HÌNH THÁI KIẾN TRÚC KHU PHỐ PHÁP Ở HÀ NỘI VÀ PHƯƠNG PHÁP BẢO TỒN

Khu phố Pháp ở Hà Nội là một di sản đô thị quý giá góp phần tạo nên bản sắc của không gian đô thị Thủ đô, đồng thời cũng là minh chứng quan trọng cho lịch sử phát triển của thành phố.
Ngày nay, khu phố Pháp cùng với khu phố cổ đã được thừa nhận là khu vực đô thị lõi lịch sử của Hà Nội mở rộng trong Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Song trên thực tế, các công trình kiến trúc mang đậm chất văn hóa ở khu phố này đang bị xuống cấp và biến dạng trầm trọng bởi các nguyên nhân:
– Sự tác động của thời gian và các yếu tố khí hậu làm cho kết cấu các công trình trên dưới 100 năm tuổi bị hủy hoại;
– Quá trình đô thị hóa thiếu kiểm soát khiến cho mhiều công trình di sản bị phá bỏ và thay thế bằng các tòa nhà cao tầng;
– Sự tăng dân số ồ ạt, ngành du lịch phát triển tự phát làm quá sức chịu tải của các công trình di sản;
– Sự thiếu vắng một kế hoạch bảo tồn di sản kiến trúc mang tính tổng thể.
Sở ngoại vụ Hà Nội trước kia là Tòa Thị chính
Sở ngoại vụ Hà Nội trước kia là Tòa Thị chính
Ở Hà Nội, vấn đề bảo tồn và phát triển khu phố Pháp cũng đã được một số tổ chức trong và ngoài nước triển khai nghiên cứu. Tuy nhiên những nghiên cứu này vẫn đang giới hạn trong một số khu vực nhất định nên vẫn mang tính chất cục bộ. Do vậy, một nghiên cứu mang tính tổng thể về vấn đề Bảo tồn và phát triển khu phố Pháp ở Hà Nội, trong đó có vấn đề bảo tồn các đặc trưng hình thái kiến trúc là hết sức cấp thiết, khi các đặc trưng này là rất đáng chú ý và đang bị mai một rất nhanh do áp lực “hiện đại hoá”, “cao ốc hoá” khu vực, nơi mỗi m2 diện tích có giá trị cao vào bậc nhất thế giới.
Bảo tồn các khu đô thị lịch sử ở nước ngoài
Vấn đề bảo tồn những khía cạnh đặc trưng của không gian đô thị ngày càng được quan tâm trên thế giới. Ở nhiều nước, bảo tồn các khu đô thị lịch sử đóng vai trò quan trọng trong công tác quy hoạch và phát triển đô thị. Dưới đây là một số kinh nghiệm bảo tồn các khu đô thị lịch sử ở một số nước Châu Á có những nét tương đồng với Hà Nội.
Ở Trung Quốc, bộ Luật Bảo tồn di tích văn hoá được thông qua năm 1982. Cũng năm đó, một danh mục quốc gia các Thành phố lịch sử – văn hoá quý giá được đưa ra. Tới năm 2009, có 111 thành phố được đưa vào danh sách này. Ý tưởng về các Khu vực Bảo tồn lịch sử – văn hoá được đưa ra ở Trung Quốc năm 1986. Các hướng dẫn về các kế hoạch chuẩn bị bảo tồn đối với các thành phố, thị trấn lịch sử – văn hoá quý giá được đưa ra bảo Bộ Xây dựng và Uỷ ban Di sản Trung Quốc năm 1994. Bộ hướng dẫn này chỉ định các khu vực đặc biệt nhiều các công trình lịch sử để đưa chúng vào danh mục các Khu vực Bảo tồn lịch sử – văn hóa. Ranh giới bảo tồn của các khu vực này và các vùng kiểm soát xây dựng có liên quan được tạo dựng trên các bảo đồ 1:500 – 1:2000 [1].
Singapore cũng rất thành công trong việc bảo tồn các khu đô thị lịch sử ở khu vực trung tâm bằng một chính sách và quy hoạch bảo tồn do Ủy ban quốc gia tái phát triển đô thị đưa ra năm 1986. Chính sách này đã được thực hiện thành công nhờ việc công nhận các khu đô thị lịch sử như Chinatown, Kampong Glam, Litle India là khu vực bảo tồn. Công tác bảo tồn các khu vực này không chỉ dừng lại ở việc bảo tồn các ngôi nhà ở – cửa hàng truyền thống đặc trưng mà còn duy trì các hoạt động cộng đồng trong khu vực, đồng thời cho phép sử dụng các nguồn lực có được do việc buôn bán ở đây vào việc bảo tồn, tu tạo chúng một cách vững chắc [2].
Công tác bảo tồn Khu phố cổ ở Bangkok (Bangkok old town) bắt đầu nổi lên từ năm 1982, khi chính phủ Thailand tiến hành trùng tu nơi đây để kỷ niệm 200 năm thành lập thành phố. Thời gian đầu, công việc này hoàn toàn do chính phủ kiểm soát với sự tham gia của một nhóm nhỏ dân cư, do vậy đã dẫn tới mâu thuẫn giữa chính phủ và người dân địa phương làm cho công tác bảo tồn diễn ra không được như mong muốn. Chỉ tới đầu thế kỷ 21, người ta mới nhận thức được vấn đề và tiến hành xem xét lại kế hoạch tổng thể bảo tồn Khu phố cổ trong đó bao gồm các vấn đề về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển đô thị, bảo tồn và phát triển du lịch, đồng thời nhấn mạnh vai trò của sự tham gia của người dân vào công tác bảo tồn [3].
Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã tiến hành công nhận các Địa điểm lịch sử ở những đô thị có lịch sử phát triển lâu đời và đưa ra các kế hoạch bảo tồn chúng. Ở đây người ta đã cho tiến hành các nghiên cứu đánh giá, phân loại các công trình kiến trúc truyền thống dựa trên những tiêu chí rõ rệt. Các tiêu chí này bao gồm các thức mặt đứng nguyên thuỷ, các kiểu mặt bằng, các thành phần kiến trúc và sự đóng góp của nó cho môi trường cảnh quan lịch sử. Sự phân loại này sẽ là cơ sở cho việc đưa ra các quyết sách bảo tồn các Địa điểm lịch sử [4].
Vấn đề bảo tồn các khu phố lịch sử cũng được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) khuyến khích thông qua việc công nhận Di sản văn hoá thế giới cho nhiều khu đô thị trên toàn cầu [1].
Sơ lược quá trình hình thành Khu phố Pháp ở Hà Nội
Địa giới Khu phố Pháp ở Hà Nội
Địa giới Khu phố Pháp ở Hà Nội
Khu phố Pháp ở Hà Nội bắt đầu được xây dựng năm 1875 tại khu Nhượng địa ở vùng ven sông Hồng, ban đầu chỉ là một dải đất hẹp và kéo dài từ khu vực Bảo tàng Lịch sử tới bệnh viện Hữu Nghị ngày nay. Chính tại đây, tuyến phố kiểu Pháp đầu tiên ở Hà Nội đã hình thành (nay là phố Phạm Ngũ Lão), đồng thời các công trình kiến trúc kiểu Pháp đầu tiên cũng được xây dựng.
Ngay trong thời kỳ Tiền thực dân (1875 – 1888), sau khi chiếm thành Hà Nội người Pháp đã tiến hành mở rộng Khu phố Pháp ra toàn bộ khu vực xung quanh và phía nam hồ Hoàn Kiếm với mạng lưới hình ô cờ và một số công trình kiến trúc theo kiểu Pháp. Như vậy có thể thấy rằng tới cuối thời kỳ Tiền thực dân Khu phố Pháp đã hình thành tương đối rõ nét ở Hà Nội. Tuy nhiên về cơ bản vẫn chỉ là mạng lưới đường phố và các cơ sở hạ tầng đi kèm, các công trình kiến trúc mới chỉ được xây dựng rải rác trên các ô phố và cũng chủ yếu là các công trình 1-2 tầng tương đối đơn giản.
Trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1888 – 1920), với mục tiêu biến Hà Nội thành thủ đô Đông Dương, người Pháp đã đẩy mạnh việc mở rộng không gian đô thị Hà Nội với hình thức quy hoạch hoàn toàn theo kiểu Phương Tây. Trong giai đoạn này Khu phố Pháp đã được mở rộng về phía bắc, đặc biệt ở khu vực phía tây Hoàng Thành cũ với nhiều tuyến phố và quảng trường lớn được xây dựng. Đây cũng là thời kỳ hoàn thiện Khu phố Pháp ở khu vực xung quanh và phía nam hồ Hoàn Kiếm, mạng lưới đường phố được xây dựng hoàn chỉnh từ bờ sông Hồng tới đường Mandarine (phố Lê Duẩn ngày nay) theo hướng đông – tây và từ phía bắc hồ Hoàn Kiếm tới đại lộ Gambetta (phố Trần Hưng Đạo ngày nay) theo hướng bắc – nam.
Thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1920 – 1945) với sự phát triển mạnh mẽ về các mặt kinh tế và những biến động về mặt xã hội đã tạo tiền đề cho việc mở rộng và hoàn thiện khu phố Pháp. Bên cạnh việc xây dựng các công trình công cộng và nhà ở tại khu vực phía tây Hoàng Thành cũ, hai khu vực đô thị dành cho giới tư sản và tiểu tư sản người Việt cũng được tạo dựng về phía bắc Hoàng Thành tới bờ sông Hồng và từ phía nam đại lộ Gambetta tới gần khu vực phố Trần Khát Chân hiện nay.
Tới năm 1945 Khu phố Pháp ở Hà Nội đã định hình với tổng diện tích khoảng 780 ha [5], bao gồm các trung tâm chính trị – hành chính, trung tâm văn hóa – thương mại, khu quân sự và các khu nhà ở chủ yếu dành cho người Pháp ở khu vực nam phố cổ tới phố Trần Hưng Đạo và khu Hoàng Thành cũ; các khu phố mang tính đa chức năng vừa là khu dân cư cho giới tư sản và tiểu tư sản người Việt, vừa là nơi xây dựng một số công trình công nghiệp như nhà máy điện, nhà máy nước, nhà máy rượu… ở phía bắc Hoàng Thành cũ và phía nam phố Trần Hưng Đạo ngày nay.
Đặc điểm hình thái kiến trúc Khu phố Pháp
Trải qua khoảng 80 năm xây dựng (1875-1945), kiến trúc Khu phố Pháp ở Hà Nội đã để lại những dấu ấn mạnh mẽ cho thành phố với một hình thái kiến trúc hoàn toàn mới mẻ, những công trình kiến trúc phong phú và đa dạng về mặt hình thức. Thống nhất trong nhận định các phong cách kiến trúc khu phố này là một bước đi cần thiết trong quá trình đánh giá, phân loại di sản kiến trúc của phố để có được những quyết sách bảo tồn hợp lý. Phần này nhằm đề cập tới đặc điểm về mặt hình thái học các phong cách chủ đạo đã để lại dấu ấn rõ rang trong kiến trúc khu phố này.
1. Phong cách Tiền thực dân
Kiến trúc phong cách Tiền thực dân đầu tiên xuất hiện ở Hà Nội chính là những công trình được xây dựng trong khu Nhượng địa. Các ngôi nhà ở đây được xây dựng trong hai năm 1875-1876 đều được tổ chức một cách đơn giản theo chủ thuyết công năng duy lý với mặt bằng hình chữ nhật có hành lang rộng bao quanh nhằm chống lại cái nắng nóng gay gắt của khí hậu nhiệt đới bản địa. Những ngôi nhà theo kiểu kiến trúc Tiền thực dân này còn được áp dụng trong việc xây dựng doanh trại cho quân đội Pháp sau khi họ cho phá hủy hầu như toàn bộ thành Hà Nội vào năm 1886 và một số công trình xây dựng ở phía đông hồ Hoàn Kiếm thời kỳ đầu. Ngày nay ta vào còn thấy một số ngôi nhà loại này trên phố Phạm Ngũ Lão hay ở khu vực gần Cột Cờ nay dùng làm Bảo tàng Quân sự Việt Nam.
Đặc điểm nhận dạng các công trình theo phong cách này là nhà thường có hai tầng, mặt bằng hình chữ nhật có hành lang rộng chạy xung quanh, mái dốc lợp ngói hoặc tôn, có thể có cửa mái để thoát nhiệt, tường chắn mái xây gạch, trên mặt đứng có một số hình thức trang trí đơn giản như lan can kiểu con tiện và các hình đắp nổi bằng vữa xi măng.
2. Phong cách Tân cổ điển
Tới khi người Pháp tiến hành công cuộc xây dựng, mở mang Hà Nội nhằm biến nơi đây thành thủ đô Đông Dương những năm đầu thế kỷ 20, có rất nhiều công trình được xây dựng theo phong cách kiến trúc Tân cổ điển, một phong cách đang rất thịnh hành ở Pháp mong muốn phục hồi những giá trị của kiến trúc cổ điển Hy Lạp – La Mã, coi đây là đỉnh điểm của ngôn ngữ và hình tượng kiến trúc. Đại diện lớn nhất của hình loại kiến trúc này ở Hà Nội là bộ ba công trình tiêu biểu cho chính quyền thực dân gồm Dinh toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch), Dinh Thống xứ (nay là Nhà khách chính phủ trên phố Ngô Quyền) và Tòa án (nay là trụ sở Tòa án nhân dân tối cao ở phố Lý Thường Kiệt). Phong cách Tân cổ điển còn được áp dụng trong thiết kế các công trình kinh tế, văn hóa lớn như nhà Bưu điện, trụ sở công ty hỏa xa (nay là trụ sở Tổng liên đoàn lao động Việt Nam trên phố Trần Hưng Đạo), ga Hàng cỏ, khách sạn Metropole, Nhà hát lớn, viện Radium (nay là bệnh viện K)… cùng nhiều biệt thự dành cho người Pháp.
Phong cách Tân cổ điển ở đây không còn là Tân cổ điển Pháp thuần túy nữa mà mang nhiều màu sắc của chủ nghĩa Triết chung. Mặc dù vẫn sử dụng bố cục đối xứng nghiêm ngặt, các cấu trúc hình học và tỷ lệ vẫn được tuân thủ, các thức cổ điển vẫn mang tính áp đảo, song ở nhiều công trình các thức và chi tiết của kiến trúc Phục Hưng và Baroc cũng được sử dụng.
Phủ Chủ tịch trước kia là Dinh Toàn quyền Đông Dương
Phủ Chủ tịch trước kia là Dinh Toàn quyền Đông Dương
3. Phong cách kiến trúc Địa phương Pháp
Cũng trong những năm đầu thế kỷ XX, rất nhiều người Pháp mang cả gia đình sang Hà Nội làm ăn, sinh sống. Khi mới sang xứ sở thuộc địa này, họ vẫn nặng lòng với nỗi nhớ quê hương và do vậy họ mong muốn được sống trong những ngôi nhà giúp họ nhớ về quê hương bản quán. Từ đó những ngôi biệt thự mang phong cách kiến trúc các địa phương khác nhau ở Pháp được xây dựng trên các khu phố mới của Hà Nội. Biệt thự phong cách miền Bắc nước Pháp với bộ mái da diện có độ dốc lớn được tô điểm thêm bởi những tháp nhỏ hoặc ống khói cao, biệt thự phong cách miền trung nước Pháp với với bộ mái có độ dốc vừa phải với hệ con sơn gỗ nhẹ nhàng, biệt thự phong cách miền Nam nước Pháp với hệ thống cửa rộng mở cùng các hàng hiên, ban công làm tăng vẻ tao nhã. Phong cách kiến trúc địa phương Pháp còn ảnh hưởng tới việc xây dựng các trường học thời kỳ này như trường Albert Saraut (nay là trụ sở Ban đối ngoại TW trên phố Hoàng Văn Thụ), trường Nữ học Pháp (nay là trụ sở Bộ Tư pháp trên phố Trần Phú), trường Phan Đình Phùng, trường Trần Phú và trường Bưởi (Chu Văn An).
Đặc điểm chủ đạo của các công trình kiến trúc phong cách Địa phương Pháp là nhà mái dốc lợp ngói tây, hệ con sơn đỡ mái hình tam giác được tiện khắc công phu, họa tiết trang trí thường tập trung quanh các cửa hoặc ban công. Tuy nhiên cũng phải lưu ý rằng kiến trúc phong cách Địa phương Pháp ở đây không hoàn toàn giống như ở chính quốc mà đã có những biến đổi nhằm phù hợp với công năng mới và cảnh quan, khí hậu bản địa.
Biệt thự phong cách kiến trúc miền bắc nước Pháp trên phố Khúc Hạo
Biệt thự phong cách kiến trúc miền bắc nước Pháp trên phố Khúc Hạo
Biệt thự vùng Basse Normandie ở miền bắc nước Pháp
Biệt thự vùng Basse Normandie ở miền bắc nước Pháp
4. Phong cách kiến trúc Art Deco
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ 2 của người Pháp từ những năm 1920 tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp mở mang việc đầu tư xây dựng trụ sở giao dịch, nhà máy, xí nghiệp ở Hà Nội, nhiều trường học, bệnh viện, cửa hàng cũng được xây dựng thêm. Cùng thời gian này ở Pháp và các nước Âu Mỹ đang thịnh hành một trào lưu kiến trúc mới: Kiến trúc Art Deco dựa trên cơ sở thẩm mỹ lập thể, bài bác tính hoa mỹ và sự rườm rà trong cách trang trí của các trào lưu kiến trúc trước đó. Ý tưởng thiết kế mới này hoàn toàn phù hợp với những công trình kinh tế mang tính công năng cao nên nhanh chóng được sự đón nhận nhiệt tình của các nhà đầu tư bất động sản ở Hà Nội lúc bấy giờ.
Kiến trúc Art Deco phát triển mạnh ở khu phố Pháp trong những năm 1920-1930 và đặc biệt rõ nét ở những công trình thương mại lớn như trụ sở Ngân hàng Đông Dương (nay là trụ sở Ngân hàng Nhà nước), trụ sở Quỹ tín dụng bất động sản tại ngã tư Tràng Tiền – Đinh Tiên Hoàng, nhà in IDEO (nay là Trung tâm văn hóa Pháp), trụ sở Ngân hàng Pháp Hoa (nay là trụ sở Bộ công thương), trụ sở phòng Thương mại và Nông nghiệp (nay là Bưu điện quốc tế)… và rất nhiều biệt thự dành cho cả người Pháp lẫn người Việt.
Kiến trúc Art Deco có cấu trúc đăng đối hoặc phi đăng đối với các khối hộp vuông, chữ nhật có thể kết hợp với khối bán trụ tạo ra những hình khối kiến trúc năng động và ngập tràn sinh lực, các hình thức trang trí nhẹ nhàng bằng thép uốn, phù điêu, kính màu cùng các dàn hoa bằng bê tông cốt thép làm nhẹ bớt sự thô nặng của các khối chủ đạo. Đây cũng là hình loại kiến trúc có nhiều nghiên cứu cải biên nhằm tới sự hài hòa với cảnh quan và khí hậu Hà Nội.
Ngân hàng Nhà nước (trước kia là Ngân hàng Đông Dương)
Ngân hàng Nhà nước (trước kia là Ngân hàng Đông Dương)
5. Phong cách kiến trúc Đông Dương
Sau một thời gian khai thác những công trình kiến trúc mang phong cách thuần túy Châu Âu, người ta thấy chúng không hoàn toàn phù hợp về mặt khí hậu cũng như tập quán sinh hoạt, truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan Hà Nội. Bản thân giới trí thức Pháp cũng thấy rằng việc áp đặt những giá trị văn hóa từ chính quốc vào một xứ sở vốn có truyền thống văn hóa từ lâu đời là không thể chấp nhận được, từ đó hình thành một phong cách kiến trúc mới, kết hợp thành tựu công nghệ và văn hóa Pháp với truyền thống văn hóa và kiến trúc bản địa – phong cách kiến trúc Đông Dương.
Kiến trúc phong cách Đông Dương là những công trình có cấu trúc mặt bằng không gian hoàn toàn theo kiểu Pháp nhưng đã có sự tìm tòi biến đổi về hình thái mặt đứng cùng những chi tiết cấu tạo và trang trí kiểu Phương Đông nhằm tạo ra các công trình kiến trúc có khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, cảnh quan cũng như truyền thống văn hóa bản địa. Đại diện lớn nhất cho phong cách kiến trúc này là E. Hébrard với những công trình nổi tiếng như tòa nhà chính Đại học Đông Dương, Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử), Sở Tài chính Đông Dương (nay là trụ sở Bộ Ngoại giao), nhà thờ Cửa Bắc. Ngoài ra còn có A. Kruze cùng nhiều kiến trúc sư người Pháp và người Việt khác cũng để lại nhiều công trình có giá trị theo phong cách này vẫn còn tồn tại đến nay như trụ sở Tổng cục TDTT trên phố Trần Phú, nhà số 4 lý Nam Đế, biệt thự Didelot tại phố Ngọc Hà, Viện Pasteur Hà Nội, 4 tòa nhà của Việt Nam học xá trong Đại học Bách khoa hiện nay, nhà thờ dòng Dominic trên phố Hùng Vương cùng nhiều biệt thự tập trung ở khu vực xung quanh hồ Thuyền Quang.
Đặc điểm của các công trình theo phong cách Đông Dương là có công năng hoàn toàn theo kiểu Pháp, nhưng hình thức kiến trúc lại mang đậm chất Á Đông với bộ mái ngói được đỡ bởi các con sơn gỗ, các góc mái và đầu nóc được trang trí bởi các gờ chữ triện cùng với các hình thức trang trí lấy cảm hứng từ các hình tượng nghệ thuật Phương Đông trên tường, trên cửa và lan can ban công cho chúng ta ấn tượng rõ nét về một hình thức kiến trúc kết hợp tinh hoa văn hóa Đông – Tây.
Ngoài những phong cách chủ đạo trong kiến trúc Khu phố Pháp ở Hà Nội đã nêu trên, ở khu phố này còn tồn tại một số công trình kiến trúc có phong cách Neo-Gothic chủ yếu thể hiện trong kiến trúc nhà thờ như Nhà thờ lớn, nhà thờ Hàm Long, phong cách kiến trúc Pháp-Hoa thể hiện ở một số biệt thự dành cho người Việt trên các phố Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Quán Thánh…
Bảo tàng Lịch sử (trước kia là Bảo tàng Louis Finot)
Bảo tàng Lịch sử (trước kia là Bảo tàng Louis Finot)
Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Biệt thự số 26 Phan Bội Châu
Biệt thự số 26 Phan Bội Châu
5. Phương hướng bảo tồn kiến trúc Khu phố Pháp
Tiến hành nghiên cứu đánh giá, phân loại:
Mục đích của việc nghiên cứu đánh giá, phân loại di sản là đưa ra được một danh mục phân loại các công trình di sản theo các cấp độ khác nhau làm cơ sở cho việc đưa ra các quy chế về quản lý và bảo tồn di sản kiến trúc Khu phố Pháp ở Hà Nội.
Việc tiến hành nghiên cứu đánh giá, phân loại phải được tiến hành bởi các cơ quan nghiên cứu có đầy đủ khả năng về mặt chuyên môn trong lĩnh vực bảo tồn di sản, có đầy đủ lực lượng nhân lực cần thiết để đo vẽ hiện trạng, và phải có sự kết hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước về mặt chuyên môn và các chuyên gia độc lập. Nhiệm vụ của các cơ quan nghiên cứu là tiến hành chụp ảnh, đo vẽ hiện trạng…tạo dựng hồ sơ cho từng công trình, đề xuất hệ thống các tiêu chí đánh giá dựa trên các giá trị lịch sử, văn hoá, kiến trúc, cảnh quan đô thị cùng hệ thang điểm cho từng tiêu chí để cuối cùng đưa ra được hồ sơ phân loại toàn bộ các công trình kiến trúc Khu phố Pháp ở Hà Nội được các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt. Theo kinh nghiệm trong nước và nước ngoài trong lĩnh vực bảo tồn di sản kiến trúc, các công trình kiến trúc di sản thường được chia thành 3 tới 4 loại với các tên gọi khác nhau, chúng tôi kiến nghị nên chia thành ba loại:
Loại 1: Các công trình có giá trị đặc biệt
Loại 2: Các công trình có giá trị cao
Loại 3: Các công trình có giá trị trung bình
Xây dựng quy chế quản lý và bảo tồn:
Mục đích của quy chế:
Mục đích chủ yếu của quy chế quản lý, bảo tồn di sản kiến trúc Khu phố Pháp ở Hà Nội là nhằm phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ phá huỷ, làm hư hỏng các công trình kiến trúc có giá trị về các mặt lịch sử, văn hoá, kiến trúc và cảnh quan đô thị, đảm bảo giữ được những giá trị vật thể và phi vật thể của bộ phận di sản này trong thời gian lâu dài. Tuyên truyền, giáo dục cộng đồng về những giá trị của bộ phận di sản này, đáp ứng nhu cầu tham quan, học tập, hưởng thụ văn hoá của các tầng lớp nhân dân Thủ đô cũng như du khách trong và ngoài nước.
Những nội dung cơ bản cần đề cập trong quy chế:
Ranh giới khu vực thuộc phạm vi điều chỉnh của quy chế: Quy mô diện tích đô thị Hà Nội hiện nay lớn gấp nhiều lần Hà Nội dưới thời Pháp thuộc, việc xác định ranh giới khu vực thuộc phạm vi điều chỉnh của quy chế cần dựa trên những nghiên cứu cụ thể về địa giới Khu phố Pháp trong không gian đô thị hiện nay.
Thiết lập các khu vực, tuyến phố cần bảo tồn: Trong quá trình nghiên cứu, đánh giá và phân loại di sản kiến trúc Pháp thuộc có thể thấy được những khu vực, những tuyến phố tập trung nhiều công trình có giá trị đặc biệt hoặc có giá trị cao, như vậy sẽ đặt ra vấn đề không chỉ bảo tồn những công trình kiến trúc có giá trị đơn lẻ mà phải bảo tồn cả một quần thể kiến trúc. Việc xác định ranh giới các khu vực, tuyến phố cần bảo tồn phải được nêu rõ trong quy chế.
Những giới hạn về quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu các công trình kiến trúc có giá trị: Đây là nội dung có thể cho phép chủ sở hữu công trình tiếp tục sử dụng công trình của họ, tuy nhiên tuỳ vào giá trị của công trình mà chủ sở hữu buộc phải bảo tồn tính nguyên gốc của công trình hay được phép cải tạo ở những cấp độ khác nhau trong quá trình sử dụng cho phù hợp với công năng.
Quy tắc cấp phép trùng tu, sửa chữa, cải tạo: Quy chế cần quy định cơ quan có thẩm quyền cấp phép trùng tu, sửa chữa, cải tạo các công trình di sản có giá trị đặc biệt và giá trị cao, cơ quan này nên là một cơ quan quản lý chuyên ngành cấp Thành phố. Quy chế cũng cần quy định các tổ chức hành nghề thiết kế, thi công tham gia vào việc trùng tu, sửa chữa, cải tạo các công trình di sản phải là những tổ chức thực sự có khả năng tiến hành tốt công việc, tức là chỉ có những tổ chức thiết kế, thi công có đầy đủ năng lực về con người (chuyên gia, công nhân tay nghề cao…) và thiết bị (các thiết bị chuyên dùng…) mới có thể tham gia vào công tác này.
Chương trình hành động và giám sát công tác bảo tồn:
Sau khi có được quy chế bảo tồn di sản kiến trúc Khu phố Pháp ở Hà Nội thì chính quyền Thành phố với sự tư vấn của các cơ quan tham mưu, các tổ chức nghiên cứu cần vạch ra được một chương trình hành động để quy chế thực sự đi vào cuộc sống và phát huy được hiệu quả.
Để chương trình sẽ được đề xuất mang tính khả thi cao thì nó phải đề cập đến hai vấn đề chính yếu: Kế hoạch hành động bảo tồn di sản và công tác Giám sát quá trình bảo tồn di sản.
Kế hoạch ngắn hạn và dài hạn cho các hành động bảo tồn di sản kiến trúc Pháp thuộc liên quan chặt chẽ tới vấn đề tài chính và sự hợp tác của người sử dụng các công trình di sản. Kế hoạch tài chính phải được dựa trên tính đang dạng về nguồn vốn: Nguồn vốn nhà nước đối với các công trình dược công nhận là di tích lịch sử – văn hoá, số lượng các công trình kiến trúc Pháp thuộc đã được công nhận là di tích hiện nay không nhiều, thời gian tới Thành phố nên tiến hành các nghiên cứu khảo sát để kiến nghị Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch tiếp tục công nhận một số công trình có giá trị đặc biệt là di tích lịch sử – văn hoá hoặc di tích văn hoá. Nguồn vốn do các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước dành cho các công trình có giá trị đặc biệt. Nguồn vốn quan trọng và chiếm tỷ lệ cao nhất chính là nguồn vốn huy động từ các tổ chức và người dân đang sử dụng công trình.
Sau khi đã huy động được nguồn vốn thì việc tiến hành công tác khảo sát, thiết kế và thi công phải được thực hiện theo đúng quy chế quản lý và bảo tồn di sản kiến trúc Khu phố Pháp nhằm làm cho việc trùng tu, sửa chữa, cải tạo các công trình kiến trúc di sản mang đúng ý nghĩa bảo tồn. Như vậy thì một kế hoạch giám sát dài hạn quá bảo tồn di sản phải được vạch ra bao gồm các vấn đề về giám sát quá trình thiết kế, cấp phép và giám sát quá trình thi công trùng tu, sửa chữa, cải tạo các công trình kiến trúc di sản tùy theo các cấp độ giá trị.
Sơ đồ kiến nghị phương hướng bảo tồn:
Hanoi_kientrucPhap
.
ThS.KTS Trần Quốc Bảo – Giảng viên chính Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Đại học Xây dựng / Nhóm nghiên cứu Kiến trúc Hà Nội (GRAH)
Tài liệu tham khảo:
[1] J.W.R. Whitehand, Kai Gu, Susan M. Whitehand, Jian Zhang (2011): Urban morphology and conservation in China. Cities xxx
[2] Sim Loo Lee (1996): Urban conservation policy and the preservation of historical and cultural heritage. Cities, Vol.13, No6.
[3] Tiamsoon Sirisrisak (2009): Conservation of Bangkok old town. Habitat International 33.
[4] Basak Ipekoglu (2006): An architectural evaluation method for conservation of traditional dwellings. Building and Environment 41.
[5] Đào Ngọc Nghiêm (2009): Biệt thự Hà Nội – Một quỹ di sản kiến trúc đô thị có giá trị. Tạp chí Kiến trúc 147.

Nhận xét