Đông còn ghi-nhận một số sự kiện đáng gọi là kỳ-diệu trong một vài sự sự kiện khác .
6.1 – SỰ KỲ-DIỆU VỀ TỪ-TÍNH.
Người đi biển phải thường-trực lo lắng nhất trong việc định-hướng và xác-định vị-trí con tàu. Trước khi la-bàn điện trở thành dụng-cụ căn-bản của chiến-hạm và thương-thuyền, kim chỉ nam và la-bàn từ đã là những người bạn trung-thành nhất của các nhà hàng-hải. Ngày nay trên những du-thuyền chạy buồm người ta vẫn cho thiết-trí la-bàn từ và trên những tàu lớn, một chiếc la-bàn từ, sau khi được điều-chỉnh cẩn-thận, luôn luôn là dụng-cụ được thuyền-trưởng tin cậy nhất, dùng để kiểm-soát những "phản-trắc bất-thường" của la-bàn điện.
Hình 71. Hải-đồ ghi-nhận độ từ-sai không đáng kể trong vùng Hoàng-Sa.
Khi người Việt bắt đầu dùng la-bàn trong khoa địa-lý và hải-hành, tiền-nhân chúng ta hẳn đã rất ngạc-nhiên là hướng của kim chỉ nam lại hoàn-toàn phù-hợp với hướng Bắc-Nam địa-dư.
Thiên-nhiên đã tạo nên một vài vùng biển đặc-biệt trên thế-giới mà ở đó không có độ lệch từ-tính như Biển Ả-Rập và Biển Đông. Một trong nhiều nguyên-nhân tạo nên nền văn-minh hàng-hải ở Đông-Nam-Á có lẽ cũng vì sự nhiệm-mầu đó. Trong lúc la-bàn từ sai trệch 30, 40 độ tại nhiều nơi khác trên thế-giới, kim định-hướng của nó lại chỉ ngay đúng phương Bắc địa-dư khi con tàu tiến vào vùng Biển Đông.
Theo những tài-liệu về khoa thế-giới địa-từ, ngoài độ từ sai bằng Zéro, Biển Đông còn có những đặc-điểm từ-tính khác như sau:
- Biển Đông nằm trong vùng mà độ sai lệch từ không thay đổi (hay thay đổi rất nhỏ). Hãy tưởng tượng đến sự rắc rối gây cho các nhà hàng-hải khi kim la-bàn từ sai-lệch tới 30, 40 độ mà lại còn biến-thiên thường-niên hàng chục phút nữa: họ sẽ phải cộng trừ, thêm hay bớt (Đông hay Tây) vào những trị-số được cho biết trước đây trong tài-liệu.
- Biển Đông lại đặc-biệt hơn vì nằm trong vùng "xích-đạo từ". Tương-tự như trong vùng nhiệt-đới địa-dư, các la-bàn điện hoạt-động trong điều-kiện tốt nhất; các dụng-cụ trắc-định từ-tính cũng không cần điều-chỉnh nhiều những khi hoạt-động tại nơi có "vĩ-độ từ" thấp hay gần đường xích-đạo từ. Trường-hợp tàu thuyền chạy lên Bắc-cực hay đi xuống Nam-cực, la-bàn điện dần dần trở nên vô-hiệu và thành vô-dụng tại hai cực địa-dư. La-bàn từ cũng vậy, sẽ trở nên vô-hiệu ở hai cực địa-từ.
Hình 72. Biển Đông không có độ sai từ và vị-trí vùng Cà-Mâu Trường-Sa nằm trên xích-đạo từ.
Từ khi vòng từ-trường Van Allen bao quanh trái đất được khám-phá, khoa Địa-từ-trường tiếp-tục được nghiên-cứu học hỏi. Từ-trường ảnh-hưởng rất nhiều tới sinh-hoạt mọi loài và cả đến sinh-mạng trên trái đất. Một ngày nào đó, có thể trong vài chục ngàn năm sắp tới, hai cực Nam-Bắc địa-từ sẽ đổi ngược lại thành Bắc-Nam. Biển Đông với vị-trí đặc-biệt cũng là nơi cần-thiết phải có sự quan-trắc các hiện-tượng địa-từ-trường.
Người Tàu nhận rằng họ sáng-chế Kim Chỉ-Nam nhưng không hề biết những đặc-tính về từ-trường của Biển Đông. Sách cổ Trung-Hoa ghi rằng vùng đất mẹ đẻ của từ-thạch ở Miền Nam, họ kính-ngưỡng cầu-khẩn thần núi Linh-Sơn vùng Đại Lãnh (Varella), họ sợ Hoàng-Sa hút sắt làm tàu thuyền của họ mắc cạn ở Biển Đông.
6.2- SỰ KỲ-DIỆU VỀ “ĐỊA-HÌNH”
Mặt biển bao phủ trái đất tưởng như bằng-phẳng và đồng đều cao-độ nhưng sự thật không phải như vậy.
Địa-cầu không đúng là một trái cầu tròn đều mà có dạng gần với khối Ellipsoid. Địa cầu cũng hơi phình ra ở phía trên xích đạo, có một vẻ nào đó giống như trái lê. Mặt trái đất lại có chỗ lục-địa, có chỗ bao bởi đại-dương, nơi cao như núi Everest (gần 9km) nơi sâu như Marianas Trench (chừng 11km) nên dẫn-lực-trường (gravitational field) không đều đặn, đường giây quả rọi thường không thẳng góc với mặt biển.
Hình 73. Hình vẽ giải-thích vài sự sai lệch trong hai phương-thức địa-hình Geoid và Ellipsoid đối với bề cao mặt biển.
Trong những công-tác đo đạc địa-hình, tính toán vị-trí tàu thuyền bằng thiên-văn điện-tử và mới đây nhất khi các vệ-tinh NAVSAT (Navigation Satellite System), GPS (Global Positioning System) bắt đầu hoạt-động, người ta thấy những sự sai lệch như vậy khá lớn. Mặt "trái cầu" mới dùng làm tiêu-chuẩn, sau khi điều-chỉnh dẫn-lực, được gọi là Geoid. [41]
Phương-pháp hải-hành điện-tử vệ-tinh ngày nay rất tiến-bộ. Trong vài năm nay, những tấm bản-đồ thế-giới ghi các sai-biệt (Contour Map of Geoidal Height hay Contour Plot of Mean Sea Level Deviations) cần dùng để điều-chỉnh độ cao mặt biển và những tài-liệu chỉ-dẫn cần-thiết liên-hệ về hải-hành đã được trang-bị cho tất cả tàu thuyền đi biển.
Vùng Biển Đông, và đặc-biệt khu-vực gần duyên-hải Việt-Nam không có độ sai này trong khi vùng biển phía Nam của Ấn-Độ, các nhà hàng-hải phải trừ đi 99m và nếu tàu đi vào vùng Đông-Bắc của New Guinea, họ lại phải cộng thêm 79m mới đúng.
Hình 74.Bản-đồ ghi cao-độ mặt biển trung-bình. Chi-tiết vùng Biển Đông (không có độ sai) được phóng lớn.
Nói một cách khác đi, mặt nước Biển Đông là mặt biển có độ cao tiêu-chuẩn trong hệ-thống Geoid, trong khi mặt nước biển Ấn-Độ cao quá 99m và biển New Guinea lại thấp tới 79m. Khi làm toán về cao-độ trên mặt biển, người ta phải lần lượt trừ đi 99m và cộng thêm 79m tùy trường-hợp.
6.3 – BIỂN ĐÔNG, BÀ MẸ THIÊN-NHIÊN CHỐNG Ô-NHIỄM
Bước sang thế-kỷ 21, nạn ô-nhiễm sẽ trở nên rất nguy-hại cho môi-trường sinh-sống của thế-giới. Các nơi đông dân-cư, nhiều kỹ-nghệ, lắm cơ-giới mà lại nằm trong những vùng thung-lũng như Mexico City hay Los Angeles chắc chắn bị ô-nhiễm nặng nề nhất. Về địa-thế, Việt-Nam nằm dưới chân núi cao, đất hướng ra phía biển nên may mắn hơn rất nhiều quốc-gia khác. Biển Đông giúp dân ta có nơi thông-thoáng.
Trong tương-lai khi các nước duyên-hải tiến lên thời-đại kỹ-nghệ, Biển Đông cũng sẽ bị ảnh-hưởng ô-nhiễm, nước sẽ không còn trong sạch, không-khí lẫn hơi độc và bầu trời rồi cũng u-ám. Nếu dân Đông-Nam-Á không bảo nhau cùng thi-hành chung những biện-pháp ngăn-ngừa đối-phó, thì tình-trạng sinh sống sẽ rất tồi-tệ.
Tuy vậy khi nhìn tổng-quát, người ta thấy Biển Đông sẽ hoạt-động như một cái máy chống ô-nhiễm thần-diệu giúp con người sống mạnh khoẻ hơn. Xin xét một cách giản-dị trên hai môi-trường là nước và gió:
6.3.1 – NƯỚC SẠCH-SẼ
Nhờ tiếp-giáp với hai khu-vực đại-đương rộng lớn xa các nơi kỹ-nghệ phát-triển tột cùng là Bắc-Mỹ và Âu-Châu, nước biển Thái-bình-Dương và Ấn-Độ-Dương vốn tinh-khiết sẽ giúp Biển Đông rửa sạch ô-nhiễm. Các đại-hải-lưu trên hai đại-dương luân-chuyển quanh năm là máy lọc mẹ trợ giúp máy lọc con là Biển Đông. Thiên-nhiên đặc-biệt là bà mẹ tốt, quét dọn sạch sẽ cái nhà Việt-Nam, làm xứ ta đẹp hơn các xứ khác trên phương-diện này.
Hình 75. Nước Biển Đông ô-nhiễm sẽ theo các hải-lưu của Thái-bình-Dương và Ấn-độ-Dương chảy đi nơi khác.
- Các hải-lưu Biển Đông về mùa Đông mang nước sạch từ Thái-bình-Dương chảy vào, đẩy một số nước ô-nhiễm qua Ấn-độ-Dương. Vận-tốc nguồn nước này rất mạnh, đặc-biệt làm cho nước biển khu-vực Trung-phần Việt-Nam rất sạch sẽ.
- Vào mùa hè khi dòng nước chảy ngược lại, nước sạch từ Ấn-Độ-Dương lại chảy vào đẩy một số nước cũ ra phía Nhật-Bản.
6.3.2- GIÓ TRONG LÀNH.
Khí-hậu vùng biển từ lâu đã được biết là tốt hơn khí hậu đất liền, không khí ngoài biển có tác-dụng rất tốt cho cơ-thể của sinh-vật.
Không-khí chuyển-động tạo thành gió. Sự di-chuyển của gió cũng có tác-dụng làm trong sạch không-khí tương-tự như hải-lưu làm trong sạch nước biển. Trên Biển Đông, gió mùa Đông-Bắc và Tây-Nam luân-phiên thổi qua thổi lại quanh năm, khối không-khí mới thay-thế khối không-khí cũ. Lâu lâu một trận giông bão, đại-phong xảy ra cuốn trôi hết mọi vẩn đục tác-hại còn sót lại trong không khí ra vùng bắc Thái-bình-Dương.
Hình 76. Bản-đồ ghi nhận những đường di-chuyển tiêu-biểu của đại-phong. Không-khí ô-nhiễm của Biển Đông sẽ thổi hết về Nhật-Bản và Bắc-Mỹ.
Thường thường giông bão gây nhiều tai-ương khủng khiếp, nhưng giông bão cũng tiếp-cứu cho các lá phổi mọi loài sinh-vật Việt-Nam được hít thở tự-do hơn. Sau giông bão, khí trời lại trở nên trong trẻo như xưa!
Biển Đông hiền-hòa, từ lâu đời trong quá-khứ và mãi mãi trong tương-lai, được chúng ta gọi là Biển Mẹ mà!
Xin lạm-bàn một chút nữa. Nếu tình-trạng trái đất suy-đồi quá, lượng ô-nhiễm tăng thêm quá nhiều, gió mùa và đại-phong sẽ đẩy không-khí dơ bẩn từ ĐNÁ sang qua phía Nhật-Bản "lãnh" và sau cùng, Bắc-Mỹ cũng sẽ có không-khí dơ bẩn hơn nhiều nữa!
7 – ĐẢO và DUYÊN-HẢI VIỆT-NAM
7.1 - TỔNG-QUÁT VỀ HẢI-ĐẢO VEN BỜ VIỆT-NAM
Theo tài-liệu thống-kê chính-thức của Việt-Nam, vùng biển nước ta có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó:
+ Vùng biển Đông Bắc có trên 3,000 đảo.
+ Bắc Trung Bộ trên 40 đảo.
+ Còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa.
- Căn cứ vào vị trí chiến lược và các điều kiện địa lý kinh tế, dân cư, thường người ta chia các đảo, quần đảo thành các nhóm:
+ Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội. Theo thống-kê mấy năm vừa qua, cả nước có 6 đảo lớn với số dân định-cư vượt quá 10 ngàn người. Đó là các đảo Cái Bầu (trên 20,000 người), Cát Bà (trên 15,000 người và Cát Hải (trên 13,000 người), Các đảo còn lại, lớn nhất là Phú Quốc (trên 50,000 người), Phú Quý (khoảng 18,000 người) và Lý Sơn (trên 16,000 người). Chỉ có 3 đảo có diện-tích trên 100 km2 và 24 đảo trên 10 km2.
+ Các đảo ven bờ gần có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là căn cứ đề bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta. Đó là các đảo thuộc huyện đảo Cát Bà, huyện đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), huyện đảo Phú Quý (Bình Thuận), huyện đảo Côn Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu), huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang)...
7.2 - TỔNG-QUÁT VỀ HOÀNG-SA và TRƯỜNG-SA
Hai quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa nằm gần như giữa Biển Đông, có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng, là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phục vụ phát triển kinh tế đất nước.
Quần đảo Hoàng-Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm ở khu vực biển giữa vĩ độ 15o45' B - 17o15' B và kinh độ 111o Đ - 113o Đ trên vùng biển rộng khoảng 16,000km2, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi - Việt Nam) khoảng 120 hải-lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 140 hải-lý. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 10km2 và đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất (khoảng 1.5km2).
Quần đảo Trường-Sa nằm về phía Đông Nam của Biển Đông, gồm trên 100 đảo, đá, bãi cạn, cồn san hô và bãi ngầm, ở khu vực biển trong vĩ độ 6o50' B - 12o00' B và kinh độ 111o30' Đ - 117o20' Đ trên vùng biển rộng khoảng 180,000 km2, cách Cam Ranh (Việt Nam) khoảng 248 hải-lý, được chia thành tám cụm đảo (Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường-Sa, Thám Hiểm và Bình Nguyên). Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 10 km2, đảo Ba Bình là đảo lớn nhất, đảo Song Tử Tây là đảo cao nhất (khoảng 4 - 6 m).[42]
7.3 – SỰ QUAN-TRỌNG CỦA HẢI-ĐẢO
Trong khi tài nguyên trên đất liền dần dần sút giảm, dân số vẫn gia tăng nhanh chóng; loài người đang kéo nhau đổ xô ra khai-thác biển cả.
Trong Đặc-san Sử Địa số 29 năm 1975, Giáo-sư Sơn Hồng Đức đã viết: Nếu thế-kỷ XIX là kỷ-nguyên của việc chiếm-cứ và khai-thác các lục-địa, thì hậu-bán thế-kỷ thứ XX là lúc mà tài-nguyên thiên-nhiên trên các đất nổi đã cạn nguồn. Các nhà địa-lý kinh-tế thế-giới bắt đầu chú-ý đến vùng "đất ngầm", nghĩa là thềm lục-địa hay đáy đại-dương. Nhất là sau hội-nghị Caracas về "Luật Bể" 1974 thì khuynh-hướng chung cho rằng quan-niệm lãnh-hải của thế-kỷ XIX nay đã lỗi thời".
Ông Sơn cũng nói đến tầm quan-trọng của hải-đảo như sau: "Cha Ông chúng ta, với lòng can-đảm vô-biên, chí mạo-hiểm vô-cùng đã để lại cho con cháu ngày nay một dãy giang-sơn gấm vóc gồm lãnh-thổ lục-địa và những quần-đảo trong Biển Đông và vịnh Thái-Lan. Quan-niệm sai-lầm thường cho rằng đây chỉ là những bãi cát bão-táp không giá-trị sản xuất nên chúng ta đã "thiếu tích-cực" trong vấn đề định-cư hoặc chiếm-đóng.
Các đảo tiền tiêu, như tên gọi đứng đầu trong hệ thống quốc-phòng ngoài biển. Trên các đảo có thể lập những căn cứ kiểm soát vùng biển, vùng trời nước ta, kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền, bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta. Đó là các đảo, quần đảo như: Hoàng-Sa, Trường-Sa, Chàng Tây, Thổ Chu, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cô Tô, Bạch Long Vĩ... Với kỹ-thuật hiện có, Việt-Nam đầy-đủ khả-năng biến cải hệ-thống hải-đảo thành nhiều “Hàng-Không Mẫu-Mẫu-Hạm” cố-định, rất khó bị đánh chìm.
7.4 - QUAN-ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ QUÂN-SỰ
Một tướng lãnh Hoa-Kỳ cho rằng Hoàng-Sa và Trường-Sa không quan-trọng gì với Mỹ. Năm 1970, trong một cuộc họp báo tại Guam lúc mãn nhiệm-kỳ làm Tư-lệnh các lực-lượng Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam, Đô-đốc Zumwalt mà sau đó làm Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ đã cho rằng: "Người Mỹ đang thực-thi chiến-lược tiền-đồn trên biển, song song với việc phát-triển hạm-đội tàu nổi nhưng Trường-Sa và Hoàng-Sa không đáp-ứng nhu-cầu hành-quân trên biển bằng một hàng-không mẫu-hạm, nhất là về lưu-động-tính. Hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa chỉ là đài Radar cố-định, chi-phí hoạt-động rất tốn kém..."
Phân-tích lời Đô-Đốc Zumwalt chúng ta thấy các điểm sau:
- Sự kiện "Hải-quân Hoa-Kỳ bá-chủ ngũ đại-dương" là điều hiển-nhiên. Quyền-lực trên biển xưa nay vốn đặt căn-bản trên sức mạnh. Hoàng-Sa Trường-Sa quá nhỏ bé, thật không đáng kể với sự mênh mông của cả Thế-giới. Với sự hùng-mạnh của Hoa-Kỳ hiện tại, quốc-gia nào có làm chủ được những đảo nhỏ bé đó cũng không đủ sức cản trở hoạt-động trên biển của Hải-Quân Hoa-Kỳ.
- Quan-điểm của Ông đưa ra trong tình-trạng Hoa-Kỳ đang theo đuổi chính-sách hòa-hoãn với Trung-Cộng. Từ hồi đó đến nay, Hải-quân Mỹ vẫn gia-tăng lưu-động-tính nhưng lại bớt hiện-diện tại Đông-Nam-Á. Đồng-ý với giới bình-luận-gia thời-cuộc thời đó, chúng tôi cũng nghĩ rằng chiếc đèn xanh đã bật để Trung-Cộng tiến tới việc xâm-chiếm Hoàng-Sa năm 1974.
- Một khi hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa đó không quan-hệ gì với quyền-lợi Hoa-Kỳ thì ông Zumwalt muốn so sánh thế nào cũng được. Nếu vị-trí của ông là chổ của một con dân Việt-Nam đang đứng trước móng vuốt của một kẻ xâm-lăng, vừa tàn-độc vừa quỷ-quyệt lại ưa sắt máu như Trung-Cộng thì hẳn ông đã nói khác đi.
Tuy cũng là người gốc Âu Mỹ nhưng lời phát-biểu của ký-giả Robert Thompson trong tạp-chí Kinh-Tế Viễn-Đông lại khác. Ông cho rằng chủ-quyền trên các đảo ngoài khơi Biển Đông rất quan-trọng, nhưng muốn làm chủ thì phải có lực-lượng bảo-vệ mới được. Robert Thompson tỏ vẻ thông-cảm nỗi khó khăn của những nước nhược-tiểu như Việt-Nam chúng ta nhiều hơn là vị Tư-lệnh Hải-quân Hoa-Kỳ. Ông đã viết một câu chí-lý: "căn-cứ vào quyền-lực trên biển của Đô-Đốc Mahan, thì Quốc-gia nào có Hải-Quân mạnh mẽ sẽ có quyền-lực trên biển và chủ-quyền trên hải-đảo. Nhưng hải-quân và không-quân là hai món xa-xỉ-phẩm, các nước nghèo muốn có nó chỉ khổ thêm mà thôi!"
Chỉ quốc-gia giàu sang mới có hải-quân hùng-mạnh. Chỉ với hải-quân hùng-mạnh quốc-gia mới có quyền-lực trên biển và chủ-quyền hải-đảo. Nước Việt-Nam chúng ta rõ rệt là đã nghèo từ lâu, mà nay vẫn còn cứ nghèo, chính-quyền phải làm thế nào cho nước mạnh dân giàu thì hiện-trạng bi-đát này mới thay đổi!
Lúc chiến-tranh đất nước ta bị chia cắt Bắc-Nam, người dân Việt ước muốn sự thống-nhất và mong đòi lại Hoàng-Sa. Ông Hoàng-xuân-Hãn viết rằng: "...Khi nước Việt-Nam còn chia đôi thì khó lòng điều-đình để Hoàng-Sa trả lại đất ta, tuy rằng nhiều chứng xưa nay trong ngoài bảo rằng đó là đất Việt" (Đúng 30 năm trước, Sử Địa số 27, 28, 1974, trang 215). Nay nước đã thống-nhất rồi, tình-trạng bảo-vệ chủ-quyền ngoài biển xem ra vẫn khó-khăn!
Chúng tôi sẽ trình-bày giá-trị kinh-tế của Hoàng-Sa/Trường-Sa trong một đoạn dưới đây. Giá-trị đó vốn đã không nhỏ! Mà trên cả giá-trị kinh-tế, giá-trị chiến-lược còn đáng kể hơn nhiều; nó vô cùng quan-trọng. Thật không ngoa nếu có người cho rằng Hoàng-Sa/ Trường-Sa là yếu-tố sinh-tử, tồn-vong của nước Việt-Nam.
Hình 77. Viễn-ảnh mới đe dọa nước ta từ Biển Đông: Trung-Cộng với Phi-cơ chiến-lược và Phi-đạn tầm xa có khả-năng tấn công tới Sài-Gòn, Hải-quân không-chiến và Tiềm-thủy-đĩnh nguyên-tử đe doạ suốt từ Mống-Cáy đến vịnh Phú-Quốc. Hải-Nam, Hoàng-Sa cùng Trường-Sa là căn-cứ xuất-phát và yểm-trợ các loại chiến-hạm.
Sự an-nguy của sườn phía Đông nước ta nằm trong việc kiểm-soát chủ-quyền trên các hải-đảo dọc Biển Đông. Từ Hải-Nam, Trung-Hoa dễ dàng kiểm-soát việc ra vào vịnh Bắc-Việt. Sau khi chiếm Hoàng-Sa, người Tàu đã mở rộng tầm kiểm-soát xuống một nửa duyên-hải nước ta. Nếu họ lại chiếm cả Trường-Sa thì Trung-Hoa có khả-năng khống-chế hầu hết vùng duyên-hải phía Đông nước ta. Khi nào cả hải-phận và không-phận bị khóa chặt như vậy, tương-lai Việt-Nam rất mịt mờ.
Trong tất cả những nước đang tranh-chấp tại Biển Đông, Việt-Nam là quốc-gia bị lọt vào thế bí, đường cùng nhất. Hai nước Trung-Hoa một trắng một đỏ, trong tư-thế những nước ở ngoài nhảy vào trắng trợn xâm-lăng không nói làm gì, các nước khác như Phi, Mã, Nam-Dương... nếu chiếm thêm được đảo thì lợi thêm rất nhiều, trường hợp cả Biển Đông có bị Tàu nuốt trọn, họ cũng không thiệt nhiều lắm và hiển-nhiên không vì Hoàng-Sa Trường-Sa mà họ bị ngoại-nhân khống-chế. Địa-thế cho phép họ tiếp-tục mở được đường biển ra phía ngoài Thái-bình-Dương và Ấn-độ-Dương.
Đến cùng kỳ lý, Việt-Nam bị thiệt-thòi nhất: mất ít đảo thiệt-hại ít, mất nhiều đảo thiệt-hại nhiều, mất tất cả Biển Đông thì toàn-quốc bị khống-chế. Nguy-cơ hiểm-hoạ lớn như chưa từng xảy ra trong suốt dòng lịch-sử, số mệnh dân-tộc như chỉ mành treo chuông, quốc-gia như đứng bên bờ vực thẳm!
Thời-gian rất cấp-bách. Suốt mấy ngàn năm qua, chúng ta thường chỉ phải lo gìn giữ biên-thùy mặt Bắc. Nay thì ngoài mặt Bắc, cả cái sườn rộng lớn của chúng ta về phía Đông, với nhiều ngàn cây số duyên-hải đang bị đe doạ. Hai cái gọng kìm, một từ phương Bắc bóp xuống, một từ phương Đông siết vào, hẳn nhiên tàn-bạo lắm!
Ta hãy làm một cuộc so sánh để ý-thức được tầm quan-trọng về việc phòng-thủ hải-biên: Cho dù bị phong-toả hết biên-giới lục-địa phía Bắc và phía Tây, không được trao đổi hàng-hóa với Ai-lao và với cả Khmer, quốc-gia ta vẫn không thể bị bóp nghẹt về kinh-tế. Nhưng nếu bị phong-tỏa bờ biển thì chẳng những không còn ngoại-thương mà ngay cả chuyển-vận đường biển Bắc-Nam để điều-hòa nhu-yếu phẩm trong nước cũng hết... Vậy có khác chi trong "cơ-thể Việt-Nam, máu huyết lúc chảy, lúc không.
Thà rằng chúng ta sống tiết-kiệm để tăng-cường hải-quân với đầy đủ khả-năng hải-chiến và không-chiến ngoài khơi còn hơn chờ đợi đến một ngày nào đó, cả nước chịu chết ngạt hay chết đói một cách nhục nhã vì bị bao vây.
Không bao lâu nữa, Trung-Hoa sẽ đủ khả-năng thực-hiện cái gọng kìm như vậy. Ngay khi họ sở-hữu được các đội oanh-tạc-cơ chiến-lược, mua nổi hàng-không mẫu-hạm, trang-bị đầy-đủ một hạm-đội viễn-duyên; bàn tay xâm-lược của họ sẽ đủ dài và kẻ thù truyền-kiếp của chúng ta sẽ lừng lững trở lại, áp-đặt những cái ách nặng nề lên đầu lên cổ đồng-bào chúng ta.
7.5 – CÁC ĐẢO LỚN VIỆT-NAM
Vài điểm đáng nói về các đảo ven bờ của nước ta được tóm gọn như sau:
- Đảo lớn nhất là Phú-Quốc trong vịnh Thái-Lan rộng 568km2, gần tương-đương với cả quốc-gia Singapore (Land Area 622.6km2), đầy đủ điều kiện để phát-triển vượt bực, rồi ra sẽ vượt mặt một số tỉnh thị trong đất liền.
Năm nay 2006, Phú-Quốc khởi công xây dựng sân bay quốc tế tại xã Dương Tơ thuộc huyện Phú Quốc rộng 800ha, công suất 2,5 triệu lượt khách/năm, vốn đầu tư 2.500 tỷ đồng. Năm 2008 sân bay sẽ đủ sức cho loại máy bay Airbus A320, A321 và Boeing 767 cất và hạ cánh.
- Đảo lớn thứ nhì là Cát Bà trong vịnh Bắc-Việt rộng 277km2. Cát Bà nằm giữa một Quần đảo mang cùng tên. Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng, là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định của Unesco. Việt Nam hiện có 4 khu dự trữ sinh quyển thế giới như vậy là: Cần Giờ, Cát Tiên, Châu-thổ Sông Hồng và quần đảo Cát Bà.
So với các đảo lớn như vậy, các đảo nhỏ nhất chỉ như những hòn đá nằm giữa biển khơi. Số lượng đảo nhỏ rất nhiều, nếu kể cho đủ các đá ngầm, may hiện, mai mất: có thể nói... vô tận
- Đảo có núi cao nhất là Phú-Quốc với núi Chùa cao 603 m. Một số đảo chỉ nhô lên khi nước thủy-triều xuống và bị nước bao-phủ khi thủy-triều dâng lên cao. Có những bờ bãi nông cạn mấp mé mặt biển rất khó nhận biết và nguy-hiểm cho việc hải-hành.
- Hòn Tro bỗng nổi lên rồi chợt biến mất.
Năm 1923, tại phía nam vùng Cù-lao Thu hay đảo Phú-Quý (Phan-Rí) 22 hải-lý, đảo Hòn Tro và một hòn đảo thấp nhỏ hơn đột nhiên trồi lên khỏi mặt biển. Hòn Tro cao tới 30 thước tây, hòn kia chừng 3,4 tấc. Trong vòng vài ba tháng sau, cả hai biến mất. Sở dĩ người ta gọi tên Hòn Tro vì đảo được tạo-lập bởi tro bụi và dung-nham của một núi lửa ngầm phun lên. Sau đó đảo bị sóng gió soi mòn và dòng nước cuốn trôi không còn lại dấu tích.
Hình 78. Dấu-tích Hòn Tro trên hải-đồ quốc-tế.
Trong các hải-đồ ngày nay, những người đi biển thường đọc được các lời kêu gọi cảnh-giác tương-tự như "cần thận-trọng khi hải-hành vì nhiều xáo-trộn địa-chấn" trong vùng. Tại hai vị-trí (10o10 phút Bắc Vĩ-tuyến, 109o00’ Đông Kinh-tuyến) và (10o08’ phút Bắc Vĩ-tuyến, 109o01’ Đông Kinh-tuyến), hải-đồ số 3148 của Sở Thủy-đạo Hoa-Kỳ đã ghi chú hai câu: "núi lửa hoạt-động 97 ft- 1923" và "núi lửa hoạt-động 1 ft- 1923".
- Quần-đảo Hạ-Long có rất nhiều hòn đảo to nhỏ đủ cỡ, nổi tiếng là một kỳ-quan thế-giới vì vẻ đẹp thiên-nhiên. Diện-tích vùng biển chỉ vào khoảng 3,000km2, tức nhỏ hẹp hơn Trường-Sa và Hoàng-Sa rất nhiều, nhưng đáng kể là chi chít rất nhiều đảo. Bộ Kinh-Tế CHXHVN (đề-tài KT-03-12, Hà-Nội, 1995) đưa ra tổng số các đảo Hạ-Long là 2,321 đảo trong riêng khu-vực Quảng-Ninh/Hải-Phòng…
Trên địa-cầu ít nơi nào mà địa-hình lại hiểm-trở như vậy. Các đảo Hạ-Long vì cấu-tạo bằng đá vôi, nên dễ bị nước gió xâm-thực, tạo nên những hình-thù kỳ-dị. Vùng biển này có nhiều vịnh nhỏ, nhiều vũng. Cao-độ của đảo và thâm-độ của biển đột-biến bất-thường, có nơi sườn núi dựng đứng, có nơi bãi cát phẳng phiu, hang động thâm sâu, ghềng đá lên xuống; đất đá nhuộm đủ mầu sắc của cây cỏ núi non biển trời. Mặt nước chỗ lặng như gương, chỗ sóng bạc đầu cồn nổi lên trắng xoá...
Hình 79. Một hình vẽ cảnh vịnh Hạ-Long vào cuối thế-kỷ 19 với hạm-đội của Đô-Đốc Courbet đang bỏ neo.
- Biển Đảo Việt-Nam cung-cấp nhiều sản-phẩm quý mà ít ai ngờ tới.
* Yến, bào-ngư, vi-cá, hải-sâm là những thực-phẩm đắt giá nhất đến từ các đảo vùng Đà-Nẵng, Nha-Trang, Bạch-long-Vĩ, Phú-quốc. Ngọc trai nổi tiếng của Đảo Cô-tô. Gỗ quý mọc trên các đảo lớn khắp nơi vùng vịnh Bắc-Việt. Nước mắm, hồ tiêu, cá tôm, đồi mồi, sò huyết, ốc quý ...muôn đời vẫn là những nguồn phẩm-vật không thể thiếu được trong đời sống dân Việt-Nam ta.
* Đầu thế-kỷ này chúng ta đã phát-hiện và bắt đầu khai-thác một kho tàng quý-giá của các hải-đảo là phốt-phát. Công việc đang mang đến lợi-nhuận to lớn thì bị ngưng trệ vì nạn xâm-lăng của Trung-Cộng.
* Phần tài-nguyên quan-trọng hơn hết tuy vậy, lại nằm dưới đáy biển. Dù số lượng dầu mỏ và khí đốt chưa được đánh giá đầy đủ, nhưng một số cơ-quan quốc-tế về dầu lửa đã quả-quyết rằng một khi khai-thác đầy đủ, tiền bạc thu về được có thể tương-đương với một nửa tổng-số sản-lượng quốc-gia trong tình-trạng thu-nhập yếu kém như hiện nay.
Tài-nguyên phong-phú này gây thèm muốn cho các nước láng giềng. Kẻ đang nhòm ngó kỹ lưỡng nhất chắc chắn sẽ biến thành kể thù đáng sợ nhất: Trung-Cộng.
8 – BIỂN VÀ ĐẢO THEO LUẬT BIỂN QUỐC-TẾ
Những đoạn sau đây bàn về ranh-giới hải-phận trên Biển Đông theo với Luật Biển hiện-hành.
8.1 – QUAN-NIỆM CŨ MỚI VỀ LÃNH-HẢI
Lý-lẽ "lãnh-hải rộng 3 hải-lý vì tầm súng đại-bác" của các thế-kỷ trước đây đang đi dần vào quên lãng. Thời ấy, ngoài vùng biển chủ-quyền nhỏ hẹp đó trở ra khơi, quốc-gia duyên-hải khỏi lo lắng phần trách-nhiệm.
Vào cuối thế-kỷ XX có nhiều điều đổi thay khác lạ về việc hành-sử chủ-quyền trên biển. Vì nhu-cầu sinh-tồn đòi-hỏi nhiều quốc-gia duyên-hải đã ban-hành những luật mới về hải-phận theo ý riêng nước họ.
Nhận thấy khu-vực 3 hải-lý quả thực là vùng biển quá chật hẹp, nhiều nước đã tuyên-cáo những biên-giới lãnh-hải rộng lớn khác thường. Có 12 quốc-gia nhận chủ-quyền lãnh-hải tới 200hl. ngoài khơi, tính đến ngày 1 tháng 2 năm 1992.
8.2 – LUẬT BIỂN LHQ., MỘT Ý-THỨC MỚI VỀ TRẬT-TỰ TRÊN BIỂN
Đặc-biệt vì ý-thức được sự cần-thiết phải có một nền trật-tự chung trên đại-dương cho nhân-loại, nhiều quốc-gia đã đồng-ý cùng nhau đưa ra một dự-án quản-trị biển cả toàn-cầu. Sau 15 năm cố gắng làm việc của nhiều cơ-quan quốc-tế, gặp nhiều khó khăn về thương-thuyết, dự-thảo Luật Biển của Liên-Hiệp-Quốc sau ba lần đại-hội, được ra đời vào năm 1982.
Trong niềm hy-vọng những tốt đẹp trên biển cả sẽ đến với nhân-loại, các luật-gia John R. Stevenson và Bernard H. Oxman đã thở phào nhẹ nhõm khi viết rằng: "Tất cả những cố-gắng trước đây trong suốt cả thế-kỷ để đưa toàn-thể thế-giới ngồi lại với nhau trong một sự đồng-ý vững-chắc về biển cả đã tan vỡ. Thoả-ước Liên-Hiệp-Quốc về Luật Biển là điều cận-kề nhất mà loài người chúng ta có thể tiến đến với nhau. Mục-tiêu đó nay đang ở trong tầm tay".[43]
Thoả-ước "United Nations Convention on the Law of Sea", viết tắt là UNCLOS hay LOS Convention, công-bố ngày 10/12/1982 tại Montego Bay, Jamaica đã được 159 quốc-gia ký-nhận (signatures) và như tiên-liệu, đã có đủ 60 quốc-gia duyệt-y (ratification). Kể từ ngày 16-11-1994, thỏa-ước UNCLOS trở thành luật và được mang ra thi-hành.
Nội-dung của thoả-ước rất lý-tưởng như cho rằng "Biển cả là tài-sản chung của Nhân-Loại". Sự thi-hành Luật Biển lại dựa hoàn-toàn trên tinh-thần thiện-chí của mọi quốc-gia trên thế-giới. Có nhiều điều-luật cần-thiết còn thiếu sót. Một số điều chưa được trình-bày rõ ràng hay không phù-hợp với thực-tế sẽ dần dần được các cơ-quan luật-pháp nghiên-cứu, đề-nghị điền-khuyết hay tu-chỉnh như đã từng được làm từ mấy chục năm qua...
Các nước Đông-Nam-Á quanh vùng Biển Đông đều là hội-viên LHQ., đã cùng ký-kết thi-hành Luật Biển. Trừ ra nước Tàu từ xưa vẫn ngoan-cố, nay vẫn chưa chấp-nhận nghiêm-chỉnh việc thi-hành. Để cho tình-trạng thêm phần căng thẳng, Trung-Cộng ban-hành Luật Lãnh-hải 1992 riêng cho họ. Luật này ngăn chặn việc thi-hành Luật Biển LHQ. về chủ-quyền hải-phận của những quốc-gia duyên-hải bằng cách tuyên-cáo một cách trâng tráo: Biển Đông là nội-hải hay lãnh-hải Trung-Hoa.
Tuy vậy, đa-số giới luật-gia tin-tưởng rằng nhờ số lượng "đa-số áp-đảo" các quốc-gia ký-nhận, rồi ra Luật Biển sẽ được toàn-thể cộng-đồng nhân-loại tôn-trọng và thi-hành hầu mang lại hòa-bình trên biển.
Sự mong ước này xem ra có vẻ là một hoài-vọng quá đáng chăng?!
8.3 – LÃNH-THỔ, LÃNH-HẢI VÀ HẢI-PHẬN VỀ KINH-TẾ
Học địa-lý, chúng ta biết rằng diện-tích lãnh-thổ nước Việt-Nam đo được 329,600km2. Ngoài lãnh-thổ đó, một khu-vực trên biển từ bờ trở ra khơi 12 hải-lý (hl) đã được nhận là lãnh-hải (territorial waters). Chủ-quyền quốc-gia trên phần nội-hải và lãnh-hải gần giống như chủ-quyền trên lãnh-thổ. Vào năm 1964, chính-quyền cộng-sản Việt-Nam tuyên-bố lãnh-hải 12hl.
Ngày nay, chúng ta cần biết thêm về một vùng hải-phận rộng lớn hơn nữa ở ngoài biển thuộc chủ-quyền khai-thác của dân Việt-Nam ta: Khu-vực Biển Kinh-tế Độc-quyền 200 hải-lý mà danh-từ Luật Biển gọi là Exclusive Economic Zone- EEZ.
Tuyên-cáo những hải-phận như sau:
- 12 hl. lãnh-hải
- 12 hl. vùng cận-hải phía ngoài lãnh-hải
- 200 hl. vùng biển kinh-tế tính từ ngoài đường cơ-sở lãnh-hải (200NM from territorial waters base line).
Theo Luật-sư Mark J. Valencia, Việt-Nam là quốc-gia có đường duyên-hải khá dài (5,237 cây số), tỷ-lệ bờ biển/diện-tích lãnh-thổ hơn 1 phần trăm. Trong khi đó, Trung-Cộng có rất ít bờ biển, tỷ-lệ chỉ đạt tới 1.5 phần ngàn mà thôi
Theo Luật-sư này ước-lượng vùng EEZ của Việt-Nam rộng 210,600 dặm vuông (square nautical-mile). Diện-tích này tính ra 722,338km2, tức rộng hơn hai lần đất liền, (225% so với lãnh-thổ).
Hình 80. Theo bảng liệt-kê này, Việt-Nam có chiều dài bờ biển 2,828 hải-lý (tức 5,237 km), hải-phận EEZ rộng 210,600hl. vuông, không thua Trung-Cộng bao nhiêu.
Qua tất cả những văn-bản chính-thức liên-hệ đến ngoại-giao, nội-vụ, giáo-dục...; chính-quyền Việt Nam công-bố nước ta có 3,260km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên, trải qua 13 vĩ độ, từ 8o23' bắc đến 21o39' bắc. Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam rộng 226,000km2 và vùng biển đặc-quyền kinh-tế trên 1 triệu km2, rộng gấp 3 lần diện tích đất liền. Tuy-nhiên văn-bản không bao giờ kèm theo bản-đồ chỉ-dẫn hay chứng-minh.
Vùng đặc-quyền kinh-tế của CHXHCN Việt Nam, theo công-bố, là vùng tiếp liền với lãnh hải và tạo với lãnh hải một vùng rộng 200 hải-lý tính từ đường cơ sở. Bản-đồ của Mark J. Valencia ước-lượng Việt-Nam trong điều-kiện này không thể chiếm hơn 210,600hl. vuông (tức 722,338km2).
Luật Biển Liên-Hiệp-Quốc (United Nations Convention on the Law of the Sea - UNCLOS) cũng quy-định rằng hải-đảo cũng có những hải-phận giống như đất liền. Tại Biển Đông, nước nào có chủ-quyền trên các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa sẽ được sở-hữu những tài-nguyên trong các hải-phận liên-hệ. Những vùng biển như vậy rất to lớn, đặc-biệt lại nằm trong khu-vực có nhiều tiềm-năng dầu-khí.
Đối với Việt-Nam, đặt giả-sử nếu ta kiểm-soát trọn-vẹn cả Hoàng-Sa lẫn Trường-Sa, hải-phận khai-thác kinh-tế (EEZ) của quốc-gia ta sẽ lớn gấp 3 lần lãnh-thổ hiện-thời trong lục-địa. Tài-nguyên dưới biển nếu khai-thác hết, có lẽ nhiều hơn sản-lượng thu-đạt trên đất liền.
8.4 – THỀM LỤC-ĐỊA VÀ EEZ
Trong những danh-từ thường dùng của Luật Biển ngày nay, người ta còn nói đến "Thềm lục-địa" (Continental Shelf). Trước hết, quan-niệm này phát-sinh khi khảo-sát bờ biển trên thế-giới, người ta thấy đáy biển thường thoai-thoải từ bờ ra khơi một khoảng xa, tùy nơi có thể từ vài chục hải-lý cho đến hàng trăm hải-lý; rồi đột nhiên, đáy biển dốc sâu hẳn xuống trước khi chạy tiếp ra ngoài lòng đại-dương. Hình-dạng phần đáy biển thoai thoải sát bờ đó giống như cái nền của lục-địa.
Vì chủ-quyền thềm lục-địa đối với các quốc-gia duyên-hải cũng như chủ-quyền cái nền nhà đối với người chủ của cái nhà, các quốc-gia thường không đồng-ý với nhau về ranh-giới này. Tổng-quát có hai khuynh-hướng:
Hình 81. Quan-niệm địa-lý về thềm lục-địa
1- Dùng độ sâu đáy biển.
Theo khuynh-hướng này thềm lục-địa nằm trong khu-vực có độ sâu nước biển tới 200m.
Trường-hợp dùng đường đồng-thâm (hay đẳng sâu) 200m này cho Việt-Nam, chúng ta thấy:
Hình 82. Biển Đông, thiết-đồ đáy biển và thềm lục-địa (200m). Từ bờ Việt-Nam, đáy biển chạy thoai-thoải ra khơi. (Hình của Nguyễn-Khắc-Ngữ, 1981).
* Vì đáy biển nông, thềm lục-địa ở Bắc-phần nước ta rất lớn, choán ra khắp vịnh Bắc-Việt. — đây, việc phân chia thềm lục-địa giữa Việt-Nam và Trung-Hoa đang trong vòng tranh-chấp. Việt-Nam muốn giữ đường Hồng-Tuyến (Đường Đỏ vẽ theo Kinh-tuyến 108 độ 03' Đông) là thoả-hiệp “Constans-Lý Hồng Chương” đã ký từ năm 1887 giữa Pháp, lúc đó đang bảo-hộ Việt-Nam và nhà Mãn-Thanh, lúc đó đang cai-trị toàn cõi Trung-Hoa. Còn Trung-Cộng muốn chia vịnh Bắc-Việt theo cách riêng. Nói là đường trung-tuyến giữa những bờ biển nhưng họ tính chỗ lõm của ta tại vịnh Diễn-Châu, chỗ lồi của đảo Hải-Nam. Họ không chấp-nhận hai ngàn đảo ven bờ Việt-Nam làm đường cơ-sở. Trung-Cộng cũng không chịu kể Bạch-long-Vĩ là một hòn đảo dùng để phân chia trung-tuyến.
Hình 83. Vùng tranh-chấp hải-phận trong vịnh Bắc-Việt. Việt-Nam muốn: hoặc theo đường Đỏ (KT 108o03' Đông) hoặc lấy trung-tuyến giữa hai bờ biển hay giữa 2 đảo Bạch-Long-Vĩ / Hải-Nam. Trung-Cộng không đồng-ý cả hai, nay đã lấn sâu vào sát đất Việt-Nam (đường 21 điểm).
Trong việc phân-chia vịnh Bắc-Việt giữa hai đảng Cộng-Sản Tàu/Việt, trừ vài điểm sát bờ, người ta không thấy “trung-điểm, trung-tuyến” nào như được quy-định theo Luật Biển UNCLOS.
Khi được hỏi, Bộ trưởng Ngoại-giao Nguyễn Dy Niên đã trả lời phỏng vấn TTXVN mà VietNamNet ghi lai nội dung: Đường phân định đi cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải-lý, tức đảo được hưởng lãnh-hải rộng 12 hải-lý, vùng đặc-quyền kinh-tế và thềm lục-địa 3 hải-lý (25% hiệu lực?).
Hình 84. Trị-số các khoảng cách cho thấy rõ sự bất công trong việc phân chia.
Ông Niên không nói đến sự kiện đảo Hải-Nam được hưởng vùng đặc-quyền kinh-tế và thềm lục-địa 43 hải-lý. Rất có thể Vị Bộ trưởng Ngoại giao nghĩ con số không nhiều, và như vậy là một sự công-bình?! "Hiệp định giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa về phân định lãnh hải, vùng đặc-quyền kinh-tế và thềm lục-địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ" cũng được Bắc Kinh phổ-biến trên mạng lưới Internet.
Chỉ ít ngày sau khi Cộng-Sản hai nước công-bố bản-đồ hải-phận thì tàu Trung-Cộng vào hải-phận Việt-Nam (vĩ-độ 18o16’Bắc, kinh-độ 197o06 Đông) bắn chìm thuyền cá xã Hòa-lộc Thanh-Hóa ngày 9/1/2005, giết chết 9 ngư-dân vô-tội, làm bị thương nhiều người, rồi kéo tàu bắt người về đảo Hải-Nam. Cả hai đảng Cộng-Sản Việt-Tàu coi rẻ mạng người nên bỏ qua, không một lời xin lỗi chính-thức hay bồi-thường cho gia-đình nạn-nhân bị chết thảm, bị thương-tích, tàu chìm cũng không.
Hình 85. Bản đồ khu-vực đánh cá chung, Beijing Review công-bố. (http://www.bjreview.com.cn/200432/World-200432(A).htm).
* Ở miền Trung Việt-Nam, thềm lục-địa nhỏ hẹp. Đặc-biệt tại Mũi Đại Lãnh (Varella), vì đáy biển đột-nhiên sâu hẳn xuống nên có nơi thềm lục-địa không rộng quá 40 km.
Việt-Nam vẫn muốn quản-trị hải-phận 200hl. nhưng vùng “Lưỡi Rồng 9 gạch” của Trung-Hoa sẽ là một trở-ngại lớn, khó vượt qua trong tình-thế hiện nay. Có lẽ vì sự ngần-ngại đó mà trong bản-đồ dầu khí mới đây, Việt-Nam chỉ vẽ những lô đấu thầu sát bờ mà thôi.
* Càng về Nam, biển càng trở nên nông cạn và thềm lục-địa nước ta lại rộng ra rất nhiều. Ngoài khơi Đông-Đông-Nam, cách Vũng-Tàu 200km qua khỏi bãi Đông-Sơn, gần bãi Tư-Chính chiều sâu đáy biển mới bắt đầu xuống quá 200m. Kể từ khu này vòng qua Phú-Quốc, biển rất nông và toàn thể khu-vực vịnh Thái-Lan bao quanh bởi Việt-Nam, Kampuchea, Thái-Lan, Mã-lai-Á, Nam-Dương trở thành thềm lục-địa của các quốc-gia ven biển.
Vùng này ngoài sự cản-trở của “Lưỡi Rồng” còn có cả khu-vực xuyên hông là “Bãi Vạn An”, Trung-Cộng tự-ý nhường quyền khai-thác cho hãng Crestone. Nay hãng Benton đã thanh-toán tiền và tiếp-tục thay-thế Crestone cùng đi với Trung-Cộng.
2 - Dùng khoảng cách 200hl. tính từ bờ
Có những quốc-gia duyên-hải tuyên-cáo chiều rộng thềm lục-địa riêng cho họ. Theo nhu-cầu quốc-gia, nhiều chính-quyền đã ra tuyên-cáo về chiều rộng thềm lục-địa. Ranh-giới 200 hải-lý hiện đang được nhiều quốc-gia chấp-nhận. Việt-Nam có thể được kể là một trong những quốc-gia này. Thềm lục-địa Việt-Nam thông-thường đã được chính-quyền đương-thời đồng-hóa với vùng hải-phận chủ-quyền kinh-tế EEZ 200hl. Có lý-lẽ nới rộng hải-phận ra 350hl, nhưng chưa thấy Việt-Nam đệ-trình LHQ.
8.5 – ĐƯỜNG CĂN-BẢN DUYÊN-HẢI VÀ NỘI-HẢI
Trước đây năm ba thập-niên, phần lớn các quốc-gia duyên-hải thường lấy lãnh-hải là 3hl. Có tới 45 nước nhìn nhận ranh-giới này, tính vào ngày 1-1-1958.
Ngày nay, hầu hết các nước tuyên-cáo lãnh-hải 12hl. và một vùng tiếp-cận - Continguous Waters- 12 hl. phía ngoài lãnh-hải đó. Khoảng rộng được tính từ bờ biển hay bờ đảo lúc nước ròng sát.
Bờ biển và bờ đảo thường lởm chởm, chỗ lồi chỗ lõm. Các đường ranh giới vì vậy rất ngoằn ngoèo phức-tạp. Để giải-quyết vấn-đề chung cho các quốc-gia duyên-hải hay quần-đảo, một sự đồng-ý đã được đưa vào Luật Biển LHQ. cho phép những nước đó được vẽ đường thẳng cơ-sở (Baselines) nối liền những mũi đất và mép đảo.
Hình 86. LHQ. công-bố hình vẽ này như tiêu-biểu cho cách-thức vẽ những đường cơ-sở duyên-hải. Chiều dài bờ biển có thể công-bố nhiều hay ít... Cần lưu-ý đến khoảng cách chuẩn 12 hải-lý.
Theo các chuyên-gia về Luật Biển, đường cơ-sở được dùng làm "căn-bản" cho chủ-quyền lãnh-hải nên chính-quyền các nước duyên-hải cần thảo ra cho sớm và cho chính-xác!
Vào ngày 12-11-1982, Việt-Nam công bố một số đường căn-bản (mà họ gọi là đường cơ-sở) từ Đảo Cồn Cỏ đến Poulo Wai. Các đường cơ-sở trong vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lan, cùng các quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa, vì đang trong vòng tranh-chấp nên chưa được vẽ (?!).
Vài quốc-gia láng giềng và cả những nước lớn như Hoa-Kỳ đã lên tiếng phản-đối Việt-Nam. Họ cho rằng những đường này là không hợp-lệ và rằng Việt-Nam đã tuyên-bố một vùng nội-hải lớn lao một cách quá đáng. Các luật-gia ở Viện Đông-Tây tại Hawaii nhận-xét: "Có nhiều nơi, đường này nằm quá xa bờ lục-địa hay có nơi đường cơ-sở không nhất-thiết phải đi quá xa ngoài khơi vì bờ biển phía bên trong rất phẳng-phiu".
Từ khi đường cơ-sở được ấn-định, ranh giới lãnh-hải và những hải-phận liên-hệ đến chủ-quyền quốc-gia trên biển bị thay đổi hết. Trường-hợp Việt-Nam, theo luật gia Kriangsak Kittichaisariee, nếu chỉ kể bốn đoạn (162, 161, 149 và 105hl) trong 10 đoạn thẳng cơ-sở (dài tổng-cộng 850hl), nội hải (internal waters) Việt-Nam cũng đã chiếm tới 27,000 dặm vuông.[44] Đường cơ-sở như vậy làm gia-tăng diện-tích những khu-vực thuộc chủ-quyền quốc-gia lên rất nhiều.
Hình 87. Những đường cơ-sở (baselines) của duyên-hải Việt-Nam tuyên-bố ngày 12/11/1982. Nội-hải Việt-Nam gồm hai khu-vực ranh-giới lịch-sử trong vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lan và khu-vực biển nằm bên trong những đường cơ-sở.
Hai luật-gia Mark J. Valencia và Jon M. Van Dyke, sau khi bàn-luận đến những lợi-điểm của Việt-Nam trong việc ký-nhận thi-hành Luật Biển LHQ., cũng khuyến-cáo Việt-Nam nên tu-chỉnh lãnh-hải lịch-sử (historic waters) và thu bớt phần nội-hải bằng cách duyệt lại các đường cơ-sở baselines. (Vietnam's National Interests and the Law of the Sea, trong Ocean Development and International Law, Vol.25, Apr/Jun 1994: 217-250).
Trên quan-điểm của chính-quyền CHXHCN Việt-Nam, những đường cơ-sở đã vẽ đúng theo Luật Biển LHQ. Các lý-do được nêu ra có thể tóm tắt như sau:
- Những đoạn thẳng trong khu-vực từ vĩ-độ 11o00 N đến 14o00 N phù-hợp với điều 7(1) quy-định việc xác-định đường cơ-sở qua những hòn đảo nằm ngoài vùng bờ biển khúc-khủyu, bị ăn sâu vào đất liền Trung-Việt.
- Những đoạn còn lại phù-hợp với điều 7(5) quy-định các đường thẳng cơ-sở cho khu-vực biển có quyền-lợi kinh-tế đặc-biệt và hiển-nhiên đã được dân-cư Việt-Nam sử-dụng từ lâu đời.[45]
Đường Cơ Sở thật là quan-trọng, dùng làm căn-bản khi phân chia hải-phận. Các đoạn từ Vịnh Phú-Quốc qua Côn-Sơn, Cù-lao Thu đã hoàn-tất nhiệm-vụ chính của nó sau khi có sự thoả-thuận Việt-Nam/Nam-Dương về khu-vực đặc-quyền kinh-tế. Những gì mất đã mất rồi. Chúng tôi thiết tưởng những vùng bịển kinh-tế mất hay còn tạo đó đã xong, nay là lúc có thể tu-chỉnh lại Đường Cơ Sở cho hợp với luật-lệ, đồng thời cũng giảm trách-nhiêm quản-trị cho quốc-gia trên một vùng nội-hải quá lớn, trong khi khả-năng hải-quan và quân-sự chúng ta còn chưa mạnh-mẽ. Vả lại quyền-lợi khai-thác Biển không vì thế mà có gì thiệt-thòi trong khi khi không bị mang tiếng sái luật.
Hình 88. Bản-đồ thu nhỏ này của HQ Hoa-Kỳ họa hình nội-hải và lãnh-hải Việt-Nam theo như công-bố của chính-quyền VN, 226,000km2.
Việt-Nam định-nghĩa “vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo của Việt Nam là nội thủy của nước CHXHCN Việt Nam”. Tài-liệu chính thức cũng xác-định là diện tích vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam rộng 226,000km2.
8.6 – THỀM LỤC-ĐỊA KÉO DÀI
Biển Việt-Nam là sự nối-tiếp địa-hình đất liền chạy dài ra biển. Việt-Nam có thể được đặc-quyền tuyên-bố chiều rộng thềm lục-địa và hải-phận kinh-tế cho tới 350 hải-lý.[46]
Những điều luật UNCLOS quy-định thềm lục-địa tính từ đường cơ sở không được vượt quá 350 hải-lý (648.2km) hoặc cách đường đẳng sâu 2,500 mét một khoảng cách không vượt quá 100 hải-lý (185.2km). Nhờ địa-hình đáy biển phía Đông-Nam VN thoai-thoải, Việt-Nam có đầy đủ điều kiện như vậy. Việt-Nam phải tuân thủ các quy định cụ thể để vẽ xác định đường ranh giới ngoài của thềm lục-địa sao phù-hợp Luật Biển, rồi chuyển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục-Địa duyệt, chấp-thuận đệ trình lên đại hội-đồng của Công ước UNCLOS. Hạn-kỳ này là năm 2009, nghĩa là rất gần.
Hình 89. Biểu-thị Nội-hải, Lãnh-hải, Vùng ĐQKT chuẩn, Vùng ĐQKT nối dài ra 350 hl. và Thềm lục-địa theo tài-liệu của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
Chi-tiết việc mở rộng hải-phận quá 200 hải-lý này còn có thêm 2 điều kiện nữa là:
- Quốc-gia phải xác định rõ tọa độ, thông báo các thông tin tính toán cho Ủy ban ranh giới thềm lục-địa với hạn cuối cùng là năm 2009.
- Quốc-gia có nghĩa vụ đóng góp tài-chính hay hiện-vật cho việc khai thác các tài nguyên phi sinh vật của phần biển nằm ngoài phần thềm lục-địa cơ bản (200 hải-lý đầu).
Tính chung cộng lại một cách tối-thiểu, Việt-Nam rất có cơ-hội sở-hữu ít nhất một hải-phận kinh-tế ngoài biển rộng gấp ba lần lãnh-thổ trên đất liền, cho dù rằng nước ta không giữ được toàn vẹn tất cả Trường-Sa cũng như không phục-hồi lại được quần-đảo Hoàng-Sa.
Hình 90. Khu-vực tranh-chấp Việt-Nam với Nam-Dương và Mã-lai-Á. Hình nhỏ vẽ khu đáy biển sâu ở phía Bắc đảo Natuna.
Có những lý-lẽ tranh cãi khác nhau về chủ-quyền thềm lục-địa và hải-phận kinh-tế nơi những vùng biển nhiều quốc-gia giao-tiếp như vậy. Tranh-chấp lẻ tẻ có thể dẫn đến chiến-tranh. Trong nhiều trường-hợp, các nước thường bàn cãi đến ranh-giới là đường Trung-tuyến (Meridian). Đường này chạy giữa hai đường cơ-sở của bờ biển, giữa hai hòn đảo hay giữa bờ biển nước này và hòn đảo nước kia, giữa các đường cơ-sở, đảo, bờ... tùy trường-hợp lý-luận trong thương-thảo.
Vì Việt-Nam ở trong trường-hợp có ưu-thế vì thềm lục-địa kéo dài, Việt-Nam đòi hỏi các nước láng giềng phân-chia sao cho hợp-lý như ở Vịnh Bắc-Việt, Vịnh Phú-Quốc và vùng thềm lục-địa Sunda, phía Bắc đảo Natuna.
Việt-Nam và Nam-Dương không thoả-thuận được với nhau về đường ranh-giới này. Nam-Dương muốn chia hải-phận theo đường trung-tuyến giữa đảo Natuna và bờ biển Việt-Nam, còn Việt-Nam lấy lý-lẽ đáy biển sâu về phía Nam-Dương nên phải lấy trung-tuyến của bờ biển Nam-Dương và đường cơ-sở baseline Việt-Nam. Vụ việc này đã giải-quyết xong và Nam-Dương đã họa hình hải-phận của họ chiếm cả vùng tranh-chấp, đồng thời khởi-sự khai-thác.
8.7 - DIỆN-TÍCH THỀM LỤC-ĐỊA VIỆT-NAM
Có nhiều quốc-gia tuyên-cáo thềm lục-địa 200 hl, họ đồng-hoá giữa hai vùng Biển ĐQKT và thềm Lục-Địa làm một, với cùng một trị-số về diện-tích. Trường-hợp Việt-Nam diện-tích Vùng Biển Đặc-quyền Kinh-tế là 1 triệu km2, còn thềm Lục-Địa lại chừng 700,000 km2. Con số này do tham-dự-viên Việt-Nam đưa ra trong buổi hội-thảo biển tại Trường Đại-Học Tufts, xin trích: “The EEZ in the country of Vietnam is larger than its continental shelf. Vietnam’s continental shelf is about 700,000km, but their EEZ is 1 million km2).[47]
Vùng Biển Đặc-quyền Kinh-tế VN lớn là vì Việt-Nam sở-hữu hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa. Các quần-đảo này một phần nhỏ cách bờ 200 hl. nhưng hầu hết các đảo nằm rất xa ngoài khơi, có nơi cách bờ tới 400 hải-lý.
8.8 - CÁC NƯỚC LỚN VÀ LUẬT BIỂN
Nhiều cường-quốc không vừa lòng với Luật Biển LHQ., hải-quân của họ muốn được tự-do hải-hành khắp nơi theo ý họ muốn. Tuy vậy, chưa có sự chống-đối, cản-trở nào đáng gọi là quyết-liệt.
8.8.1 – HOA-KỲ
Nếu nói đến cường-quốc mạnh nhất về hải-lực hiện nay, người ta phải nói đến Hoa-Kỳ. Kể từ khi đối-thủ đáng nể của họ là Liên-bang Sô-Viết tan rã, lực-lượng Hoa-Kỳ trên biển giữ vai trò độc-bá, đang tung-hoành khắp mặt đại-dương. Vì Hoa-Kỳ luôn luôn cổ-võ cho sự tự-do hải-hành nên họ vẫn đứng ra ngoài những nỗ-lực của các quốc-gia khác muốn tiến tới một bộ Luật Biển toàn-cầu. Hầu hết những tuyên-cáo nới rộng hải-phận của các quốc-gia khác trên thế-giới đều bị Hoa-Kỳ phản-đối. CHXHCN Việt-Nam cũng đã mấy lần nhận giấy tờ ngoại-giao của Hoa-Kỳ gởi đến tỏ ý chống-báng như vậy.
Trong một kế-hoạch toàn-cầu mới nhất về hợp-tác quốc-tế cùng nhau khai-thác các vùng biển sâu, LHQ. đã phải đối đầu với sự bất-hợp-tác của Hoa-Kỳ. Vì Mỹ là nước có khả-năng lớn nhất về lãnh-vực khai-thác biển sâu nên LHQ. phải cố-gắng rất nhiều trong việc thuyết-phục HoaKỳ trợ giúp. Tin-tức mới nhất cho hay Hoa-Kỳ đã bớt lạnh nhạt và ngỏ ý sẽ tham-gia.
Đã qua nhiều đời, Tổng-Thống Mỹ nào cũng tuyên-bố hết sức hậu-thuẫn UNCLOS, nhưng dù nếu ngành Hành-pháp có thuận thì cũng phải chờ Lưỡng-Viện Quốc-Hội chuẩn-y. Như vậy phải cần một thời-gian nữa, thế-giới mới có thể biết được sự đóng góp thực-sự của Hoa-Kỳ ra sao trong việc thi-hành Luật Biển.
8.8.2 – TRUNG-CỘNG
Trung-Cộng là một trường-hợp ngoại-lệ thật kỳ-dị. Mặc dù là hội-viên Liên-Hiệp-Quốc nhưng họ lại bất-chấp công-pháp quốc-tế. Trung-Cộng cũng đã ký-kết Luật Biển Liên-Hiệp-Quốc, nhưng luôn luôn cố ý diễn-tả Luật Biển sai-lệch làm sao cho có lợi riêng.
Không cần căn-cứ pháp-lý, Trung-Cộng nhận chủ-quyền toàn-thể Biển Đông. Ranh giới vùng "Lưỡi Rồng" của họ sát bờ biển Trung-Việt (cách Cù-lao Ré 40 hl) xuống Indonesia qua sát Mã-Lai-Á (cách Borneo 25 hl) vòng lên sát Phi-luật-Tân (cách Palawan 25 hl.) Trung-Cộng và Đài-Loan, tuy không phải là các quốc-gia Đông-Nam-Á, đã cùng đứng trên một lý-lẽ, cùng sử-dụng một tấm bản-đồ với đường "ranh giới lịch-sử nước Tàu " lấn sâu xuống gần hết biển Đông-Nam-Á. Trung-Hoa Dân-Quốc đã tự-ý vẽ ra những đường ranh-giới này từ năm 1947.
Chính-sử Trung-Hoa chưa bao giờ ghi-chép việc quân-đội của họ chiếm-đóng Hoàng-Sa/Trường-Sa. Địa-dư chí nước Tàu cũng chẳng bao giờ viết rằng nước Trung-Hoa phía Nam giáp Nam-Dương, Mã-Lai-Á... Vậy mà người Trung-Hoa thời nay giám cho rằng lịch-sử là một yếu-tố chính làm căn-bản cho chủ-quyền nước Tàu trên toàn-thể Biển Đông.
Khi đề-cập đến sự tham-lam và ngoan-cố nhận liều hải-phận một cách vô-lối của hai nước Trung-Hoa Lục-địa và Đài-loan như vậy, Luật-gia chuyên về hải-dương Mark J. Valencia đã nhận-định: "Không có một nguyên-lý nào trong luật-pháp quốc-tế thời hiện-đại cho phép một kiểu lý-luận như thế!".
Trung-Cộng coi "Nam-Hải" không những là vùng biển đánh cá (Exclusive Fishery Zone), vùng biển kinh-tế (Exclusive Economic Zone) của Trung-Cộng mà còn mặc-nhiên nhận như nội-hải (Inner Sea), lãnh-hải riêng (Territorial Sea) hay cái vườn sau (Back Yard) của họ vậy.
Hình 91.- Khu-vực ranh-giới lịch-sử "Lưỡi Rồng" của Trung-Cộng chiếm gần trọn Biển Đông.
Một khi hải-quân của Trung-Cộng đủ mạnh để kiểm-soát mặt biển và hành-sử chủ-quyền theo tham-vọng của họ thì mọi hoạt-động thương-mai, kinh-tế của các nước Đông-Nam-Á trên Biển Đông bị bóp nghẹt. Các nước khác trên thế-giới rồi đây cũng sẽ bị ngăn cản về cả hai đường hàng-hải lẫn hàng-không.
9 – LUẬT BIỂN LHQ. VÀ BIỂN ĐÔNG
Trong khi áp-dụng Luật Biển Quốc-tế cho Biển Đông, mỗi nước duyên-hải trong vùng đã suy-luận theo cách-thức riêng-biệt có lợi cho họ. Sự tranh-chấp của nhiều nước về chủ-quyền trên các đảo Hoàng-Sa Trường-Sa, ngoài cơ-nguy đụng-độ quân-sự trên biển, còn lôi kéo theo nhiều tranh-luận rắc rối về luật-lệ.
9.1 – VIỆT-NAM VÀ LUẬT BIỂN
Việt-Nam cùng với 159 nước trên thế-giới (tính đến đầu năm 1993) đã ký-duyệt bản dự-thảo Luật Biển 1982 của Liên-Hiệp-Quốc. Tháng 7/1994, Việt-Nam lại ký tên vào danh-sách các quốc-gia tự-nguyện chấp-hành luật quốc-tế này. Dự-luật này chỉ đòi hỏi 60 quốc-gia ký-nhận để mang ra thi-hành. Trong số 60 quốc-gia đầu tiên ký-kết đã có nhiều nước lớn như Brazil, Ai-Cập, Nam-Dương, Mễ-tây-cơ... Vào ngày 16/11/1994, thoả-ước có hiệu-lực thi-hành (enter into force). Cho tới 16/1/2004, một số “áp-đảo” là 145 quốc-gia đã làm xong thủ-tục chuẩn-y, chỉ trừ một nước lớn là Hoa-Kỳ thì chưa (the only major nation remaining to ratify UNCLOS).
Việt Nam cũng phê chuẩn một số Công ước biển chuyên ngành về Hàng hải quốc tế IMO, Công ước SOLAS về cứu hộ trên biển, London 1/11/1974, Công ước về mớn nước, Công ước MARPOL chống ô-nhiễm tàu thuyền (Prevention of Pollution from Ships) ngày 2/11/1973 và phần bổ sung năm 1978 về phòng chống ô nhiễm biển.
Hình 92. Tiền phạt khi vi-phạm luật của MARPOL rất cao, từ ¼ tới ½ triệu dollars.
Hai Luật-gia Mark J. Valencia & Jon M. Van Dyke nhận xét rằng việc CHXHCN Việt-Nam chấp-nhận Thỏa-ước về Biển-Cả Quốc-tế đã tạo được tối-thiểu một sự an-tâm về lý-thuyết. Đặc-biệt Việt-Nam cũng tìm ra một vị-thế thuận-lợi trên trường ngoại-giao khi tranh-chấp với Trung-Cộng. Hai Ông này cũng đề-nghị:
- Việt-Nam nên thu nhỏ những vùng nội-hải, sửa lại đường cơ-sở duyên-hải, vẽ những vùng lãnh-hải, cận-hải, chủ-quyền kinh-tế mới sao cho phù-hợp với Luật Biển.
- Sửa lại luật-lệ về giao-thông trên biển, cho phép “quyền đi qua không gây hại” (thông-quá vô-tư - innocent passage) các loại thương-thuyền và chiến-hạm v.v... đúng với sự quy-định quốc-tế.
- Tham-dự vào các chương-trình liên-hệ của Luật Biển như ngư-nghiệp, bảo-vệ môi-sinh, chống ô-nhiễm, cứu người trên biển, truy-diệt ma-túy buôn lậu, nghiên-cứu khoa-học...[48]
9.2 – TRƯỜNG-HỢP CÁC ĐẢO HOÀNG-SA TRƯỜNG-SA
Trong tiến-trình đi tới một Luật Biển hoàn-bị cho toàn-cầu, các cơ-cấu luật-pháp quốc-tế lần đầu tiên sẽ phải đối đầu với một vấn-đề mới khó khăn và tế-nhị về chủ-quyền trên các hòn đá san-hô tí-hon của Biển Đông. Xin nêu một vài thí-dụ:
- Đảo theo nguyên-nghĩa phải là do thiên-nhiên tạo ra. Đến nay, vẫn chưa ai hiểu được luật quốc-tế phải làm sao để truy-tầm và giải-quyết trường-hợp đảo xây lên bằng cách "nhân-tạo".
- Luật Biển vẫn chưa xác-định được rõ-rệt sự khác nhau giữa Đảo và Cồn, Đụn. Những "đảo" san-hô thường chỉ như những cồn, đụn; hôm nay nổi mai chìm. Trường-hợp như Đảo Tro (vùng hòn Hai, Cù-lao Thu) đùn cao lên tới 30m một thời-gian (các đảo Trường-Sa chỉ cao chừng 2m) rồi tan theo tro bụi cũng khó giải-quyết.
- Sự kiện càng thêm rắc rối vì vấn-đề hợp-pháp của hải-đăng trên các bãi ngầm cũng đã được Luật Biển đề-cập tới. Nhiều quốc-gia, kể cả CHXHCN Việt-Nam đang thiết-lập một số hải-đăng tại quần-đảo Trường-Sa mà một vài chiếc đặt trên các hòn đá ngầm (reef).
Giả-sử nếu có nước mua một tàu hải-đăng cũ đem đến một bờ bãi ngầm hay cạn nào đó rồi cho chìm xuống, nước đó có thể chứng-minh hợp-pháp cho lãnh-hải quốc-gia 12hl. và cho vùng kinh-tế 200hl. của họ được không? Có lẽ là không.
Hình 93. Một tàu hải-đăng như bên, nếu cho đánh chìm xuống biển, có lẽ không đủ điều-kiện để hưởng quy-chế của một hòn đảo theo Luật Biển LHQ.
- Qua những bức hình cho công-bố nhiều năm gần đây, rõ ràng là Trung-Cộng muốn xác-nhận chủ quyền lãnh-thổ, lãnh-hải ngay nơi đứng của người lính Tàu mà nước ngập ở dưới chân.
Hình 94. Bia chủ-quyền Trung-Cộng tại một hòn đá ngầm Trường-Sa.
Luật-gia quốc-tế chỉ đành lắc đầu không nói gì được về sự ngoan cố "kiểu Tàu" như vậy!
Có những luật-gia như Jon M. Van Dyke và Dale L. Bennett cho rằng tất cả các đảo Hoàng-Sa Trường-Sa chưa bao giờ có dân-cư sinh-sống thường-trực và cũng chưa bao giờ có một đời sống kinh-tế riêng của nó (no economic life of their own) nên cùng lắm, các đảo chỉ dùng để tính lãnh-hải 12hl. mà thôi. Hai ông này đề-nghị: Trong Biển Đông các yếu-tố như chiều dài bờ biển tiếp-cận, số lượng cư-dân vùng duyên-hải, lịch-trình sử-dụng hải-sản nên được dùng làm các mấu chốt chính-yếu để xác-định quyền sở-hữu hải-phận hơn là sự chiếm-cứ (bằng quân-sự) những đảo, đá tí-hon.
Lý-lẽ Dyke và Bennett tuy vậy lại ngập ngừng, không vững vì hai ông phát-biểu rằng có lẽ nên để cho (một mình) đảo Phú-Lâm được hưởng phần nào quyền sở-hữu hải-phận (EEZ) trong vùng.[49]
Giống hệt như Phú-Lâm, nhiều đảo khác trên Biển Đông cũng có hàng trăm quân trú-phòng sinh sống, với cơ-sở phi-quân-sự như đài khí-tượng, trạm hải-đăng. Đảo được khai-thác phốt-phát bởi công-ty tư-nhân. Đảo là nơi nghỉ chân khi hải-hành. Đảo cung- cấp nguồn tiếp-liệu, nhà kho, sửa chữa, bảo-trì ngư-thuyền, ngư-cụ của thường-dân. Các đảo như Hoàng-Sa (Pattle) của Việt-Nam Cộng-Hoà (VNCH) trước 1974, và các đảo Trường-Sa, Nam-Yết, Song-tử Tây, An-Bang... ngày nay đáng được kể là "Đảo" khi dựa vào các điều-lệ của Luật Biển như vậy. Đã có 5 ngọn hải-đăng, nhiều cảng cá, nhà cư-trú dân-sự, cơ-sở khí-tượng, kỹ-thuật... và sắp có cả phi-trường tốt cho du-lịch nữa.
Trên bàn thương-thảo quốc-tế, khi đi tìm một chiến-thuật tranh-cãi cho việc thụ-hưởng một vùng biển kinh-tế rộng lớn nào đó, người ta cần nghiên-cứu rõ từng trường-hợp. Căn-cứ vào những hoạ-đồ, sự hơn thiệt về hải-phận có thể thấy rõ. Cứ như trường-hợp Việt-Nam trong hiện-tình quân-sự, ngoại-giao hiện-tại, việc chia cắt lãnh-hải theo quan niệm "Biển Đông không có đảo" có lẽ đem lại một vùng đặc-quyền kinh-tế EEZ lớn nhất mà nước ta có thể được hưởng.
Về phương-diện Luật Biển LHQ., nếu đứng riêng rẽ, các đảo ngoài khơi Biển Đông diện-tích quá nhỏ bé và nằm rải rác trên một vùng biển quá rộng; không đủ điều-kiện để hưởng quy-chế quốc-gia quần-đảo (Archipelago State). Điều số 47 của UNCLOS - Archipelagic Baselines quy-định tổng-số diện-tích đất/biển phải chiếm trong khoảng tỷ-lệ từ 1/1 tới 1/9.
9.3 – NHỮNG ĐƯỜNG RANH BIỂN ĐÔNG
Hình 95. Bản-đồ ghi các vị-trí chiếm-đóng quân-sự ở Trường-Sa.
Việt-Nam chiếm 21 vị-trí, Phi-luật-Tân chiếm 8 vị-trí, Trung-Cộng chiếm 9 vị-trí, Mã-lai-Á chiếm 3 vị-trí, Đài-Loan chiếm 1 vị-trí.
Tình-trạng chủ-quyền của các quốc-gia trên Biển Đông không rõ rệt lúc này. Việt-Nam, Trung-Cộng và Trung-Hoa Đài-Loan cùng nhận làm chủ toàn-thể Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Ở Trường-Sa, ngoài quân-đội của Việt-Nam và hai nước Trung-Hoa, còn có lính phòng-thủ của Phi-luật-Tân, Mã-lai-Á trên các hải-đảo chen kẽ nhau. Quần-đảo ví như mối bòng bong không cách gỡ.
Trường-Sa có tới nhiều trăm "đơn-vị đất đá" nhưng chỉ có 26 đảo, cồn, đụn và 7 hòn đá nổi thường-trực trên mặt biển. Theo như các tin-tức thâu-thập được qua báo-chí tại Hoa-Kỳ, tình-trạng hiện nay như sau:
- Việt-Nam chiếm đóng nhiều nơi nhất, ít ra là 21 vị-trí mà 14 có cao-độ được kể về mặt pháp-lý (3 đảo, 7 cồn, 1 đụn, 3 đá).
- Phi-luật-Tân chiếm 8 vị-trí đều là "cao-địa (5 đảo, 3 cồn).
- Trung-Cộng chiếm 9 vị-trí, nhưng chỉ có 2 "cao-địa" (1đảo, 1 đá).
- Mã-lai-Á chiếm 3 vị-trí với 2 "cao-địa" (1 đảo, 1 đá).
- Đài-Loan chiếm 1 vị-trí (1 đảo).
- Còn lại chừng 6 "cao-địa" (?) (4 đảo, 2 đá) chưa ai chiếm-đóng.
Các đảo sau đây do Việt-Nam kiểm-soát:
Tên Việt-Nam
|
Tên quốc-tế (Anh)
|
Tên Trung-Hoa
|
Ðá Lát
|
Ladd Reef
|
Riji Jiao
|
Ðảo Trường-Sa
|
Spratly Island
|
Nanwei dao
|
Ðá Tây
|
West London Reef
|
Xi jiao
|
Ðá Giữa
|
Central London Reef
|
Zhong jiao
|
Ðá Ðông
|
East London Reef
|
Dong jiao
|
Ðảo An-Bang
|
Amboyna Cay
|
Anbo Shazhou
|
Thuyền Chài
|
Barque Canada Reef
|
Bai jiao
|
Ðá Phan Vinh
|
Pearson Reef
|
Bisheng jiao
|
Bãi Tốc Gan
|
Alison Reef
|
Liumen jiao
|
Ðá Núi Le
|
CornwallisSouthReef
|
Hanhua jiao
|
Ðá Tiên-Nữ
|
Tennent Reef
|
Wumei jiao
|
Ðá Lớn
|
Great Discovery Reef
|
Daxian jiao
|
Ðá Len Dao
|
Landsdowne Reef
|
Qiong jiao
|
Ðá Hi Gen
|
Higgens Reef
|
Quyuen jiao
|
Ðảo Sinh-Tồn
|
Sin cowe island
|
Jinhong jiao
|
Ðá GriSan-ST Đông
|
Grierson Reef ?
| |
Ðảo Nam-Yết
|
Nam yit island
|
Hongxiu dao
|
Ðảo Sơn-Ca
|
Sand cay
|
Guoqian Shazhou
|
Ðá Núi Thị
|
Petley Reef
|
Bolanjiao
|
Ðảo Song Tử Tây
|
South west cay
|
Nanzi dao
|
Ðá Nam
|
South Reef
|
Nalluo Jiao
|
Theo tinh-thần Điều 121 của UNCLOS nói về Quy-chế Hải-đảo (Article121- Regime of islands) thì chỉ những đảo nào có công-đồng dân-cư sinh-hoạt tự-túc được mới được quyền lợi 200hl. hải-phận EEZ. Tuy vậy theo một số luật-gia, đảo nhỏ như cồn (cay), đụn (dune) cũng có thể được hưởng quy-chế 200hl. hải-phận EEZ; còn đá thì nhất-định chỉ được tính 12hl. của lãnh-hải mà thôi.
Như đã nói ở trên, theo một vài luật-gia về biển cả; Việt-Nam là một trong số các quốc-gia có thể viện-dẫn những lý-lẽ hợp-pháp để kéo dài thềm lục-điạ và hải-phận kinh-tế ra tới 350 hải-lý.
Không giống như trường-hợp bờ biển bao quanh Phi-luật-Tân và bờ biển bao quanh phía Nam của Nam-Dương, bờ biển Việt-Nam thoai-thoải trải dài ra biển không có sự ngăn cách của các rãnh biển sâu (trench, trough) gần bờ nên sự nới rộng hải-phận hợp-lý hơn các nước kia.
Đường rãnh “thâm-thủy” chỗ sâu nhất của đáy Biển Đông trong khi nằm rất xa bờ biển Việt-Nam, lại nằm thật gần với các nước Trung-Hoa, Phi-luật-Tân, Mã-lai-Á, Nam-Dương.
Tình-trạng đáy biển càng rõ rệt trong cả hai vịnh Bắc-Việt và vịnh Thái-Lan. Tuy vậy lý-lẽ của Việt-Nam chưa bao giờ được các nước tranh-chấp liên-hệ chấp-nhận.
9.3.1 – ĐƯỜNG RANH BIỂN VỚI KAMPUCHEA
Hình 96. Đường Brévié có 4 cách thể-hiện. Đây là một cách thể-hiện theo chính-phủ Kampuchea.
Bản-đồ ranh-giới tại vịnh Bắc-Việt đã được trình-bày ở một đoạn trên. Dưới đây là các hình vẽ mô-tả những vùng tranh-chấp tại vịnh Phú-Quốc với Kampuchea (hay Cambodge) và Thái-Lan.
Theo bài viết của Ông Lê Minh Nghĩa đề ngày 15 và 16 tháng 8 năm 1998,[50] phía Campuchia (CPC) giữ quan điểm muốn lấy đường do Toàn quyền Brévié vạch ra tháng 1/1939 làm đường biên giới biển của hai nước. Việt-Nam không chấp nhận đường này làm đường biên giới biển giữa hai nước và đề nghị hai bên thoả thuận: áp dụng luật biển quốc tế, tham khảo thực tiễn quốc tế, tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trên vùng biển hai nước để đi đến một giải pháp công bằng trong việc phân định vùng nước lịch sử, lãnh hải, vùng đặc-quyền kinh-tế, thềm lục-địa của hai nước.
Cuộc thương-thuyết kết-thúc tốt đẹp. Tin-tức ngày 12/11/2005 cho hay, Quốc hội Kampuchea đã phê chuẩn một hiệp định về biên giới với Việt Nam trong đó có cả việc phân chia hải-phận giữ hai quốc-gia.
9.3.2 – ĐƯỜNG RANH BIỂN VỚI THÁI-LAN
Hình 97. Khu-vực tranh-chấp hải-phận trong vịnh Phú-Quốc: Việt-Khmer phía tây-bắc, Việt-Thái phía Tây-Nam.
Ông Lê Minh Nghĩa cũng cho biết giữa Việt Nam và Thái Lan, vấn đề phân định vùng đặc-quyền kinh-tế và thềm lục-địa cũng đã giải-quyết.
Giữa hai nước có một vùng chồng lấn rộng khoảng 6000km2 do Việt Nam có tính đến hiệu lực của đảo Thổ Chu còn Thái Lan thì phủ nhận hiệu lực của đảo Thổ Chu.
Từ năm 1992 hai bên đàm phán qua 9 vòng cấp chuyên viên. Ngày 9/8/1997 hai nước ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước. Theo hiêp định, Việt Nam được 32.5% diện tích vùng chồng lấn.
9.3.3 – ĐƯỜNG RANH BIỂN VỚI INDONESIA
Năm 1972, Indonesia và chính quyền Sài Gòn đàm phán 1 vòng, quan điểm của Indonesia là phân định theo trung tuyến giữa các đảo xa nhất của hai bên, quan điểm của Sài gòn là trung tuyến Giữa bờ biển Việt Nam và Bornéo, hai quan điểm tạo nên vùng chồng lấn rộng khoảng 37,000km2. (Đảo Natuna Bắc là đảo xa nhất của Indonesia đối diện với miền Nam Việt Nam cách Boméo 320km; Côn đảo, đảo đối diện với Natuna bắc chỉ cách đất liền 9km).
Hình 98. Một Bản-đồ dầu khí Indonesia xác-định hải-phận kinh-tế nước họ ráp ranh với Lô dầu khí số 7 & 8/97 của VN.
Từ năm 1978 CHXHCN Việt Nam và Indonesia bắt đầu đàm phán. Indonesia giữ quan điểm cũ, quan điểm của ta dựa vào định nghĩa thềm lục-địa là sự kéo dài tự nhiên của lục địa, do đó ranh giới nên theo đường rãnh ngầm ngăn cách sự kéo dài tự nhiên của hai thềm lục-địa, hai quan điểm tạo ra vùng tranh chấp lúc đầu rộng khoảng 92,000km2.
Cho đến ngày 16 tháng 8 năm 1998, khi bài viết của Ông Lê Minh Nghĩa được công-bố thì hai bên chưa đi đến thoả thuận trong đàm phán. Người ta biết trong dịp bà Megawati Sukarno sang thăm Việt-Nam năm 2003, hai chính-phủ Việt-Nam và Indonesia cùng cho biết họ đã thoả-thuận xong việc phân chia hải-phận. Tuy vậy, Việt-Nam chưa bao giờ công-bố tọa-độ hay bản-đồ vùng biển phía Nam, còn bản-đồ của Indonesia vẫn vẽ hải-phận như cũ.
9.3.5 – ĐƯỜNG RANH BIỂN NÀO Ở TRƯỜNG-SA?
Hình 99. Bảng ghi-nhận chiều rộng các loại hải-phận của những nước Đông-Nam-Á.
Tại Biển Đông, trở ngại lớn lao nhất trong việc xác-định ranh-giới là sự độc-đoán, ương-ngạnh của Trung-Cộng và sau đó là Đài-Loan. Hai nước này nhận chủ-quyền toàn-thể hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa cùng với "nội-hải" chiếm 80% Biển Đông. Việc thương-thảo với các nước láng giềng Đông-Nam-Á phần nào có vẻ dễ dàng hơn.
Cho dù không thể đi đến sự xác-định đường chia cắt, các dân-tộc Đông-Nam-Á cũng có thể sống hoà-hoãn với nhau không sắt máu. Thoả-ước cùng chung nhau khai-thác tài-nguyên một vài vùng biển đã được các nước Nam-Dương, Mã-lai-Á thi-hành. Việt-Nam và Mã-lai-Á lại tiến được một bước lớn về hợp-tác tương-tự như vậy. Việt-Nam cũng ngỏ-ý dễ dãi đôi-phần về việc thuyền Thái-Lan được phép đánh cá trong vài vùng Việt-Nam vẫn kiểm-soát chặt chẽ xưa nay.
Trung-Cộng là một quốc-gia đông dân tới hàng tỷ người, đường bờ biển khá dài (8890hl) nhưng diện-tích hải-phận kinh-tế EEZ lại không có bao nhiêu (281,000hl. vuông).
Hình 100. Luật Biển LHQ. quy-đinh những nguyên-tắc phân-chia hải-phận cho các quốc-gia nằm cạnh nhau. Theo Brice M. Clagett, Việt-Nam phải được hưởng tới 27% vùng biển Trường-Sa[51], trong khi hai nước Trung-Hoa & Đài-Loan cộng chung lại chỉ được 26%.
Trung-Cộng đã thăm dò và khai-thác các giếng dầu trên đất, ngoài biển từ nhiều hai thập niên qua nên nắm vững được số trữ-lượng dầu khí. Theo các nhà nghiên-cứu quốc-tế thì Trung-Cộng biết rõ đất nước của họ không chứa nhiều dầu. Tình-trạng sản-xuất dầu khí của Trung-Hoa không khả-quan như trước đây họ từng tiên-đoán. Biển Đông chính là nơi họ thèm muốn về cả hai phương-diện kinh-tế và quân-sự.
Với tham-vọng quá lớn của Trung-Cộng, Biển Đông sẽ càng trở nên sóng gió. Không ai có thể vẽ ra được bản-đồ ranh-giới hải-phận thực-sự thuộc ai trong tình-hình quá rắc rối như lúc này.
9.4 – NHỮNG HÌNH VẼ HẢI-PHẬN THEO GIẢ-THUYẾT
Để giản-dị-hóa vấn-đề, chúng tôi xin trình-bày một số bản-đồ với các đường ranh giới hải-phận kinh-tế theo những giả-thuyết trong những trang dưới đây:
9.4.1 – BẢN-ĐỒ TỔNG-QUÁT BIỂN-ĐÔNG
Hình 101. Tổng-quát Biển Đông.
Với những vùng hải-phận tranh-chấp. Các ranh-giới bao quanh Đài-Loan, Pratas, Hoàng-Sa, Trường-Sa trong giả-thuyết các quần-đảo này đứng riêng rẽ độc-lập.
9.4.2 – HẢI-PHẬN KINH-TẾ EEZ CỦA VIỆT-NAM
Trong hai giả-thuyết:
- tối thiểu khi mất hết biển cho Trung-Hoa và các nước láng giềng
- tối-đa trong giả-thuyết Việt-Nam sở-hữu cả hai quần-đảo Hoàng-Sa Trường-Sa, và không có sự tranh chấp hải-phận với các quốc-gia lân-bang. Trường-hợp này VN sẽ sở-hữu một hải-phận gấp 3, 4 lần lãnh-thổ.
Hình 102. Hải-phận Việt-Nam. Dựa trên một số luận án về hải-phận và sơ-đồ khai-thác dầu khí, chúng ta có thể ước-đoán một diện-tích triệu km2như vậy chăng?
9.4.3- HẢI-PHẬN KINH-TẾ EEZ CỦA TRUNG-CỘNG
Trong hai giả-thuyết:
- tối-thiểu khi Đài-Loan đứng độc-lập và Việt-Nam kiểm-soát cả Hoàng-Sa lẫn Trường-Sa. Nước Tàu với dân-số gần 1/4 nhân-loại nhưng hải-phận kinh-tế EEZ không hơn Việt-Nam bao nhiêu.
- tối-đa nếu hoàn-thành được mộng xâm-lược, hải-phận vùng Nam-Hải của họ tăng lên 5, 6 lần.
Hình 103. Hải-phận Trung-Cộng đòi hỏi quá đáng
9.4.4 – HẢI-PHẬN EEZ CỦA CÁC NƯỚC VIỆT-NAM, TRUNG-CỘNG, ĐÀI-LOAN, PHI-LUẬT-TÂN, MÃ-LAI-Á & BRUNEI
Trên Biển Đông trong gỉả-thuyết không có các quần-đảo Hoàng-Sa/Trường-Sa.
Trung-Cộng quyết-liệt ngăn-chặn đề-nghị này, cho dù bằng cả biện-pháp bạo-lực quân-sự.
Hình 104. Hải-phận Biển Đông nếu không có Hoàng-Sa Trường-Sa.
9.4.5 – HẢI-PHẬN EEZ CỦA VIỆT-NAM NẾU CÓ ĐẢO TRI-TÔN.
Tuy Tri-Tôn chỉ cách bờ Cù-lao Ré có 121 hl. nhưng về ranh-giới EEZ, đảo này chiếm vị-trí quan-trọng. Đảo Tri-Tôn kết-hợp với đảo Song-Tử Tây (CHXHCN Việt-Nam đang chiếm-đóng) cho Việt-Nam lý-lẽ để sở-hữu thêm một vùng hải-phận rộng lớn, diện-tích suýt soát lãnh-thổ trên lục-địa.
Hình 105. Vị-trí đảo Tri-Tôn trong Biển Đông tương-ứng với Song-Tử Tây trong việc phân-chia hải-phận.
Hình 106. Một đề-nghị phân-chia Hải-phận (200hl) Biển Đông theo Tiến-sĩ Mark J. Valencia của East-West Center, Hawaii. Việt-Nam chiếm 722,338km2.
Frédéric Lasserre sưu-tầm được một số họa-đồ hải-phận của Việt-Nam trong sách “Le Dragon et la Mer. Stratégies géopolitiques chinoises en mer de Chine du Sud”, L'Harmattan xuất-bản, Montréal /Paris, 1996. Kèm đây là 2 tấm trong tập bản-đồ đó, trình-bày nơi trang 190 của cuốn sách trên.
Hình 107. Vị-trí tổng-quát các lô dầu khí Việt-Nam theo hãng dầu BHP Petroleum.
10 – ĐẶC-TÍNH TỔNG-QUÁT CỦA CÁC ĐẢO HOÀNG-SA VÀ TRƯỜNG-SA
Khí hậu trên cả hai quần đảo đều thuộc nhiệt đới hải dương, không có mùa lạnh. Thực vật ở Hoàng-Sa phong phú hơn ở Trường-Sa nhiều, phần lớn có nguồn gốc lục địa như dưa, bàng bể (Terminalia Catappa), mù u (Calophyllum Inophyllum), bìm bìm (Convolulaceae), cỏ còng còng (Zoysia Matrelle), cỏ xạ tử (Sporolobus Virginicus) v.v... Chim, chủ yếu là hải âu, sống thành đàn cùng với ba họ chim chính là Laridés, Stéganopodés và Zosterops (chim sâu nghệ). Chính các loài chim này đã thải ra một lượng phân chim dày phủ kín nhiều khu vực trên các đảo, đã được dùng làm phân bón.[52]
10.1 – CẤU-TẠO ĐỊA-CHẤT
Có nhiều điểm đáng nói về cách cấu-tạo địa-chất của các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa. Trước hết, chúng ta duyệt xét các giả-thuyết cấu-tạo và sau đó tìm hiểu tuổi-tác các đảo.
Không giống như các đảo khác nằm gần bờ biển Việt-Nam, các đảo thuộc hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa không được tạo thành bởi các khoáng-chất như đất đá Regosol trong đất liền mà là tập-thể chồng chất các xác thân của san-hô, một loài sinh-vật dưới biển.
Kết-quả điều-nghiên của các chính-quyền Pháp, Mỹ và Việt-Nam cho biết hầu hết các đảo nằm giữa biển khơi vùng nhiệt-đới như Hoàng-Sa và Trường-Sa đều là các ám-tiêu san-hô, tiêu-biểu cho kiến-trúc ám-tiêu loại Thái-bình-Dương. San-hô là một loại sinh-vật nhỏ thuộc dòng Xoang-tràng (classes Anthozoa and Hydrozoa of the Phylum Coelenterata), sống tập-đoàn trên mặt những đảo ngầm vùng biển nhiệt-đới.
Hình 109.Hai loại san-hô thông-thường.
Đã có khá nhiều lý-thuyết hình-thành đảo san-hô. Trước hết là thuyết Darwin, sau này có các thuyết như của Quoy và Gaimard, Darwin, Krempf, Murray, Agassir v.v... Các công-trình nghiên-cứu của người Pháp, đặc-biệt của ông P. Chevey thuộc viện Hải-học Đông-Dương, rất hữu-ích cho những ai muốn tìm hiểu thêm về chi-tiết cấu-tạo đảo san-hô Biển Đông.
Lý-thuyết Darwin được một số nhà địa-chất tin-tưởng là chính-xác trong trường-hợp những ám-tiêu viền được thành-lập. Theo Darwin thì san-hô đã nhờ hoàn-cảnh thuận-lợi sinh-sản thành một tập-đoàn rộng lớn viền quanh một hòn đảo. Sau đó, chính sức nặng của san-hô và sự lún của đáy làm cho đảo từ từ chìm xuống, còn san-hô vẫn tiếp-tục phát-triển.
* Khi đảo không chìm hoàn-toàn, hệ-thống gồm đảo ở giữa, ám-tiêu viền ngoài bao bọc đầm nước bao quanh đảo.
* Khi đảo chìm hẳn, ta chỉ còn thấy ám-tiêu san-hô bao một đầm nước yên-lặng.
Hình 110. Sự hình-thành các đảo san-hô theo thuyết "lún đáy" của Darwin.
Hình 111. Thuyết của Darwin diễn-giải bởi Press & Siever.
Sau đây là tóm tắt một số kiến-thức về sự hình-thành các đảo san-hô, trích từ hai bài "Thử khảo-sát về quần-đảo Hoàng-Sa" của giáo-sư Sơn-Hồng-Đức, đăng trong Đặc-san Sử-Địa số 29 năm 1975, trang 185-206 và "Iles et Récifs de Coraux de la Mer de Chine" báo Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, bộ IX, số 4, Saigon ngày 10/12/1934, trang 48-56.
Các lý-thuyết hình-thành đảo san-hô khá nhiều. Không có thuyết nào hoàn-toàn sai lạc. Có lẽ mỗi giả-thuyết đúng vào một khía cạnh nào đó trong tiến-trình kết-tụ những đảo san-hô:
a- Thuyết của Quoy và Gaymard cho rằng san-hô thành-lập trên miệng những hoả-diệm-sơn ngầm dưới biển. Khoa địa-chất đã ghi nhận nhiều núi lửa ngầm hình-thành khi có địa-chấn trong vùng Biển Đông. Thuyết này không hoàn-toàn đúng vì tại vài vùng có ám-tiêu san-hô lại không thấy có núi lửa.
Hình 112. Thuyết hình-thành các đảo san-hô trên miệng núi lửa của Quoy và Gaimard.
b- Thuyết của Murray là một thuyết tác-động hóa-học. Các phân-tử vôi có trong nước biển kết-tụ trên những đỉnh núi ngầm. Khi khối vôi này cao dần đến tầng nước có ánh-sáng mặt trời đầy đủ thì san-hô bám vào và sinh sản. Murray cho rằng chính giữa khối san-hô, khí CO2 tích-tụ nhiều đã xâm-thực-hóa san-hô làm vùng giữa biến mất.
Hình 113.Thuyết hình-thành các đảo san-hô của Murray.
c- Thuyết của Agassiz cho rằng nền đất đá tạo-lập nên quần-đảo san-hô là quan-trọng. Agassiz nghiên-cứu vùng Great Barrier ở Úc thấy rằng lớp san-hô không dầy lắm. Phải có cái nền thích-hợp là dải núi ngầm dưới biển thì mới có dẫy đảo san-hô. Phần kết-tụ được Agassiz trình-bày phần nào giống như thuyết Murray.
Hình 114. Thuyết hình-thành các đảo san-hô của Agassiz đặt quan-trọng ở dải núi ngầm.
d- Thuyết của Krempf liên-hệ đến gió mùa. Đây là một giả-thuyết mới về sự tạo-lập những đảo san-hô. Theo ông nhờ các phản-ứng hóa-học, những vật-chất lững lờ trong nước kết-hợp với san-hô. Tập-thể này tiến-triển theo chiều thẳng đứng và dần dần tạo thành đảo. Krempf cho rằng khi san-hô nổi lên thì bị sóng và gió xâm-thực, những vật-liệu bị gió mùa xâm-thực sẽ bị cuốn rơi vào bên trong đè lớp san-hô bên trong và giết chết đi. Tới khi gió mùa nghịch lại thì vùng bên kia lại bị xâm-thực và vật-liệu cũng rơi vào bên trong... Vòng đai san-hô vì thế thường có hình bầu dục kéo dài theo chiều ảnh-hưởng của gió mùa.
Biển Đông là vùng biển có hai vụ gió mùa Đông-Bắc và Tây-Nam thật rõ rệt trong năm. Lý thuyết Krempf giải-thích được tại sao các ám-tiêu san-hô lớn trong các quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa lại giống như những hình bầu-dục khổng-lồ kéo dài theo cùng hướng, từ Đông-Bắc đến Tây-Nam.
Hình 115. Thuyết hình-thành đảo san-hô với gió mùa của Krempf
10.2 – ĐẤT-ĐAI SAN-HÔ
Các đảo ở Trường-Sa và Hoàng-Sa đều là các ám-tiêu san-hô. Đặc-tính đất đai vì đó khác-biệt với đất-đai các đảo ven biển cũng như đất đai vùng duyên-hải.
Trong bản "Phúc-trình Cuộc Thám-sát Hòn Nam Yít thuộc Quần-đảo Trường-Sa vào mùa thu năm 1973" Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh viết như sau:
"...Đây là những ám-tiêu san-hô tiêu-biểu trong vùng Thái-bình-Dương. Trong quá-trình địa-chất, hòn Nam-Yít được thành-lập do sự nguội đặc của dung-nham huyền-vũ phún-xuất ngầm dưới mặt nước. Về sau san-hô bám vào đó và tăng-trưởng mau lẹ nhờ vào các điều-kiện thích-hợp cho môi-trường sinh sống của chúng như chiều sâu của mực nước biển, nhiệt-độ lượng Oxy...
San-hô nhờ có vỏ vôi nên khi chết, vỏ sẽ hóa cứng và thành-lập nên đá vôi san-hô có nguồn-gốc sinh-học.
...Đất đai thuộc nhóm Regosol trắng ở ven bìa hòn là các đụn cát thấp nằm che phủ lớp đá vôi san-hô bên dưới. Trắc-diện đất (được đo) có chiều sâu thay đổi từ 40cm đến 120cm.
...Trắc-diện (đụn cát ven bìa) có sa-cấu cát pha thịt nên độ thoát thủy mạnh và khả-năng giữ nước kém. — ven bìa hòn đảo, nước mặn thấm-nhập nên độ dẫn điện trong dung-dịch đất khá cao. Ngoài ra vì trong cát có lẫn thật nhiều mảnh vỏ sò, ốc, san-hô bằng CO3Ca bị nát vụn nên lượng Ca trao đổi được chiếm tỉ-lệ thật cao.
Trong khi các trắc-diện lấy ở giữa hòn, nơi các chỗ trũng có cây cối mọc tươi tốt nên trong đất có lượng chất hữu-cơ rất giàu do thực-vật bị hủy-hoại cung-cấp, độ dẫn-điện, lượng Ca và Na giảm đi một cách rõ rệt, đồng thời chất lân và Mg đồng-hóa cao hơn so với nơi bìa đảo. Sa cấu của đất tương-đối cũng ít cát hơn, giàu đất thịt và sét hơn, do đó đất tương-đối chậm thoát thủy hơn.
Các nhận-xét trên cho thấy là đất đai ở giữa hòn thích-hợp cho việc canh-tác hơn so với ven bìa nhờ khá giàu chất hữu-cơ, lân, chậm thoát thủy và nhất là ít bị mặn.
...Kết-quả cuộc thám-sát tại chỗ cho thấy đất đai trên hòn Nam-Yết không đủ khả-năng nuôi sống vài chục người nếu chỉ tự-lực canh-tác."
Hình 116. Bảng phân-chất đất trên đảo Nam-Yết của Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh.
Tuy vậy Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh cũng kêu gọi các quân-nhân đồn-trú nên ý-thức việc tự-lực cánh-sinh mạnh mẽ như Lỗ-Bình-Sơn hơn là chỉ lệ-thuộc hoàn-toàn vào nguồn thực-phẩm tiếp-tế từ đất liền.
10.3 – KÍCH-THƯỚC VÀ TUỔI-TÁC CÁC ĐẢO
Các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa thường thấp và nhỏ. Tuổi của san-hô cấu tạo nên đảo khó mà biết được chính-xác.
10.3.1 - KÍCH-THƯỚC CỦA ĐẢO SAN-HÔ
San-hô, nguyên-chất cấu tạo nên đảo, là loài thủy-sinh-vật; tuy chúng có thể nảy nở và phát-triển theo chiều cao, nhưng khi đạt đến một cao-độ giới-hạn nào đó thì chúng ngưng lại vì san-hô không thể sinh-tồn được nếu bị đẩy ra ngoài nước quá lâu. Trong khi mặt biển lên xuống theo thủy-triều, độ cao mực nước lại cũng ảnh-hưởng theo với cả tình-trạng nóng lạnh của trái đất. Khi băng đá tích-tụ nhiều ở hai địa-cực thì mực nước biển thấp, khi băng đá tan rã thì mực nước dâng lên cao.
Giáo sư Sơn-Hồng-Đức cho rằng các đảo san-hô không thể nào cao hơn mực nước cao nhất của bể thời trước.
Tại quần-đảo Hoàng-Sa, ngoài Đảo Đá là hòn cao nhất, tới 50ft (16 m); những hòn đảo khác thấp hơn nhiều. Nhìn chung các đảo Hoàng-Sa cao hơn hẳn những đảo ở Trường-Sa vì Nam-yết hay Song Tử Tây là đảo cao nhất của quần-đảo Trường-Sa chỉ vào khoảng 15ft, hay chưa quá 5m (có tài-liệu ghi 20m hay 60ft, những con số này không đúng).
Hình 117. Theo P. Chevey, các ám-tiêu san-hô không mọc cao được vì phần san-hô nằm trên mực nước lớn của thủy-triều sẽ bị chết.
Chỉ cách Hoàng-Sa chừng hơn 100 Hải-lý về phía đất liền Việt-Nam, mà hòn Cù-Lao Ré nhờ sự cấu-tạo địa-chất khác-biệt nên rộng lớn (dài khoảng 5km) và cao hơn nhiều, tới 590ft (180m).
Vì cao-độ của các đảo san-hô khiêm-tốn như vậy, những người lái tàu thuyền chỉ nhận ra đảo khi lại thật gần. Đảo đã thấp sát mặt biển, lại còn rải rác nhiều bãi cạn hay rặng san-hô mọc ngầm nữa. Những nguy-cơ thảm khốc cho người đi biển thật bất ngờ và thật nhiều. Khi thời-tiết xấu và trong đêm tối, đặc-biệt lúc giông bão; số lượng thương-thuyền hay chiến-hạm đã mắc cạn ở những vùng này không có thống-kê nào ghi lại cho hết được. Có nhiều xác tàu trơ trọi, những ống khói và đài chỉ-huy nhô lên mặt biển nhắc nhở bao tai-nạn hãi-hùng đã xảy ra.
10.3.2 – TUỔI ĐẢO: THẬT GIÀ VÀ THẬT TRẺ
- Hiện chưa có sự định tuổi chính-xác cho các đảo Hoàng-Sa/ Trường-Sa, nên chúng ta chỉ có thể phát-biểu một cách tổng-quát là sự hiện-hữu của chúng đã từ cuối đệ tứ nguyên-đại, trong vòng nhiều triệu năm...
Xin lấy một thí-dụ để so sánh tuổi-tác của bãi ngầm san-hô Bikini thuộc quần-đảo Marshall Islands, nơi vụ thí-nghiệm nổ nguyên-tử ngầm dưới nước diễn ra năm 1946. San-hô nơi đây, tương-tự như Hoàng-Sa/Trường-Sa, nhưng dầy tới hàng ngàn feet, được định tuổi là 30,000,000 năm.
Chúng ta biết rằng từ khi biển thành-hình, mực nước biển đã từng lên xuống nhiều lần. Vì mực nước ngày nay đang ở cao-độ tối-đa và san-hô chỉ mọc trong nước, thế nên phần phía trên của đảo chắc chắn chỉ mới xuất hiện trong vòng mười mấy ngàn năm trở lại đây, khi nước biển ở mức-độ 40m hay 50m thấp hơn hiện-thời. Phần san-hô chìm sâu trong lòng biển hẳn nhiên phải già nua hơn nhiều.
- Căn-cứ trên những tài-liệu nghiên-cứu đã phổ-biến, các nhà địa-chất tin-tưởng rằng nhiều đảo san-hô trong Biển Đông đang tiếp-tục thành-hình và một số đảo sẽ có thể bị biến mất vì những chuyển-động địa-chấn.
Báo Economist, July 7, 1990 loan tin chỉ mới đây, vào năm 1988 bỗng-nhiên có một hòn đảo nhỏ nổi lên gần bờ vùng Sabah của Mã-lai-Á, cho dù không có những rung-chuyển địa-chấn gì dữ dội (bài "Fishing for Trouble in the Spratlys", trang 36).
Ngoài ra sự hình-thành cũng như sự tồn-tại của các đảo còn lệ-thuộc vào môi-trường sinh sống của san-hô như ánh-sáng, nhiệt-độ, đặc-tính đáy biển, độ mặn và lượng Oxy trong nước biển...
- Theo những tài-liệu ghi nhận được từ các nhà hàng-hải thì trong khoảng vài trăm năm nay trở lại đây, một số đảo mới tiếp-tục xuất-hiện và cao dần:
* Vào tiền-bán thế-kỷ XIX, ông Gutzlaff thuộc hội Geographical Society of London đã viết trong bài nhan-đề "Geography of the Cochinchinese Empire" như sau: “...quần-đảo Cát Vàng gần bờ biển An-Nam, nằm giữa các vĩ-tuyến 15 và 17 độ Bắc và các kinh-tuyến 111 và 113 độ Đông... không biết vì san-hô hay vì lẽ gì khác mà các ghềnh đá ấy cứ lớn dần, thật rõ ràng là các đảo nhỏ ấy cứ mỗi năm mỗi cao hơn. Có vài hòn bây giờ có thể cư-trú được mà mấy năm trước, sóng còn vỗ mạnh đập tràn qua...”[53]
* Bãi Thuyền Chài tại quần-đảo Trường-Sa chỉ mới nổi lên mấp mé mặt nước hồi gần đây. Toàn bãi hiện nay đã dài khoảng 32km, chỗ rộng nhất vào khoảng 5-6km (Lịch văn-hóa Việt-Nam, Hà-nội 1989). Như vậy bãi đang cao dần, có thể sau này vài ba chục năm sẽ trở thành đảo hay một nhóm đảo nhỏ. Tuy vậy hiện nay bãi Thuyền Chài chưa có đủ an-toàn cho con người cư-trú.
10.4 – HOÀNG-SA VÀ TRƯỜNG-SA THUỘC VIỆT-NAM VỀ PHƯƠNG DIỆN VỊ TRÍ
Quần-đảo Hoàng-Sa nằm giữa vùng Biển Đông của nước Việt-Nam, ngang bờ biển các tỉnh Quảng-Trị, Thừa-Thiên, Quảng-Nam và một phần Quảng-Ngãi. Còn hầu hết các đảo của Quần-đảo Trường-Sa nằm ngang vĩ-độ với Phan-Rang – Cà-Mâu.
Về khoảng cách đất liền, quần-đảo Hoàng-Sa nằm gần Việt-Nam nhất. Sự so sánh như sau:
- Khoảng cách từ đảo Tri-Tôn (15o47'N, 111o12'E) tới Lý-Sơn hay Cù-lao Ré (15o22'N, 109o07'E) là 2 độ 03 phút trên thước đo khoảng cách vĩ-độ, tức chỉ có 123 hải-lý.
Hình 118. Bản-đồ ghi khoảng cách các đảo gần nhất của quần-đảo Hoàng-Sa đến các đảo gần đất liền (Trích từ Bản-đồ Southeast Asia - National Geographic Society - Washington DC, 1968).
Nếu lại lấy toạ-độ (Lý-Sơn 15o23.1'N, 109o09.0'E) từ trong bản tuyên-cáo đường cơ-sở nội-hải của chính-quyền CHXHCN Việt-Nam (Declaration on Baseline of Territorial waters, 12 Nov. 1982) thì khoảng cách đến bờ Cù-lao Ré thu ngắn lại dưới 121 hải-lý.
Từ đảo Tri-Tôn này đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan 15o14'N, 108o56'E) tức đất liền lục-địa Việt-Nam, khoảng cách đo được 135 hải-lý.
- Trong khi đó, khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải-Nam xa tới 140 hải-lý (đảo Hoàng-Sa - 16o32N, 111o36 E và Ling-sui Pt hay Leong-soi Pt - 18o22 N, 110o03 E). Khoảng cách từ Hoàng-Sa tới đất liền lục-địa Trung-Hoa còn xa hơn rất nhiều, tối-thiểu là 235 hải-lý.
- Nếu người Trung-Hoa dùng "bãi đá ngầm" (North Reef) làm chuẩn để đo đến bờ "đảo" Hải-Nam tại Ling-sui Pt, họ "tạo" ra khoảng cách thật gần: 112 hải-lý! Điều đó không thể là một lý lẽ tranh cãi vì đá ngầm không có giá-trị như đảo trong việc chuẩn-định ranh giới.
Luận-lý khoảng cách và số lượng đảo của người Việt lúc xưa như Đỗ-Bá, Lê-quý-Đôn không hoàn-toàn sai lạc quá đáng như cách-thức xuyên-tạc của người Trung-Hoa khi cho rằng Bãi Cát Vàng trong sách cổ Việt-Nam không phải là quần-đảo Hoàng-Sa ngày nay. Lý-luận của họ thật ngoan-cố hay kiến-thức hàng-hải của họ ấu-trĩ khi nói rằng thuyền đi một vài ngày làm sao tới được Hoàng-Sa.
Các nhà hàng-hải ngoại-quốc như Pierre Paris (1942), J. B. Piétri (1949) cho biết ghe thuyền chạy buồm Việt-Nam xưa nay có vận-tốc rất cao, vượt các tàu thuyền Âu-châu đồng thời. Chiến-thuyền thời chúa Nguyễn đã chứng tỏ luôn luôn chiếm ưu-thắng về vận-tốc khi hải-chiến. Hải-quân Việt nhiều lần đánh đuổi tàu Hòa-Lan (năm 1644) cũng như đã từng trước đó đánh chìm hai tàu của họ (năm 1643) nhờ chạy nhanh.
Sự thật rành rành, Tri-Tôn là một trong các đảo Hoàng-Sa chỉ cách bờ đất Trung-Việt có 135 hải-lý, cách bìa Cù-Lao Ré 121 hải-lý. Các đội Hoàng-Sa đặt căn-cứ và xuất-phát từ Cù-lao-Ré. Khi thuận buồm, suôi gió, với vận-tốc 12 gút (hl/giờ), cơ-hội cho những ghe bầu Việt vượt khoảng này trong vòng nửa ngày không phải không có.
Ngay trong những sách cổ cũng nói là thuyền ta đi từ Quảng-Ngãi đến Quảng-Đông chỉ trong 3, 4 ngày. Từ bờ ra Tri-tôn khoảng cách ngắn ngủi hơn 1/6 đoạn đường kể trên. Người thời nay, có lẽ vì ít đi biển nên cho rằng việc chạy ra đảo khó khăn quá chăng? Học-giả Lê-quý-Đôn khi viết trong "Phủ-biên Tạp-lục", đã cho biết những đường giao-thương vượt biển dễ dàng hồi hai ba thế-kỷ về trước như sau: "Xứ Thuận-Quảng, đường thủy và các đường lục giao-thông với tỉnh Quảng-Nam... Còn đường biển thì hai xứ Thuận Quảng chỉ cách tỉnh Mân và tỉnh Quảng-Đông của Trung-Quốc có ba bốn ngày đường nên các tàu buôn Trung-Quốc từ xưa đến nay thường-thường tụ-tập ở hải-phận Thuận-Hóa và Quảng-Nam."
Hình 119. Bản-đồ cổ chỉ-định vị-trí Hoàng-Sa/Trường-Sa ngoài khơi Biển Đông. (Trích Đại-Nam Nhất-thống Toàn-đồ triều Nguyễn).
Nếu Trung-Cộng nói Hoàng-Sa trong sách cổ Việt-Nam không phải Hoàng-Sa vậy thì ngoài khơi Cù-lao-Ré (Lý-sơn) trở ra biển có còn bất cứ một đảo hay quần-đảo nào (ngoài Hoàng-Sa) hay không? ...còn có đảo nào nằm giữa Cù-lao Ré và quần-đảo Hoàng-Sa nữa đâu?
Bản-đồ cổ của Á-Đông không đặt nặng tỷ-lệ. Trên các bản-đồ tượng-hình của ta và của Tàu có khi cả một quận, một tỉnh chỉ được vẽ lớn bằng một cửa sông, một ngọn núi lớn hàng trăm dặm. Sử-gia Phạm-văn-Sơn đã viết: "...Kỹ-thuật của ta trong việc vẽ bản-đồ đã theo lối tượng-hình, như vậy có khác kỹ-thuật vẽ bản-đồ của Âu-châu có phần tinh-vi hơn nhưng dù sao lối vẽ của ta cũng như của Tàu vẫn có thể giúp người coi hình-dung được thế sông ngòi, núi non và các địa-phương trong nước." (Việt-sử Toàn-thư, 1960: 489).
Bỏ ngoài những khoảng cách lớn nhỏ không theo tỷ-lệ như đã nói, người ta thấy bản-đồ cổ thời Hồng-Đức (1460-1498) do nho-sĩ Đỗ-Bá công-bố (khoảng 1630-1653) và bản-đồ nhà Nguyễn chỉ-định rõ ràng là vị-trí Hoàng-Sa/Trường-Sa nằm ở ngoài khơi duyên-hải Việt-Nam.
Người Tàu vẫn tự cho là nước họ giỏi Địa-lý, và bản-đồ Trung-Hoa vẽ chính-xác hơn bản-đồ Việt-Nam nhưng triều-đình hay dân Trung-Hoa đã có thực-hiện một bản-đồ nào ghi nhận những chi-tiết địa-lý tương-tự về Hoàng-Sa Trường-Sa như vậy không?
10.5 – HOÀNG-SA/TRƯỜNG-SA THUỘC VIỆT-NAM VỀ PHƯƠNG-DIỆN ĐỊA-HÌNH ĐÁY BIỂN
Về địa-hình đáy biển, quần-đảo Hoàng-Sa nằm sát với thềm lục-địa của Việt-Nam.
Hình 120. Bản-đồ chiều sâu đáy biển chứng-minh quần-đảo Hoàng-Sa là phần nối dài của lục-địa Việt-Nam.
- Toàn thể khu-vực quần-đảo Hoàng-Sa nổi cao hơn vùng biển vây quanh nó. Nền đất toàn quần-đảo này được nối thẳng vào thềm lục-địa Việt-Nam như đi qua cái cửa ngõ thông vào vùng Cù-lao Ré và bờ biển Quảng-Ngãi. Hành-lang đó khá nông, chỗ sâu nhất chỉ chừng 500m. Trong khi đó, đáy biển đột ngột lại sụt xuống về phía Trung-Hoa, độ sâu lên tới hàng ngàn mét, rồi 2000m, 3000m hay hơn nữa.
- Những hải-đồ có ghi độ sâu đáy biển chứng-minh rõ sự kiện này. Đường đồng-thâm (thủy) 1000 thước bao kín các vùng về phía Bắc và Đông, trong khi lại mở rộng qua phía Việt-Nam theo chiều hướng Tây Tây Nam.
Nói một cách khác, nếu mực nước biển hạ xuống chừng 600 tới 700m thì Hoàng-Sa dính vào Việt-Nam như một khối đất liền và xa cách hẳn Trung-Hoa bằng một vùng biển nước sâu.
Tiến-sĩ Krempf, giám-đốc Hải-học-viện Đông-Dương là người đầu tiên đã đo đạc kỹ-lưỡng độ sâu đáy biển Hoàng-Sa và thấy rằng quần-đảo này là một cái bình-nguyên ngoài biển, được nối dài ra từ rặng núi Trường-Sơn của Trung-phần Việt-Nam. Trong tờ tường-trình kết-quả khảo-sát năm 1925, ông kết-luận: "Về phương-diện địa-chất, như vậy, những đảo Hoàng-Sa là một phần của Việt-Nam." (Géologiquement, donc, les Paracels font partie du Việt-Nam).
Bài báo-cáo được ghi nhận lại trong tập tổng-kết báo-cáo của Nha Thủy-Đạo và Ngư-Nghiệp lên chính-quyền Đông-Pháp niên-khóa 1926-1927.
Hình 121. Bản-đồ chiều sâu đáy biển chứng-minh quần-đảo Trường-Sa là phần nối dài của lục-địa Việt-Nam.
Nội-dung những kiến-thức về Hoàng-Sa tương-tự như vậy được Olivier A. Saix đăng lại trong báo La Géographie, Tome LX, Nov.-Dec. 1933, trang 232-243.
Sau này có một bài tham-khảo nữa của Marcel Beauvois cũng là một người Pháp như Krempt, lập lại sự kiện "về phương-diện địa-chất, Hoàng-Sa là một phần của Việt-Nam".[54]
Về địa-hình đáy biển, Trường-Sa cũng rõ rệt nối liền với Việt-Nam hơn bất cứ một quốc-gia nào khác bao quanh Biển Đông. Bờ biển Nam-phần Việt-Nam chạy thoai-thoải tới tận bãi Tứ-Chính thuộc Trường-Sa. Trong thời Băng-Đá, sông Cửu-long cùng những con sông nhỏ khác trên đồng-bằng Sunda đã đưa phù-Sa theo dòng nước chảy ra biển Trường-Sa.
Nhìn trên những hải-đồ có ghi các đường đẳng sâu (đồng-thâm), người ta thấy quần-đảo Trường-Sa cách biệt hẳn với thềm lục-địa Trung-Hoa/Đài-Loan bằng rãnh biển sâu 3,000m về phía Bắc và phía Đông-Bắc. Trường-Sa cũng ngăn cách với Phi-luật-Tân, Brunei và Mã-lai-Á (Tiểu-bang Sabah) bằng rãnh biển East Palawan Trough.[55]
10.6 – HOÀNG-SA/ TRƯỜNG-SA THUỘC VIỆT-NAM VỀ PHƯƠNG DIỆN ĐỊA-CHẤT VÀ SINH-HỌC
Một người gốc Trung-Hoa như Ting Tsz Kao đã nói rằng nhìn chung thấy sự tuyên-bố chủ-quyền của Trung-Hoa ở Nam-Hải là điều kỳ-quặc và tham-lam quá đáng, nhưng xét về địa-lý thì đúng là của Tàu (sic!).
Chỉ vì sự tham-lam mà các ông trí-thức như vậy đã biện-luận một cách chủ-quan, không cần phải trái, bất-chấp cả lý-lẽ hiển-nhiên về địa-lý. Nguyên-văn lời ngụy-biện đó như sau: "This island complex in international waters appears at first sight a little odd or monstrous. But when one considers the geographical composition of the Chinese ocean frontier as a whole, the continuity of the possession of the archipelagoes becomes perceivable and reasonable".[56]
10.6.1 – ĐỊA-CHẤT
Các đảo của Trung-Hoa từ Bành-Hồ, Đài-Loan trở lên phía Bắc, cấu tạo bằng những đất đá của nền đại-lục như granite, igneous rock. Các đảo vùng Biển Đông của ta cấu-tạo khác hẳn, bằng san-hô. Các quần-đảo lại không quy-tụ nhiều đảo. Chỗ Kim-Môn (12 đảo) Mã-Tổ (7 đảo), các hải-đảo khá cao và lớn, số lượng đảo thưa thớt. Xuống đến Pratas, tuy người Tàu gọi cưỡng ép là Đông-Sa Quần-đảo (Tungsha) nhưng xứng-đáng kể là đảo (Island) theo Luật Biển, chỉ có thể ghi-nhận một đảo mà thôi. Số-lượng này ít ỏi quá, không sao có thể nói là tương-đồng với số lượng là 500 đơn-vị đất đá ở Hoàng-Sa và Trường-Sa được.
Hình 122. Bản-đồ "quần-đảo" Pratas với một đảo duy nhất.
Về những thành-tố cấu tạo, hai quần-đảo Hoàng-Sa cũng như Trường-Sa mang đặc-tính Việt-Nam:
- Các đảo đều là những ám-tiêu san-hô tiêu-biểu cho vùng biển nhiệt-đới của Việt-Nam.
- Khí-hậu ôn-đới của Trung-Hoa không cho phép sự cấu-tạo các quần-đảo san-hô rộng lớn như vậy. Người ta cũng chẳng bao giờ thấy tuyết rơi ở Hoàng-Sa như nơi Hoa-lục.
10.6.2 – THỰC-SINH
Cây cỏ trên đảo đều là cây cỏ nhiệt-đới loại cây cỏ đất liền Việt-Nam. Nhiều cây lớn được người Việt-Nam mang ra trồng từ lâu. Cây mọc cao như các dấu hải-hiệu giúp cho nhiều tàu thuyền tránh khỏi tai-nạn mắc cạn. Cây cũng giúp đảo giữ đất, tránh sóng, gió, nước xâm-thực.
Đại-Nam Thực-lục Chính-biên đệ-nhị kỷ quyển 104 chép rằng: Vua Minh-Mạng bảo bộ Công: "Trong hải-phận Quảng-Ngãi, có một dải Hoàng-Sa, xa trông trời nước một mầu, không phân biệt được nông sâu. Gần đây, thuyền buôn thường mắc cạn bị hại. Nay nên dự-bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu lập bia, và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người ta dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời."
Người Tàu nói dựa vào sử-ký tuyên-bố chủ-quyền toàn thể Biển Đông, nhưng không có sử sách nào của người Tàu ghi được công-lao hay chứng-tích tương-tự như vậy!
10.6.3 – SINH-HÓA
Lòng Biển Đông chất chứa các lớp thủy-tra-thạch. Sau nhiều triệu năm các chất hữu-cơ đã tích-tụ lại, chịu sức ép của nhiều lớp địa-tầng nên dần dần biến đổi thành dầu hoả hay khí đốt. Các khoa-học-gia cũng thấy những đặc-tính Việt-Nam trong sự biến-thể đó như sau:
Hình 123. Bản-đồ đáy biển với các con sông thời cổ nối dài theo sông Hồng, nước chảy ra biển Hoàng-Sa.
- Bản-đồ địa-chất ghi nhận dấu vết những dòng sông thời xưa chảy ra tới tận trung-tâm Biển Đông.
- Tài-nguyên đáy biển như dầu hoả và khí đốt thường tạo thành những túi kẹt giữa những lớp đá kết tầng (sediments).
- Nhiều lần trái đất đã trải qua những thời-kỳ Băng-Giá lạnh lẽo. Nước biển hạ xuống rất thấp và vịnh Bắc-Việt đã qua nhiều giai-đoạn khô cạn cùng ngập nước nối-tiếp nhau. Khi khô cạn, đó là một vùng đồng-bằng bằng phẳng, ít núi non. Bờ biển lúc này chạy ra xa, tới gần Hoàng-Sa.
- Sông Hồng-Hà của Việt-Nam đã từng cuồn cuộn chảy với lưu-lượng nước nhiều lần lớn hơn hiện-thời. Có lẽ mấy triệu năm trước trong thời địa-chất Pleistocene, dòng sông nước đỏ phù-Sa này vào hạng lớn nhất hoàn-cầu. Khi đó, hầu hết nước từ cao nguyên Tây-tạng đã đổ vào sông Hồng. Từ trên cái "mái nhà của trái-đất", nguồn nước hùng-vĩ đã mang ra Biển Đông những khối-lượng phù-Sa khổng-lồ, tạo nhiều lớp kết tầng thủy-tra-thạch tại Hoàng-Sa. Rồi dòng sông chính của miền Bắc nước ta bị thu nhỏ khi địa-chấn xảy ra, nâng cao khu Vân-Nam cắt ngắn thượng-nguồn Hồng-Hà lại như ta thấy hiện nay. Nguồn nước từ đó bắt đầu chảy sang phía Dương-Tử-Giang làm con sông vùng Hoa-Nam thêm to lớn.[57]
Cũng nhớ rằng vùng châu-thổ Dương-tử-Giang lúc xưa, theo sử Tàu, đã có người Việt cổ sinh sống đông-đúc. (Xem hình số 12).
- Sông Cửu-Long hay Mê-Kông của miền Nam nước Việt cũng đã làm việc tương-tự như vậy để cấu-tạo nên những lớp thủy-tra-thạch ngoài khơi Trường-Sa. Mới chừng chục ngàn năm trước, sông Kông (Sông Mẹ với Kông là sông - Mê là mẹ?) từng đưa nước tưới khắp phía Đông-Nam của vùng bình-nguyên rộng lớn Sunda.
Hình 124. Bản-đồ đáy biển với các con sông thời cổ nối dài theo sông Cửu-Long, nước chảy ra biển Trường-Sa. (Hình 76 & 77 của Geological Topographic Mapping Party of Fujian Province, 1980's).
Các túi dầu như Rồng, Dừa, Bạch-Hổ, Đại-Hùng... chỉ mới là những kết-quả sơ-khởi. Cứ đi theo vết cũ của sông Kông, càng ra xa chúng ta càng có thêm hy-vọng tìm thấy nhiều túi dầu lớn hơn nữa.
Cũng tương-tự như thực-vật trên đảo, các thủy-sinh-vật dưới Biển Đông mang những mối liên-hệ Việt-Nam:
- Một tỷ-lệ lớn những chất hữu-cơ ở Biển Đông được mang đến nhờ những dòng nước chảy từ lục-địa Việt-Nam mà ra. Các chất dinh-dưỡng cho thủy-sinh-vật cũng cùng một nguồn đất Việt-Nam đó.
- Nhiều hải-sinh-vật Hoàng, Trường-Sa thuộc vùng nhiệt-đới, rất quen thuộc với người Việt chúng ta nhưng xa lạ với người Tàu. Báo-chí cho biết vào tháng 9/1994, Trung-Hoa khai-mạc khu trưng-bày 5000 mẫu sinh-vật Hoàng-Sa thì phần 500 hải-sinh-vật đã được hết sức tán-thưởng. Lý-do đúng nhất là vì hải-sinh-vật Hoàng-Sa vốn xa lạ quá, nhiều người Trung-Hoa mới chỉ thấy lần đầu mà thôi, họ đi xem cho thoả tính hiếu-kỳ!
11 – THẢO MỘC HOÀNG-SA VÀ TRƯỜNG-SA
Thảo-mộc hai quần-đảo Hoàng, Trường có nhiều điểm đáng nói:
11.1 - TỔNG-QUÁT VỀ THẢO-MỘC CÁC ĐẢO NGOÀI BIỂN-ĐÔNG
Hình 125. Một hình-ảnh thảo-mộc quen thuộc ở Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Nói chung, thảo-mộc các đảo giữa Biển Đông không nhiều và không được to lớn như trong đất liền. Thảo-mộc Hoàng-Sa Trường-Sa cũng không tươi-tốt khi đem ra so sánh với những cây cỏ mọc trên các đảo vịnh Bắc-Việt, vịnh Phú-Quốc. Về cây lớn, ít có đại-thọ và không thấy các loại gỗ quý. Về thân thảo, đáng kể đến loại Nam-Sâm mọc nhiều ở Trường-Sa và một số đảo khác ở Biển Đông. Đây là một dược-liệu quý-giá. Một số loại cỏ hay giây leo khác nữa mọc lung-tung nhưng không nhiều.
Trên duyên-hải và trên những đảo ven biển Việt-Nam, cây dừa mọc khắp nơi và phi-lao rất nhiều, Hoàng-Sa và Trường-Sa lại khác hẳn. Dừa và phi-lao mọc trên các đảo thật thưa thớt, có đảo không có một cây dừa nào.
Linh-mục Henry Fontaine và giáo-sư Lê-văn-Hội xác-định "Không có loại thảo-mộc nào là tại chỗ cả, tất cả từ vùng đất liền du-nhập đến bằng nhiều cách... Mọi thảo-mộc hiện có ở Hoàng-Sa đều tìm thấy ở Việt-Nam, nhất là miền Trung Việt-Nam.[58]
11.2 - TÀI-LIỆU CỦA GIÁO-SƯ FONTAINE.
Về dữ-kiện khoa-học, chúng tôi xin trích một vài đoạn trong bài "Hoàng-Sa dưới mắt nhà Địa-chất H. Fontaine" của Lạp-Chúc Nguyễn-Huy, đăng trong Đặc-San Sử-Địa số 29 năm 1975 để làm tài-liệu. Những chữ phần gc (ghi-chú) do chúng tôi mạn phép ghi thêm cho dễ hiểu:
...Về tộc-đoàn thảo-mộc, cho đến nay người ta mới biết có bốn loại: Scaevola Koenigii VAHL (Goodeniacée), Wedelia biflora DC (Composée), Guettarda speciosa LINNé (Rubiacée) và Tournefortia agentae (Boraginacée) (Saurin, 1955, tr. 14-15).
...Dưới đây là các định-danh, một phần đã được ông Schmidt làm:
GRAMINÉES (gc = họ hoà-bản)
* Eleusine indica GAERTIN: đảo Pattle [Hoàng-Sa) (ít gặp): cây gặp khắp nơi tại Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao, Thái Lan. Vùng nhiệt-đới và bán nhiệt-đới của cựu-lục-địa.
* Eragrotis amabilis WIGTH ET ARN: đảo Pattle [Hoàng-Sa](ít gặp): khắp nơi ở Việt-Nam, Ấn-độ, Mã-Lai.
* Eriochloa racemosa HACK: đảo Roberts (Hữu-Nhật) (ít) gặp khá thường ở Việt-Nam, Á-Châu, Phi-Châu, Mã-Lai, Úc-đại-Lợi.
* Brachiaria distachya A. CAMUS: đảo Pattle (Hoang-Sa) (ít): khắp nơi ở Việt-Nam, Ấn-Độ, Trung-Hoa, Mã-Lai, Úc-đại-Lợi.
* Lepturus repens R. Br.: (ít); được thấy ở Bắc-Việt, Thái-Lan, Tích-Lan, Đại-Dương-Châu.
AMARANTACÉES (gc= họ dền)
Achyrantes aspera LIN.: đảo Money (Quang Ảnh) (thường): cây mọc trên hoang-địa, rất thường ở Việt-Nam, Cao-Miên, Ai-Lao, Trung-Hoa, Ấn-Độ.
NYCTAGINACÉES (gc= họ bông-phấn)
Boerhaavia repens LIN.: đảo Money [Quang Ảnh), đảo Drummond [Duy Mộng): khắp nơi ở Việt-Nam, Cao-Miên, Hoa Nam, Ấn-Độ, Phi-Luật-Tân, Java, Phi Châu, Mỹ-Châu.
PORTULACACÉES (gc= họ sam)
Portulaca pilosa LIN.: đảo Pattle (Hoàng-Sa] (trên những lối đi); Trung-Việt, Ai-Lao, Thái-Lan (xuất-xứ tại Châu Mỹ nhiệt-đới).
LAURACÉES (gc= họ quế)
Cassytha filiformis LIN.: đảo Pattle [Hoàng-Sa], đảo Roberts [Hữu Nhật] thường gặp ở Việt Nam, vùng nhiệt-đới.
MALVACÉES (gc= họ bụp)
Sida corylifolia WALL.: đảo Drummond [Duy Mộng); cây mọc ở Bắc-Việt, Ai-Lao, Thái-Lan, Hải-Nam, Java, Madura, Phi-Luật-Tân. Sida rhombifolia LIN. var. parvifolia GAGNEP.: đảo Pattle [Hoàng-Sa) (ít), Trung Việt.
TILIACÉES (họ cò-ke)
Triumfetta pseudocanđ SPER,: đảo Drummond (Duy-Mộng]; thường gặp ở Việt-Nam, Thái-Lan, Trung-Hoa, Phi-Luật-Tân, Ấn-Độ.
Corchorus sp.: đảo Roberts [Hữu-Nhật).
ZYGOPHYLLACÉES (gc= họ quỷ-kiến sầu)
Tribulus terrestris LIN.: đảo Pattle (hiếm); cây mọc trên duyên-hải cát Trung và Nam Việt-Nam. Vùng nhiệt-đới và bán nhiệt-đới.
EUPHORBIACÉES (gc= họ thầu-dầu)
Euphorbia (thymofilia BURM?); đảo Roberts [Hữu Nhật) (hiếm).
Euphorbia Atotao.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), cây trên duyên-hải, thường gặp ở Việt-Nam, Ấn-Độ, lndonésia, Phi-luật-Tân, Trung-Hoa, Úc-đại-Lợi.
Phyllanthus Niruri LIN.: đảo Pattle (ít gặp): cây mọc trên hoang-địa, ruộng vườn, khắp nơi ở Việt-Nam; Dưới chí-tuyến.
LUGUMINEUSES PAPILIONÉES (gc= lugumineuses, họ đậu)
Phaseolus (calcaratus ROXB. ?): đảo Money (Quang-Ảnh] (thường gặp).
CONVOLULACÉES (gc= họ bìm bìm)
Ipomea Turpethum R. Br.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), đảo Roberts [Hữu-Nhật), đảo Drummond (Duy-Mộng): Việt-Nam, Trung-Hoa, Phi-Luật-Tân, Timor, Java.
BORAGINACÉES (gc= họ lưu-ly oa-cử)
Tournefortia argentea LIN. F.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), đảo Robert (Hữu-Nhật): cây mọc trên giồng Trung-Phần Việt-Nam, Ấn-Độ, Mã-Lai, Tích-Lan, Phi-Luật-Tân, Đài-Loan.
VERBENACÉES (gc= họ mã-tiên-thảo)
Premna sp.: đảo Money (Quang-Ảnh).
Lippia nodiflora LIN.: Đảo Pattle [Hoàng-Sa); cây bò trên đất, rất thường gặp ở Việt-Nam, nhất là trên vùng đất cát; Châu Mỹ nhiệt-đới và bán nhiệt-đới và khắp Viễn-đông.
Stachytarphita jamaicensis LIN.: đảo Pattle (Hoàng-Sa) (hiếm), đảo Robert (Hữu- Nhật) (thường gặp); khắp nơi ở Việt Nam. Cây xuất-xứ từ châu Mỹ nhiệt-đới.
GOODENIACÉES (gc= cỏ gai)
Scaevola Koenigii VAHL. (gc= cỏ gai rất rậm rạp): các đảo Pattle, (Hoàng-Sa] Money, [Quang-Ảnh), Roberts (Hữu-Nhật), Drummond (Duy Mộng), thường gặp ở vùng ven biển Việt-Nam, vùng Đông-Á nhiệt đới, Đại-dương-Châu.
RUBIACÉES (gc=nhàu)
Morinda citrifolia LIN.: var bracteata HOOK: đảo Pattle, Roberts, Drummond; cây hoang và có khi được trồng ở Trung và Nam Việt-Nam, Ấn-Độ, Tích Lan, Mã-Lai. Cây này ít gặp trên quần-đảo Hoàng-Sa (một hai cây trên mỗi đảo) và dường như được ngư-dân mang đến và trồng vì dược-tính.
Guettarda speciosa LIN.: đảo Money [Quang-Ảnh], đảo Drummond [Duy Mộng]; Nam Việt-Nam, Cao-Miên, Thái-Lan, vùng nhiệt-đới.
COMPOSÉES
Tridax procumbens LIN.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), đảo Roberts (Hữu-Nhật); khắp nơi ở Việt-Nam, Ấn-Độ.
Wedelia biflora DC.: đảo Money (Quang-Ảnh), rất thường gặp ở Việt-Nam, Ấn-Độ, Thái Lan, Trung-Hoa, Phi-Luật-Tân.
Eupatorium sp.: đảo Pattle (Hoàng-Sa) (hiếm).
11.3 - TÀI-LIỆU GIÁO-SƯ PHẠM-HOÀNG-HỘ
Chúng tôi xin mạn phép Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ để được trình-bày một số hình vẽ trong tập sách Cây cỏ Việt Nam, 1993 của Giáo-sư về thảo-mộc Hoàng-Sa như sau:
Hình 126. Hoa mười giờ - họ Sam - (Cây cỏ Việt Nam, 1993).
2611 – Portulaca polosa L. subsp. grandiflora (Hook). Gees … Lệ nhi, Mười-giờ; Moss Rose, Pourpier.
Cỏ mập, nhất hay đa niên, thân không lông trừ ở mắt. Lá mập, hình trụ hay hơi dẹp. Hoa to, rộng 2-3 cm, đơn hay đôi, mọc như ở chót thân; tiểu nhụy nhiều. Hạp quả tròn, to 2-3 mm; hột nhiều, đen, láng.
Gốc Argentin; rất nhiều thứ rất đẹp: spenders Hort., hoa đỏ; albiflora Hort., hoa trắng; sulphurea Hort., hoa vàng; thelusonii Hort., hoa cam vv…
Ornamental
Hình 127. Cassytha filiformis (Cây cỏ Việt Nam, 1993).
1367 – Cassytha filiformis L., Tơ xanh.
Cỏ bán ký sinh vàng xanh, leo quấn, có vòi hút nhựa nguyên cây chủ; thân cỏ lông mịn, to hơn loài trên (1,5mm). Gié dài 2-5cm; hoa nhỏ có 3 lá hoa phụ; đài và vành dính thành ống tròn; tiểu nhụy thụ 9, lép 3; noãn sào tự do. Bế quả cứng, đen, trong bao hoa đồng trưởng.
Dùng làm thuốc trị bịnh phổi và dương mai. Nhiều ở rừng còi, rừng thưa khắp cùng; I-XII.
Hemiparasite a little more robust than the precedent; spike longer.
Hình 128. Quỉ Kiến Sầu (Cây cỏ Việt Nam, 1993).
5179 – Tribulus terrestris L., Quỉ kiến sầu nhỏ, Tật lê, Gai ma vương.
Cỏ nằm, đa niên, cỏ lông trắng nằm. Lá trong một cặp một to một nhỏ; lá-phụ có lông nằm trắng. Hoa nhỏ, rộng 5-8 (20)mm; vành vàng xanh; cánh hoa nhỏ, ngắn hơn 1cm, vảy mật rời; tiểu nhụy 10; noãn sào có lông. Nang rộng 1,5 cm, kể cả gai, có lông. 2n = 36
Cây gốc sa mạc, chịu đất cát khô duyên hải đến núi cao; I-XII. Bổ, kích dục, cầm máu; trị đau mắt; theo thuốc bắc, trái bổ thận, lợi tiểu, trị đau lưng, làm lạc thai …
Perennial spreading herb; flowers yellow; petals less than 1mm long.
“Quần-đảo Hoàng-Sa mới nổi lên gần đây. Các mảnh đất mới này tạo nên một chỗ trống cho cây cỏ đến và tiếp-tục đến chiếm lập. Từ các vùng đất lân-bang đến bằng nhiều cách, các hạt giống đã nảy nở và thảo-mộc từ đó phủ trùm gần hết các đảo Pattle, Roberts, Money và Drummond; nhưng tộc-đoàn thảo-mộc đó chưa đủ thời-gian để trải qua một tiến-trình nhằm mang lại một đặc-tính riêng-biệt. Không có loại thảo-mộc nào là tại chỗ cả..."
11.4 - TÀI-LIỆU GIÁO-SƯ SƠN-HỒNG-ĐỨC
Giáo-Sư Sơn-Hồng-Đức cho các chi-tiết sau đây:
Loại cây cao thường thấy là các cây dừa và phi-lao. Các cây này mọc lẻ tẻ không thành rừng, dừa gần mé nước, phi lao sống trên bãi thường nhỏ bé hơn những cây nơi vùng duyên-hải.
Kế đó là Bàng Bể (Sea Almond), tên La-tinh Terminalia, thường cao cỡ 5-7m. Nhánh mọc ngang thành tầng, thân cây u nần, lá to mầu xanh vàng khi khô trở nên đỏ. Cây cho quả với nhân lớn và cứng, nướng chín ăn béo như hạnh-nhân.
Hình 129. Bàng Biển (Cây cỏ Việt Nam, 1993).
3977 – Terminalia catappa L., Bàng biển; Sea Almond, Indian Almond; Badamier.
Đại mộc cao 7-10m, không lông; nhánh mọc ngang thành tầng. Lá có phiến to, hình muỗng, dài đến 30 cm, đỏ lúc khô, cuống ngắn. Gié ở nách lá; hoa nhỏ trăng trắng; thường lép thành hoa đực; cánh hoa vắng, tiểu nhụy 10; ở hoa cái noãn sào hạ. Quả nhân cứng chín vàng, xoan dẹp dẹp, dài 6-8cm; nạc chua chua; hột 1, có đầu, ăn được.
Trồng dựa biển BTN; I-XII. Lá dùng nhuộm vàng khi thêm sắt vào.
Cultivated near sea shore.
To như cây bàng có cây Mù U, tên La-tinh là Calophyllum Inophyllum, lá xanh đậm, dài lối 2 tấc có nhiều gân phụ sít nhau màu nhạt hơn mầu lá, hoa trắng có nhiều tiểu-nhuỵ mầu vàng rất quyến rũ các loài bướm đốm. Trái Mù U cứng, tròn; thịt mầu vàng khi khô nhăn lại mầu xám xịt. Người ta có thể lấy hạt ép dầu thắp đèn. Vỏ cây tiết ra mủ vàng, có người dùng trị ghẻ.
Cao chừng 4-5m là loại cây còng tàn lá đặc-biệt với các lá nhỏ không mấy rậm rạp. Thân cây cũng đặc-biệt, nứt nẻ như những đường gân.
Hình 130. Mù U (Cây cỏ Việt Nam, 1993).
1574 – Calophyllum inophyllum L., Mù-u; Alexander Laurel, Laurel Wood; Laurier d’Alexandrie.
Đại mộc to; vỏ tiết oleoresin vàng-xanh. Lá có phến tròn dài, dài đến 15-17cm, xanh đậm, gân phụ nhiều, khít nhau. Chùm dài 5 cm; hoa trắng; lá đài 4, trắng; cánh hoa 4; tiểu nhụy nhiều, vàng; tâm bì không lông. Quả nhân cứng hình cầu vàng to đến 3cm.
Mủ và dầu lấy từ hột có vị thuốc; gỗ lâu mục. Thông thường dựa rạch, bình nguyên, từ Hải phòng đến Panjang; IX-VI.
Tree; oleoresin green yellow; flowers white; drupe 3-4cm diameter.
Ngoài ra có Cây Nhàu và Sồi Sim, tên La-tinh là Quercus Myrsinifolia Blum xuất-hiện rất ít ở vài đảo. Loại đại-mộc này cao tới 13- 15m, nhánh non không lồng, lá thon mầu mốc ở bên dưới và xám lại lúc khô.
Dưới thấp có hội-đoàn thảo-mộc thích-ứng với môi-trường cát hay cát pha phosphate như:
- Họ Bìm-Bìm (Convolulaceae) gồm Ipomea Bilola và Ipomea Littoralis
- Họ Hoà-Bản như Cỏ Chông (Spinifex Littereus), Cỏ Còng-Còng (Zoysia Matrella),
- Cỏ Xạ-Tử (Sporobolus Virginicus).
- Cỏ Cú mà dân đánh cá thường đào lấy củ về làm vị thuốc Bắc.
Loại thảo-mộc được ngư-dân thích nhất là Nam-Sâm, rất quý vì có dược-liệu. Nam-Sâm, tên La-tinh là Boerhaavia Vipeus, là một loại cỏ phần dưới trườn trên đất, ngọn cất đầu lên. Lá có mấy phiến xoan tròn dài, chùm mang tụ-tán 3 hoa.
Hình 131. Nam-Sâm là một dược-thảo mọc nhiều ở đảo Trường-Sa.
2549 – Boerhavia diffusa L., Nam sâm, Nam sâm bò; Spraeding Hog-weed.
Cỏ bò hay bò rồi đứng, hay leo, có rễ phù như củ; thân có lông đầu phù, tiết. Phiến lá xoan tròn dài, hình tim, có khi màu đỏ; cuống dài 1-1,5cm. Chùm mang tụ tán 3 hoa; cọng hoa rất ngắn, 0,2-2mm; bao hoa hường hay đỏ; ống 2mm; tiểu nhụy 1-3. Hoa quả dài 2-3mm, có 5 cạnh tròn và lông tiết trĩn, có và không cọng.
Rễ (purnarnavin, alc.) trị ho, lợi tiểu, nhuận trường, thông nước. Dựa lộ, vườn, sân, 0-2000 m; I-XII.
Chung quanh các đảo còn có nhiều thứ rong biển. Một vài loại có thể sử-dụng như phân xanh bón cây, một số khác có thể khai-thác như rau câu, một dược-liệu mà đồng-thời cũng là món ăn hàng ngày của một số dân-tộc Đông-Nam-Á. Nguồn lợi này có thể đưa đến hình-thức xuất-cảng được. Có hải-tảo mệnh-danh là "Euchecha" dùng làm nguyên-liệu cho kỹ-nghệ sản-xuất mỹ-phẩm như kem thoa mặt.
11.5 – BÁO-CÁO CỦA KỸ-SƯ TRỊNH-TUẤN-ANH.
Năm 1973, Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh sau khi khảo-sát tổng-quát địa-lý, đã làm một phúc-trình về đảo Nam-Yết. Vì tình-trạng thực-vật ở đảo Nam-Yết không khác mấy so với các đảo khác trong vùng nên ta có thể dùng phúc-trình trên làm tiêu-biểu. Kỹ-sư họ Trịnh viết như sau: "Cây cối ở đây chỉ gồm một số ít loại có trái hoặc hạt từ các vùng duyên-hải Việt-Nam. Sarawak và các đảo lân cận trôi tấp vào đó mọc lên.
Sinh-cảnh thực-vật chính ở trên hòn đảo gồm có dừa và một loại cây thích-hợp với môi-trường biển mọc chung quanh:
Tournefortia argentea Loài Boraginaceae
Cocos nucifera Loài Palmae
Ngoài ra còn một số ít cây khác với dây leo và cỏ, mọc rất tươi tốt gồm có:
- Bàng Fagraea crenulata Maingay Loganiaceae
- Nhàu Morinda angustifolia Roxb Rubiaceae
- Mù-u Calophyllum Inophyllum Lin Guttleferae
- Rau sam Portulaca Oleracea L. Portulacaceae
- Thuarea involuta R. Br Gramineae
Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh có cùng nhận-xét như giáo-sư Sơn-Hồng-Đức về việc canh-tác. Hai ông cho rằng các cây ăn trái như mãng-cầu hay nhãn và một vài loại hoa-mầu phụ như rau cải có thể thích-hợp nhất. Cây trái nên trồng ở giữa đảo và rau cỏ nên trồng vào mùa mưa.
12 – TÀI-NGUYÊN.
Tài-nguyên Biển Đông gồm có phân bón trên các đảo, cá tôm thu-hoạch ngoài biển và dầu khí nằm sâu dưới lòng biển:
12.1 - PHOSPHATE.
Theo những bản phúc-trình về tài-nguyên thì khối dự-trữ phosphate ở quần-đảo Hoàng-Sa có thể tới hơn 4 triệu tấn, nghĩa là đủ cho nhu-cầu phân bón của Việt-Nam Cộng-hòa trong vòng 25 năm (nhu-cầu những năm 1970). Số lượng do Kỹ-sư Trần-Hữu-Châu phỏng-định vào mùa thu năm 1973 là 3,595,000m3 cho riêng 6 đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm. Trọng-lượng mỗi m3 phosphate là 1.5 tấn. Nếu chỉ khai-thác một nửa thôi, số lượng phosphate dùng được cũng tới 2,700,000 tấn.
Theo tài-liệu của Nha Khoáng-Chất (Bộ Kinh-Tế VNCH) thì số lượng dự-trữ phosphate (trên các đảo chính của quần-đảo Hoàng-Sa) như sau:
* Hoàng-Sa, có từ 560,000 đến 1,000,000 tấn.
* Hữu-Nhật có lối 1,400,000 tấn.
* Quang-Ảnh có từ 700,000 đến 1,200,000 tấn.
Tài-liệu về phân chim - guano- tìm thấy trong các bài viết:
- Maurice Clerget, Contribution a l'etude des iles Paracels; les
phosphates. Nhatrang, Vietnam 1932.
phosphates. Nhatrang, Vietnam 1932.
- A. Lacroix, Les ressources minerales de la France d'Outre-Mer, tome IV (Paracels' phosphate: p. 165), Paris 1935.
- United Nations, ECAFE, Phosphate Resources of Mekong Basin Countries; 4. Vietnam, (1): Paracel Islands; Bangkok 1972.
Ông Maurice ước lượng có tới 8 triệu tấn tại Quần-đảo Hoàng-Sa.
Ở Trường-Sa, số lượng phosphate chưa được tính toán đầy đủ, nhưng ước-lượng cũng nhiều triệu tấn. Công-việc khai-thác nguồn lợi này ở Trường-Sa đã nhiều lần dở dang. Trước thời 1975, người ta còn thấy trên các đảo ở Trường-Sa nhiều đống phân chim gom lại chưa di-chuyển đi hết.
12.2 – NGƯ-NGHIỆP
Hàng năm, vùng Biển Đông thu-hoạch được khoảng 5 hay 6 triệu tấn hải-sản, chiếm vào khoảng 1/14 tổng-số sản-lượng của thế-giới (70 hay 80 triệu tấn). Khả-năng thu-hoạch còn có thể cao hơn nhiều, ít nhất là 3 triệu tấn nữa.
Hình 132. Mức-độ khai-thác ngư-nghiệp tại Biển Đông, cao nhất tại vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lan và dọc duyên hải.
Trong thế-kỷ trước, mức-độ khai-thác ngư-nghiệp tại Biển Đông cao nhất tại vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lan và dọc duyên hải. Ngày nay mật-độ hải-sản những nơi đó bị giảm, thuyền cá phải hoạt-động ra xa ngoài khơi.
Loại cá đang được khai-thác có kế-hoạch quy-mô nhất là cá thu, danh-loại Thunnus Thynnus. Thịt cá này ăn thật ngon, bán rất được giá. Cá thu Yellowfin Tuna sống gần như khắp nơi ở Biển Đông, suốt dọc từ phía bắc Hoàng-Sa đến phía nam Trường-Sa, di-chuyển theo mùa tới tận Mindanao và Borneo.
Chỉ riêng trong khu-vực phía đông của Trường-Sa, ước-lượng thu-hoạch hàng năm tới 50 triệu Mỹ-kim. Sau Yellowfin Tuna, các loại Skipjack Tuna, Bigeye Tuna, Mackerels cũng nhiều.
Ngoài các tàu đánh cá Phi-luật-Tân đang hoạt-động sôi nổi nhất trong kỹ-nghệ đánh cá thu, số tàu Trung-Hoa cũng đã tăng-gia nhiều. Việt-Nam mới bắt đầu khai-thác.
Hình 133. Bản-đồ chỉ-đẫn đường di-chuyển của các loại cá thu theo mùa qua những vùng biển do nhiều quốc-gia kiểm-soát.
Theo giáo-sư Vũ-Tự-Lập thì vùng biển Hoàng-Sa và Trường-Sa là đối-tượng tranh-chấp về ngư-trường. Những trữ-lượng quan-trọng về hải-sản đang bị các Tàu đánh cá Nhật-Bản và Nam-Hàn khai-thác.[60]
Hình 134. Loại lưới bắt cá ăn nổi.
Hình 135. Loại lưới bắt cá ăn chìm.
Trung-tâm tin-học thuộc Bộ Thủy-Sản Việt-Nam (http://www.fistenet.gov.vn/) ghi như sau: Cá ngừ thuộc họ cá thu ngừ (Scombridae) có giá trị kinh tế quan trọng nhất ở biển Việt Nam. Cá ngừ phân bố ở khắp các vùng biển Việt Nam, kích thước cá tương đối lớn (6 loài có kích thước từ 20 – 70cm, khối lượng từ 0,5 – 4kg. Riêng hai loài cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to có kích thước lớn 70 – 200cm, khối lượng 1,6 – 64kg) là “Cá ngừ di cư đại dương”, có giá trị kinh tế cao và nhu cầu lớn trên thị trường thế giới.
Nhiều loại cá hay hải-sản khác cũng có thể mang lại những nguồn lợi lớn như tôm, cua, mực, bào ngư, vi cá, rong biển...
Hình 136. Hình ảnh kéo lưới thường thấy nhất trên biển.
Trong thời-gian trước 1975, Nha Ngư-Nghiệp thuộc bộ Canh-Nông của Việt-Nam Cộng-Hòa đã lập một bảng danh-sách các hải-sản chính tại Biển Đông như sau:
- Cá ăn nổi: Cá Cơm, Cá Thu ống, Cá Bạc má, Cá Nhám, Cá Rựa, Cá Sọc mướp, Cá trích, Cá ngừ, Cá chuồn, Cá Nục, Cá Sòng.
- Cá ăn chìm: Cá chim, Cá Chét, Cá Gộc, Cá Mối, Cá Thiều, Cá Đổng, Cá Bàn xa, Cá Đỏ giạ, Cá Hố, Cá Đuối.
Hiện nay cơ cấu nghề đánh bắt cá Việt-Nam như sau:
(1) Ở các tỉnh phía Bắc nghề cá đáy (ăn chìm) chiếm 33 - 35%, cá tầng trên (ăn nổi) khoảng 65%.
(2) Các tỉnh miền Trung nghề cá đáy chiếm 31 - 32%, cá tầng trên chiếm 68 - 69%.
(3) Ở các tỉnh phía Nam tỷ trọng nghề cá tầng đáy và tầng trên tương đương nhau.
Hình 137. Các loại cá Biển Đông quan-trọng cho ngư-nghiệp. (Theo tài-liệu của Nha Ngư-Nghiệp VNCH, 1970).
Biển Đông khá kín gần như Địa-trung-hải, chỉ thông ra ngoài đại-dương qua các ngõ hẹp như eo biển Malacca và Karimata ở phía Nam; các eo Balabac và Mindanao ở phía Đông, eo biển Đài-Loan và Bashi giữa Phi/ Đài-loan phía Đông Bắc. Ngày nay, sự tranh-chấp ngư-trường đang xảy ra. Tuy chưa có chiến-trận giữa các lực-lượng hải-quân nhưng đã có máu đổ của thường-dân trong vịnh Thái-Lan và nhiều ngư-phủ thuộc các quốc-tịch khác nhau bị bắt giữ và tù tội.
Một khi hải-phận kinh-tế 200 hải-lý được tất cả các quốc-gia duyên-hải quyết-định thi-hành triệt-để, mà ngày đó không còn xa, sự tranh-chấp về chủ-quyền đánh cá sẽ gia-tăng.
Tình-trạng chủ-quyền trên Biển Đông còn rất mập mờ. — ngoài khơi, tàu thuyền đánh cá các nước hiện chen kẽ nhau, không biết là mình đang đánh cá trên hải-phận nước nào.
Theo luật-gia Mark J. Valencia, Việt-Nam phải đối đầu nhiều nhất với Thái-Lan và hai nước Trung-Hoa trong những tranh-chấp về hải-phận đánh cá.
Ngày nay nhờ Luật Biển UNCLOS được thi-hành, các nước quanh vùng Biển Đông sẽ có cơ-hội ngồi lại giải-quyết những tranh-chấp về ngư-nghiệp trong vùng EEZ.
Theo điều-luật số 62 (UNCLOS, Article 62), Việt-Nam sẽ phải xác-định tổng-số sản-lượng hải-sản dự-trù trong khu-vục kinh-tế của mình và ước-lượng khả-năng thu-hoạch của ngư-dân. Hiện nay Việt-Nam chưa phát-triển đủ mạnh về kỹ-thuật đánh cá nên còn lại một số lượng hải-sản thặng-dư đáng kể. Số hải-sản này nếu không sử-dụng cũng tự-nhiên bị tiêu-tán, nên không thể để uổng-phí mà phải nhường lại cho các quốc-gia khác trong trường-hợp được yêu-cầu.
Những nước nội-địa như Ai-Lao[61] cũng có thể được chia sẻ tài-nguyên của biển-cả. Chính-phủ nước này cần khuyến-khích dân-chúng theo ngành hải-ngư-nghiệp. Quốc-gia duyên-hải thuận-lợi nhất cho họ trong nhiều việc như thông-thương ra biển hay chia sẻ số hải-sản thặng-dư là Việt-Nam.
Theo điều 125 của UNCLOS (Article 125 affirmed the right of access of land-locked States to and from the sea and freedom of transit) dân-chúng các nước nội-địa được việc khai-thác và quản-trị những «vùng biển chung», tức là vùng nằm bên ngoài ranh-giới hải-phận của những quốc-gia duyên-hải.
Trước đây, các viện đại-học Hawaii và Berkeley đã phác-hoạ ra là "vùng biển quốc-tế" thâu lại rất nhỏ. Dải biển diện-tích không đáng kể này nằm ở phía đông của Quần-đảo Hoàng-Sa. Nếu như một nước nào đó lại lấy lý-do kéo dài thêm hải-phận (tối-đa là 350 hải-lý) thì chẳng còn sót lại gì!
Nhưng khi thi-hành đúng tinh-thần UNCLOS thì các đảo nhỏ Hoàng-Sa/Trường-Sa không có vùng kinh-tế 200hl. và khu-vực dành quyền-lợi cho các quốc-gia nội hải như Ai-Lao rộng hàng mấy trăm ngàn km2. Việt-Nam hiện đã có liên-hệ cho nước láng giềng này sử-dụng cảng biển của ta, cần bàn-thảo ngay với chính-quyền Lào về hải-phận để có sự cộng-tác tốt-đẹp cho quyền-lợi chung trong Biển Đông.
Việt-Nam đã có thoả-ước về đánh-cá trong hải-phận với Nga-Sô, Úc-đại-lợi, Đại-Hàn, Thái-Lan. Hạm-đội tàu cá Thái-Lan khá lớn, hải-sản trong vịnh Thái-Lan đã bị họ khai-thác quá đáng gần như kiệt-quệ, ngư-phủ Thái-Lan rất thèm khát nguồn-lợi biển Việt-Nam, nên thường hay xâm-nhập đánh cá bất hợp-pháp.
Ngày nay tàu cá Trung-Cộng với đặc-quyền được vào sát bờ biển Việt-Nam, còn đáng sợ hơn và: hải-sản Vịnh Bắc-Việt sẽ cạn-kiệt nhanh chóng.
Hình 138. Vùng biển "quốc-tế" nhỏ bé nằm ngoài những vòng tròn 200hl. tính từ Hoàng-Sa, Pratas, Philippines và Trường-Sa.[62]
12.3 – HẢI-SẢN PHỤ.
Trong nhiều ngàn năm qua, người dân duyên-hải Việt-Nam đã nhờ những hải-sản Biển Đông mà sinh-tồn. Ngoài những hải-sản chính được khai-thác nhiều như đã kể ở trên, nhiều gia-đình Việt-Nam còn sống vào sự khai-thác thương-mại các hải-sản phụ của Biển Đông. Xin kể một số hải-sản phụ như: Vi cá, Yến sào...
12.3.1 - ỐC BIỂN.
Vỏ ốc với nhiều hình dáng và mầu sắc đặc-biệt thường được mọi người ưa thích, dùng để trưng bày, chận sách. Một thời, vỏ ốc vỏ sò đã được con người sử-dụng như vật trao đổi giống như chúng ta đang dùng tiền đồng tiền giấy ngày nay. Vỏ ốc lớn dùng làm tù-và là một nhạc-cụ rất thường thấy ở đồng quê và trong quân-ngũ thời xưa.
Biển Đông cung-cấp những loại ốc cho thịt rất ngon và những loại ốc cho vỏ có giá-trị về tiền-bạc.
Các vỏ ốc Xà-cừ mầu sắc lóng lánh khi cắt ra thành miếng, dùng để cẩn lên các tủ thờ, bàn ghế, câu đối, tranh, liễn... Miếng xà-cừ mầu trắng như bạc nhưng nhờ phản-chiếu ánh-sáng thành nhiều mầu sắc rất đẹp.
Ốc Bào ngư (Abalone) hay cửu-khổng vì trên vỏ có 9 cái lỗ bài-tiết. Thịt ốc bào ngư không những nổi tiếng thơm ngon mà còn là một vị thuốc trị các bệnh về mắt như quáng gà, thông-manh, mắt mờ rất hay.
Hình 139. Ốc bào-ngư và vài loại sò ốc khác.
Hình 140. Đồn-đột và một vài loài nhuyễn-thể khác.
12.3.2 – ĐỈA BIỂN
Đỉa biển hay Đồn-đột là một loại nhuyễn-thể không xương. Đỉa biển phát-triển mạnh nơi các vùng biển nhiệt-đới như Biển Đông. Giống như cá mực phun mực đen khi bị tấn-công, đỉa biển phun ra một loại chất độc mầu trắng. Người Tàu khai-thác loại hải-sản này rất quy-mô, họ gọi là Hải-sâm. Tại các tửu-lầu, Hải-sâm là món ăn quý nên bán rất được giá. Người Việt cũng rất thích đồn đột, đồng-bào ta làm gỏi đồn-đột, hầm đồn đột với giò heo, nấu đồn đột trong những món lẩu thập-cẩm...
12.3.3 – RUỘNG MUỐI
Trung-bình một 1ít nước biển chứa tới 35 gram muối. Người ta có thể cho nước biển bay hơi tại ruộng muối. Khi nước bay hết, một lớp muối kết-tinh đọng lại dưới ruộng. Nhiều làng ven biển Việt-Nam sinh-nhai bằng nghề này.
Trong một phạm-vi nhỏ hẹp, quân-nhân trú-đóng Trường-Sa có thể khai-thác nghề làm muối này.
12.4 – TRỮ-LƯỢNG DẦU KHÍ BIỂN ĐÔNG
Theo lý thuyết tổng hợp sinh học được nhiều nhà khoa học đồng ý, dầu mỏ phát sinh từ những xác chết của các sinh vật ở đáy biển, hay từ các thực vật bị chôn trong đất. Khi thiếu khí ôxy, bị đè nén dưới áp suất và ở nhiệt độ cao các chất hữu cơ trong các sinh vật này được chuyển hóa thành các hợp chất tạo nên dầu. Dầu tích tụ trong các lớp đất đá xốp, do nhẹ hơn nước nên dầu di chuyển dần dần lên trên cho đến khi gặp phải các lớp đất đá không thẩm thấu thì tích tụ lại ở đấy và tạo thành mỏ dầu.
Một số học-giả cho rằng báo-cáo đầu-tiên về sự hiện-hữu dầu khí ở Biển Đông là kết-quả của các đoàn nghiên-cứu thăm-dò của Liên-Hiệp-Quốc trong những năm cuối thập-niên 1960. Thời-gian trước đó, nhiều giáo-sư địa-chất thuộc viện Đại-học Sài-Gòn đã quả-quyết là theo kiến-thức chuyên-môn của họ, Việt-Nam không có dầu lửa. Cho đến đầu thập-niên 1970, một số học-giả người Việt vẫn không tin rằng dầu hoả có nhiều như những báo-cáo thăm dò cho biết. Họ nghĩ rằng dầu hoả nếu có thì chỉ như những hạt sương buổi sáng đọng trên khắp ngọn cỏ, lá cây ngoài cánh đồng; chuyện "không-tưởng" của họ kể ra là kỹ-nghệ khai-thác làm sao thu hút được tất cả các dọt dầu rải rác đâu đó như vậy mà mang ra bán thương-mại!
Thập-niên sau, niềm tin-tưởng lại khác hẳn. Câu chuyện "Biển Đông có dầu" không những được coi là điều hiển-nhiên mà còn có những người tin-tưởng rằng trữ-lượng dầu khí Biển Đông lớn không thua gì trữ-lượng toàn thể vùng Trung-Đông.
Hình 141. Những vùng kết-tầng thủy-tra-thạch và những vùng biết có dầu khí hay đang được khai-thác. Chỉ vì sự hiện-hữu của dầu lửa mà Trung-Cộng quyết chia lại Vịnh Bắc-Việt, chiếm bãi Tứ-Chính cùng Hoàng-Sa và Trường-Sa.
Dầu lửa là một chất hữu cơ. Nước ta lại là vùng mà thực-vật và sinh-vật phát-triển rất phong-phú. Nhiều cây cối và sinh-vật chỉ có ở nước ta mà không sinh-tồn được nơi khác. Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ cho biết "thực-vật chúng Việt-nam có lẽ gồm vào khoảng 12,000 loài, không kể rong, rêu, nấm. Đó là một trong những thực vật chúng phong phú nhất thế giới. Với một diện tích to hơn nước ta tới ba mươi lần, Canada chỉ có vào 4,500 loài, kể cả loài du nhập".
Chúng ta lại biết rằng trong những khoảng thời-gian khi Biển Đông khô-cạn, rừng cây nhiệt-đới trong vùng còn lớn rộng hơn ngày nay rất nhiều. Nếu thực-vật nhiều tức chất hữu-cơ kết-tầng trong đất đá phải phong-phú, người ta có thể suy-luận rằng số lượng dầu lửa và khí đốt năm dưới lòng đất và lòng biển không thể nào ít oi được.
Sau nhiều khảo-sát, ngày nay người ta đã vẽ được rõ ràng bản-đồ những khu-vực thủy-tra-thạch kết từng. Các công-ty dầu lửa cũng khoan thử nhiều nơi và ghi-nhận những túi dầu khí tại duyên-hải Hoa-Nam, trong vịnh Bắc-Việt, ngoài khơi Nam-phần, duyên-hải Mã-Lai- Brunei- Palawan, vùng Bắc Hoàng-Sa, bãi Cỏ Rong ở Trường-Sa.
Vùng biển bao-la sâu trên 4,000m nằm giữa trung-tâm Biển Đông cũng hứa hẹn chứa đựng những kho dầu khí khổng-lồ. Vì kỹ-thuật khai-thác các vùng biển sâu còn quá tốn-kém, người ta chú-tâm vào những vùng nông-cạn. Hai vùng nằm trên thềm lục-địa Việt-Nam làm Trung-Cộng thèm khát nhất nằm trong vịnh Bắc-phần và khu-vực bãi Tứ-Chính ở ngoài khơi Nam-phần.
Sau đây là vài con số ước-lượng:
Vùng Biển Đông rộng tới 1,460,000 dặm vuông chia ra hai phần gần bằng nhau:
- 720,000 dặm vuông cho biển và
- 740,000 dặm vuông thuộc thềm lục-địa.
Trên thềm lục-địa, tại những khu-vực mà các lớp thủy-tra-thạch kết tầng dầy tới 11,000 ft, thường thường là có chứa dầu hoả hay khí đốt. Với kỹ-thuật hiện-đại, công việc khai-thác tương-đối dễ dàng nơi những chỗ nông cạn này.
Theo như lý-thuyết của L. G. Weaks thì cách ước-lượng có vẻ quá thấp như sau:
- vào khoảng 1.75% thềm lục-địa (12,950 dặm vuông) mỗi dặm vuông chứa 896,000 thùng dầu lửa:
896,000 X 12,950 = 11,603,200,000 thùng
- vào khoảng 15% thềm lục-địa (111,000 dặm vuông) mỗi dặm vuông chứa 320,000 thùng dầu lửa:
320,000 X 111,000 = 35,520,000,000 thùng
Tổng-số trữ-lượng dầu hoả của thềm lục-địa Biển Đông theo cách tính-toán này sẽ là 47,123 triệu thùng (?).
Các khoa-học-gia lúc này đã đồng-ý rằng dầu khí trong khu-vực phía Nam Biển Đông có nhiều hơn vùng phía Bắc của biển này. Dù phỏng-định một cách bi-quan nhất, thềm lục-địa Việt-Nam chiếm không dưới 20% số lượng này.
Ngoài thềm lục-địa, vùng sâu hơn nằm giữa Biển Đông là nơi tích-tụ những lớp thủy-tra-thạch rất dầy. Những hãng dầu cho biết trữ-lượng dầu khí ở dưới các vùng lòng chảo "basin" còn lớn hơn thềm-lục-địa nữa. Hiện nay kỹ-nghệ khai-thác dầu dưới lòng biển sâu còn chưa được hoàn-bị.
Các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa tương-đối nông cạn nên không nằm lọt vào trong những lòng chảo đó, tuy nhiên khi tính toán đến ranh-giới kinh-tế 200 hải-lý người ta phải tính sự liên-hệ giữa thềm lục-địa và hải-đảo. Việt-Nam có chủ-quyền hai quần-đảo này, đương-nhiên vùng ĐQKT sẽ rộng và Việt-nam cũng sở-hữu luôn cả khối tài-sản khổng-lồ chưa khai-thác này.
Nếu tổng-kết các ước-lượng này, người ta có một con số quá sức lớn lao mà trước đây ba chục năm không ai ngờ tới!
Giữa quần-đảo Hoàng-Sa và đảo Hải-Nam, gần khu-vực mà Trung cộng đã chiếm của ta, họ đã tìm thấy một mỏ khí đốt trữ-lượng 90 tỷ mét khối, hiện đang khai-thác.[63]
Ngay giữa vùng quần-đảo Hoàng-Sa, Trung-Cộng cũng khởi-sự thăm dò sau khi xâm-lăng. Trên nhiều bản-đồ về tình-trạng dầu lửa, người ta thấy Trung-Cộng cho in hình những dàn khoan ở đó. Tuy vậy sự khai thác dầu khí có lẽ chưa thực-sự thành-công lớn.
Riêng trong khu-vực Trường-Sa, hai khu-vực đã được biết chắc chắn là có dầu khí:
- 550 triệu thùng vùng phía Tây bãi Tứ-chính trên thềm lục-địa Việt-Nam
- bãi Cỏ Rong do Phi-luật-Tân khai thác
12.5 – DẦU KHÍ TRONG HẢI-PHẦN DO VIỆT-NAM KIỂM-SOÁT.
Không kể những khu-vực bị Trung-Cộng chiếm-đóng cũng như các vùng biển ngoài khơi đang tranh-chấp, tài-nguyên về dầu khí trong lòng biển Việt-Nam đã được ước-tính qua những số-lượng như sau:
- Theo tiến-sĩ Charles Johnson thuộc viện East-West Center, trữ-lượng dầu hoả Việt-Nam ước-lượng vào khoảng từ 1.5 đếm 3.0 tỷ thùng. Để so sánh, ta lấy trường-hợp các nước đang sản-xuất dầu lửa trong vùng như Úc-đại-Lợi và Mã-lai-Á. Hai quốc-gia này có trữ-lượng lần lượt là 1.7 và 3.0 tỷ thùng. Về khí đốt, trữ-lượng của Việt-Nam có thể nhiều tới 10,000 tỷ cubic feet. Ba vùng giếng dầu khí đã được thăm dò đầy đủ và đang được khai-thác có trữ-lượng như sau:
* Bạch-Hổ 175- 300 triệu thùng,
* Đại-Hùng 300- 600 triệu thùng,
* Rồng 100- 150 triệu thùng.[64]
Theo Bộ Năng-Lượng Hoa Kỳ, trữ-lượng dầu khí của Việt-Nam đang gia-tăng vì có thêm những khám-phá mới.[65] Có một chuyên-gia năng-lượng nghĩ rằng Việt-Nam có thể nâng cao năng xuất lên tối-đa đến một triệu thùng một ngày. Tuy nghe có vẻ quá đáng, nhưng trong lúc giá dầu thô có khi vượt qua 70 US Dollars/ một thùng thì số tiền khổng lồ đó ở đâu? Năm 2005, báo-cáo chính-thức của các giếng dầu là 403,000 thùng một ngày. Nếu không tham-nhũng mà Nhà Nước Cộng-Sản chia đều thì người nghèo VN không còn nghèo nữa.
Hình 142. Vị-trí các bể trầm-tích Sông Hồng, Hoàng-Sa, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay/Thổ Chu, Phú Khánh, Trường-Sa.
Dầu khí, Than và Năng lượng địa nhiệt.
Các con số về dầu khí do Bộ Công nghiệp đưa ra trong trang lưới điện-toán http://www.moi.gov.vn như sau:
Dầu khí đã được phát hiện ở Việt Nam từ những năm 1970, nhưng chỉ sau năm 1984, ngành công nghiệp dầu khí mới thực sự có bước đi vững chắc... Dầu khí được tập trung ở các bể trầm tích Sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay, Thổ Chu, Phú Khánh, Tư Chính, Vũng Mây, Trường-Sa.
Hình 143. Những lô dầu khí thời Việt-Nam Cộng-Hòa (1974).
Hình 144. Giàn Khoan nhô lên giữa đồng lúa Thái-Bình (197.
Qua kết quả thăm dò cho thấy: Bể Sông Hồng chủ yếu là khí. Bể Cửu Long chủ yếu phát hiện dầu. Hai bể còn lại là Nam Côn Sơn và Malay- Thổ Chu phát hiện cả dầu và khí. Bể Phú Khánh và Tư Chính- Vũng Mây mới chỉ dự báo triển vọng trên cơ sở nghiên cứu cấu trúc địa chất.
Khoáng sản dầu khí đang được thăm dò với cường độ cao. Trữ lượng dầu đã được phát hiện vào khoảng 1.7 tỷ tấn và khí đốt vào khoảng 835 tỷ m3. Trữ lượng dầu được dự báo vào khoảng 6 tỷ tấn và trữ lượng khí vào khoảng 4,000 tỷ m3.
Hình 145. Vị-trí các lô dầu khí Việt-Nam. Bản-đồ này chỉ có các lô gần bờ, không bao trùm hết khu-vực“triệu km2 hải-phận”.
Những tin-tức lạc-quan vào cuối năm 1994 cho hay sản-lượng dầu khí Biển Đông của Việt-Nam đã vượt qua mặt Trung-Cộng (?) và phỏng-định Việt-Nam có số trữ-lượng dầu khí khổng-lồ, vào hàng thứ tư trên thế-giới. (The United States and Vietnam: Overcoming the Past and Investing in the Future, Thomas R. Stauch, báo The International Lawyer, Winter 1994: 1025). Sự thật không phải như vậy.
Hình 146. Các lô phân-chia để khai-thác dầu-hoả ngoài khơi Nam-phần. Lưu-ý khu-vực tranh-chấp Việt-Hoa tại vùng Bãi Tứ-Chính (Vạn-An) và vị-trí các giếng dầu: Rồng, Dừa, Bạch-Hổ, Đại-Hùng.
12.6 – NHỮNG TÀI-NGUYÊN BIỂN-ĐÔNG TRONG TƯƠNG LAI
Theo đà phát-triển khoa-học kỹ-thuật, nhiều tài-nguyên quý-giá sẽ dần dần được khai thác từ lòng biển. Con người sẽ đào thêm dầu khí ở những vùng biển sâu hơn, lấy được nhiều loại quặng mỏ cần-thiết cho kỹ-nghệ.
Người Hoà-Lan với kỹ-thuật đê-điều ngăn-chận nước biển, từ các thế-kỷ trước đã chiếm thêm được nhiều đất đai sinh sống. Người Nhật ngày nay khởi-sự canh-tác quy-mô một vài loại thảo-mộc sống trong nước mặn như rong biển, nhiều loại sò hến và đặc-biệt phát-đạt trong ngành sản-xuất ngọc trai nhân-tạo.
Nhiều thí-nghiệm cho thấy trong tương-lai, loài người sẽ có thể sinh-sống trong lòng biển. Những khu định-cư ngoài không-gian xem ra xa vời hơn là những thành-phố nằm dưới mặt nước. Thế-giới biển-cả rồi ra sẽ trở nên sinh-động đối với loài người không thua gì thế-giới trên đất liền.
Người Việt đã phải mất nhiều thế-kỷ mới vượt hết giải núi Trường-Sơn để sát-nhập nửa phần miền Nam vào với lãnh-thổ. Nhưng rồi đây, theo với đà phát-triển chung của nhân-loại, có lẽ dân ta sẽ không quá tốn-kém thì-giờ để thâu-nhận Biển Đông làm cho căn nhà Việt-Nam rộng rãi hơn, giàu có hơn.
Nhiều loại năng-lượng thiên-nhiên của biển cả đang được nghiên-cứu để con người sử-dụng. Không bao lâu nữa, những dân duyên-hải như người Việt sẽ có nhiều năng-lượng rẻ tiền lấy ra từ sóng, gió, thủy-triều, từ sự chênh-lệch nhiệt-độ của nước biển ở trên mặt và dưới đáy biển, sự sai-biệt độ mặn giữa nước ở sông và nước ngoài khơi v.v...
Biển Việt-Nam là biển nhiệt-đới, nước ấm và sạch sẽ quanh năm, rất thích-hợp cho việc nuôi trồng thủy-sản. Quan-niệm “không-gian sinh-tồn” của người Trung-Hoa trong mộng thôn-tính Biển Đông nhiều ít bao gồm cả yếu-tố quan-trong này.
Hình 147. Hồ cá đường kính từ hàng chục đến hàng trăm km như hình vẽ trên rất có thể xảy ra trong tương-lai, cung-cấp vô-tận protein nuôi sống toàn thể nhân-loại.
Khác với việc trồng cấy trên mặt đất, người ta có một "hải-gian" bao la để canh-tác "nông-phẩm" biển theo cả ba chiều. Những nhà viết chuyện khoa-học giả-tưởng còn nghĩ rằng trong khoảng vài thế-kỷ tới, nhân-loại sẽ bắt đầu cư-trú thường-trực trong lòng biển cả. "Người biển", nhờ tiến-bộ khoa-học, sống thảnh-thơi và mọi sinh-hoạt cũng bình-thường như chúng ta đang sống ngày nay trên cạn.
Hải-phận đương-nhiên sẽ càng ngày càng có thêm giá-trị.
Hình 148. Một số rong biển quen thuộc nhất của
ngành canh-tác biển.
13 - CÁC ĐẢO THUỘC QUẦN-ĐẢO HOÀNG-SA.
Nói chung về địa-chất, các đảo gần bờ có đất đá cấu-tạo gần như cùng loại với các đồi núi nằm ven biển trên đất liền vì trong thực-tế, chúng là phần rìa của lục-địa bị nước biển tràn ngập từ giữa thời Plêistoxen cho đến nay. Ra xa ngoài khơi Biển Đông, cấu-tạo của hai quần-đảo Hoàng-Sa Trường-Sa khác hẳn, các đảo do san-hô tạo thành.
Về hành-chánh, Huyện đảo Hoàng-Sa được thành lập từ tháng 1 năm 1997, thuộc thành phố Đà Nẵng. Huyện đảo bao gồm các đảo: đảo Hoàng-Sa,đảo Đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, đảo Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa,Cồn Bông Bay, Cồn Quan Sát, Cồn Cát Tây, Đá Chim Yến. Đoạn này khảo-sát các đảo Hoàng-Sa một cách chi-tiết hơn.
13.1 – TÊN QUẦN-ĐẢO: BÃI CÁT VÀNG.
Chúng ta thường quen miệng mà gọi quần-đảo Hoàng-Sa, nhưng thực ra dẫy đảo này từ xưa đã mang tên Việt-Nam là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng. Tên này xác-định rõ ràng sự sở-hữu đã lâu đời vì người Việt biết rõ đặc-tính quần-đảo của mình. Chung quanh các đảo, rõ nhất ở Quang-Hòa, bãi cát thường mầu vàng. Vào những ngày biển êm, người ta có thể trông suốt đến đáy các nền lòng chảo san-hô và thấy cát vàng ở đó.
Người Trung-Hoa gọi quần-đảo bằng nhiều tên thay đổi một cách bất-nhất. Chỉ mới gần đây, họ gọi là Hsisha hay Xisha Qundao (Tây-Sa).
Trên hải-đồ quốc-tế, Bãi Cát Vàng được ghi là Parcel, Paracel Islands hay Paracels.
Hình 149. Hình-ảnh quần-đảo Hoàng-Sa trên nền đáy Biển Đông. (Geological Topographic Mapping Party of Fujian Province, 1980's).
Ông Thái-văn-Kiểm dẫn hai thuyết về "Paracel" là tên người ngoại-quốc hay thường gọi như sau:
- Theo giáo-sư Pierre Yves Manguin, Parcel là một tiếng Bồ-Đào-Nha. Tiếng này nghĩa là đá ngầm (récif) hay cao-tảng (haut-font).
- Theo giáo-sư A. Brébion, Paracel là tên một thương-thuyền Hoà-Lan. Tàu này thuộc công-ty Đông-Ấn bị đắm tại quần-đảo Cát Vàng vào thế-kỷ XVI. (Hoàng-Sa Trường-Sa, Nguyễn-q.-Thắng, Sài Gòn 1988).
Vì vô số hòn đảo, hòn đá, cồn đụn, bãi cạn lúc nổi lúc chìm theo với mực nước thủy-triền lên xuống nên số lượng đảo tùy theo cách đếm mà kể là nhiều hay ít. Giáo-sư Sơn-Hồng-Đức cho số lượng là 120 đảo. Sách cổ Việt-Nam trong những thế-kỷ trước đây cho biết có 130 đảo. Số lượng này nếu chỉ "cồn" (trong nghĩa Cồn Vàng) tức sóng "cồn" thì không sai thực-tế.
Dân Trung-Hoa, có người cho rằng Hoàng-Sa chỉ gồm 7 đảo nên gọi là Thất-Châu, có người lại nói 9 đảo nên đặt tên biển Hoàng-Sa là Cửu-đảo-dương. Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta khó có thể chấp-nhận cả hai số lượng đảo quá sai lạc này.
Hình 150. Bản-đồ Quần-đảo Hoàng-Sa với địa-danh Việt-Nam. (Cục Đo-đạc, CHXHCN Việt-Nam, 1989).
13.2 - CHIỀU CAO CÁC ĐẢO.
Các đảo Hoàng-Sa không cao. Hải-đồ 5497 của Sở Thủy-Đạo Hoa-Kỳ ghi nhận độ cao những đảo bằng bộ Anh mà chúng tôi xếp theo thứ-tự cao thấp như sau: Rocky Island (Đảo Hòn Đá) 50ft, Pattle I. (Đảo Hoàng-Sa) 30ft, Robert I. (Đảo Hữu-Nhật hay Cam-Tuyền) 26ft, Money I. (Đảo Quang-Ảnh) 20ft, Pyramid Rk. (Hòn Tháp) 17ft, Lincoln I. (Đảo Linh-Côn) 15ft, Duncan I. (Đảo Quang-Hòa) 13ft, Triton I. (Đảo Tri-Tôn) 10ft.
Hai bãi ngầm Macclesfield và Scarborough nằm về phía Đông của quần-đảo Hoàng-Sa, luôn luôn nằm dưới mặt nước.
Các đảo chính của Hoàng-Sa gồm thành hai nhóm:
- Nhóm Lưỡi Liềm phía Đông Bắc
- Nhóm An-Vĩnh phía Tây-Nam
13.3 - CÁC BÃI NGẦM MACCLESFIELD VÀ SCARBOROUGH.
Trước khi đề-cập đến hai nhóm Lưỡi-Liềm và An-Vĩnh, chúng tôi xin nói sơ qua về các bãi ngầm phía đông Hoàng-Sa như Macclesfield Bank, Stewart Bank, Truro Shoal và Scarborough Shoal.
Nhóm Macclesfield chỉ gồm các bãi ngầm không có đảo nên thường bị nhiều người bỏ quên không liệt-kê trong danh-sách các đảo của Bãi Cát Vàng. Khi thời-tiết thật tốt, người ta chỉ thấy mặt biển phẳng lặng nhưng khi sóng gió, những cồn nước trắng xóa nổi lên suốt một vùng rộng lớn trông rất hùng-vĩ cho du-khách thưởng-ngoạn nhưng cũng gợi mối kinh-sợ mắc cạn cho người đi biển.
Hình 151.Bản-đồ tổng-quát vị-trí các quần-đảo và bãi ngầm vùng Bắc của Biển Đông.
Những tài-liệu cổ Việt-Nam đề-cập đến số lượng các đảo các bãi (130 đảo), diện-tích (dài rộng nhiều trăm hải-lý), vị-trí (ngang Quảng-Ngãi) xác nhận các bãi cạn Macclesfield này cũng thuộc quần-đảo Cát-Vàng hay Hoàng-Sa vậy!
Trong các bản-đồ khai-thác dầu khí quốc-tế, phần “Vietnam Petroleum Block Claim” ghi nhận cả Macclesfield Bank và quần-đảo Hoàng-Sa.
Hình 152. “Vietnam Petroleum Block Claim” bao trùm cả Macclesfield Bank cũng như quần-đảo Hoàng-Sa.
Nằm về phía Đông-Nam của quần-đảo Hoàng-Sa, bãi ngầm Macclesfield là khu-vực rất tiện-lợi cho việc neo tàu. Trên đường hải-hành từ Việt qua Hồng-Kông hay Phi-luật-Tân, cũng như nhiều tàu ngoại-quốc, những chiến-hạm và thương-thuyền Việt-Nam khi cần ngừng lại, thường neo để nghỉ tạm ở đây.
Hình 153. Bãi ngầm Macclesfield có những vùng nông cạn, nhiều vị-trí neo tàu tiện-lợi ngoài khơi Biển Đông.
Nhóm bãi ngầm này hầu hết nằm dưới vĩ-tuyến 16 độ Bắc và vào khoảng một nửa đường hàng-hải từ Đà-Nẵng đi Phi-luật-Tân. Nhóm Macclesfield chiều dài tới hơn một trăm hải-lý, rộng khoảng 60 hải-lý, nhờ được rặng san-hô mọc ngầm dưới biển bao quanh như bức tường cản sóng nên mặt biển bên trong khá yên. Tuy ở giữa một vùng biển chung quanh sâu tới 3 - 4,000m, các bãi ngầm nhóm này lại nổi cao lên. Nhiều chỗ đáy cát nông, từ 5 đến 12 fathom (9 - 22m); giây neo tàu lớn đủ dài để có thể neo tàu lại cho thủy-thủ-đoàn sửa máy hay nghỉ-ngơi.
Trung-Cộng và Đài-Loan cùng tuyên-bố chủ-quyền trên bãi Macclesfield, nhưng vì bãi ngầm sâu dưới biển nên không có "căn-cứ quân-sự" nào được xây-dựng.
Về phía Đông của bãi Macclesfield, gần bờ biển Phi-luật-Tân có một bãi khá lớn ở dưới là đá ngầm: Scarborough Shoal. Bãi này nằm dưới mặt biển chừng 92 fathoms. Bên cạnh đó, Truro Shoal sâu 10 fathoms và Stewart Bank (578 fathoms) gần đảo Luzon của Phi-luật-Tân.
13.4 – NHÓM TRĂNG KHUYẾT.
Trăng-Khuyết hay Lưỡi Liềm hay Nguyệt-Thiềm hay Croissant hay Crescent là tên một nhóm đảo quan-trọng nằm về phía đất liền Việt-Nam.
Theo giáo-sư Sơn-Hồng-Đức thì từ phi-cơ nhìn xuống nhóm đảo này có hình như hai chiếc bánh "Croissant" (hay Crescent) đâu đầu vào nhau. Có 7 đảo chính kể ra dưới đây kèm theo tên Trung-Hoa:
- Hoàng-Sa - Shanhu Dao
- Hữu-Nhật - Guanquan Dao
- Duy-Mộng - Jinqing Dao
- Quang-Ảnh - Jinyin Dao
- Quang-Hoà - Chenhang Dao
- Bạch-Quỷ - Panshi Yu
- Tri-Tôn - Zhongjian Dao.
- Các bãi ngầm
- Vô-số mỏm đá.
Hình 154. Nhóm đảo Trăng Khuyết.
13.4.1- ĐẢO HOÀNG-SA.
Đảo Hoàng-Sa (Pattle Island) tuy là đảo chính của quần-đảo nhưng không phải là đảo lớn nhất. Nhiều nhà quân-sự cho rằng đảo này có vị-trí quan-trọng nhất, hơn cả đảo Phú-Lâm trong việc phòng-thủ bờ biển nước ta.
Đảo hình bầu dục, dài khoảng 950m, rộng khoảng 650m, diện-tích chừng .32km2, có vòng san-hô bao quanh.
Trong thời-gian Hoàng-Sa dưới chủ-quyền của Việt-Nam Cộng-Hòa, người ta thấy có nhà cửa căn-cứ quân-sự, đài khí-tượng, hải-đăng, miễu Bà, cầu tàu, bia chủ-quyền.
Hình 155. Không-ảnh Hoàng-Sa trong thời-gian quân-đội VNCH trú-đóng.
- Cơ-sở quân-sự được thiết-lập từ đầu thập-niên 1930. Sang thập-niên 1950, 1960; có lúc nhà cửa được xây cất thêm, tạm đủ cho sự trú-phòng của một tiểu-đoàn (trừ) Thủy-quân Lục-chiến. Sau này khi lực-lượng VNCH giảm xuống còn một trung-đội Địa-phương-quân thì nhà cửa bớt đi.
- Khoảng năm 1938, một đài Khí-tượng bắt đầu hoạt-động. Cơ-sở xây cất của đài cũng như đồn binh là hai ngôi nhà đồ-sộ và kiên-cố. Chỉ trừ ít năm khi quần-đảo bị Nhật chiếm, đài đã quan-trắc thời-tiết và phổ-biến tin-tức khí-tượng trong nhiều thập-niên cho đến khi Trung-Cộng cưỡng-chiếm vào tháng 1/1974.
Số hiệu của đài này là 48 860. Trong tổ-chức khí-tượng thế-giới World Meteorological Organization, nhóm 48 chỉ vùng Đông-Nam-Á, số 860 dùng cho đài Hoàng-Sa.
- Hải-đăng nằm ở phía Bắc của đảo cũng đã trợ-giúp đắc-lực cho các nhà hàng-hải khi dẫn lộ tàu thuyền đi ngang qua vùng biển Hoàng-Sa. Đèn hiệu này thấy xa chừng 12 hải-lý, thuộc loại hải-đăng chớp tắt có chu-kỳ mà thời-khoảng sáng dài hơn thời-khoảng tắt (Hải-đồ ghi: Occ - 12). Các tài-liệu hàng-hải quốc-tế như List of Lights trong những thập-niên 40, 50, 60, 70 đều ghi-chú rõ rệt những điểm này.
Hình 156. Trái: Bia Chủ-quyền Pháp dựng lên năm 1938, ghi lại việc nhận chủ-quyền chính-thức của chính-quyền Việt-Nam từ 1816.
Hình 157. Phải: Một người lính Việt trong "Garde Indochinoise" đang tuần-phòng trên bãi biển Hoàng-Sa.
Đài khí-tượng và hải-đăng đã biểu-tượng hùng-hồn cho sự quản-trị lãnh-thổ một cách hữu-hiệu của Việt-Nam Cộng-Hòa. Các chứng-cớ như vậy nối-tiếp với những chứng cớ khác từ đời Lê, Nguyễn cho thấy sự liên-lục trong việc hành-sử chủ-quyền của Việt-Nam trong suốt một khoảng thời-gian dài nhiều thế-kỷ.
- Miễu Bà có Tượng Bà cao 1.50m, được xây ở góc Tây-Nam của đảo, nơi mà từ đất liền ra là gặp ngay. Miếu thờ chắc chắn đã được xây nhiều lần. Theo sách "Chính-biến", vua Minh-Mạng cho dựng một thần-từ cùng lúc với việc lập bia, trồng thêm cây cối trên các đảo Hoàng-Sa vào năm 1835. Miếu này cách toà miếu cổ 7 trượng.
- Bia chủ-quyền Việt-Nam được đặt gần nơi giữa đảo. Nhà Nguyễn đã chính-thức đặt chủ-quyền ở quần-đảo Hoàng-Sa năm 1816. Người Pháp xác-nhận lại chủ-quyền đó của Việt-Nam vào năm 1938 bằng một tấm bia ghi những hàng chữ như sau:
République Française
Empire d'Annam
Archipel des Paracels
1816 - Ile de Pattle-1938
Hình 158. Một viên chức Việt-Nam chụp hình trước Nhà thờ trên đảo Hoàng-Sa.
- Một nhà thờ Thiên-chúa được xây-dựng vào thập-niên 1950 làm chỗ cầu-nguyện cho quân-nhân theo Thiên-chúa-giáo. Đảo có đường goòng bằng sắt dài 180m dẫn ra cầu tàu dùng cho việc vận-chuyển phân bón. Cầu tàu nằm về phía Nam của đảo. Một rạch nước khá sâu dẫn từ ngoài biển vào cầu tàu. Trong thập-niên 60, cầu tàu này dùng để cặp các xà-lan chở phosphate. Sang thập-niên 70, cầu và đường sắt đã bị hư hỏng nhiều.
Đảo đủ rộng để có thể thực-hiện một sân bay nhỏ. Ngay trước khi quần-đảo mất vào tay Trung-Cộng, Quân-đội VNCH đang chuẩn-bị thiết-lập một phi-đạo ngắn đủ khả-năng tiếp-nhận vận-tải-cơ Caribou (C7) hay các loại phi-cơ khác cần dùng phi-đạo ngắn hơn. Toán công-binh tiền-phương mới ra tới nơi thì trận hải-chiến xảy ra và đảo bị Trung-Cộng chiếm-đóng.
Mới đây, Trung-Cộng công-bố những bức hình cho thấy sự thay đổi. Trên đảo Hoàng-Sa cũng như trên các đảo cận-kề tương đối lớn, chúng đã xây cất thêm nhà cửa, tạo-thành những căn-cứ dành cho cả quân-sự lẫn ngư-nghiệp.
13.4.2 – ĐẢO HỮU-NHẬT (Robert Island, Cam-Tuyền (TH)
Đảo mang danh một Suất-đội Thủy-Quân triều Nguyễn, tên Phạm-hữu-Nhật. Ông người Quảng-Ngãi được vua Minh-Mạng phái ra quần-đảo Hoàng-Sa để đo đạc thủy-trình và vẽ bản-đồ các đảo vào năm 1836. Đảo hơi tròn, rộng độ .32km2, nằm về phía Nam đảo Hoàng-Sa, cách 3 hải-lý. Viền quanh đảo có những cây nhàu cao từ 2 đến 3m. Bên trong lớp cây, dầy chừng 30m, là khu lòng chảo nằm giữa đảo không sâu. Trên lớp đất đá, ngoài ít bụi cây nhỏ thì cỏ tranh mọc khắp nơi không cao lắm.
Ngoài bìa đảo là một vòng san-hô, có nhiều chỗ lấn hẳn vào bãi cát. Rất nhiều rong phủ kín mặt biển bao chung quanh. Vít thường lên bờ đẻ trứng la liệt trong khoảng hai mùa Xuân và Hạ.
13.4.3 – ĐẢO DUY-MỘNG (Drummond Island)
Cao không quá 4 m. Đảo hình bầu dục, diện-tích khoảng .41km2 có nhiều loại cây nhỏ. Hơi giống như đảo Hữu-Nhật, giữa đảo là một vùng đất không có cây. Chỗ đất trống này có thể sinh sống được. Lại có một lạch nước nhỏ nên ghe đi theo cửa lạch đó vào được sát bờ. Tàu lớn có thể bỏ neo cách bờ 2, 3 trăm thước.
Nhiều con vít và chim biển sống trên đảo.
Vào đầu tháng 1 năm 1974, trong những ngày Trung-Cộng khởi-sự xâm-lược nhóm Lưỡi-Liềm của quần-đảo Hoàng-Sa, chúng đã tập-trung tới 11 chiếm-hạm ở phía Tây đảo Duy-Mộng này.
13.4.4 – ĐẢO QUANG-ẢNH (Money Island)
Đảo mang tên một nhân-vật lịch-sử: Phạm-quang-Ảnh, vị Đội-trưởng Hoàng-Sa-đội thời Nguyễn. Theo lệnh vua Gia-Long, ông đem hải-đội ra Hoàng-Sa năm 1815 để thu-hồi hải-vật.
Đảo này cao khỏi mặt biển tới 6m, có lẽ cao nhất trong nhóm đảo Nguyệt-Thiềm. Đảo hình bầu dục hơi tròn, diện-tích khoảng .5km2. Có một số cây lớn mọc ở giữa đảo cao tới 5m, ở ngoài là các cây phosphorite và một loại cây khác giống cây mít nhưng không có trái.
Chung quanh đảo có nhiều đá ngầm và san-hô. Tàu lớn không thể lại gần đảo vì dễ mắc cạn, muốn thả neo phải thận-trọng vì dễ mất neo.
13.4.5 – ĐẢO QUANG-HÒA (Duncan Island)
Đảo này lớn nhất nhóm đảo Lưỡi Liềm, diện-tích gần .5km2. Chung quanh đảo là bãi cát mầu vàng. Vòng san-hô lan ra rất xa khỏi bìa đảo. Cạnh đảo lớn còn có những đảo nhỏ, nối liền nhau bằng bãi cát dài. Một vài bản-đồ địa-chất ghi Quang-Hòa thành hai đảo Quang-Hòa Đông và Quang-Hòa Tây:
- Quang-hòa Đông có rừng cây nhàu và cây phosphorite mọc ở phía Tây của đảo, nhiều cây cao tới 5m. Phần đảo phía Đông trơ trụi chỉ có giây leo sát mặt đất.
- Quang-Hòa Tây là một đảo nhỏ, chỉ bằng 1/10 đảo Đông, cùng những loại cây như ở đảo Đông nhưng chỉ cao khoảng 3m.
Hình 159. Trung-Cộng đã xây cất cầu tầu, nhà cửa, công-sự. Hình-thế đảo Quang-Hoà thay đổi như thấy trong tấm không-ảnh này.
Trận hải-chiến 19 tháng 1 năm 1974 giữa Hải-quân Việt-Nam và Trung-Cộng đã diễn ra trong vòng 3 - 7 hải-lý quanh đảo này.
Hình 160. Khu-trục-Hạm Trần-khánh-Dư HQ-4, một đơn-vị của HQ/VNCH từng tham-chiến Hoàng-Sa.
13.4.6 – ĐẢO BẠCH-QỦY (Passu Keah)
Đảo này là một dải san-hô, chỉ thật-sự nổi hẳn lên khỏi mặt nước khi thủy-triều xuống. Địa-thế trơ trọi đá, không cho phép người ta sinh-tồn.
13.4.7 – ĐẢO TRI-TÔN (Triton Island)
Đảo này gần bờ biển Việt-Nam nhất so với các đảo khác của Hoàng-Sa. Đảo Tri-Tôn thấp, trơ trọi đá san-hô, không có cây cỏ nhưng nhiều hải-sản như hải-sâm, ba ba, san-hô đủ mầu sắc.
13.4.8 – CÁC BÃI NGẦM.
Có ba bãi đá ngầm:
- Bãi ngầm Antelope Reef nằm phía Nam đảo Hữu-Nhật và phía Đông đảo Quang-Ảnh hoàn toàn là san-hô chưa nổi lên mặt nước.
- Bãi ngầm Vuladdore nằm về phía Đông Nam của nhóm đảo Lưỡi Liềm, cách xa khoảng 20 hải-lý.
- Bãi ngầm Khám-phá (Discovery).
Bãi ngầm Khám-phá này là bãi ngầm lớn nhất trong cả quần đảo. Một vòng san-hô bao quanh chiều dài tới 15 hải-lý, bề ngang chừng 5 hải-lý.
Để hình-dung phần nào quang-cảnh các bãi ngầm nơi Biển Đông, chúng tôi tóm gọn lại phần mô-tả sau đây của ông Sơn-hồng-Đức về bãi ngầm Discovery làm tiêu-biểu. Trong một chuyến viếng-thăm Hoàng-Sa vào đầu thập-niên 1970, vị giáo-sư Địa-lý này đã ghi lại như sau:
"Đứng trên đài chỉ-huy của tàu nhìn xuống mặt đầm bên trong ám tiêu san-hô là một thế-giới yên lặng, mặc dù bên ngoài sóng bổ từng cơn lên ám tiêu viền. Nước bạc đua nhau, theo một lạch nhỏ để vào bên trong. Vào những ngày biển yên, người ta có thể trông suốt đến đáy lòng chảo cát vàng ở đáy. Nhiều loài thủy-tộc sống lâu năm nên to lớn dị-thường. Có những con cá đuối bằng hai chiếc chiếu, ốc tai tượng to bằng cái bàn nặng 700 ký..."
Nhà địa-chất-học A. Krempt cho rằng ám-tiêu Discovery, tên Pháp là Découverte có hình bán-nguyệt khá đối-xứng nhau. Giữa là đầm nước có độ sâu trung-bình 25m với hàng san-hô đang tăng-trưởng cách đến 4 hay 5m dưới mực nước biển thấp. Krempt cho rằng có thể giải-thích được sự thành-lập các ám-tiêu san-hô. (Barrier Reefs) vùng Đông-Bắc Úc-châu theo giả-thuyết gió mùa của ông.[66]
13.5 – NHÓM ĐẢO AN-VĨNH (Amphitrite Group)
Nhóm đảo Đông-Bắc quần-đảo Hoàng-Sa được gọi là nhóm An-Vĩnh, theo tên một xã thuộc tỉnh Quảng-Ngãi. Xã An-Vĩnh là một địa-danh từ lâu gắn liền với lịch-sử Hoàng-Sa. Đại-Nam Thực-lục Tiền-biên quyển 10 ghi chép về xã này như sau: "Ngoài biển xã An-Vĩnh, huyện Bình-Sơn, tỉnh Quảng-Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn-lý Hoàng-Sa châu... Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng-Sa gồm 70 người lấy dân xã An-Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi..."
Nhóm đảo còn được gọi là Amphitrite hay Tuyên-Đức. Amphitrite là tên của một trong những chiếc tàu Âu-châu đầu tiên vào Biển Đông, gặp nguy-khốn ở Hoàng-Sa. Chiếc tàu Pháp này đã sang buôn-bán với Trung-Hoa vào cuối thế-kỷ XVII.[67]
Nhóm đảo An-Vĩnh bao gồm các đảo tương-đối lớn và cao nhất trong các đảo của Hoàng-Sa, và cũng là các đảo san-hô lớn nhất Biển Đông như:
- Đảo Phú-Lâm - Yongxing Dao
- Đảo Cây hay Cù-Mộc - Zhaoshu Dao
- Đảo Lincoln - Dong Dao
- Đảo Trung - Zhong Dao
- Đảo Bắc - Bei Dao
- Đảo Nam - Nan Dao
- Đảo Tây - Xisha Zhou
- Đảo Hòn Đá - Shi Dao.
Sau đây là mô-tả một số các đảo chính:
13.5.1 – ĐẢO PHÚ-LÂM (Woody Island)
Đảo Phú-Lâm nằm bên đảo Hòn Đá (Rocky Island- cao 50ft), diện-tích lớn hơn Hòn Đá nhưng cao-độ thấp hơn rất nhiều. Đây là đảo quan-trọng nhất của nhóm đảo An-Vĩnh.
Hình 161. Bản-đồ nhóm đảo An-Vĩnh. Góc trái, hình đảo Phú-Lâm.
Trước thế-chiến thứ hai khi còn làm chủ Đông-Dương, người Pháp cũng đã khai-phá các đảo thuộc nhóm An-Vĩnh. Giống như trên đảo Hoàng-Sa, họ thiết-lập một đài quan-trắc khí-tượng ở Đảo Cây, số hiệu được ghi trong danh-sách World Meteorological Organisation là 48,859.
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng-minh, vào tháng 6 năm 1946 Hải-Quân Pháp gửi chiến-hạm Savorgnan de Brazza đến chiếm các đảo Hoàng-Sa. Vì trận chiến Việt-Pháp bùng nổ dữ dội, vào tháng 9/ 1946 người Pháp rút quân khỏi Hoàng-Sa. Vào ngày 26/6/1946 dù đã chậm trễ, Trung-Hoa lấy cớ đến giải-giới quân Nhật (đáng lẽ phải làm năm 1945) lén đổ quân lên Phú-Lâm rồi chiếm-đóng luôn đảo này và tiếp-tục đi chiếm một đảo nữa ở Trường-Sa.
Vào ngày 13/1/ 1947, Chính-quyền Pháp chính-thức phản-đối hành-động chiếm-cứ bất-hợp-pháp của Trung-Hoa và gửi chiến-hạm Le Tonkinois ra Hoàng-Sa. Thấy Phú-Lâm đã được Trung-Hoa phòng-thủ kỹ-lưỡng, chiến-hạm quay về đảo Hoàng-Sa (Pattle) để đổ-bộ 10 quân-nhân Pháp cùng 17 quân-nhân Việt-Nam lên chiếm-đóng đảo này.
Khi Trung-Hoa Dân-quốc chạy ra Đài-Loan, họ cũng rút quân ở Phú-Lâm và Thái-Bình về Đài-Loan năm 1950. Bảy năm sau khi kiểm-soát được lục-điạ Trung-Cộng mới bí-mật gửi quân ra chiếm đảo Phú-Lâm vào đêm 20 rạng 21 tháng 2 năm 1956.
Hiện nay Trung-Cộng đặt Bộ chỉ-huy toàn-thể lực-lượng quân trú-phòng quần-đảo Hoàng-Sa ở đây. Căn-cứ quân-sự này kiên-cố nhất trên Biển Đông.
Hình 162. Cầu tàu đảo Phú-Lâm. Hình chụp trước tháng 8/1945 của ông Nguyễn-văn-Tính, trưởng sở TSF Hoàng-Sa.
Sách Ocean Yearbook 10 (Chicago 1993) cho biết có tới 4,000 binh-sĩ Hải-quân và Thủy-quân Lục-chiến trong vùng biển Hoàng-Sa. Phần lớn số lính này đóng tại Đảo Phú-Lâm, số nhỏ trên đảo Lincoln và các đảo thuộc nhóm Trăng-Khuyết.
Đảo có cầu tàu lớn, phi-trường, đài kiểm-báo, kinh đào và nhiều tiện-nghi quân-sự khác. Đảo dài tới 1.7km, chiều ngang 1.2km, diện-tích 320 acres hay chừng 1.3km2. Đảo có nhiều cây cối tươi tốt nên mang tên Phú-lâm.
Hình 163. Không-ảnh của đảo Vĩnh-Hưng (tức Phú-Lâm), căn-cứ Hải-Quân lớn nhất của Trung-Cộng trên Biển Đông.
13.5.2 – ĐẢO LINH-CÔN (Lincoln Island)
Đảo Linh-Côn nằm về phía cực Đông của nhóm đảo An-Vĩnh và cũng là đảo lớn nhất của cả quần-đảo Hoàng-Sa, diện-tích chừng 1.62km2 hay 400 acres, bề cao 15ft. Hải-đồ ghi trên đảo có nước ngọt. Vòng san-hô bao quanh đảo kéo dài về phía Nam như một con lươn có cái đầu ở Lincoln với cái thân dài tới gần 15 hải-lý. Nhiều đảo, đá san-hô tới hàng chục cái, nhấp-nhô trên mặt nước biển.
Đảo này được Trung-Cộng biến thành một căn-cứ. Ngoài công-sự quân-sự, các cơ-sở ngư-nghiệp cũng đã được xây cất khá nhiều với cầu tàu rộng lớn, nhà kho, nhà máy chế-biến ...
13.5.3 – CÁC BÃI NGẦM CHÍNH
Ngoài Biển Đông có rất nhiều bãi ngầm, khi nổi khi chìm. Trong vùng Hoàng-Sa những bãi ngầm chính là:
- Bãi ngầm Jehangire Bank
- Bãi ngầm Bremen Bank
- Bãi đá ngầm Bombay Reef
Hình 164. Đài Radar Trung-Cộng trên quần-đảo Hoàng-Sa (Bejing Review Feb 18, 1980).
14 – CÁC ĐẢO THUỘC QUẦN-ĐẢO TRƯỜNG SA.
Quần-đảo Trường-Sa nằm về phía Nam của Biển Đông, đảo gần nhất cách quần-đảo Hoàng-Sa vào khoảng 350 hải-lý, đảo xa nhất có đến 500 hải-lý. Quần-đảo này gồm khoảng trên một trăm đảo, nếu tính cả những hòn đá và bãi cạn. Đảo Trường-Sa, (tên gọi này dùng chung cho cả quần-đảo) cách Vũng-Tàu 305 hải-lý, cách Cam-Ranh 250 hải-lý, cách Đảo Phú-Quý 210 hải-lý.
Bề dài nhất của biển Trường-Sa đo được chừng 500 hải-lý, tính từ Bãi Cỏ Rong tận cùng hướng Đông-Đông-Bắc tới Bãi Tứ-Chính là nơi tận cùng hướng Tây-Tây-Nam của quần-đảo Trường-Sa. Biển tuy rộng nhưng diện-tích các đảo, đá, bãi nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, chỉ tổng-cộng vào khoảng 10 km2.
14.1 – ĐỊA-DANH và ĐỊA-GIỚI QUẬN TRƯỜNG SA.
Về danh xưng, sử ta chép là Vạn-lý Trường-Sa, hay Đại Trường-Sa, tiếng quen gọi vắn tắt là Trường-Sa. Người Anh, Mỹ gọi là Spratley (hay Spratly) Islands, Spratley (hay Spratly) Archipelago và vắn tắt hơn: Spratlies. Người Pháp gọi là Archipel des Iles Spratly. Người Trung-Hoa gọi là Nam-Sa (Nansha) Quần-Đảo hay Nam-Uy (Nan Wei) Quần-Đảo. Phi-luật-Tân gọi là Kalayaan. Trong thời Thế-chiến II người Nhật gọi là Shinnan Guto.
Huyện đảo Trường-Sa lúc trước chỉ bao gồm hoàn-toàn các đảo Trường-Sa ngoài khơi, nhưng hiện nay huyện Trường-Sa đã mở rộng địa giới.
Để tạo điều kiện cho Trường-Sa phát triển toàn diện cả kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh và quốc phòng, tỉnh Khánh Hoà đã quyết định sáp nhập toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã Cam Tân, Cam Hòa, Cam Hải Tây, Cam Đức và một phần xã Cam Hải Đông của thị xã Cam Ranh vào huyện Trường-Sa; thành lập thị trấn Cam Đức trên cơ sở toàn bộ xã Cam Đức và một phần xã Cam Hải Tây; thành lập mới 3 xã đảo Trường-Sa Lớn, Nam Yết và Song Tử Tây thuộc huyện Trường-Sa.
Hình 165. Bản-đồ Quần-đảo Trường-Sa với địa-danh Việt-Nam. (Cục Đo-đạc, CHXHCN Việt-Nam, 1989).
Hiện nay, huyện Trường-Sa có 8 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã Cam Hoà, Cam Tân, Cam Hải Tây, Cam Hải Đông, Trường-Sa Lớn, Nam Yết, Song Tử và thị trấn Cam Đức, trong đó có năm đơn vị xã, thị trấn trên đất liền và ba đơn vị xã đảo. Tháng 4-2007, đảo Trường-Sa trở thành thị-trấn.
14.2 – SỐ LƯỢNG ĐẢO
Theo báo chí Việt-Nam, Quần đảo Trường-Sa cách Cam Ranh 295 hải lý, gồm hơn 100 đảo, bãi đá, bãi cạn, bãi ngầm có tổng diện tích khoảng 160,000 - 180,000km2; nằm trong giới hạn từ vĩ độ 06o03' N đến 12o00' N và từ 111o03' E đến 117o03' E. Căn cứ vào địa hình, địa chất và khoảng cách giữa các đảo, người ta chia quần đảo Trường-Sa thành 8 cụm đảo là: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường-Sa, Thám Hiểm và Bình Nguyên, trong đó cụm Bình Nguyên có nhiều đảo và bãi đá ngầm nhất (42 đảo và bãi đá ngầm).
Theo luật gia Michael Bennett thì có tới hơn 500 hòn đất, đá, bãi riêng-biệt tạo thành quần-đảo Trường-Sa, tuy vậy chỉ có chừng 100 địa-danh.[68] Có người ước-lượng con số 230 đảo như Michael Hindley & James Bridge[69], hay 99 "đơn-vị" như Ting Tsz Kao.[70]
Còn người Phi-luật-Tân lại liệt-kê một danh-sách gồm 53 hòn đảo và cù lao trong khu-vực 64,976 dặm vuông của Trường-Sa, họ gọi là Đất Tự-Do "Freedomland".
Hình 166. Vị-trí các xã Cam Tân, Cam Hòa, Cam Hải Tây, Cam Hải Đông, Cam Đức nay thuộc huyện Trường-Sa.
Những hòn đảo hay đá nào đã nổi hẳn lên khỏi mặt biển khi nước lớn cần được xác-định thật đúng vì trên mặt pháp-lý, đảo (island), cồn (cay), đụn (dune) hay hòn đá (rock) này là căn-bản để tính-toán nhiều yếu-tố như lãnh-hải, thềm lục-địa và hải-phận kinh-tế cho quốc-gia chủ-nhân của nó. Hiện nay đã có nhiều tài liệu bàn đến số lượng những đảo và đá này ở Trường-Sa. Chúng tôi xin trình-bày một trong những tài-liệu đó của nhà xuất-bản University of California Press.[71]
Hình 167. Bản-đồ quần-đảo Trường-Sa với các đường chia cắt tranh-đoạt hải-phận.
Nếu theo nhóm các học-giả thông-thạo luật biển này, Trường-Sa gồm 33 "đơn-vị" chia ra bốn loại như sau:
Island gồm 9 đơn-vị:
FLat Island, Itu-Aba, Loaita Island, Namyit Island, Nanshan Island, Sin Cowe Island, Spratly Island, Thitu Island, West York Island.
Hình 168. Bản-đồ ghi-nhận 33 đảo và đá nổi thường trực trên mặt biển. Tình-hình chiếm-đóng Trường-Sa đầu thập-niên 1970: Phi-luật-Tân chiếm 7, Việt-Nam 5, Đài-Loan 1. Còn lại 20 "đơn-vị" (13 đảo, 7 đá) chưa bị chiếm.
Cay gồm 15 đơn-vị:
Alicia-Annie Reef, Amboyna Cay, Commodore Reef, Grierson Reef, Irving Reef, Lankiam Cay, Loaita Cay, London Reef Cay, Mariveles Reef, Northeast Cay, Pearson Reef NE, Pearson Reef SW, Southwest Cay, Sand Cay, Sandy Cay.
Dune gồm 2 đơn-vị:
Gaven Reef, Landowne Reef
Rock gồm 7 đơn-vị:
Barque Canada Reef, Fiery Cross Reef, Great Discovery Reef, London East Reef, Louisa Reef, Royal Charlot Reef, Swallow Reef.
Trong hàng mấy trăm đảo đá bãi, lớn nhỏ, nổi chìm của Trường-Sa kể trên, chỉ có một số đảo cần nói đến vì tầm quan-trọng của nó mà chúng tôi xin mô-tả ra dưới đây:
Theo các diễn-biến hiện nay về tranh-chấp chủ-quyền, chúng tôi tạm sắp xếp thành 3 vùng. Tính từ bờ biển Việt-Nam trở ra, 3 vùng như sau:
1- Vùng Việt-Hoa tranh-chấp gồm Đảo Trường-Sa và các bãi cạn phía Tây của quần-đảo Trường-Sa.
2- Vùng Việt và năm nước tranh-chấp nằm về phía Nam lằn ranh tuyên-cáo của Mã-lai-Á.
3- Vùng Việt-Hoa-Phi tranh-chấp bao trùm hầu hết khu-vực tuyên-cáo của Phi-luật-Tân. Vùng này được chia làm 4 khu nhỏ:
* khu Nam, quanh Đá Chữ Thập
* khu Trung gồm hai quần-đảo: Sinh-Tồn và Ba-Bình/Nam-Yết
* khu Bắc, khu Loại-Ta Song-Tử
* khu Đông, các bãi cạn sát Phi-luật-Tân.
14.3 – VÙNG VIỆT-HOA TRANH-CHẤP
Gồm có:
- Bãi Tứ-Chính hay Vanguard Bank,
- Bãi Phúc-Nguyên hay Prince Consort Bank
- Bãi Quế-Đường hay Grainger Bank
- Bãi Phúc Tần hay Prince of Wales Bank
- Bãi Huyền-Trân hay Alexandra Bank
- Bãi Vũng Mây hay Rifleman Bank
- Đá Lát hay Ladd Reef
- Đảo Trường-Sa hay Spratley Island.
Vùng này nằm về phía cực Tây của quần-đảo và gần bờ biển Việt-Nam hơn tất cả các bãi và đảo khác của quần-đảo Trường-Sa. Bãi Tứ-Chính nằm sát với thềm lục-địa Việt-Nam, tuy ngăn cách một cái rãnh cạn nhưng không xa đường thâm-thủy 200m bao nhiêu. Độ sâu đáy biển tăng từ Tây qua Đông nhưng không đều. Quanh bãi Vũng Mây, nước lại cạn và có chỗ không sâu quá 300m.
14.3.1 – ĐỊA-DANH LỊCH-SỬ.
Hầu hết địa-danh vùng này đặt theo các tên lịch-sử như:
Tứ-Chính là tên một phường trước kia trên Cù-Lao Ré, thuộc Phủ Quảng-Ngãi. Theo Phủ-biên Tạp-lục của Lê-quý-Đôn, dân-cư phường Tứ-Chính trồng đậu (Tứ chính phường cư dân đậu điền). Từ cửa biển An-Vĩnh ra đó phải đi bốn trống canh.
Cũng theo sách trên, Lê-quý-Đôn kể một địa-danh nữa hơi khác với Tứ-Chính là Tứ-Chánh. Đó là tên một thôn thuộc Phủ Bình-Thuận (Phan-Thiết ngày nay). Người dân thôn này đã cùng với dân làng Cảnh-Dương được tuyển-chọn nếu muốn tình-nguyện gia nhập đội Bắc-Hải. Họ chuyên đi thám-sát và thu-lượm sản-vật ở vùng quần-đảo Trường-Sa.[72]
Phúc-Nguyên và Phúc-Tần là tên hai vị chúa anh-hùng của nhà Nguyễn. Phúc-Nguyên (Phước-Nguyên, 1562-1635) hay chúa Sãi là chúa thứ hai nhà Nguyễn. Ông không thần-phục chúa Trịnh, trả sắc dụ lại cho vua Lê vào năm 1630. Chúa nhìn xa, trông rộng: ông thông-hiếu với vua Cao-Mên và đưa người Việt di-dân vào Nam-phần.
Phúc-Tần (Phước-Tần, 1619-1687) hay chúa Hiền là chúa thứ tư nhà Nguyễn. Vị chúa rất giỏi thủy-chiến này đã đánh thắng được binh-thuyền Hòa-Lan đến cướp phá năm 1644, khi đó ông mới chỉ làm chức thế-tử. Nhờ chiến-công, chúa Phước-Tần chấm dứt được cuộc phân-tranh Nam-Bắc kéo dài 45 năm (1627-1672). Chúa cũng là người chiếm được vùng đất Nha-trang, mở nước cho đến tận Phan-Rang. Bắc quần-đảo Trường-Sa nằm ngang vĩ-tuyến với Phan-Rang.
Quế-Đường là tên hiệu của Lê-Quý-Đôn (1726-1784), một nhà bác-học về thời Lê, trước-thuật nhiều tác-phẩm về lịch-sử, địa-dư và văn-hóa nước ta. Tác-phẩm của ông có đề-cập tới địa-lý Hoàng-Sa, Trường-Sa.
Huyền-Trân là tên công-chúa con gái vua Trần-Nhân-Tôn (1279-1293). Nhờ cuộc kết-hôn của Huyền-Trân với vua Chiêm Chế-Mân, nước ta có thêm hai châu Ô, Lý như là đồ sính-lễ. Đất này đổi tên là Thuận-châu và Hóa-châu. (Tên Huế ngày nay do chữ Hóa mà ra). Hoàng-Sa nằm ngang cùng vĩ-độ với vùng đất này.
Ngoài các bãi cạn mang tên lịch-sử, còn có bãi Vũng-Mây với Hòn Đá Bông-Bay là một vị-trí tương-đối cao.
Theo bản-đồ quốc-phòng Mỹ (bản-đồ số G9237.S63, năm 1992), quân trú-phòng XHCN Việt-Nam hiện đóng trên các bãi Tứ-chính, Phúc-Nguyên, Quế-Đường và Bãi Vũng-Mây (Rifleman Bank)…
Theo tài liệu của báo-chí Mỹ mới đây, Việt-Nam đang phòng-thủ trên những dàn kiểu nhà sàn ở Bãi Tứ-Chính (Vanguard Bank), Bãi Phúc-Tần (Prince of Wales Bank). Quân Việt-Nam cũng đóng trên Đá Lát (Ladd Reef) Đá Bông-Bay (Bombay Castle, Rifleman Bank) với đồn phòng-thủ chính trên đảo Trường-Sa.
Các bãi vừa kể đều do đất cát san hô tạo nên. Có bãi như có vẻ đang tiếp-tục nổi cao lên, tuy vậy khi nước ròng sát cũng ít khi cao quá mặt nước.
Khu-vực biển ở về phía Tây bãi Tứ-chính (Trung-Cộng gọi là Bãi Vạn-An- Wan'an Bei) nằm hoàn-toàn trong thềm lục-địa Việt-Nam đã được biết đích-xác là có trữ-lượng dầu lửa rất lớn. Thanh-Long là tên gọi túi dầu này, chứa tới 500 triệu thùng. Trung-Hoa lục-địa cố cản trở Việt-Nam không cho khởi-công khai-thác. Đã nhiều phen họ lên tiếng phản-đối và có lần đã gửi chiến-hạm xuống phá đám việc tiếp-tế cho một dàn khoan thăm-dò ở đây.
Hình 169. Bản-đồ tổng-quát vùng tranh chấp Crestone.
Năm ngoái, tổ-hợp Nhật-Mỹ MJC Petroleum Ltd. với một thành-viên là công-ty Hoa-Kỳ Mobil Oil đã được CHXHCN Việt-Nam nhượng-quyền thăm dò khai-thác vùng Tứ-Chính. Một công-ty dầu khác là Conoco đang thương-thuyết với Hà-Nội xin quyền khai-thác khu-vực phía Bắc MJC Petroleum. Trước đây vào năm 1992, Trung-Cộng đã cho phép hãng Crestone Oil của Hoa-Kỳ khai-thác dầu khí ngay trên vùng này. Trung-Cộng hứa cho Hải-quân bảo-vệ. Bãi Tứ-chính nằm trong khu-vực Trung-Cộng cho sang-nhượng này. Sự can-thiệp quân-sự nếu có, chắc chắn gây đổ máu.
14.3.2 – ĐẢO TRƯỜNG-SA.
Đảo lớn duy nhất trong vùng là đảo Trường-Sa mà người Pháp gọi là đảo Bão-Tố (Ile de Tempête).
Tên Trường-Sa này được dùng để gọi chung cho cả quần-đảo. Nằm giữa những bãi và đá vùng Tây Nam Trường-Sa, đảo này lớn và là vị-trí quan-trọng nhất của khu-vực. Báo Economist (Vol. 316, July 7, 1990: 36) cho rằng đảo này rộng đủ (2500ft X 1300ft) cho việc thiết-lập một phi-đạo ngắn.
Về đại-mộc, đảo không có cây lớn, về loại thân thảo có rau sâm rất nhiều mọc khắp nơi. Sâm là một loại dược-thảo dưỡng-sinh rất tốt và hiệu-nghiệm để trị một vài tật bệnh.
Hồi đầu thập-niên 1970, quân bố-phòng Việt-Nam Cộng-hòa ở đây có nơi cư-trú rộng rãi, tiện-nghi chỉ thua Nam-Yết. Đảo có một cầu tàu nằm về phía Tây của đảo, dùng tạm bợ cho các xuồng cao-xu đổ-bộ, hay tiểu-đĩnh của chiến-hạm ra vô tiếp-tế.
Cầu tàu nay đã được làm lớn ra. Trung-Cộng đã phản-kháng việc XHCN Việt-Nam xây-cất cầu ở Trường-Sa. Nhu-cầu phát triển quân-sự và ngư-nghiệp bắt buộc phải có bến đậu cho tàu thuyền. Một cầu tàu loại chữ I vươn từ bờ đảo ra biển dài 75 thước là một công-trình rất lớn về xây cất ở Trường-Sa.
Đảo Trường-Sa cao không hơn 15ft và trơ trụi nên cần được trồng nhiều cây cao để giữ đất. Cây cao với cánh lá xum xuê cũng giúp cho việc phòng-thủ rất nhiều. Những cây duyên-hải Việt-Nam loại phi-lao, bàng bể rất thích-hợp, nhưng nếu vấn-đề ngụy-trang, che dấu, tăng-cường phòng-thủ công-sự là khẩn-cấp thì cần những cây mọc nhanh để làm sao trong vòng ít năm, đảo trở thành xum xuê, che kín hết mọi kiến-trúc nhân-tạo bên trong.
Khu-vực biển từ đảo Trường-Sa xuống Tứ-Chính tuy chỉ có hai nước Việt và Hoa tuyên-bố chủ-quyền nhưng đang trong vòng tranh-chấp gay gắt. Vì việc khai-thác dầu lửa, Trung-Cộng có thể tấn-công quân phòng-thủ Việt-Nam ở đây trước khi chiếm thêm đảo trong khu trung-ương.
Một Bộ-chỉ-huy trú-phòng ở một cấp-bộ nào đó phải đặt ở Trường-Sa để giải-quyết nhiều công-vụ, kể cả hành-chánh lẫn dân-sự. Quân trú-phòng CHXHCN Việt-Nam hiện đóng đông nhất trên đảo Trường-Sa, một số trên các bãi và hòn gần đó.
Hình 170. Bản-đồ đảo Trường-Sa.
Ngoài ra, các bãi Jubilee nằm về phía Tây, và các bãi Coronation cùng Duvalle nằm về phía Bắc nhóm này còn ngập sâu nước nên không có quân trú đóng.
Việt-Nam đã nhận-thức được việc thực-hiện các đèn hải-hiệu là quan-trọng nên thành-lập một nhóm điều-hành đèn hiệu tại Trường-Sa. Ngoài việc cung-cấp phương-tiện định hướng cho các tàu bè hải-hành trong vùng phụ-cận, hải-đăng cũng nói lên chủ-quyền đất nước. Đến nay, CHXHCN Việt-Nam thiết-lập được một hệ-thống đèn biển trên các đảo và hòn đá chính như tại hòn Đá Lát. Đá Lát cũng như Đá Bombay không được kể là một đảo theo pháp-lý, nhưng nếu Hải-đăng được dựng lên thì Đá Lát lại có thể được chấp-nhận theo Luật Biển Quốc-tế.
Trung-Cộng như thường-lệ phản-kháng liền ngay khi Việt-Nam đặt hải-đăng. Vào tháng 8/94, Phi-luật-Tân cũng lên tiếng phản-đối Việt-Nam. Họ tái xác-nhận chủ-quyền trên quần-đảo mà họ gọi là Kalayaan.
Báo-chí Hoa-Kỳ không nói rõ là Trung-Cộng có quân đồn-trú vùng này hay không, tuy nhiên tin-tức có lộn-xộn trong khi loan-báo lầm lẫn việc Trung-Cộng đóng chiếm Đá Lát (hay Ladd Reef?) vào năm 1992.
14.4 – VÙNG VIỆT-NAM VÀ 5, 6 NƯỚC TRANH-CHẤP.
Vùng tranh-chấp liên-hệ tới ít nhất là sáu nước: Việt, Trung-Hoa, Đài-Loan, Phi-luật-Tân, Brunei và Mã-lai-Á (nếu không kể một "tân-quốc vô-hình" đã mất là Luconia), gồm có:
- Bãi Luconia Shoals
- Đảo An-Bang tức Amboyna Cay
- Bãi Thuyền Chài tức Barque Canada Shoals
- Đá Kỳ-Vân hay Mariveles Reef
- Đá và bãi Kiệu-Ngựa hay Ardasier Reefs
- Bãi Thám-Hiểm hay Investigator Shoal
- Đá Công-Đo hay Commodore Reef
- Đá Hoa Lau hay Swallow Reef
- Đá Sắc-Lốt hay Royal Charlotte Reef
- Đá Louisa Reef
Vùng này ở phần cực Nam của Quần-đảo Trường-Sa, kể từ 8o50 Bắc trở về Nam. Mã-Lai-Á đã tuyên-bố có chủ-quyền và vẽ ranh giới lên tới phía Bắc của Bãi Thuyền-Chài và đảo Công-Đo.
Hình 171. Bản đồ vùng đảo An-Bang.
Đảo An-Bang là đảo lớn nhất. Những đảo, cồn khác trong vùng thật nhỏ như Đá Kỳ-Vân, Đá Hoa Lau, Đá Sắc-Lốt, Louisa Reef. Khá nhiều bãi cạn và đá ngầm chưa nổi lên mặt nước.
Vào toạ-độ, khoảng 5o00 N, 112o30 E có các rặng đá ngầm, bãi cạn Luconia nằm sát bờ biển Mã-lai-Á. Chỗ này xa Trung-Cộng có tới gần một ngàn hải-lý, vậy mà Trung-Cộng cũng không ngừng lên tiếng lạm-nhận chủ-quyền.
Quân XHCN Việt-Nam trú đóng trên Bãi Thuyền Chài và vị-trí tốt nhất là Đảo An-Bang. Đảo độc nhất này nằm ở phía Tây trong vùng biển nhiều nước tranh-chấp. Bãi Thuyền Chài chỉ mới nổi lên mặt nước, dài khoảng 32km, rộng tối-đa 6km, tuy vậy một diện-tích dùng được cho việc chiếm đóng lại rất nhỏ hẹp.
Phía Đông-Nam của Bãi Thuyền Chài, cách bãi này khoảng 40 đến 60 hải-lý có quân trú-phòng của Mã-lai-Á trên các hòn Đá Kỳ-Vân (Mariveles Reef), Đá Kiệu-Ngựa (Ardasier Reef) và Đá Hoa-Lau (Swallow Reef).
Ở phía Đông vùng này, có quân Phi-luật-Tân đóng trên Đá Công-Đo (Rizal).
14.5 – VÙNG VIỆT-HOA-PHI TRANH CHẤP
Vùng này rất rộng lớn, để sự mô-tả được dễ dàng, chúng ta có thể chia nó làm 4 khu: khu Nam, khu Trung, khu Bắc, khu Đông.
Hình 172. Vùng Việt - Hoa - Phi tranh-chấp.
14.5.1 – KHU NAM.
Khu này nằm ở phía Nam của quần-đảo Sinh-Tồn (Union Reefs), gồm các hòn đá:
Đá Tây hay West Reef
Đá Giữa hay Central Reef
Đá Đông hay East Reef
Đá Châu-Viên hay Cuarteron Reef
Đá Núi Môn hay Maralie Reef và Bittern Reef
Đá Hòn Síp/ Hòn Sáp hay Pearson Reef NE&SW
Đá Tốc Tan hay Alison Reef
Đá Núi Le hay Cornwallis South Reef
Đá Tiên-Nữ hay Tennant Reef hay Pigeon Reef
Vùng này không có đảo cũng như không bãi nào lớn, chỉ nổi lên một số hòn đá nhỏ mà thôi, cây cối rất ít vì thiếu đất.
Quân CHXHCN Việt-Nam đóng trên Đá Đông (Cồn .6m), Đá Tây (Đá .6m) Đá Giữa (sấp-sỉ mặt nước).
Có hai cục đá nhỏ sát nhau của hòn Đá Núi-Môn (Maralie Reef và Bittern Reef) không biết đã có người chiếm giữ hay không, bốn hòn khác là Đá Hòn Síp, Đá Tốc-Tần, Đá Núi Le và Đá Tiên-Nữ đều do quân Cộng-sản Việt-Nam trú-đóng.
Quân Trung-Cộng trấn-đóng trên Đá Châu-Viên (Cuarteron Reef- Huang Jiao) từ tháng 1/1988.
14.5.2 - KHU TRUNG.
Khu trung-ương của Trường-Sa gồm hầu hết các đảo lớn nhất của quần-đảo và vì vậy tập-trung đông-đảo quân trú-phòng nhiều nhất.
Các đảo quan-trọng kể từ phía Nam lên như sau:
- Đá Chữ Thập hay Fiery Cross Reef Quân Trung-Cộng trấn-đóng trên Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef- Yung Shu Jiao) từ tháng 1/1988. Đá Chữ Thập nằm về phía Đông-Bắc của đảo Trường-Sa và cách đảo này chừng 80 hải-lý. Hòn đá Chữ Thập là chỗ cao nhất của một bãi cạn dài khoảng 25km, rộng tối-đa chừng 6km. Còn Đá Châu-Viên chỉ cách Đá Đông của quân XHCN Việt-Nam chừng 15 hải-lý.
Tin-tức qua báo-chí ở Hoa-Kỳ cho hay Trung-Cộng đặt Bộ chỉ-huy toàn-thể quân trú-phòng quần-đảo Trường-Sa trên Đá Chữ-Thập. Chúng đã xây cất nhiều cơ-sở và cả một phi-đạo (?).
Hình 173. Các nhóm đảo quan-trọng của quần-đảo Trường-Sa.
- Nhóm đảo Sinh-Tồn:
Gồm có:
- Đá Gác Ma hay Johnson Reef South
- Đá Collins hay Johnson Reef North hay Collins Rf
- Đảo Len hay Lansdowne Reef
- Đảo Sinh Tồn hay Sin Cowe Island
- Đảo Sinh Tồn Đông hay Sin Cowe East Island
- Đá Ken Nan hay Kennant Reef hay Chiqua Reef
- Đá Ba Đầu
Các đảo chính có một ít cây nhỏ là Sinh-Tồn và Sinh-Tồn Đông, rồi đến Đảo Len. Ba đảo này và một số hòn đá nhỏ nổi lên tạo thành một vòng đai san-hô có tên là Union Reefs. Hồi những năm 1970, quân-nhân Việt-Nam CH đồn-trú ở đây không có tiện-nghi bằng những người ở các đảo Nam-Yết và Trường-Sa.
Vùng biển này đã diễn ra trận đánh năm 1988 mà Hải-quân CHXHCN Việt-Nam bị chìm 2 chiến-hạm, 1 chiến-hạm bị hư-hại, chết hơn 70 người.
Hình 174. Chiến-hạm này (số cũ: HQ-505 khi phục-vụ HQ/VNCH) bị bắn hư-hại khi Trung-Cộng tấn-công vào tháng 3/1988.
XHCN Việt-Nam có quân trên các đảo Sinh-Tồn, Sinh-Tồn Đông, Đảo Len và Đá Co Lin. Tình-hình quân-sự ở đây thường-trực căng thẳng. Từ đầu năm 1988, quân Trung-Cộng đã đổ-bộ và đóng trên hai hòn đá Ken Nan (Chiqua Reef hay Dongmen Jiao) và Gác Ma, nằm chen kẽ với Việt-Nam; khoảng cách nhau chỉ khoảng 3 hải-lý. Vào đầu năm 1992, Trung-Cộng lại chiếm thêm hòn Đá Ba Đầu (cực Đông-Bắc của Union Reefs) và Hòn Đá Lạc (có lẽ là hòn đá gần Nam-Yết).
Đặc-biệt quân hai bên cùng trú-đóng trên một rặng đá ngầm nhỏ có tên Johnson Reefs. Nhìn trên hải-đồ, ta có thể nói: cùng trên một “đảo” mà có hai lực-lượng thù-nghịch: Việt ở đầu Bắc (đá Co Lin) và Tàu ở đầu Nam (đá Gác Ma).
- Nhóm Nam-Yết/Ba-Bình/Đá Lớn- Nhỏ.
Gồm có: - Đá Nhỏ hay Discovery Small Reef
- Đá Lớn hay Discovery Great Reef
- Đá Đền Cây Cỏ hay Western Reef
- Đảo Nam-Yết hay Namyit Island
- Đá Ga Ven Gaven Reef
- Đảo Thái-Bình hay Itu-Aba Island
- Đảo Sơn-Ca hay Sand Cay
- Đá Đô-Thị hay Petley Reef.
Các hòn đá đứng riêng rẽ: Đá Nhỏ, Đá Lớn, Đá Đèn Cây Cỏ.
Các đảo đá còn lại nằm trên một vòng san-hô Tizard Bank. Khu này có đảo rộng nhất của quần-đảo là Ba-Bình và cũng có đảo cao nhất là Nam-Yết (tương-đương Song-Tử Tây). Những lùm cây lớn nhất cũng mọc tại đây. Mật độ quân trú-phòng ba nước thật cao trong một vùng biển nhỏ hẹp.
Hình 175. Nhóm đảo Tizard Bank.
- Đảo Nam-Yết. Nam-Yết, Namyít hay Nam-Ai, tuy nhỏ hơn Ba-Bình ...nhưng (cùng với Song Tử Tây) lại là hòn đảo cao nhất của quần-đảo. Chiều dài vào khoảng 700m, ngang 250m, cao 4.7m (15ft). Sách China's Boundaries của Ying Cheng Kiang (Illinois, 1984) ghi đảo này cao tới 61ft, Ocean Yearbook 10 (Chicago 1993) viết 20m kể cả cây; cả hai cao-độ này có lẽ đều là quá đáng.
Chung-quanh đảo có vòng san-hô và nhiều bãi đá ngầm. Trên đảo có những cây dừa, cây bàng, mù u, nhàu và nhiều giống cây nhỏ, cỏ gai vùng nhiệt-đới.
Công-sự phòng-thủ được Công-binh VNCH xây cất khá kiên-cố. Trong khoảng l974-1975, Bộ Chỉ-huy toàn-thể quần-đảo đã được đặt ở đây. Trên đảo có nhà cửa, hồ nước mưa, tiện-nghi khá đầy đủ. Nước giếng không ngọt, hơi lờ lợ; không dùng nấu ăn nhưng dùng tạm được cho tắm giặt. Với những dụng-cụ lọc nước thương-mại ngày nay, người ta có thể chuyển-biến nước giếng thành nước uống được.
Quyết-định sáng suốt của Hải-Quân VNCH khi đặt Bộ-chỉ-huy phòng-thủ Trường-Sa ở Nam-Yết dựa trên các yếu-tố binh-địa như sau:
- Trừ Ba-Bình, đảo này đáng kể là quan-trọng hơn hết trong vùng. Nam-Yết là đảo nhiều sinh-động, lại có lợi-thế là đảo cao nhất của quần-đảo.
- Phòng-thủ dễ dàng dựa vào thiên-nhiên, cây cối giúp bao-phủ công-sự, san-hô bao bọc gần khắp chung quanh, lại có một vùng đáy cát làm chỗ neo rất tốt về phía Bắc.
- Nằm ở khu trung-ương, liên-lạc dễ dàng với cả các toán phòng thủ Song-Tử Tây ở phía Bắc và toán phòng-thủ đảo Trường-Sa phía Nam.
- Vị-trí tốt nhất để canh chừng hoạt-động của Đài-Loan ở Ba-Bình và cả Phi-luật-Tân ở khu-vực Đông và Đông-Bắc quần-đảo.
Đảo Nam-Yết có cầu tàu nằm ở phía Bắc, đối-diện với Đảo Ba-Bình của Trung-Hoa QG. Cầu tàu này tương-đối mới.
Hình 176. Vị-trí Đảo Nam-Yết trong hình thang chiến lựợc phòng-thủ Quần-đảo Trường-Sa vào đầu thập-niên 1970.[73]
Khi quân Cộng-Sản Việt-Nam khởi-sự chiếm-đóng quần-đảo Trường-Sa, bộ chỉ-huy chính không còn được đặt ở đây nữa. Tuy nhiên Vinaphone sắp phủ sóng đến Trường-Sa, trạm BTS (Business Telecom Solutions) đầu tiên sẽ được đặt tại đảo Nam Yết với thiết kế đủ phủ sóng cho các đảo lân cận và truyền về đất liền, vì tính-cách trung-ương của đảo (Báo Lao Động 27/4/2006)
- Đảo Ba-Bình. Ba-Bình hay Thái-Bình hay Itu-Aba là đảo lớn nhất của quần-đảo Trường-Sa. Đài-Loan chiếm đảo này tháng 6/1946, họ rút quân về Đài-Loan năm 1950. Khi anh em Cloma người Phi-luật-Tân tuyên-bố khám-phá Trường-Sa, Đài-Loan gửi quân trở lại đảo Ba-Bình này 20 tháng 5 năm 1956.
Hình 177. Bản-đồ đảo Ba Bình.
Trên hải-đồ, chiều dài đảo đo được khoảng 1.2km, chiều ngang khoảng 450m. diện-tích 0.41km2 (chừng 100 acres). Độ cao chừng 13ft (4.0m), thấp hơn đảo Nam-Yết một chút. Trung-Hoa Đài-Loan xây cất nhiều cơ-sở quân-sự, có súng lớn, có đài kiểm-thám, có cầu tàu ở phía nam của đảo dành cho các tiểu-đĩnh đi tuần-tiễu. Ước-lượng quân trú-phòng tới một tiểu-đoàn, tuy vậy nếu nói cơ sở 800-1000 lính và cư-dân (?) thì có vẻ quá đáng. Căn-cứ này được bố-phòng kiến-cố nhất quần-đảo trong tình-trạng hiện nay và có lẽ cả trong tương-lai nữa.
Niên-giám 1993 của Trung-Hoa Đài-Loan cho kích-thước đảo Ba-Bình hơi khác: dài 1,360m, rộng 350m, cao trung bình 3.8m, diện-tích 489,600m2. Bề mặt đảo có vẻ được ước-lượng sai quá lớn. Đảo không thể lớn hơn diện-tích hình ellipse và chắc-chắn nhỏ hơn hình chữ-nhật 1360m x 350 rất nhiều!
Hình 178. Hình của Trung-Hoa Đài-Loan công-bố về hoạt-động của họ trên đảo (1994).
Những hình-ảnh Đài-Loan công bố gần đây nhất cho thấy Thủy-quân Lục-chiến của họ đã cải-biến đảo khác hẳn hồi thập-niên 1960-1970. Nhìn xa thấy đảo Ba Bình như to cao hơn xưa. Cây cối mọc rất nhiều và tươi tốt, che-phủ các hệ-thống bố-phòng kiên-cố. Quân trú-phòng có cơ-sở sinh-sống thoải-mái, tập-luyện thường-xuyên, trang-bị đầy đủ với cả xe lội nước…
Đảo này lớn, thuận-tiện nhất trong việc thiết-lập một phi-trường cho những phi-cơ chiến-thuật cần phi-đạo ngắn. Cầu tàu nay đã được nới rộng rất lớn. Nhờ hàng san-hô bao quanh, mặt nước khá yên-tĩnh nên tiểu-đĩnh có nơi cặp bến khá tốt.
Pháp và Việt-Nam đã thiết-lập một đài khí-tượng ở đây. Trước Thế-chiến II, đài hoạt-động rất hữu-hiệu mặc dù gặp khó khăn tìm kiếm người tình-nguyện. Ông Trần-văn-Mạnh cho biết, khi đang phục-vụ tại đây, Ông đã bị lính Nhật giam giữ khi chúng chiếm đảo vào năm 1941.[74]
Đài Ba-Bình mang chỉ-danh là 48 919 thời Pháp-thuộc. Số hiệu này do World Meteorological Organisation cấp-phát cùng với các đài quan-trắc ở các đảo Hoàng-Sa (48 860) và Phú-Lâm (48 859).
14.5.3 – KHU BẮC
Gồm có:
- Đảo Loại Ta hay Loaita I. (Kota)
- Đảo Lankiam Cay (Panata)
- Đá Su-Bi hay Subi Reef
- Đảo Thị-Tứ hay Thitu I. (Pagasa)
- Đảo Sandy
- Đá Men Di hay Menzies Reef
- Đảo Bến Lộc hay West York I. (Licas)
- Đá Nam hay South Reef
- Song-Tử Tây hay South West Cay
- Song-Tử Đông hay North East Cay (Parola).
- Đảo Loại Ta. Đảo Loại-Ta nằm về phía cực Nam của bãi ngầm Loaita Bank. Bãi này dài tới 60 hải-lý chạy từ hướng Tây-Nam lên Đông-Bắc. Phía Đông đảo Loại-Ta có đảo Lankiam nhỏ bé hơn, phía Tây có Hòn Loại-Ta Nam. Tận cùng phía Bắc của Bãi Loaita Bank là Đá Men Di. Phía Đông của đá Men Di có đảo Bến Lộc rộng hơn tất cả các hòn đảo kia, diện-tích tới gần 20 acres.
Hình 179. Bia chủ-quyền của Việt-Nam thiết-lập trên đảo Loại-ta trong thập-niên 1960. Hiện Phi-luật-Tân đang chiếm-đóng đảo này.
- Đảo Bến Lộc và đảo Loại-Ta cấu tạo bởi san-hô và cát. Trên đảo có một số cây và rất nhiều phân chim.
Quân phòng-thủ Phi-luật-Tân trú-đóng trên ba đảo Loại-Ta (Loaita Island, Kota), Lankiam (Panata) và Bến Lộc (West York Island, Licas).
- Đảo Thị-Tứ. Đảo này hình bầu dục, chung quanh đảo có rất nhiều rong biển và các bãi đá ngầm. Trên đảo có một số cây như cây mù-u, cây bàng.
Cùng nằm trên rặng đá ngầm Thitu Reefs có đảo cát Sandy.
Quân Phi-luật-Tân phòng-thủ trên đảo Thị-tứ (Thi Tu Island, Pagasa), đã xây phi-đạo nối dài ra biển.
Quân Trung-Hoa Đỏ chiếm-đóng Hòn đá Su-Bi (Subi Reef, Jhubi Jiao) cách đảo Thị-Tứ chừng 14 hải-lý về hướng Tây-Bắc.
Hình 180. Không-ảnh đảo Thị-Tứ (Pagasa) do Phi chiếm đóng.
- Đảo Song-tử Đông, Song-tử Tây. Song-tử Đông hay Northeast Cay và Song-tử Tây hay Southwest Cay là hai đảo thuộc rặng đá ngầm North Danger Reefs.
Hình 181. Khi Pháp rút khỏi Việt-Nam, Hộ-tống-hạm Tụy-Động, HQ-04 là chiến-hạm HQ/VNCH đầu-tiên công-tác tuần-tiễu Trường-Sa (22/8/1956).
Hai hòn đảo này như anh em sinh đôi nằm về phía Bắc của quần-đảo ngang vĩ-độ với Phan-Rang. Trên đảo có những cây cao trung-bình, nhiều phân chim có thể chế-biến thành phân bón. Vòng quanh hai đảo này, về phía Đông và Nam chừng 5 hải-lý có nhiều mõm đá ngầm. Rong biển mọc nhiều ở đây.
Song-tử Đông (North East Cay, Parola) hơi tròn hơn, rộng gần 20 acres, có quân trú-phòng Phi-luật-Tân.
Song-Tử Tây hình lưỡi liềm, diện-tích nhỏ hơn Song-Tử Đông, nhưng lại là đảo cao nhất tại Trường-Sa (khoảng 4-6 m). Có người cho rằng bãi biển ở đây đẹp nhất Việt-Nam.
Hòn Đá Nam cách xa đảo Tây này chừng 5 hải-lý về phía Nam Tây Nam.
Quân Việt-Nam chiếm-đóng đảo Song-tử Tây và hòn Đá Nam. Hai đảo Đông và Tây chỉ cách nhau khoảng 3 hải-lý, các quân trú-phòng Việt và Phi nhìn thấy quốc-kỳ của nhau khá rõ ràng.
14.5.4 – KHU ĐÔNG
Khu Đông của quần-đảo Trường-Sa là một vùng biển rộng lớn nằm gần quần-đảo Phi-luật-Tân. Khu này là vùng biển xa nhất trong Biển Đông nếu tính từ thềm lục-địa Á-châu trở ra, nó cách bờ biển Việt-Nam 500 hải-lý.
Có lẽ cả thế-giới đang chú-tâm nhiều đến các vùng biển phía Tây Trường-Sa là khu-vực đang có tranh-chấp gay gắt nhất diễn ra giữa Việt-Nam và Trung-Cộng mà quên đi vùng biển này trong một thời-gian khá dài.
Thật ra vùng biển rộng lớn này rất quan-trọng vì những điểm sau:
- Chiếm tới một phần ba diện-tích toàn-thể biển Trường-Sa, suýt-soát với Nam-phần Việt-Nam.
- Chỉ có quân trú-phòng của một quốc-gia duy nhất là Phi-luật-Tân.
- Diện-tích chỗ đáy biển nông cạn dưới 200m chiếm tới hai phần ba tổng-số diện-tích những vùng nông cạn tương-tự của quần-đảo. Lợi thế này đáng kể vì hiện nay kỹ-thuật khai-thác lòng biển còn rất khó khăn, tốn kém tại những nơi đáy biển quá sâu.
- Chỗ độc nhất trong cả hai quần-đảo Trường-Sa cũng như Hoàng-Sa đã được thăm-dò đầy đủ. Cho đến nay vị-trí túi dầu và trữ-lượng dầu cùng khí đốt đã được biết đích-xác nhất và cũng là chỗ độc nhất dễ-dàng cho việc khai thác.
- Trung-Cộng khởi-sự hành-động giả-dạng ngư-dân lặng lẽ lấn-chiếm kể từ tháng 2 năm 1995.
- Các đảo Bình-Nguyên và Vĩnh-Viễn. Vùng này rất ít đảo, đáng kể chỉ có hai đảo là:
- Đảo Bình-Nguyên hay Flat Island (Patag).
- Đảo Vĩnh-Viễn hay Nanshan Island (Lawak).
Diện-tích mỗi đảo có lẽ vào khoảng trên dưới 15 acres với cùng tính-chất địa-lý như các đảo khác của Trường-Sa. Quân Phi-luật-Tân chiếm-đóng cả hai đảo Bình-Nguyên (Patag) và đảo Vĩnh-Viễn (Lawak).
Đảo Vĩnh-Viễn dài chừng 580m, cao không quá 2m. Đảo Bình-Nguyên thấp hơn, rất hẹp bề ngang (240mX90m), nền đảo đang bị soi mòn. Trên mặt hai đảo san-hô này chỉ có lớp cát đất mỏng và phân chim. Có một ít cây nhỏ và lùm bụi cỏ vùng nhiệt-đới. Tuy đảo nhỏ như vậy, chính-phủ Phi cho biết đã thiết lập được phi-trường trên đảo Vĩnh-Viễn và thường-xuyên có hai chuyến máy bay nối liền các đảo với nội-địa Phi-luật-Tân.
- Các bãi cạn. Vùng này có nhiều bãi cạn không sâu quá 200m. Những bãi rộng lớn như sau:
- Bãi Cỏ Rong hay Reed Tablemount dài tới hơn 100 hải-lý, rộng nhất là 70 hải-lý. Tài-nguyên dầu khí vùng này đáng kể là nguồn lợi lớn lao nhất của quốc-gia Phi-luật-Tân. Các dàn khoan dầu đang hoạt-động và dự-trù cung-cấp ít nhất 10 phần trăm nhu-cầu cho cả xứ.
- Bãi Cạn Nam hay Southern Reef nằm về phía Nam của Bãi cỏ Rong, dài khoảng 45 hải-lý, rộng khoảng 25 hải-lý.
- Bãi Cá Ngựa hay Sea Horse Shoal là bãi ngầm san-hô nằm tận cùng hướng Đông của quần-đảo Trường-Sa.
- Các bãi Vành Khăn Sa-Bin, Bãi Cò Mây, Bãi Suối Ngà, Bãi Suối Ngọc, Bãi Trăng Khuyên (hay Trăng Khuyết?) nằm về phía Nam những bãi được kể ở những đoạn trên. Khu-vực các bãi chạy rời rạc dọc ngoài khơi của Palawan, cách đảo này từ 50 đến 100 hải-lý.
Hình 182. Hình-thể của Atolls và Tablemount theo sách American Practical Navigator của Bowditch
Hầu hết khu-vực bao quanh Bởi Bãi Cỏ Rong, bãi Trăng Khuyết (Half Moon Shoal), bãi Cá Ngựa và bờ biển Palawan đều đã được chính-phủ Phi-luật-Tân cho chia lô và thăm-dò. Các công-ty Dầu Khí cho biết tiềm-năng dưới lòng biển rất dồi dào.
Trong khu-vực ngang vĩ-độ với Trường-Sa, nhiều vị-trí được tìm thấy mỏ dầu khí, đang được khai-thác. Tại thềm lục-địa Việt-Nam, bốn giếng dầu lớn là Bạch-Hổ, Đại-Hùng, Dừa và Thanh-Long gợi lòng tham vô đáy của Trung-Cộng. Chắc chắn người Tàu cũng biết rõ tiềm-năng dầu-khí vùng Cỏ Rong, nhưng chúng chưa áp-dụng biện-pháp mạnh với Phi-luật-Tân để tranh-giành. Chính-sách "tầm ăn dâu" mới được Trung-Cộng khởi-sự cho thi-hành từ cuối năm 1994, khi chúng lén chiếm đá ngầm Vành Khăn.
Hình 183. Những khu-vực Phi-luật-Tân đã cho đấu-thầu khai-thác dầu khí.
Phi đang cố gắng đẩy mạnh việc khai-thác tại Bãi Cỏ Rong. Song song với sự hoạt-động mạnh mẽ của những dàn khoan dầu nằm sát bờ biển bắc đảo Palawan, Phi-luật-Tân hy-vọng trong tương-lai sẽ trở nên một quốc-gia tự-lực về dầu lửa không cần nhập-cảng.
- Tranh-chấp về vùng đá ngầm Vành Khăn
Vào đầu tháng 2/1995, chính-phủ Phi-luật-Tân phát-hiện Trung-Cộng đã chiếm đóng hòn đá ngầm Vành Khăn. Trên hải-đồ quốc-tế, hòn đá ngầm này mang tên Mischief Reef, người Phi gọi là Panganiban, toạ-độ 9o58 N., 115o42 E. Vành Khăn là một vành san-hô nằm dưới mặt nước biển một vài thước. Ngoài Vành-Khăn, trên các bãi ngầm Jackson, Half Moon (Trăng Khuyên), Sabina (Sa-Bin) cũng có dấu vết xây cất của Trung-Cộng.
Có lẽ khởi-sự từ cuối năm 1994, Trung-Cộng đã cho quân-đội giả dạng làm thường-dân đánh cá, bất-thần chiếm hòn đá ngầm Vành Khăn. Một ghe của ngư-phủ Phi hành-nghề lẩn quẩn gần đó thì bị bắt, Chỉ khi Trung-Cộng thả ghe này ra, Phi-luật-Tân mới biết là nhiều cơ-sở của Tàu đã được xây-dựng trên những vùng quanh hòn đá ngầm này.
Hình 184. Kiến-trúc xây-cất trên hòn đá ngầm Vành Khăn mà Trung-Cộng đã tuyên-bố là chỗ trú-ẩn cho dân đánh cá (1994).
Vì Mischief và Half Moon chỉ cách đảo Palawan chừng 135 và 70 hải-lý, lại nằm quá sâu trong hải-phận 200hl. EEZ của họ, Chính-phủ Phi-luật-Tân rất lo ngại. Sự phản-đối lúc đầu rất mạnh mẽ, Phi cho công-bố hình chụp các kiến-trúc khá lớn do Trung-Cộng xây dựng trên những dàn kiểu nhà sàn. Phi cũng cho biết có 3 tàu lớn, 5 tàu nhỏ và một số ghe nhỏ đang neo hay chạy quanh quẩn gần đó.
Hình 185. Mischief Reef/Panganiban nay đã thuộc hẳn vào Trung-Cộng. Bức không-ảnh chụp khoảng năm 2001.
Biến-cố này chứng tỏ Trung-Cộng vẫn tiếp-tục sử-dụng biện-pháp quân-sự, nhưng khôn khéo hơn, để chiếm trọn các đảo ngoài Biển Đông. Lúc đầu, Trung-Cộng chối rằng không có âm mưu gì, sau đó lại nói cái dàn do dân đánh cá Trung-Hoa tự-động xây cất làm nơi trú-ẩn.
Hình chụp không-ảnh cho thấy rõ trên mặt nước là một căn-cứ quân-sự với bồn chứa nhiên-liệu, có cắm cờ Trung-Cộng. Cơ-sở đủ lớn để có thể trang-bị nhà máy điện và nhiều đài Radar.
Về tàu bè Trung-Cộng hoạt-động gần đó, Phi cho biết có nhiều khu-trục-hạm và một chiếc thuộc loại Dashi Class (Dazhi?). Nếu tin-tức này đúng thì tình-hình lúc đó khá nghiêm-trọng. Theo tài-liệu Jane's Fighting Ships, chiến-hạm Dazhi Class giữ nhiệm-vụ của một trạm yểm-trợ tiềm-thủy-đĩnh lưu-động.
Hình 186. Đặc-tính loại tàu Dazhi theo Jane's Fighting Ships năm 1995, trang 132.
Nhiều hình-ảnh, tin-tức, bình-luận chống-báng Trung-Cộng đã được đăng trên các báo-chí thế-giới. Sau mấy tuần-lễ không có một thay đổi gì khác xảy ra. Mặc dù đã thất-bại nhiều lần trong quá-khứ, Nam-Dương lại cố gắng mời các phe phái liên-hệ đến tham-dự một hội-nghị hòa-bình Biển Đông. Thiện-chí của Nam-Dương rất đáng ca ngợi, tuy vậy nỗ-lực của nước này chắc không đi được đến đâu. Trung-Cộng vẫn tiếp-tục đi hết tiến-trình vạch sẵn là chiếm từng hòn đảo một cho đến khi nào nuốt trọn gói Trường-Sa. Phi-luật-Tân nói rằng sẽ đưa nội-vụ ra toà-án Quốc-tế.
Tuy thế, lần này sự biến-chuyển về tình-hình quân-sự và ngoại-giao lại khác hẳn, đi ra ngoài dự-đoán của Trung-Cộng. Vào cuối tháng 3/ 1995, khi vừa bắt đầu thương-thuyết với Trung-Cộng một ngày tại Bắc-Kinh, Phi-luật-Tân bất-thần đưa hải-quân tới ngay vùng đá ngầm ngoài khơi Palawan. Lấy danh-nghiã bảo-vệ hải-phận, phi-cơ của Phi triệt-tiêu công-trình xây cất của Trung-Cộng trên các bãi ngầm Jackson, Sabina, Half Moon. 62 ngư-phủ người Tàu bị bắt. Cảnh-sát Phi-luật-Tân đã tố-cáo 62 người này xâm-nhập lãnh-thổ nước họ một cách bất hợp-pháp, mang theo chất nổ hủy-hoại hải-sản và săn bắt rùa biển là loài động-vật đang được nhiều nước bảo vệ. Thủ-tục truy-tố ra toà tiến-hành. Việc thương-thuyết Phi-Tàu ngưng lại. Tình-hình Biển Đông thêm căng thẳng. Vào ngày 31/3/1995, Đài-Loan lo ngại, gửi ba tuần-tiễu-hạm xuống tăng-cường vùng Pratas và có lẽ cả Trường-Sa. Rồi cuối cùng, nước nhỏ vẫn thiệt, Trung-Cộng nghiễm-nhiên chiếm đoạt Mitchief.
Lâu hay mau, Biển Đông rồi sẽ lại nổi sóng-gió bão-bùng.vì Trung-Cộng không để một nước láng giềng nào sống yên ổn!
Hình 187. Không-ảnh căn-cứ TC.
Hình 188. Không-ảnh căn-cứ TC trên Đá Chữ Thập.
Tình-hình Biển Đông hiện nay chỉ tạm ổn sau khi Trung-Cộng hoàn-thành việc thiết-lập các căn-cứ vững-chắc tại Hoàng-Sa và Trường-Sa như trình-bày trong mấy hình-ảnh tại:
Hình 189. Không-ảnh đảo Phú-Lâm, chụp dưới cánh máy bay.
Nhận xét
Đăng nhận xét