Đại lộ Lê Lợi ở trung tâm Saigon thời Pháp thuộc có tên gọi là Boulevard Bonard hoặc Boulevard Bonnard. Trước tiên tên gọi là Boulevard Bonard hay Boulevard Bonnard cái nào là đúng?. Theo quyển sách “Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon” (3) do hội đồng thành phố xuất bản năm 1917 thì tên chính thức là Boulevard Bonard chứ không phải Boulevard Bonnard. Đại lộ được đặt tên Bonard, tên của vị chuẩn đề đốc (contre-amiral) sau là phó đề đốc (vice-amiral) hải quân Pháp. Khi đảm đang chức vụ thống đốc Nam Kỳ, chính ông là người chỉ đinh cho viên sĩ quan công binh tên là Coffyn qui hoạch thành phố Saigon cho tương lai và ra lệnh khởi công xây dựng kinh đào “canal de ceinture” phòng thủ.
Ở Chợ Lớn còn có kênh Bonard (rạch Bãi Sậy). Ông Coffyn đã cho đào kinh gọi là kinh Coffyn nối kinh chợ Vãi với rạch Cầu sấu và rạch Bến Nghé, hai bên bờ kinh là đường Bonard. Sau này khi lấp kinh rạch, kinh Coffyn trở thành đại lộ Bonard và rạch Cầu Sấu trở thành “Boulevard de la Somme” (đường Hàm Nghi ngày nay). Chính người Pháp trong số họ cũng có nhiều người nhầm lẫn. Các niên giám, sách vỡ trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và ngay cả sau này cũng gọi sai là Boulevard Bonnard. Có lẽ sự lầm lẫn này là do có một vị giáo sĩ người Pháp tử đạo do hành hình năm 1852 ở Bắc kỳ trong thời vua Tự Đức cấm đạo có tên là Jean-Louis Bonnard, trước khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh Saigon năm 1860.
Trong bài này chúng tôi dùng từ đúng nguyên thủy là Đại lộ Bonard (Boulevard Bonard) nhưng một số các đoạn trích từ niên giám, báo chí… từ Boulevard Bonnard nhầm lẫn vẫn được giữ nguyên theo qui ước trích dẫn.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đại lộ Bonard bắt đầu từ ngã ba đại lộ Bonard với đường Pasteur (trước đó đựợc gọi là “rue de l’Hôpital” từ bến Bạch Đằng đến nhà thương quân đội, sau đổi tên là đường Đồn Đất và ngày nay là đường Thái Văn Lung) đến cuối đại lộ ở góc với đường Mac-Mahon (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) tại số 44bis Boulevard Bonard. Lúc này chưa có Nhà hát Thành phố và Chợ Bến Thành và cũng chưa có đường Trần Hưng Đạo. Đường đi Chợ Lớn là từ đường La Grandière (Lý Tự Trọng) đi Route Haute (đường trên tức Nguyễn Trãi sau nay). Saigon chỉ giới hạn đến đường rue Boresse và rue de Thuan Kieu (Cách Mạng tháng 8). Trên bản đồ 1897, ngoài phạm vi Saigon ta còn thấy hai bên đường trên (route haute) và vài nơi trên “rue de Thuan Kieu” (nay là Cách mạng tháng 8) là các nghĩa trang của cánh đồng mã (plaine des tombeaux).
Đại lộ Bonard lúc này không quan trọng bằng hai con đường từ sông Saigon lên trung tâm thành phố là đường Catinat và đại lộ Charner. Chỉ sau khi nhà hát thành phố và Chợ Bến Thành mới (chợ Mới) sau này được thành lập vào năm 1914, ga xe lửa Saigon-Mỹ Tho được dời từ đầu đường Hàm Nghi gần bến Bạch Đằng đến vị trí ở quảng trường Cuniac (quảng trường Quách Thị Trang) gần chợ Mới và xe hơi và đường bô bắt đầu phát triển thay thế cho vận chuyển, chuyên chở hàng hóa trên kinh rạch vào khoảng thập niên 1920 song song với sự thành lập Boulevard Galliéni (đại lộ Trần Hưng Đạo), con đường huyết mạch nối Saigon với Chợ Lớn thi đại lộ Bonard bắt đầu có lợi thế và chiếm ưu thế về kinh tế so với đường Catiant và đại lộ Charner. Từ đó đại lộ Bonard (Lê Lợi) là con đường được coi như là trung tâm thương mại của thành phố Saigon.
Cũng như hai con đường Catinat (Đồng Khởi) và Charner (Nguyễn Huệ), một số các nhân vật để lại dấu ấn trên đại lộ Bonard, trong đó có bác sĩ Theodose Dejean de la Bâtie, Hua Bon Hoa, Châu Văn Liêm, Nguyễn Phong Cảnh, Nguyễn Đình Khánh (Khánh Ký), Cazeau, Bernard…cho ta một bối cảnh kinh tế, xã hội của con đường này trong lịch sử gắn liền với ký ức của người Saigon.
Hình 1 – Bản đồ Saigon 1867 – Giới hạn ỏ phía bắc thành Saigon (citadelle) là cánh đồng mả (plaine de tombeau), ở phía tây là route de Thuan Kieu (nay là Cách mạng tháng 8) và phía tây của trung tâm thành phố gần rạch Bến Nghé là đường Rue de l’Imperatrice (Nam Kỳ khởi nghĩa ngày nay). Đường Bonard chủ yếu là kinh Bonard nối với kinh Charner (nay là đường Nguyễn Huệ) chảy ra sông Saigon và kinh Olivier chảy ra rạch Bến Nghé. Kinh Bonard chảy dài đến vị trí ngày nay là khu Thái Văn Lung và Nguyễn Siêu trước khi đổ ra sông Saigon.
Hình 2 – Bản đồ Saigon 1896 – So với bản đồ năm 1867 thì kinh Bonard và Charner đã được lấp và phía tây gần rạch Bến Nghé (Arroyo Chinois), Saigon nới rộng đến đường Boulevard Projeté (Nguyễn Thái Học ngày nay). Các đường mới là rue Bourdais, rue Nemesis, rue Boresse, rue Lefèbre, rue D’Ayot, rue Hamelin, rue Batavia.
Bắt đầu sau này khoảng năm 1914 sau khi chợ Bến Thành (chợ Mới) được xây và đại lộ Bonard được nối dài thêm đến quảng trường Cuniac thì địa chỉ trên đại lộ Bonard được thay đổi. Đại lộ Bonard không còn từ đường Pasteur (Thái Văn Lung) mà bắt đấu từ quảng trường Francis Garnier hay quảng trường nhà hát cho đến quảng trường Cuniac.
Bây giờ ta hảy tìm hiểu các tòa nhà, địa chỉ, nhân vật cư ngụ hay có liên quan đến đại lộ Bonard và cảnh quan chung của Đại lộ Bonard trước năm 1914 và sau này khi đại lộ Bonard nới rộng đến chợ Mới (Bến Thành ngày nay).
Giai đoạn trước 1914
Theo Niên giám Đông Dương năm 1908, các tòa nhà và địa chỉ trên đại lộ Bonard được ghi chép như sau
Số 3 đại lộ Bonard là của hàng hớt tóc, làm tóc (coiffeur) của ông bà Julien Adolphe. Ở góc đại lộ Bonard và rue Pellerin (đường Pasteur ngày nay) là số 28 nơi cư ngụ của ông bà Samuel Gauthier, Phó trưởng phòng sở công chánh thành phố (sous-chef de bureau des traveaux publics). Số 30 Bonard là nơi ở của bà Hyacinthe Vinson, trưởng ga xe lửa Saigon (direction du chemin de fer) của công ty xe lửa Saigon-Mỹ Tho “Société générale du Chemin de fer de Saïgon à My-Tho”, nơi này cũng là văn phòng hỏa xa và sau này là địa điểm của rạp hát Casino đầu tiên ở Saigon sau khi tòa nhà hỏa xa ở Place de Cuniac (quảng trường Quách Thị Trang ngày nay) được xây. Ga xe lửa Saigon lúc này là nơi đến tấp nập của các thương nhân, học sinh từ các tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh qua đường xe lửa huyết mạch Saigon-Mỹ Tho.
Cả dãy nhà từ số 32 đến 36 đại lộ Bonard là nơi cư ngụ của các nhân viên Sở Công Chánh (Traveaux publics) thành phố: 32 ông bà Lebriac phụ tá quản đốc các công trình xây dựng của Sở Công Chánh (commis des Traveaux publics), 34 ông bà Eynard (Camille) giám sát (inspecteur) Sở công chánh và 36 ông bà Etienne, quản đốc các công trình của Sở Công Chánh (conducteur des Traveaux publics).
Số 39 là văn phòng của ông Clamont (Bernard), quyền đại diện pháp lý cho công ty Talayrach (fondé de pouvoir de la maison Talayrach).
Số 41 Bonard là nơi giáo sư Marc-Ange Canavaggio cư ngụ. Ông Marc-Ange Canavaggio, thuộc gia đình Canavaggio gốc đảo Corse có tiếng tăm ở Saigon lúc này. Ông có bằng luật, được bổ nhiệm giáo sư tạm thời vào năm 1906 ở Sở Giáo dục Nam kỳ (Service de l’Enseignement en Cochinchine). Một người khác trong gia đình Canavaggio là ông Paul Canavaggio (anh của Marc-Ange), chủ nhiều đồn điền canh nông và các cơ sở bán muối ở Nam Kỳ. Paul Canavaggio là hội viên của Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial) cư ngụ ở số 229 đường rue Bourdais (nay là đường Calmette). Ông có giao thiệp rộng với các người Việt. Ông là bạn của nhà văn nhà báo Nguyễn Chánh Sắt, ông Lương Khắc Ninh và ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, và đứng ra lập và bảo trợ tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn.
Trước đó tháng 2 năm 1901, giấy phép thành lập báo Nông cổ Mín đàm cũng được cấp cho ông François Canavaggio, một nhà kinh doanh rất thành công của gia đình Canavaggio và là chủ một đồn điền ở Xuân Vinh gần Thủ Đức. Ông François Canavaggio, lập gia đình với một phụ nữ người Việt, chính là cha của hai ông Paul và Marc-Ange Canavaggio. Báo Nông cổ Mín đàm (1901-1924) sau này được giao cho ông Gilbert Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Con của ông Gilbert Chiếu là Jean Minh được học bổng vào trường College Chasseloup-Laubat cùng năm 1900 với Jules-François Canavaggio cũng là con của ông François Canavaggio.
Ông François Canavaggio còn là phó chủ tịch Phòng Canh nông Nam Kỳ (Chambre d’Agriculture de Cochinchine) và là hội viên Hội đồng Quản hạt. Nhà của ông ở rue Chasseloup-Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) gần trường Chasseloup-Laubat và hiện nay biệt thự này (số 128 Nguyễn Thị Minh Khai) vần còn (10). Năm 1898, trong khu đất canh tác ở gần Thủ Đức của ông François Canavaggio, giám đốc thảo cầm viên Saigon đã trồng thử nghiệm các loại cây gutta-percha mang từ Singapore sang. Do ông Canavaggio là phó chủ tịch Phòng Canh nông Nam Kỳ nên đất của ông Canavaggio được dùng làm nơi thủ nghiệm trồng các loại cây, trong đó có gutta-percha và cây cao su (Hever Brasiliensis) (12), Loại cây gutta-percha có nguồn gốc từ vùng bán đảo Malaysia, cho ra chất nhựa dùng để làm chất cách điện, trám răng, làm đồ trang trí, làm trái đánh banh golf, và làm thuốc trong y học. Đây là loại cây cho nhiều nhựa hơn cây cao su và vào cuối thế kỷ 19 là loại cây có lợi ích kinh tế lớn và được kỷ nghệ ở nước Anh dùng nhiều như trong sản xuất chất cách điện cho đường dây điện tín xuyên biển.
Ông Trần Chánh Chiếu là một nhà yêu nước, ông mong muốn cải cách canh tân xã hội và con người Việt Nam. Ông cùng các người Việt trí thức khác lập ra phong trào Minh Tân ở Nam Kỳ khuyến khích người Việt vào thương trường, công nghệ cạnh tranh với người Hoa, Pháp và Ấn độ qua hội đoàn “Nam Kỳ Minh tân Công nghệ xã”. Ông Gibert Chiếu cũng ủng hộ ngầm phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Vì ủng hộ phong trào Đông Du ông bị nhà cầm quyền theo dõi và vào tháng 10 1908 ông bị bắt qua vụ “L’Affaire Gilbert Chieu”. Do ông François Canavaggio là người có giấy phép xuất bản tờ “Nông cổ Mín đàm” và chịu trách nhiệm nên cũng bị chỉ trích. Toàn quyền Đông Dương, ông Klobukowski tháng 12 1908 đã ra sác lậnh sửa đổi giấy phép xuất bản báo Nông cổ Mín đàm (9). Theo đó ông François Canavaggio phải bảo đảm không có bài báo nào nói xấu bất kỳ góc cạnh nào về nhà cầm quyền Pháp và phải nộp bản thảo báo lên chính quyền Nam Kỳ đại diện bởi phó soái Nam Kỳ là ông Bonhoure để kiểm duyệt 4 ngày trước khi báo được xuất bản. Mổi bài viết bằng tiếng Việt đều phải được dịch ra tiếng Pháp khi nộp và sau khi đã được chấp thuận báo được in thì không một bài báo nào khác được kẹp vào báo đã in.
Số 55 đại lộ Bonard là của ông bà Amedee Courtot, thủ quỉ cho công ty xây dựng Graf Jacques (maison Graf Jacques). Số 57 ông bà Lemaal, nhân viên sở công chánh. Số 59 là nơi ở của ông bà Flambon, kế toán viên cho công ty Graf Jacques (maison Graf Jacques). Công ty Graf Jacques có các xưởng xây dựng cơ khí sản xuất và sửa chữa các tàu, sà lúp ở Khánh Hội. Các xưởng ở Khánh Hội của công ty Graf Jacques sau này cũng làm các tàu hơi nước (bac à vapeur) chở xe và hành khách qua sông Hậu ở bắc Cần Thơ (L’Éveil économique de l’Indochine, 24 novembre 1918). Công ty còn nhập các máy động cơ, cung cấp và thiết lập máy móc dụng cụ cần thiết cho các đồn điền cao su.
Số 61 là nơi cư ngụ của ông bà Brizon, giám đốc một công ty địa ốc (directeur de la sociétée immobilière), số 63 là ông Alphonse Grosjean, nhân viên trắc địa ở sở Địa chính (géomètre au Cadastre) Saigon.
Số 44 là nơi Benjamin Espelette, giáo sư trung học, cư ngụ và cạnh bên ở số 44bis là ông Eugène Dejean, thư ký thuế vụ (commis des Douanes)
(Theo Niên giám Đông Dương 1908, Annuaire General de l’indochine 1908)
Khách sạn Hôtel Continental nằm ở góc đường Catinat và đại lộ Bonard. Nơi đây cũng là trụ sở Hội đồng thành phố và và văn phòng thị trưởng trước khi tòa thị sảnh thành phố (Mairie) hay tòa đô chính (nay là Ủy ban Nhân dân Thành phố) được xây sau này. Số 8 Bonard là quán cà phê, quán ăn và nhà nghĩ “Café de la musique” nổi tiếng của ông bà Pancrazi, người Pháp gốc đảo Corse.
Hình 3 – “Café de la musique” số 8 Boulevard Bonard (góc Boulevard Bonard và rue Catinat)
Số 16 là Cercle colonial, số 32 là tòa soạn của báo “La dépêche de Saigon”. Bên kia đường ở số 19 là văn phòng của nhà nhiếp ảnh J. Brignon. Số 39, là ông Albert biên tập viên của tờ báo Courrier Saigonnais (redacteur du Courrier Saigonnais), trong khi ở số 49 là nơi biên tập của tờ báo Colon (Redaction du journal le Colon)
Số 42 là văn phòng của nhà quay phim Louvet (Cinematographe Louvet). Ông Louvet là một trong những người đầu tiên mang phim ảnh chiếu cho công chúng trước khi có rạp Casino Saigon. Trong lịch sử điện ảnh Việt Nam thì phim đầu tiên chiếu ở Saigon là vào năm 1898 ở nhà hát cũ của thành phố (vị trí ngày nay là khách sạn Caravelle). Năm 1908, ông Louvet mở rạp chiếu phim ở góc đường rue Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay) và đại lộ Charner. Sau đó ông dời địa điểm chiếu phim về cơ sở của công ty điện ảnh “Pathé frères” ở số 63 rue d’Ormay (Mạc Thị Bưởi) gần góc đại lộ Charner. Phim chỉ được cho phép chiếu từ buổi chiều tối đến 11 giờ đêm nên tại nơi này về đêm rất vui náo nhiệt so với các nơi khác trong thành phố. Nhưng chỉ vài năm sau khi rạp Casino Saigon rộng rãi hơn được thành lập vào năm 1910 thì địa điểm chiếu phim của ông Louvet không còn cạnh tranh được với rạp Casino mới. Chúng ta không biết gì thêm về ông Louvet sau này.
Số 42bis là văn phòng của công ty đồn điền cao su “Société Suzannah”. Công ty Société Suzannah được thành lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1907 với số vốn là 150000 đồng Đông Dương (piastres) do nhóm nghiên cứu mà ông Louis Cazeau đứng đầu thành lập. Công ty Société Suzannah có các đồn điền cao su rộng 3400 mẫu (hectare) ở Dầu Giây thuộc tỉnh Biên Hòa và sau này còn có thêm các đồn điền ở An Lộc. Cây cao su được lấy hạt giống từ Singapore và đã trồng rất thành công ở đồn điền Dầu Giây. Trước kia ông Cazeau cũng là giám đốc của công ty nổi tiếng xe (tramway) hơi nước ở Nam Kỳ, “Société générale des tramways à vapeur de Cochinchine” (SGTVC). Công ty SGTVC có các tuyến đường xe lửa công cộng chuyên chở hành khách Saigon-Chợ Lớn và đắc biệt tuyến đường xe lửa Saigon-Mỹ Tho. Ông Cazeau là hội viên trong Hội đồng Quản hạt (Conseil colonial) và cũng chính là người đã xây dựng khách sạn Hôtel Continental ở ngay góc đại lộ Bonard và đường Catinat mà hiện nay như ta biết vẫn còn.
Số 55-59 là trụ sở của Ngân hàng Nam kỳ (Banque Cochinchine). Và cuối đường bên trái cạnh Ngân hang Nam Kỳ là số 61-63 trụ sở bót Cảnh sát quận 1 (commissariat 1er arrondissement). Cuối đại lộ Bonard là giao điểm của ba đường: đại lộ Bonard, đường MacMahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) và đường rue de Cap St Jacques (Nguyễn Trung Trực ngày nay).
(Theo Niên giám Đông Dương, Annuaire Generale de l’Indochine 1910)
Giai đoạn sau 1914
Như đã đề cập ở trên thì khoảng năm 1914 sau khi chợ Bến Thành (chợ Mới) được xây và đại lộ Bonard được nối dài thêm đến quảng trường Cuniac thì địa chỉ trên đại lộ Bonard được thay đổi. Giai đoạn này chứng kiến sự phát triển của đường bộ và xe hơi nối với Chợ Lớn. Vị trí kinh tế của đại lộ Bonard quan trọng hơn so với vị trí đại lộ Charner và đường Catinat về hướng sông Saigon.
Hình 4 – Đại lộ Bonard toàn cảnh nhìn từ quảng trường nhà hát thành phố
Số 3 Bonard là cửa hàng của Hãng rượu The Crystal, 3 Boulevard Bonnard. Sau này chuyển về địa chỉ số 19 Bonard.
Hình 5 – Quảng cáo hảng rượu The Crystal ở số 19 Bonard (trên báo Écho Annamite ngày 23/2/1922)
Số 21 Đại lộ Bonard ngay góc với Đại lộ Charner là cửa hàng xe hơi Autohall. Nơi đây bán các loại xe hơi như Dodge Brothers, Citroën của công ty “Établissement Bainier d’Indochine” (É. Bainier) của ông Bainier. Ông Bainier đến Saigon vào đầu thế kỷ 20 và là một người có đầu óc kinh doanh trong lãnh vực xe hơi mới bắt đầu chớm nở.
Qua bên kia đường, số 28 là cửa hàng café và khách sạn “Grand Hôtel des Nations” của ông bà Pancrazi. Sau này vào thập niên 1950 tòa nhà được xây lại và là cửa hàng thực phẩm “Épicerie Saigonnaise Lien-Seng”.
Hình 6 – Café nhà hàng khách sạn Hôtel des Nations, góc đại lộ Bonard và đại lộ Charner, của ông bà Pancrazi (hình chup đầu thế kỷ 20).
Hình 7 – Cửa tiệm “Épicerie Saigonnaise Lien-Seng” cuối thập niên 1950
So 23-29 Boulevard Bonard là trụ sở của công ty “Société anonyme des garages indochinois”, đại lý chính thức độc quyền bán xe hơi hiệu Chevrolet. Garage Bonard nằm ở vị trí cạnh bên thương xá Grands Magasins de Charner (GMC) và đối diện với rạp Casino Saigon (1). Sau này nơi đây trong thập niên 1960 là garage xe hơi Kim Long.
Số 30 là rạp Casino Saigon của công ty “Société anonyme pour l’exploitation des cinemas” do ông Léopold Bernard thành lập khoảng năm 1910. Ngoài rạp chiếu phi, Casino ở Saigon, công ty của ông Bernard còn xây dựng các rạp hát ở một số nơi khác ở Nam kỳ như rạp Casino Mỹ Tho (Casino de Mytho), rạp Casino Bến tre (Casino de Bentre) và rạp Casino Cần Thơ (Casino de Cantho) phục vụ nhu cầu xem phim xinê (ciné) của dân chúng ở Nam Kỳ Lục tỉnh.
Sau này rạp Casino Saigon được chuyển sang số 28 Bonard rộng rãi hơn, ngay góc đại lộ Bonard và đường Pellerin (đường Pasteur ngày nay) và số 30 trở thành một cơ sở của rạp Casino là nhà hàng khách sạn “Brasserie des sports” do Daniel Courrèges, bạn của ông Bernard, quản lý (15). Trong sách hướng dẫn du lịch Angkor đi từ Saigon của Claudius Madrolle in năm 1925, có ghi chú chi tiết các khách sạn ở Saigon trong đó có ghi Hôtel du Casino et Brasserie des Sports, cách nhà ga Saigon 2 phút, có 30 giường ngũ, có điện và vòi tắm sen trong mỗi phòng. Giá mướn phòng là 4$, giá ăn sáng, trưa, tối là 50 cents, 1$50 và 1$50. Giá cho nguyên tháng phòng và ăn từ 100 đến 150$, nếu chỉ ăn thôi là 45$.Trong khi giá ở Hotel des Nations của ông bà Pancrazi gần đó là 7$ mỗi ngày mướn phòng và ăn.
Rạp Casino chiếu các phim mới thịnh hành ở Paris như phim hài “Ce bon Lucien” ra mắt năm 1918 thì không lâu ở Casino Saigon đã có chiếu. Các phim được ưa chuộng khác như phim nhạc “Marinella” (1936) do Tino Rossi đóng, “Arènes joyeuses” (1935), “L’Equipage” (1935) với tài tử Annabella và Jean Murat đóng, “Toni” (1935) của đạo diễn nổi tiếng “film noir” là Jean Renoir. Ngoài ra rạp Casino cũng là nơi có trình diễn các vỡ kịch như Déillusione cạnh tranh với nhà hát thành phố.
Đặc biệt vào mùa mưa, Casino Saigon là nơi có tổ chức các cuộc đánh quyền anh (boxe hay võ tay) rất phổ thông thu hút nhiều người đến xem, đến nổi ban quản lý Casino Saigon phải hạn chế số lượng người vào như tin đăng trên báo Écho Annamite (13/5/1925) như sau
“Tin thể thao
Đánh quyền anh (boxe)
Trong lúc này là mùa mưa, ông Tellier đã phải tổ chức các trận đánh boxe trong phòng của rạp Casino và do không đủ rộng, số chổ ngồi bị hạn chế nên ông đã quyết định tạm ngưng số lượng vào cửa dùng thẻ ưu tiên đặc biệt ở Casino Saigon.
Vì thế, chỉ những ký giả viết về thể thao và các nhân viên mới có thể dùng thẻ ưu tiên vào. Không bất kỳ lý do nào là có thể vào them.
Những báo sau có cột viết về thể thao
(1 thể ưu tiên cho mỗi báo)
Le Courrier Saigonnais, L’Opinion, L’Echo Annamite, L’Impartial, L’ Écho des Sports, Saigon-Sportif Cong luan Bao, Trung lap Bao, La Voix Libre.
Casino de Saigon”
(dịch theo bản tin viết bằng tiếng Pháp trên báo Écho Annamite – Tiếng Vọng An Nam)
Những võ sĩ đánh quyền anh là người Việt, Pháp và ngay cả người Phillipin (Phi Luật Tân) cũng có mặt. Trên báo Écho Annamite ngày 13/5/1925 có đăng tin thể thao về các trận đánh quyền anh ở Casino Saigon như sau
“Ngày mai 14 tháng 5 vào lúc 21 giờ
Các trận đánh quyền anh lớn
4 hiệp
KID THOMAS đấu với VANG
Người Việt – người Việt (Annamite – Annamite)
8 rounds revanche
KID ALFRED đấu với IROJANI
Người Phi Luật Tân – Người đảo Corse (Philippin – Corse)
6 hiệp
MATRAT đấu với SIRE
Người thành phố Dijon – Người Paris (Dijonais – Parisien)
Grand combat revanche en 12 ’rounds
AYOT đấu với T. R. SOSA
Người thành phố Marseille – Người Phi Luật Tân (Marseillais – Philippin)
“
(dịch theo bản tin tiếng Pháp trên Écho Annamite – Tiếng Vọng An Nam)
Sau khi ông Bernard Léopold mất năm 1918, người em vợ của ông là Constant René Blot lên thay thế quản lý công ty “Société anonyme pour l’exploitation des cinemas” cho đến khi Pháp rút khỏi Việt Nam (15). Năm 1955, rạp Casino Saigon được xây lại trên đường Pasteur (59 Pasteur) cạnh rạp cũ ở góc đường. Rạp Casino sau năm 1975 được đổi tên là rạp Vinh Quang và trở thành Sân khấu Kịch Sài Gòn vào năm 1998. Cách đây vài năm rạp bị phá để xây khách sạn Liberty Central Hotel kết thúc một lịch sử đặc thù lý thú của phim ảnh Saigon trong thế kỷ 20.
Hình 8 – Rạp Casino Saigon ở 28 đại lộ Bonard, ngay góc đại lộ Bonard và đường rue Pellerin (Pasteur ngày nay) (hình chụp đầu thế kỷ 20, thập niên 1920)
Hình 9 – Nhà hàng khách sạn “Brasserie des Sports” ở số 30 đại lộ Bonard, bên cạnh (phải) là rạp Casino Saigon.
Số 50 là phòng mạch của bác sĩ Laimé chuyên khoa tai, mủi và họng như đăng trong Écho Annamite (23/2/1922)
Docteur Laimé
Ex-assistant ad’. des Hôpitaux de Paris, spécialiste des maladies du Nez, de la Gorge et des Oreilles.
50 Boulevard Bonnard
Consultations : Lundi, Mercredi, Jeudi et Vendredi de 10 à 11 heures et de 15 à 18 h. et sur Rendez-vous.
Số 54 là tiệm nhiếp ảnh của nhà nhiếp ảnh Việt Nam tiên phong trong lãnh vực nhiếp ảnh: ông Nguyễn Đình Khánh tự Khánh Ký. Trong báo “Écho Annamite” ngày 13/6/1925, có đăng quảng cáo tiệm nhiếp ảnh Khánh Ký như sau
Khanh-Ky & Cie
Phtographie Industrielle et Artistique
Prix Modérés
Ex-premiers ope’rateurs des Grandes Maisons de Paris
54 Boulevard Bonnard, 54 – Saigon
Téléphone No. 410
Năm 1926 khi nhà chí sĩ Phan Châu Trinh mất ở Saigon, nhà nhiếp ảnh Khánh Ký đã chụp ảnh đám tang từ đường Pellerin (nay là Pasteur), gần tiệm nhiếp ảnh của ông, đến nghĩa trang Gò Công gần Tân Sơn Nhất. Bộ ảnh này của Khánh Ký có giá trị lịch sử và hình ảnh của ông đã được dùng trên báo chí và một số hiện nay được trưng bày ở nhà lưu niệm Phan Châu Trinh cạnh mộ Phan Châu Trinh ở Saigon. Khi thi hào Ấn Độ viếng thăm Saigon tháng 6 1929, trong dịp viếng nhà in Imprimerie Nguyen Van Cua, nhà nhiếp ảnh Khánh Ký đã có chụp ảnh thi hào Tagore cạnh chủ nhà in là ông Nguyễn Văn Của.
Bên cạnh tiệm nhiếp ảnh Khánh Kỳ ở số 56 Boulevard Bonard là cửa hàng của công ty người Việt, Hãng Hão Vĩnh, bán các loại rượu nhập như Cognac. Đặc biệt Hãng Hão Vĩnh bán hai loại xà bông được ưa chuộng là xà bông (savon) trắng hiệu măt trời mọc (le Soleil) và savon đen hiệu con rồng (le Hydra).
Số 60-62 ngày nay là nhà sách Fahasa (trước 1975 là nhà sách Khai Trí).
Số 66 Boulevard Bonard là cửa hàng bán thuốc lá của công ty “Société des Tabacs de l’Indochine “, có quảng cáo trên báo Tiếng Vọng An Nam (Écho Annamite) ngày 10/11/1921 như sau
Thước lá Con Gà của Société des Tabacs de l’Indochine, 66 Boulevard Bonnard, Saigon
Hởi người An Nam ! Sao để tiền bạc ra khỏi xứ mình ? Hãy dùng thuốc hút hiệu CON GÀ thuốc chưa vấn và thuốc vấn rồi
Vì thuốc này ngon hơn hết.
Đã thơm tho lại giá rẻ hơn các thứ khác
Thuốc CON GÀ trồng tỉa tại xứ Đông-Dương. Nên giup hội Société des Tabacs de l’Indochine, 66 Boulevard Bonnard, Saigon hầu giúp muôn ngàn người An Nam.
Hình 10 – Saigon trong thập niên 1960, đại lộ Lê Lợi nhìn về chợ bến Thành. Bên trái là tòa nhà trước kia là khách sạn “Phong Cảnh Khách Lầu” ở góc Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực. Lúc này ở tầng trệt là nhà hàng Kim Sơn và trên sân thượng là nhà hàng Bồng Lai.
Ở góc đường Bonnard và Filippini, số 68 là tiệm vải lụa của ông Đỗ Văn Mười, có quảng cáo trong tờ báo Écho Annamite (Tiếng vọng An Nam năm 1925) như sau
Magasin de Soieries Đo Van Muoi
Magasin de Soieries
Đo – Van – Muoi
à l’angle du Bd. Bonnard & rue Filippini
Saigon
Quí bà quí cô !!
Muốn cần món hàng lụa chi tốt, hãy vui lòng đến Bổn hiệu là nơi có bán đủ các mặt hàng : Tố-Tây, satin J. Bonnet, Cẩm nhung trơn, bông thêu, bông dệt, bông kiểu lạ có đủ thứ màu rất xinh đẹp
Có bán đủ thứ hàng trắng để may đồ
Bán giá thật rẻ hơn các nơi.
Đo-Van-Muoi
à l’angle du Bd. Bonnard & rue Filippini
Vài năm sau, nơi đây là tiệm nữ trang bán kim cương (magasin de diamants) của ông François Sự có đăng quảng cáo trên báo Écho Annamite (29/12/1928). Cửa hàng vải lụa của ông Đỗ Văn Mười được chuyển đến địa điểm ngang hông chợ Bến Thành ở số 29 rue Sabourain (Lưu Văn Lang ngày nay) như trong quảng cáo trên Nhật Tân báo (L’Ère Nouvelle 28/9/1926)
Ngay tại nơi này, góc đường Filippini và đại lộ Bonard vào đầu thập niên 1920 là khách sạn “Phong Cảnh khách lầu” hay Hôtel de l’Ouest do ông Nguyễn Phong Cảnh làm chủ. Ngoài Phong Cảnh khách lầu, ông Nguyễn Phong Cảnh cũng là chủ nhân của nhà hàng và nhà trọ nổi tiếng Cửu Long Giang (Hôtel de Mekong, sô 164 rue d’Espagne nay là đường Lê Thánh Tôn) đồi diện với chợ Bến Thành ở góc đường Filippini (sau đổi là Aviator Roland Garros và ngày nay là Nguyễn Trung Trực) và rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn).
Nhà hàng khách sạn Cửu Long Giang cũng là nơi thường lui tới của các nhà báo, văn sĩ, nhân sĩ như Trần Phong Sắc, Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn An Khương, Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh và tại đây có ca nhạc tài tử, ca ra bộ của của ông Nguyễn Tống Triều (Tư Triều) diễn xuất giúp vui. Ngoài cô Ba Đắc ca hát còn có cô Hai Nhiễu, con của ông Tư Triều, vừa hát và cũng vừa chơi đàn tranh.
Không lâu sau dó, từ năm 1920 đến 1925 các ban cải lương được thành lập khắp Nam kỳ lục tỉnh. Nghệ thuật sân khấu cải lương phát triển nhanh chóng thay thế sân khấu hát bội. Đặc biệt ban của ông André Thận lúc đầu chủ yếu là gánh xiếc nhưng sau đó thêm vào cải lương, cải lương (théâtre moderne), nhạc tài tử và vũ ballet.
Hình 11 – Quảng cáo xiếc, cải lương (théâtre moderne), nhạc tài tử, vũ ballet của ông André Thận trên báo Écho Annamite (Tiếng Vọng An Nam) ngày 23/2/1922
Trên lầu 1 của Phong Cảnh khách lầu là nơi có cuộc họp đầu tiên của An Nam Cộng sản đảng do ông Châu Văn Liêm tổ chức vào ngày 7 tháng 8 năm 1929. Ngày nay nơi này bên trong vẫn giống như xưa và được Ủy ban nhân dân thành phố quận 1 coi là một di tích lịch sử. Nhưng hiện nay bên trong tòa nhà đã xuống cấp trầm trọng.
Trên báo “L’Ère Nouvelle” (Nhật Tân báo) năm 1928 đã có đăng quảng cáo “Phong cảnh khách lầu” như sau:
“Phong Canh Khach lau
Angle des boulevard Bonnard et rue Filippini
Chambres confortablement meublée, propres aérées, 2e et 8e étages.
Ascenseur, Douche et W.C. dans tous les chambres. Personnel discipliné.
Nguyen.phong-CANH, Propriétaire”
(Phong Cảnh Khách lầu
Góc các đại lộ Bonnard và Filippini
Phòng trang bị tiện nghi, thoáng khí sạch sẽ, ở tầng 2 và tầng 8.
Có thang máy, có buồng tắm và WC trong mỗi phòng. Nhân viên lễ độ.
Chủ Nhơn, Nguyễn Phong Cảnh)
Cầu thang và lan can bằng sắt với trang trí kiểu cách phổ thông vào đầu thế kỷ 20 vần còn như xưa, chỉ có thang máy vì không được bảo trì đã biến mất. Trong nhữg năm của thập niên 1920 thì ở Saigon rất ít nơi có thang máy, thang máy ở đây cũng tương tự như thang máy vẫn còn hoạt động được ở nhà của ông Hui Bon Hoa (chú Hỏa), nay là Viện Bảo tàng Mỹ thuật thành phố, ở đường rue d’Alsace-Lorraine (nay là Phó Đức Chính).
Hình 12 – Cầu thang cạnh bên thang máy (bên trái) dãn lên lầu các phòng trọ trong đó có phòng ở lầu 1 là nơi mà các đại biểu đến họp thành lập An Nam Công Sản (Ảnh tác giả)
Hình 13 – Cầu thang ở lầu 1 của Phong Cảnh Khách Lầu nhìn xuống đường Nguyễn Trung Trực (rue Filippini). (Ảnh tác giả)
Hình 14 – Bên trái là phòng họp thành lập An Nam Cộng Sản Đảng năm 1929. (Ảnh tác giả)
Số 68 ngày nay là tiệm nữ trang vàng bạc đá quí (trước 1975 là nhà hàng Kim Sơn, trên sân thường là nhà hàng ca nhạc Bồng Lai).
Hình 15 – Saigon 1968, Georges Menager, Paris Match – Góc Lê Lợi, Nguyễn Trung Trực (trái) và Công Lý (Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phải). Địa điểm Nhà sách-nhà in Vĩnh Bảo trong hình thì xưa kia là của hàng bán thuốc lá “Con gà” của hảng “Société des Tabacs de l’Indochine “
Số 78 Boulevard Bonnard là tiệm nữ trang, Bijoux FIX, của ông H. Humbert bán nữ trang, bán dĩa hát cho máy phonographe, đồng hồ đeo tay các loại đàn ông và đàn bà
Kế bên là tiệm may mặt đồ tây Công – Tính – Thành, số 80 Boulevard Bonnard. Chủ tiệm may là người Bắc làm ăn rất thành công ở Saigon
Công – Tính – Thành
Grand tailleur Tonkinois
Vêtements faits absolument sur mesures exactes
Grands choix de cravats
Theo quảng cáo trên Nhật Tân báo (L’Ère nouvelle 28/9/1926) thì tiệm Công Tính Thành là tiệm may lớn nhất ở Saigon có trên 30 thợ may.
Cạnh tiệm may Công Tính Thành là tiệm vải “Au tisseur Nguyen Anh, 82 Boulevard Bonnard”. Sau này nơi đây là cửa tiệm vải lụa nổi tiếng của ông Nguyễn Khắc Trương có quảng cáo như sau trong tờ báo Écho Annamite (15/3/1925)
“AU TISSEUR”
Magasin Moderne de Soierie
98, Bd Bonnard, 82
SAIGON
Chers compatriotes,
J’ai l’honneur de vous faire connaitre que je viens de créer un PONGÉE pour la confection des chemises et pyjamas, áo mát, quần mát, etc.
Ce tissu, qui est dénommé « LỤA LÈO », remplace très avantageusement les tissus similaires provenant de Chine, du Japon, de Bombay. La qualité est d’une robustesse telle que, d’après mes calculs, ce tissu durer des années résistant même à de très fortes lessives.
Je vous serais très reconnaissant de faire de la propagande autour de vous pour vulgariser l’emploi de ce tissu «LỤA LÈO”, qui est d’un prix de revient tout à fait inférieur à n’importe quel lụa de son genre.
Je termine en faisant appel à votre patriotisme pour favoriser un commerce annamite né d’une industrie annamite.
En espérant recevoir bientôt vos ordres, veuilles agréer, Messieurs et chers compatriotes, l’assurance de mes sentiments sentiments meilleurs.
NGUYËN-KHAC-TRUONG
Diplomé de l’Ecole de Tissage et de Broderie de Lyon
Fondateur du Tissage Le phat-Vinh de Caukho.
- B. – Dépositaire des Biscuit Quấc-nữ: La boite 0$50
Envoi contre remboursement
Như vậy là vãi “Lụa Lèo” do ông Nguyễn Khắc Trương chế và sản xuất từ nhà máy dệt lụa nổi tiếng ở Saigon (khu Cầu Kho) do ông sáng lập và ông Lê Phát Vĩnh làm chủ. Ông Lê Phát Vĩnh là con của ông huyện sĩ Lê Phát Đạt, một người giàu có nhất thời đó như trong câu nói tương truyền “Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”.
Húa Hoành (Giai thoại Nam Kỳ Lục Tỉnh) nói về ông Lê Phát Vĩnh như sau
“Lê Phát Vĩnh là người có tánh hào hiệp, lịch duyệt, cư xử với mọi người (công nhân, tá điền) rất được lòng, khi chết nhiều người còn nhớ. Ngoài mấy ngàn mẫu đất ở miền Tây, giáp ranh với “điền ông Kho Gressier”, ông Vĩnh còn đồn điền trà, đồn điền cao su ở Cầu Đất (Đà Lạt) và miền Đông. Năm 1920, ông Vĩnh lập hãng dệt the, lấy tên Lê Phát (Manufacture de Tissage Le Phat) ở Cầu Kho (Quân l), sử dụng 50 công nhân, ông lại cho trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ để cung cấp cho nhà máy, khỏi lệ thuộc nguyên liệu vào nước ngoài.”
Hình 16 – Quảng cáo xưởng dệt của ông Lê Phát Vĩnh trên báo Écho Annamite (Tiếng vọng An Nam) (23/2/1922)
Thi hào Ấn độ Rabindranath Tagore khi viếng Saigon năm 1929 đã có mua y phục truyền thống Việt Nam khăn đóng áo dài vải lụa dệt từ nhà máy dệt Le Phát Vĩnh ở Cầu Kho, thể hiện lý tưởng tìm về gốc truyền thống Á châu và công nghệ bản sứ tự lực trong thời đại mới.
Số 90 là tiệm bán thời trang quần áo, giày, nón của ông Tăng Khánh Long và quảng cáo trên Écho Annamite (Tiếng vọng An Nam (1925) như sau
Tiệm thời trang Tang-Khanh-Long, 90 Bonnard Saigon
Feutres des Dernieres Nouveautes et Chaussures de Luxe
Gravure Artistique
Số 92 Bonard là tiệm may, nón, vải lụa, giầy An Thanh như trong quảng cáo ở Nhật Tân báo (L’Ère nouvelle 28/9/1926)
Số 94-96 là Maison Nguyen Van Tran, tiệm bán xe đạp tập chơi cho trẻ nhỏ, có đăng quảng cáo như sau trên báo Écho Annamite (29/12/1928)
Pour le 1″ Jour de l’An
La Maison Nguyên-van- Trân.
,94-96, Boulevard Bonnard, Saigon
Téléphone n. 178
a fait venir exprès pour le 1er Jour de l’An plusieurs modèle de Tricycles pour Enfants ; le tricycle transformable en bicyclette est le plus apprécié de tous.
Prix défiant toute concurrence !
Số 120-124 sau cùng đại lộ Bonard, cạnh chợ Bến Thành Saigon, sau này là tiệm thuốc tây Grande Pharmacie de Saigon của dược sĩ Nguyễn Văn Cao.
Hình 17 – Saigon 1965, hình Bruce Baumler – Góc Lê Lợi và Phan Bội Châu, chợ Bến Thành ở phía trái hình.
Bên kia đường ở gần cuối đại lộ Bonard là số 121 là cinema Bonard sau này là rạp chiếu phim Vĩnh Lợi.
Hình 18 – Saigon trong thập niên 1960, không rõ tác giả – Bên trái là nhà hàng Kim Sơn và Bồng Lai, trước mặt là nhà hàng Olympia, rạp Vĩnh Lợi và bên cạnh cuối đường là Bệnh viện Saigon.
Cuối đường Bonard là bệnh viện đa khoa Saigon (Polyclinique de boulevard Bonard). Đây là tòa nhà gắn liền với lịch sử ngành y tế Saigon, tòa nhà có biểu tượng không kém các tòa nhà cổ hay kiến trúc đặc sắc khác ở Saigon như khách sạn Continental, Nhà hát thành phố, tòa thị sảnh thành phố, chợ Bến Thành, tòa nhà hỏa xa. Chung quanh quảng trường Cuniac (Quách Thị Trang ngày nay), thì chợ Bến thành, tòa nhà hỏa xa và bệnh viện Saigon là các hình ảnh gắn gủi của con người Saigon. Mắc dầu ít người biết nhưng bệnh viện Saigon có bề dày lịch sử rất đáng kể và phong phú.
Hình 19 – Bệnh viện Saigon năm 1949.
Lịch sử bệnh viện Saigon bắt đầu từ bác sĩ Theodose Dejean de la Bâtie. Ông sinh năm 1865, đến Saigon làm việc ở bệnh viện Chợ Quán. Đây là bệnh viện công duy nhất (ngoài bệnh viện của các nhà dòng từ thiện) cho các người Việt không có đủ tài chánh hay không là nhân viên trong chính quyền. Những người Pháp hay người giàu có thì có bệnh viện trước kia dành cho quân sự như Bệnh viện Hải quân (Hôpital marine) ở góc đường Lagrandière (Lý Tứ Trọng) và rue de l’Hôpital (Thái Văn Lung). Ở Chợ Lớn thì đã có bệnh viện thành phố và bệnh viện phụ sản từ năm 1902 do ông thị trưởng Chợ Lớn là F. Drouhet thành lập Hội “‘Association maternelle de Cholon” và xây dựng lên bệnh viện với sự đóng góp của cộng đồng người Hoa giàu có.
Bệnh viện Chợ Quán là bệnh viện lâu đời nhất Saigon nhưng ngân sách và phương tiện thiếu thốn nhiều. Ngoài các bệnh nhân và các bà mẹ sinh con, bệnh viện cũng nhận tất cả mọi người trong xã hội kể cả các cô gái ăn sương có bệnh truyền nhiễm hoa liễu. Bác sĩ Dejean de la Bâtie đã làm việc cật lực bỏ ra nhiều công sức dưới sự điều hành của Bác sĩ giám đốc Mouget và chứng kiến được sự đau khổ của những người bệnh nghèo khó. Sau này ông trở thành giám đốc bệnh viện Chợ Quán và năm 1900 được bầu vào Hội đồng Quản hạt. Trong thời gian làm đại biểu Hội đồng Quản hạt, ông đã vận động để tăng số bác sĩ làm việc giúp các bệnh nhân người Việt, tăng trợ cấp cho bệnh viện Chợ Quán và trợ cấp các bác sĩ đang làm việc như bác sĩ René Montel để chăm nom các bà mẹ và trẻ sơ sinh, chích ngừa phong đòn gánh cho các trẻ sơ sinh. Gần đến 50% các trẻ sơ sinh chết vì phong đòn gánh (tetanos) năm 1905. Hội đồng Quản hạt đã trợ cấp 1000 piastre năm 1905 và 2000 piastre năm 1906 cho dịch vụ sản phụ (Conseil colonial, 31 octobre 1906, Rapport au conseil colonial, 30. — Renouvellement de la subvention à M. le docteur Dejean de la Bâtie).
Ông cũng đã tự bỏ tiền ra để lập phòng chữa bệnh miễn phí (tháng 4 1903) cho dân chúng Saigon-Gia Định ở đường rue d’Adran (Hồ Tùng Mậu ngày nay) đằng sau Tòa nhà Hòa giãi (Justice de Paix). Trong năm đầu, đã có 3151 bệnh nhân đủ mọi quốc tịch đến chữa bệnh trong tổng số 15717 lần khám. Được sự trợ giúp của bác sĩ Flandin, bác sĩ Dejean de la Bâtie đã thực hiện 166 cuộc giãi phẩu bằng thuốc mê chloroform, 86 giãi phẩu dùng thuốc đỡ đau cocaine và 21 giãi phẩu dùng hóa chất chlorure d’éthyle. Ở phòng y khoa này, hai ông bác sĩ được sự trợ giúp của một nữ tu người Âu, một nữ tu người Việt, một y tá người Việt và một thông dịch viên. Chi phí cho mỗi nhân sự như vậy, mỗi tháng là 100 đồng Đông Dương (piaster), không nhiều nhưng nhờ vào sự phụng sự tận tụy hết lòng của nhân viên, ngân sách tối thiểu như vậy đã cho phép giúp đỡ số lượng bệnh nhân rất đông đến khám và được săn sóc với chi phí rất rẽ là 0$14 mỗi ngày.
Sau hai năm hoạt động, với chi phí không đủ sức trang trãi, bác sĩ Dejean de la Bâtie đã kêu gọi sự giúp đỡ từ chính quyền thành phố và hội đồng thành phố Saigon đã trợ cấp 1200 đồng piastres cho phòng y khoa của bác sĩ Dejean de la Bâtie, đồng thời tỉnh Chợ Lớn và tỉnh Gia Định sát cạnh thành phố Saigon cũng đã trợ cấp 300 đồng mỗi tỉnh cho phòng y khoa này (Annuaire général de l’Indochine). Năm 1906, để dưỡng sức nghĩ ngơi trong một thời gian sau nhiều năm phục vụ không nghỉ, bác sĩ Dejean de la Bâtie đã nhờ đồng nghiệp của mình, bác sĩ René Montel, từ Tây Ninh về làm việc thay thế cho ông ở phòng y khoa đường D’Adran. Sau khi trở lại làm việc, Dejean de la Bâtie đã giữ bác sĩ Montel lại làm phụ tá coi phòng y khoa ở Saigon vì tầm quan trọng của cơ sở này thay vì để bác sĩ Montel trở lại làm việc ở Tây Ninh.
Tháng 4 năm 1912, bác sĩ Dejean de la Bâtie được tái đắc cử trong Hội đồng Quản hạt với số phiếu cao nhất (Dejean de la Bâtie 810 phiếu trước ông Canavaggio thứ nhì với số phiếu 773, theo báo Les Annales coloniales, 10 avril 1912). Nhưng chỉ vài tháng sau ông mất thình lình khi còn rất trẻ, tuổi thọ chỉ có 47 tuổi.
Sau khi ông mất, bác sĩ Montel thay thế ông điều hành cơ sở y khoa ở đường rue d’Adran. Hai năm sau, năm 1914, thành phố đã đồng ý dời phòng y khoa nhỏ ở đường rue D’Adran đến một chổ thoáng và lớn hơn ở đại lộ Bonard và được gọi là “Polyclinique du boulevard Bonard” hay còn gọi là “Polyclinique du Marché”. (gọi như vậy vì gần chợ Bến Thành)
Trong nhiều năm đã có nhiều tiếng nói và đề nghị xây phòng y khoa ở đại lộ Bonard thành một bệnh viện lớn của thành phố do số bệnh nhân đến càng ngày càng đông. Năm 1919, ông Trương Văn Bền đã đề nghị Hội đồng Quản hạt xây dựng bệnh viện thành phố ở đại lộ Bonard (11). Từ năm 1922 đến năm 1926, số bệnh nhân tăng vọt từ 28982 đến 45161. Nhà cầm quyền đã buộc phải mở thêm các phòng y khoa khác ở Tân Định (1925) và Khánh Hội (1930).
Nhà báo Eugène de la Bâtie, năm 1928 làm chủ nhiệm và chủ bút tờ Écho Annamite thay cho ông Nguyễn Phan Long đã có viết bài báo nói về sự tận tụy và ký ức của người Saigon với bác sĩ Dejean de la Bâtie. Ông Eugène Dejean de la Bâtie sinh ra ở Hà Nội, ông là con của nhà ngoại giao Maurice DeJean de la Bâtie (anh của bác sĩ Theodose DeJean de la Bâtie) và bà Đặng Thị Khai. Trong bài đăng trên báo Écho Annamite ngày 8/7/1930, ông Eugène Dejean de la Bâtie có kể chuyện một người cùng thời với chú của ông đã đến gặp ông phàn nàn về việc bác sĩ Montel trong diễn văn khánh thành phòng y khoa ở Khánh Hội đã không nói nhiều về công lao của tiền nhiệm ông Montel mà đề cập đến công lao khó khăn của mình nhiều hơn sau này và người này cho rằng như vậy là không công bằng.
Năm 1935, Thống đốc Nam Kỳ, ông Pierre Pagès chấp thuận cho phép xây lại phòng đa khoa “Polyclinique du boulevard Bonard“ thành bệnh viện thành phố. Chính quyền thành phố đã bỏ tiền và sau đó ông Hui Bon Hua (chú Hỏa) cũng đóng góp tiền thêm xây dựng bệnh viện lớn ở đại lộ Bonard thay cho phòng y khoa nhỏ. Bệnh viện được xây theo từng giai đoạn từ năm 1937 đến năm 1939 thì hoàn tất với tổng chi phí là 185000 piastres. Trong đó ông Hui-Bon-Hoa đã đóng góp 38000 piastres, một số tiền lớn thời bấy giờ.
Để nhớ ơn một vị bác sĩ tận tụy và công đức với người nghèo khổ, bệnh viện này được đặt tên là bệnh viện Dejean de la Bâtie, tức bệnh viện Saigon ngày nay. Theo báo Le Nouvelliste d’Indochine (27/2/1938) thì ở buổi họp đầu năm của Hội đồng thành phố, có xem xét một đề nghị từ Thống đốc Nam Kỳ đề nghị đặt tên cho bệnh viện vừa mới xây là Bệnh viện Montel, nhưng Hội đồng thành phố cho rằng mặc dầu bác sĩ Montel đã tận tụy bỏ ra nhiều công sức điều hành trong nhiều năm qua nhưng tiền nhiệm của ông là bác sĩ Dejean de la Bâtie thật ra mới là linh hồn và là người mẫu mực đáng nhớ đã tạo ra ý tưởng bệnh viện công phục vụ cho tất cả mọi người. Hội đồng thành phố đã quyết định đặt tên bệnh viện thành phố ở đại lộ Bonard là Bệnh viện Dejean de la Bâtie và tòa nhà mới xây phía trái được có tên là tòa nhà Montel. Tòa nhà phía phải (phía chợ Saigon) có tên của người bỏ tiền rất nhiều để xây bệnh viện là tòa nhà Hui Bon Hoa.
Quảng trường Eugène Cuniac (Place d’Eugène Cuniac) còn gọi là quảng trường chợ Bến Thành (Place Les Halles Centrales hay Place Marché) trước khi được thành lập là khu vực các đường rue Nemesis (từ Phó Đức Chính chạy đến Thủ Khoa Huân ngày nay), rue Amiral Courbet (rue Batavia trước đó, nay không còn, vị trí đầu đường Trần Hưng Đạo ngày nay) bao chung quanh nhà kho thành phố (magasins municipaux) ở cuối đại lộ Bonard, góc Filippini (gọi là rue Cap de St Jacques trước đó) và rue Mac-Mahon. Khu vực này được thị trưởng Saigon, ông Cuniac giải tỏa cùng với phá bỏ nhà kho xe lửa cũ để xây trạm xe lửa mới về hướng tây ở khu phia gần đường Boresse (đường Yersin ngày nay) trên khu trước kia là đầm lầy (ngày nay là công viên 23/9) và xây dựng chợ mới thay thế chợ cũ ở giữa đại lộ Charner và rue d’Adran.
Place Eugène Cuniac (ảnh khoảng năm 1920s) – Nguồn belleindochine.free.fr, Collection Neykov. Nhà ga xe lửa mới ở góc trái trên, phía giữa cạnh trái là đường rue Nemesis (sau là Alsace-Lorraine tức Phó Đức Chính ngày nay) nhìn thẳng ra chợ Bến Thành, giữa hình là khu nhà depot xe lửa cũ cạnh đường rue de Reims (Lê Công Kiều ngày nay) và Boulevard de la Somme (Đại lộ Hàm Nghi) với ray đường xe lửa tramway Saigon-Chợ Lớn. Đại lộ Bonard rộng lớn có 3 làn xe đi với hai hàng cây trồng trên hai ngăn đường.
Khu đất giừa quảng trường Cuniac trong các năm 1920 là nơi có lễ hội vui chơi buôn bán. Các ghánh xiệc giải trí với đánh võ quyền anh đã được tổ chức tại đây. Trên báo Écho Annamite 9/6/1927 có đăng quảng cáo gánh xiếc Long Tiên như sau ở Place de Cuniac. Bài báo cho biết đoàn xiếc Long Tiên là đoàn thứ ba sau đoàn Việt Nam và Đại Nam của người Việt từ Bắc kỳ vào trình diễn. Đoàn nay đã có trình diễn ở Trung, Thái Lan, Trung Hoa,.. Đây là những đoàn đã lập ra sau đoàn xiếc tiên phong Jeune Annam của ông Andre Thận ở Nam Kỳ.
Đặc biệt có trận đánh quyền anh đặc sắc (bataille royal) 10 hiệp mỗi hiệp 3 phút giữa võ sĩ người Hồng Kông gốc Ấn Iron Bux, vô địch quyền anh Đông Nam Á hạng trung (poids moyen) thời bấy giờ với võ sĩ quyền anh tên là Litors. Và trận đánh hạng gà (poids coq) giữa võ sĩ Nam kỳ người Việt tên là Kid Thomas và cựu vô địch tài tử quyền anh ở Maine tên là Berger. Và các trận quyền anh hạng bán trung (poids welter).
Iron Bux sinh ở Hồng Kông, gốc người Ấn họ thật là Bux và từ nhỏ đã giỏi quyền anh nên được gọi là Iron (kim loại sắt, theo nghĩa đen). Iron Bux đã đi Manilla dự các trận đánh, thời bấy giờ là trung tâm quyền anh ở Viễn Đông và sống về nghề quyền anh. Iron Bux đã đoạt các chức vô địch hạng lông (featherweight), hạng nhẹ (lightweight).
Ông André Thận khi nghĩ gánh xiếc và cải lương, vì tên tuổi danh tiếng của ông khắp Nam kỳ lục tỉnh nên sau này được các công ty dùng ông làm quảng cáo các sản phẩm của họ ở nhiều nơi. Ông thường xuất hiện ở bùng binh (quảng trường) chợ Bến thành như báo Écho Annamite 30/1/1929 có đăng như sau
“Hôm nay có dịp cho phép chúng tôi chào đón đến thành phố chúng ta một người bạn khác của chúng tôi, đó là ông André Thận, được ái mộ biết tiếng là cựu giám đốc của đoàn xiệc “Cirque Jeune Annam”, đoàn xiệc đầu tiên của người Việt, và cũng là người có công to lớn trong sân khấu cải lương (le grand rénovateur du theatre) nói cách khác là người đã đỡ đầu cải lương (« patron du Cai luong”).
Ông André Thân hiện đang thực hiện một tour quảng cáo cho nhiều công ty thương mại ở Saigon. Ông bán đủ loại hàng hóa và trình diễn, với sự trợ giúp của ông Fahry, thử nghiệm cách dùng các máy dập tắc lửa, chữa lửa (les appareils extincteurs) hiệu Impérator.
Những máy chữa lửa đã được trình diển vào ngày 27 tháng này, ở công trường chợ Bến thành (place du marché) với số lượng đám đông tụ tập như những ngày đại lễ. Sự hữu hiệu và tiện ích của các máy dập tắc lửa đã được trình diễn trước mắt các nhà doanh nhân và công chức trong chính quyền, họ đã không tiếc lời chúc mừng khen các nhà điều hành, ông Fabry và ông Thân André.
Ông André Thận có chương trình mở rộng tour đi quảng cáo của ông khắp Nam kỳ. Ông đã rời thành phố chúng ta sáng 28 tháng 11 để đi Trãng Bàng và Thủ dầu Một.
Chúng tôi chúc ông André Thận Thành công tốt đẹp.
“
Tên chính thức là quảng trường Cuniac nhưng người Saigon thường gọi là bùng binh chợ Bến thành (place Marché). Sau này vào năm 1955 được đổi là quảng trường hay bùng binh công viên Diên Hồng.
Tại đây vào ngày 25 tháng 8 1963, trong cuộc biểu tình của sinh viên học sinh chống thiết quân luật của chế độ Ngô Đình Diệm, Quách Thị Trang, một học sinh trong gia đình Phật tử đã bị cảnh sát bắn chết. Quách Thị Trang lúc ấy chỉ có 15 tuổi. Cái chết của Quách Thị Trang đã gây xúc động lớn với người dân Saigon. Đám tang của Quách Thị Trang với sự tham gia đông đảo của người Saigon thúc đẩy sự cáo chung của chính quyền Ngô Đình Diệm. Sau năm 1963, tượng của Quách Thị Trang được đặt kế tượng Trần Nguyên Hãn đã có trước ở bùng binh chợ Bến Thành và được người dân gọi là bùng binh Quách Thị Trang. Ngày nay tên chính thức của quảng trường trước chợ Bến Thành là quảng trường Quách Thị Trang.
Nhận xét
Đăng nhận xét