Số 115 Charner là Tòa nhà Hòa giãi (Palais Justice de la Paix), trước đó là nhà thờ St Marie Immaculée. Cạnh bên tòa nhà hòa giãi ở số 117 là nhà của ông bà Georges Garros, luật sư biện hộ cho tòa Hòa giải.và cũng là trụ sở của báo Moniteur des provinces (Nhật Báo tỉnh), Tờ Moniteur des provinces được chính quyền cho ông Georges Garros, luật sư, có phép xuất bản ngày 25 tháng 10 1904 (Écho annamite, 1924/09/03 (A5,N86)). Tờ Moniteur des provinces chủ yếu là một tờ công báo mà ông Phạm Quỳnh cho biết là “dịch những nghị định công văn của Nhà nước, đăng những tin thuyên chuyển trong quan lại”. Phiên bản tiếng Pháp được dịch ra tiếng Việt (quốc ngữ) được gọi là Nhật báo tỉnh mà chủ nhiệm là ông Nguyễn Văn Của, và chủ bút là Lê Hoằng Mưu. Tờ báo này thành lập năm 1905 chỉ ra sau tờ Nông Cổ Mín Đàm 4 năm. Nguyễn Văn Của cũng là chủ nhà in nổi tiếng Imprimerie de l’Union có cơ sở in ấn trên đường Catinat và đường Taberd. Nhật báo tỉnh có các bài viết của ông Gilbert Trần Chánh Chiếu kêu gọi canh tân xã hội Việt Nam.
Ông bà luật sư Georges và Clara Garros là người Pháp sanh trưởng ở đảo Réunion. Gia đình ông bà Garros đến Saigon lập nghiệp năm 1892. Ông bà có người con trai tên là Roland Garros, lúc đó mới 4 tuổi, sau này Roland là phi công nổi tiếng và là người anh hùng của Pháp trong thế chiến thứ nhất. Roland Garros được nhiều người biết qua giải quần vợt mở rộng của Pháp tai sân quần vợt ở Paris có tên là Roland Garros nhưng hầu như ít tai biết là ông Roland Garros đã trãi qua thời niên thiếu ở Saigon trên con đường Charner ở số 117.
Roland khi còn nhỏ ở Saigon đã theo cha giao thiệp nhiều, học và biết nói tiếng Việt. Tuổi trê của Roland ở Saigon trên con đường Charner và cạnh tòa nhà hòa giãi, nơi cha ông làm việc đã mở mang cái nhìn của Roland rộng hơn về thế giới bên ngoài. Tờ tuần báo “Le Nouvelliste d’Indochine”, xuất bản ở Saigon ra ngày chủ nhật 9 tháng 10 1938 có viết một bài về Roland Garros tựa đề “Une belle figure saigonnaise, Roland Garros” của tác giả Jacques Baroche. Dưới tựa đề bài có ghi chú của một người biên tập ký tên L.N cho biết là Roland Garros học tiểu học và năm đầu trung học ở trường Lycée Chasseloup-Laubat và rất nhiều người Saigon cũ còn nhớ đã thấy Roland đùa giỡn với người chị gái trước văn phòng của ông George Garros trên đường Charner. Ở Saigon, gia đình ông bà Garos thấy chương trình tiểu học chưa đủ tiêu chuẩn nên bà Clara Garros dạy Roland thêm ở nhà theo chương trình cao hơn.
Ông George Garros là một người biết nhiều về xã hội Á Đông, ông viết quyển sách “Les Usages de Cochinchine” xuất bản ở Saigon năm 1915 hướng dẫn người Pháp tìm hiểu về phong tục xã hội ở Nam Kỳ, quyển “Forceries humaines; l’Indochine litigieuse. Esquisse d’une entente franco-annamite” (nxb A. Delpeuch, Paris, 1926) về kinh nghiệm, hiểu biết và tư tưởng cấp tiến của ông lúc làm luật sư biện hộ ở Saigon. và nhiều bài trong sách tham khảo về Đông Dương “L’ Indochine 1906” mà ông là đồng tác giả. George Garros là người thành lập báo “Le Courier Saigonnais” và chủ trương tờ báo cấp tiến bảo vệ quyền lợi người bản xứ, “Jeune d’Asie”, cho độc giả cấp tiến Pháp và người Việt đọc được tiếng Pháp và Quốc ngữ. Thuộc thành phần câp tiến người Pháp ở Nam Kỳ, như Paul Monin và Dejean de la Bâtie, ông ủng hộ chính sách cởi mở của toàn quyền Sarraut và là bạn của nhiều người Việt trong đó có Bùi Quang Chiêu. Ông gia nhập làm hội viên chi nhánh Hội tam điểm (freemason), “Le Réveil de l’Orient” ở Saigon (27).
Nhà ông Garros số 117 đường Charner là trụ sở báo Moniteur des provinces, Nhật tỉnh báo và sau này cũng là trụ sở báo “La Jeune d’Asie”. Ông Garros là một trí thức Pháp sinh đẻ ở thuộc địa nên ông hiểu nhiều về tình cảnh dân thuộc địa so với những người ở chính quốc. Ông có liên hệ và giúp đỡ các ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Văn Của, Lê Hoàng Mưu lập ra tờ báo Moniteur des provinces hay Nhật báo tỉnh có mục đích giúp đỡ người Việt bản xứ biết, tìm hiểu hệ thống hành chánh và tham gia vào công quyền quản lý ở Nam Kỳ. Ngoài ra tờ báo cũng phổ biến chữ quốc ngữ trong đầu thế kỷ 20 tới các tầng lớp xã hội Việt Nam.
Năm 1900, ông bà Garros gởi cậu con trai Roland qua Pháp học. Ở Pháp, Roland cũng là tay đua xe đạp đoạt giải vô địch ở Paris năm 1906. Sau khi học xong trung học, Roland đam mê máy bay và hàng không lúc đó bắt đầu phát triển. Ông tham dự các cuộc đua máy bay qua biển Manche và Tây Ban Nha, và đi qua Mỹ để tìm hiểu thêm về hàng không ở Mỹ. Ông là người đầu tiên bay máy bay băng qua Địa Trung Hải vào năm 1913. Khi thế chiến thứ nhất bùng nổ, phi cơ trở thành công cụ chiến tranh và mang bom do chính phi công cầm tay thả xuống trận địa.
Roland vào quân đội, tham gia ngành không quân mới chớm nở. Ông tham dự nhiều trận không chiến và bắn hạ ít nhất 4 phi cơ Đức. Năm 1915, trong một phi vụ bỏ bom ở Bỉ, phi cơ ông bị bắn rơi, bị bắt tù binh chiến tranh và bị mang về Đức cầm tù. Trong tù để không nhàm chán và có sức khỏe, ông hay chơi quần vợt tennis. Tháng 2 năm 1918, ông trốn khỏi được ngục tù ở thành phố Magdebourg thoát được đến Hòa Lan, đi tàu qua Anh rồi trở về Pháp. Chuyến vượt ngục tù này của Roland Garros đã gây tiếng vang nhiều nơi trên thế giới và ông trở thành càng nổi tiếng ở Pháp.
Trung úy phi công Roalnd Garros thi hành phi vụ cuối cùng ngày 5 tháng 10 1918, một ngày trước sinh nhật 30 tuổi và hơn một tháng trước ngày đình chiến chấm dứt chiến tranh, máy bay ông bị bắn rơi trong một trận không chiến. Nước Pháp nhớ ơn ông với nhiều tượng đài và năm 1928 đặt tên sân quần vợt nổi tiếng ở Paris, nơi giải mở rộng được tổ chức, với tên là sân quần vợt Roland Garros. Bạn học ông thời trung học là Émile Lesieur khi là chủ tịch “Stade français”, năm 1928 đã đặt tên sân tennis săp xây để tổ chức giải “Davis Cup” mà Pháp thắng kỳ tranh giải trước đó, người phi công và lực sĩ tài hoa.
Ở đảo Réunion nơi ông sinh thành, con đường gia đình ông ở trở thành đường Roland Garros và phi trường chính ở đảo Réunion hiện mang tên Roland Garros. Ở Saigon thời Pháp, nơi ông trãi qua thời niên thiếu, năm 1919 đường Némésis được đổi tên là đường rue d’aviateur Roland Garros (nay là Thủ Khoa Huân).
Hình 20: Roland Garros trên phi cơ Morane-Saulnier
Số 125 là cửa tiệm bán bánh mì nổi tiếng của ông Louis-Roux. Bánh mì của ông Roux ngon nổi tiếng Saigon và ông còn có nhiều cửa tiệm bán khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Trên tờ Nông Cổ Mín Đàm (ngày 26/12/1901) có quảng cáo như sau (giữ nguyên chính tả của câu văn thời đầu thế kỷ 20 như trong báo)
Phố bánh mì thiệt thợ Langsa làm
(của ông Roux)
Nội Saigon có một phố hàng này mà thôi ở tại đường Charner (tục danh đường Kinh Lấp) số 125. Xin anh em chớ lộn.
Có tiệm ngánh trước nhà thờ Tân Định (Cầu-kiệu)
Tiệm ngánh tại Chợ Lớn đường Marins.
Mỗi bữa sớm mai và chiều đều có bánh mới sốt dẻo và bánh sừng-bò chẩy beurre (bánh mặn).
Ngày chủ nhật, thứ ba và thứ năm có bánh tròn mặn, bánh bò chế mật.
Tại tỉnh Mỹ Tho
Tiệm ngánh ở đường mé sông chợ số 10. – Mỗi bữa đều có bánh mì mới.
Bán đủ đồ vật thực đựng hộp nhứt hảo hạng. – Có rượu chát, rượu bìere, limonades.
Có trữ nước đá.
Đủ thuộc y-dược tây
Nội hạt ai mua vật gì thì xin gởi mau mắn và tử tế hết sức.
Còn ở các hạt Tân-an, Bến-tre, Cái-bè, Cần-thơ, Hà-tiên, Sốc-trăng, Vĩnh-long và Sa-đéc, an hem ai muốn mua vật chi thì xin gởi thơ cho tôi, tên Roux tại Mỷtho.
Tại Cap Saint Jacques
(Vũng Tàu)
Có tiệm và lò bánh mì tại đường Lanessan. Lảnh nạp bánh cho các cơ binh. – Có gởi bánh mì qua bán tại Bà-rịa.
Tỉnh Biên-Hòa
Có đễ bánh mì bán tại phố Châu-trân-Lang, là nhà hàng bán dồ phẩm thực.
Ai muốn mua bánh đễ lâu đặng đi đường, hay là đi rừng di rú thì cũng có bán.
(chú thích: langsa tức người Pháp, phiên âm từ chữ Français)
Số 131 bán thuyền canot và xe hơi của ông Ippolito. Số 133 là văn phòng và nhà của thương gia, ông Guillaud và số 135 là văn phòng và tư gia của ông bà Paris, luật sư biện hộ ở tòa án. Sau này nơi đây là trụ sở công ty Société des Garages Charner, bán và sửa xe hơi. Ngày nay địa điểm này là Khách sạn Kim Đô. Cạnh bên ở số 135bis là tư gia của ông chủ tiệm bánh mì (boulangerie française), ông Louis-Roux mà như ta đã đề cập bên trên ở ngay góc đường Charner và Bonnard.
Sau này số 135 và 135bis là cửa tiệm của công ty Bresset et Cie (số 135) và cửa tiệm bán xe đạp và xe hơi của ông Muet (số 137). Đến đầu thập niên 1920 tại đây, sau khi mua lại các căn phố ở góc đường Charner và Bonard, công ty Société colonial des Grands Magasins vào năm 1924 đã xây và khánh thành cửa hàng to lớn Grand Magasins Charner (GMC) tức Thương xá Tax ngày nay. Qua bên kia đường Bonnard là số 141 Charner nơi ông bà Milanta, làm nghề tiếp đón dẫn khách, cư ngụ mà sau này được phá đi và xây lại to lớn hơn thành salon bán xe hơi của ông Bainier.
(a)
(b)
Hình 21: (a) Tòa nhà Établissement Bainier bán xe hơi của ông Émile Bainier, địa điểm này ngày nay là Khách sạn Rex (b) Garage Charner số 131 đại lộ Charner và trụ sở công ty Société des Garages Charner ở số 131-133 cạnh bên Grand Magasin Charner (GMC).
Garage Charner là đại lý độc quyền bán các xe hơi Delage, Renault, Panhard, Monet-Goyou. Ngoài ra còn có các loại xe Lavassor, Rochet, Schneider, Benjamin, võ xe hơi Dunlop Cord. Đặc biệt Garage Charner là đại lý của công ty sản xuất xe hơi Renault cạnh tranh với công ty Établissement Bainier (cũng trên đường Charner) đại lý cho công ty sản xuất xe hơi Citroen. Ngoài ra, Garage Charner còn bán các động cơ kỹ nghệ và động cơ tàu trên sông và biển. Garage Charner là do công ty Société des Garages Charner điều hành, một công ty con của công ty Compagnie de Commerce et de Navigation d’Extrême-Orient (cơ sở ở tòa nhà mà nhà nhiếp ảnh Planté có văn phòng, số 10 Charner). Cuối tháng 6 năm 1929, nơi đây có xảy ra một trận hỏa hoạn lớn phá hủy tất cả bên trong garage, thiệt hại ước lượng từ 60000 đến 80000 piastres. Hỏa hoạn này tuy vậy không ảnh hưởng đến tòa nhà GMC bên cạnh. Trong tờ tạp chí “Bulletin du Syndicat des planteurs de caoutchouc de l’Indochine” ngày 12/12/1923 có đăng quảng cáo như sau:
“Automobilists !
Avant de fixer votre choix, visitez les grand magasins d’exposition de la
Société des Garages Charner
131-133 Boulevard Charner 131-133
Saigon
Agence exclusive pour l’Indochine des plus grandes marques française automobiles
Panhard-Levasor-Rochet-Schneider-Delage-Benjamin
Demandez-nous le catalogue & renseignements
Ateliers modernes de reparations
Stock de pièces de rechange – Stock pneumatiques Dunlop Cord
“
Ở góc đường Charner và Bonnard là auto-hall và garage của Établissement Bainier d’Indochine (É. Bainier) của ông Bainier. Sau nầy E. Bainier đổi qua đối diện bùng bình đường Charner và Bonnard ở số 141 Charner (vị trí khách sạn Rex ngày nay). É. Bainier d’Indochine có cơ sở và garage khắp Đồng Đương: Saigon, Hanoi, Phnom Penh, và ở các tỉnh như Bác Lieu, Battanbang, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Kampot. É. Bainier là đại lý bán các xe của hảng Citroen.
Ông Émile Bainier đến lập nghiệp ở Saigon vào khoảng năm 1908 (15). Là một người có đầu óc kinh doanh, ông tiên phong đi vào thị trường mới, thị trường buôn bán xe hơi. Lúc nầy xe hơi bắt đầu phổ thông trên thế giới. Ở Đông Dương thị trường này con rất sơ khai. Đa số người Saigon di chuyển bằng hệ thống giao thông công cộng xe lửa, xe tramway hay cá nhân qua xe ngựa, xe kéo. Năm 1909 chính ông đã lái xe buýt giới thiệu phương tiện chuyên chở công cộng dùng xe buýt cho nhiều quan chức và nhân viên chính quyền trên đường phố Saigòn. Không lâu sau ông thiết lập auto-hall, cửa hàng bán xe hơi, trên góc đường Bonnard (21 Bonnard) và Charner (100-102 Charner) bán các loại xe Darracq, Unic, Dodge Brothers, Citroën (15).
Không lâu, công ty của ông (É. Bainier) thành công trong thương trường và ông xây thêm cửa hàng auto-hall ở đối diện chéo với bùng binh Chaner và Bonnard (tiền thân của khách sạn Rex ngày nay) vào năm 1927 chỉ vài năm sau khi thương xá Tax (GMC) khai trường vào năm 1924. Nơi đây được coi như là auto-hall lớn nhất Viễn Đông vào lúc bây giờ. Vua Cam Bốt năm 1928 khi viếng Saigon đã đến xem các xe trong auto-hall của ông Bainier. Khủng hoảng kinh tế bắt đầu năm 1929 đã làm công ty Establissement Bainier lỗ lã trong gần suốt thập niên 1930s nhưng sau này ông đã khôi phục lại, Établissements Bainier thua lỗ lớn nhất là vào các năm 1932, 1933 và 1934. Theo thông tin từ các buổi họp thường niên cổ động đăng trên tờ l’Infornation d’indochine (14). Năm 1935 số vốn của công ty là 666000 piastres, đến năm 1936-1940 số vốn chỉ còn lại là 264000 piastres.
Ông Bainier là một nhà kinh doanh có chí, kiên nhẫn và rộng lượng, theo tờ Écho Annamite (Tiếng vọng An Nam) ngày 22/1/1927, thì ông Bainier đã cho phép trụ sở mới vừa xảy của công ty ngay góc đường Charner và Bonnard được dùng làm nơi hội họp của một ủy ban tổ chức lễ hội (foire) lấy tiền cứu trợ nạn lụt ở Bắc Kỳ (16). Ông Emile Bainier mất vào năm 1941 ở Saigon. Vợ và con ông tiếp tục có số kinh doanh xe hơi của ông cho đến năm 1953 thì họ trở về Pháp. Vợ chồng hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Thi, Nguyễn Thị Nguyệt Nga mua lại tòa nhà Bainier và phá đi để xây lên khách sạn Rex, rạp chiếu phim và các cửa hàng mà cho đến ngày nay vẫn còn hầu như nguyên vẹn.
Số 145 Charner là Café Americain của bà Nault. Số 145 là cửa hàng bán quần áo thời trang của bà Clérian và số 149, là cửa tiệm của ông Gauthier cho thuê xe kéo (pousse-pousse). Nếu đầu đường Charner gần chợ Cũ là các cửa tiệm của người Hoa thì từ số 151 đến cuối đường bên dãy số lẽ đa số là các cửa tiệm may mặc của người Ấn (Abdoulcader, 151, Goulamecader 157, Abdoul-Hakime 161, Mouhamat-Mastam 163).
Bây giờ ta đến trước tòa nhà cuối cùng nằm trước mặt đường Charner, ở đường rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn). Đó là tòa thị sảnh thành phố Hôtel de Ville (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố). Gần nửa thế kỷ sau khi Pháp chiếm Saigon, tòa thị sảnh thành phố Saigon mới thật sự hiện diện. Sau nhiều năm tranh cãi, cuối cùng địa điểm và đề án xây tòa thị sảnh thành phố được Hội đồng quản hạt chấp thuận. Tòa thị sảnh được xây từ năm 1901 đến 1908 trên một vùng đất cao ở cuối đường Charner (Nguyễn Huệ ngày nay), nhìn xuống tận đầu đường ở gần sông Saigon. Tháng 2 năm 1909, đúng 50 năm sau khi Pháp chiếm thành Saigon, tòa thị sảnh thành phố được khánh thành dưới sự hiện diện của toàn quyền Đông Dương (9).
Tòa thị sảnh được xây bởi kiến trúc sư Paul Gardès và được trang trí kiến trúc bên ngoài bởi nhà điêu khắc trẻ tuổi có tài, ông Louis-Lucien Ruffier. Tư liệu về tiểu sử ông L. Ruffier ít có, chúng ta chỉ được biết qua các tài liệu chính thức xuất bản ở Saigon. Ông Ruffier sinh ngày 26/5/1861, năm Pháp chiếm Saigon, và ông đến Saigon năm 1882 vào lúc mới 21 tuổi. Có thể ông theo cha là một người quản lý tàu Mouhot của hảng chuyên chở Messageries Fluviales de Cochinchine, người này tên là Ruffier (commisaire), sau đó gia nhập sở tư pháp năm 1894. Cũng khoảng thời gian này (1893), Charles Ruffier (em Louis-Lucien Ruffier ?) cũng vào sở tư pháp (24).
Năm 1882, ở Nam Kỳ có bệnh dịch tả cấp tính lan khắp các tỉnh thành ảnh hưởng đến tất cả dân số từ người Việt, Hoa đến Âu. Lúc này chưa có thuốc chủng và nghiên cứu nguyên do bệnh từ đâu. Chỉ từ ngày 1/6/1882 đến 15/10/1882, bệnh dịch tả đã làm 19162 người Việt tử vong. Ở Nam Kỳ, tỉ lệ chết là 1.26 % dân số. Trong khi ở Saigon, cứ 100 trường hợp bệnh thì 73.6 ca là tử vong, một bệnh làm dân chúng vô cùng sợ hải. Louis Ruffier vừa đến Saigon thì mắc phải bệnh dịch tả, một trong 18 người Pháp mắc phải bệnh. Chỉ 10 người sống sót sau đó trong đó có Louis Ruffier (19).
Sau khi thoát chết, trở lại cuộc sống ở Saigon, Ruffier có khiếu điêu khắc và năng khiếu của ông được biểu lộ khi ông tạc bức tượng Buste de la Republique. Lúc này Saigon có nhiều công trình xây dựng các tòa nhà, công sở dưới sự điều hành bởi thống đốc dân sự đầu tiên Le Myre de Vilier và do đó có nhiều nhu cầu điêu khắc trang trí các nơi ở thành phố, và chỉ trong một thời gian cho đến cuối thế kỷ 19 Saigon đã mang sắc thái của một đô thị Pháp với các kiến trúc tiêu biểu, nhà thờ, dinh thống đốc, tòa án, dinh phó thống đốc, .. Năm 1883, ông Ruffier có đề nghị Hội đồng Quản hạt mua bức tượng buste de la Republique để trang trí ở các công trường công cộng mà ông đã bỏ công làm. Hội đồng Quản hạt đã gởi các ông Fabre, Jourdan và Schroeder đến Palais de la Justice (Tòa án) nơi bức tượng của ông Ruffier được trưng bày. Mặc dầu tượng đẹp và có nghệ thuật, ông Schroeder đã đề nghị với Hội đồng Quản hạt không mua bức tượng (20).
Tuy vậy chỉ hai năm sau, các công trình điêu khắc của nhà điêu khắc trẻ Louis Ruffier sau khi được trưng bày ở các lễ hội như ngày 14/7/1885 đã làm thay đổi ý kiến của nhiều người trong Hội đồng Quản hạt trong đó có ông Schroeder. Trong phiên họp ngày 16/12/1885, các ông Blanchy, Garcerie, Schroeder, Jame, Jouvet, Branzell đã đề nghị Hội đồng Quản hạt cấp 10700 franc để Ruffier hoàn thành bức tượng tượng trưng cho nước Pháp trang hoàng cho thành phố mà trong dịp lễ vừa qua, ông Ruffier đã trưng bày một số các tượng được dân chúng tán thưởng. Sau khi tượng hoàn thành, có thể sẽ làm luôn tượng đồng với kinh phí tối đa là 25000 francs (21). Nhưng ông Carabelli lên tiếng nói là giá quá cao và cho rằng tượng của Louis Ruffier chưa đạt được tiêu chuẩn. Carabelli đề nghị gởi nhà kiến trúc điêu khắc trẻ Ruffier học thêm 2 hay 3 năm ở Trường Mỹ thuật. Ông Schroeder bảo vệ Ruffier cho rằng mặc dầu còn trẻ nhưng rất tài năng, Ruffier chưa đạt được như nhà điêu khắc nổi tiếng Falguière (1) nhưng công trình của Ruffier xứng đáng được dựng ở thành phố. Hội đồng Quản hạt đã thông qua đề nghị cấp tài chánh cho ông Ruffier để làm tượng với đa số phiếu.
Bắt đầu từ đây, sự nghiệp của Louis Ruffier càng đi lên. Ngày 3/4/1888 ông được có chức danh chính thức là điêu khắc gia và được bổ nhiệm ăn lương vào làm chức điêu khắc gia thành phố ngày 27/10/1888 (22). Năm 1898, Ruffier được chính quyền cấp 1000 francs cho một công trình để triễn lãm ở Hội chợ thế giới 1900 ở Paris (23).
Công trình lớn nhất của ông là điêu khắc các tượng, phù điêu trên Hôtel de Ville của Saigon. Ngày nay khi ta nhìn các tượng điêu khắc trên tòa nhà Ủy ban Nhân dân Thành phố, ta không thể khen thầm sự uy nghi và đầy mỹ thuật ấn tượng của công trình của ông.
Cuộc đời của Louis-Lucien Ruffier đến giây phút chót này cũng có nhiều gay cấn. Sau khi hoàn thành Hôtel de Ville, ông đã có xích mích với chính quyền về các hợp đồng của ông với chính quyền thành phố trong lúc thực hiện xây dựng điêu khắc tòa nhà Hôtel de Ville. Ngày 23/6/1912, ông đã đưa đơn lên Hội đồng Quốc gia (Conseil d’État) ở Paris, cơ quan có thẩm quyền tối cao nhất, yêu cầu hủy bỏ sắc lệnh ngày 14/9/1908 của Hội đồng quản lý (Conseil d’Administration de Cochinchine) vì sắc lệnh này đã bác sự đòi hỏi bồi thường ông 20000 francs vì thành phố không làm đúng hợp đồng điêu khắc các tượng trên Hôtel de ville trị giá 100000 francs ký năm 1898. Theo đó thành phố đã xây trễ và do đó ông không có việc trong hai năm. Sắc lệnh của hội đồng quản lý Nam kỳ cũng đòi ông lại 60000 francs vì ông đã không làm giai đoạn hai của điêu khắc trang trí Hôtel de ville. Kết cuộc là Hội đồng Quốc gia ở Pháp đã bác đơn kiện của Louis Ruffier.
Hình 22: Lễ hội (có lẽ là 14/7) trên đường Charner. Theo dấu trên con tem và chữ ký thì carte này gởi đi vào tháng 12 năm 1907. Carte của nhà nhiếp ảnh George Planté biên tập. Planté mất tại Saigon năm 1921. Văn phòng nhiếp ảnh của ông ở đại lộ Charner nơi ông dọn đến vào năm 1905
Hình 23: Lễ hội rước rồng (festival de dragon) trong ngày lễ tết Đoan Ngọ của người Hoa trên đường Charner, trước Hôtel de Ville.
Hội đồng thành phố (Conseil municipale) được bầu năm năm 1882 bởi cử tri Pháp và cử trí An Nam có 11 đại biểu Pháp (trong đó có ông Foulhoux, Lacaze, Cazeau, Vienot, Reynaud, Coste, Niobey, Cardi, Houdinet, Cornu, Peré) và 4 đại biểu An Nam (Trương Minh Ký, Lê Văn Vân, Lê Văn Thông, Nguyễn Văn Bình), với nhiệm, ky 6 nằm trong đó phần nữa sẽ được bầu lại sau 3 năm. Hội đồng thành phố hợp đầu tiên vào năm 1882 để bầu ra thị trường. Ông Cornu được bầu làm thị trường. Trước đó thì từ năm 1877 thị trưởng do thống đốc chỉ định từ các đại biểu trong Hội đồng thành phố. Các đại biểu Pháp được cử tri có quốc tịch Pháp bầu, hai đại biểu An Nam (Petrus Truong Vĩnh Ký và Paulus Của), 1 đại biểu người Âu ngoại quốc và 1 đại biểu người Á ngoại quốc (người Hoa) là do thống đốc chỉ dinh (17).
Ông Paul Blanchy là chủ tịch Hội đồng Quản Hát và sau này cũng là thị trường đầu tiên (1895-1901) được bầu trực tiếp từ từ các cử tri. Ông đến Nam Kỳ năm 1871, Ông có vợ người Việt và trở nên giàu có qua gia đình vợ đầu tư trồng trọt và sản xuất tiêu ở Nam Kỳ. Ông chủ ý đến quyền lợi người Pháp ở thuộc địa và những người bản sứ giàu có. Ông ưu đãi người Ấn từ Pondicherry có quốc tịch Pháp và nhờ đó có được sự hậu thuẩn của họ trong những lần bầu cử. Ông là một chính trị gia khôn ngoan có thế lực ở Saigon đặt người của mình vào các vị trí trong công quyền.và vì thế có sự xích mích về chánh sách với toàn quyền Paul Doumer.
Ông Paul Doumer cho rằng ông Paul Blanchy không có đầu óc tổ chức, vô chính phu (anarchique) và thiếu kỷ luật về quản lý điều hành. Sau khi bị thất thế trong chính trường, Paul Blanchy mất ở Saigon năm 1901, thọ 64 tuổi. Paul Doumer trong hồi ký có viết rằng “một người có quyền bình và để tâm phụng sự cho công chúng chắc chắn sẽ là rác rưởi nếu không gạt ra được ông Blanchy” (12).
Nơi đây tại Tòa thị sảnh thành phố, lần đầu tiên, vào các năm 1933, 1935 và 1937 các ứng cử viên trong Sổ lao động (“liste ouvrière” mà báo tiếng Pháp gọi nôm na là “liste communist”) của báo “La Lutte” (Tranh Đấu) trúng cử đại biểu vào Hội đồng thành phố là các ông Tạ Thu Thâu (1935, 1937), Nguyễn Văn Tạo (1933, 1935, 1937), Dương Bạch Mai (1935, 1937), Trần Văn Thạch (1933, 1935) hơn hẳn số phiếu của các ứng cử viên của Sổ lập hiến (“liste constitutionalist”, báo Pháp gọi “liste bourgoise”) như Nguyễn Phan Long, Bùi Quang Chiêu Michel My, Huỳnh Văn Đông, Huỳnh xuân Cảnh, Trần Văn Kha (Le Nouvelliste d’Indochine, 01/05/1937, A2, N34).
Năm 1939, các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch thuộc nhóm Troskit đệ tứ quốc tế cũng trúng cử vào Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial) với số phiếu như sau
Tạ-thu-Thâu 1.355
Phan-văn Hùm 1.186
Trần Văn Thạch 1.121
còn các ông Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai và Nguyễn Phan Long thuộc nhóm Cộng sản đệ tam quốc tế và nhóm Lập hiến đều thất cử. Nhưng cũng như một số lần trước ông Thâu đã bị nhà cầm quyền làm khó dễ như bãi nhiệm, bắt giam ông qua các lý do như lập hội kín năm 1933 (Le Nouvelliste d’Indochine, 7/5/1939, 6/3/1937, 11/7/1937).
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, ngày 16/8/1945 chính quyền ở Saigon được Nhật giao trả cho chính phủ Trần Trọng Kim, ông Khá Văn Cân trở thành thị trưởng Saigon-Chợ Lớn.
Chỉ vài ngày sau đó là cách mạng tháng 8 bùng nổ, các cơ sở công quyền hầu hết vào tay Việt Minh, Ủy Ban Nhân Dân Nam bộ, Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ được thành lập. Ngày 10/9/1945, Ủy ban Nhân dân dọn về Tòa Đô Chánh (Hôtel de Ville) sau khi giao Dinh toàn quyền (Dinh Thống Nhất ngày nay) cho quân Đồng Minh vào Saigon giải giới quân đội Nhật.
Nhưng không bao lâu quân Pháp trở lại và Tòa thị sảnh thành phố Hôtel de ville từ cuối năm 1945 cho đến năm 1975 là trụ sơ của hội đồng thành phô và thị trưởng thành phố Saigon-Chợ Lớn. Sau năm 1975, nơi đây là trụ sở của Ủy ban Nhân dân thành phố.
Tổng luận
Đại lộ Charner, Nguyễn Huệ là con đường chứng kiến nhiều sự thay đổi lớn lao trong lịch sử thành hình đô thị trung tâm Saigon, từ khởi thủy là một con kinh di chuyển theo đường sông, sau khi bị lấp có đường hỏa xa, tram way rồi đến xe hơi đường bộ đầu thế kỷ 20. Cũng trên con đường này các nhân vật lịch sử, kinh tế tài chính đã để lại dấu vết, từ Wang-Tai (Trương Bội Lâm), Emile Gsel, George Planté, Pun Lun (Tân Luân), Phan Chu Trinh, Nguyễn An Khương, Hoàng tử Miến Điện Myingun, Roland Garros, Speidel đến Cường Để, Phạm Quỳnh, Bainier, Blanchy, Ruffier…
Ngày nay đường Nguyễn Huệ chứng kiến một sự thay đổi lớn lao hầu như toàn diện. các tòa nhà cổ nhất Saigon đang được phá dỡ, các cây xanh bị triệt hạ, cảnh quan thay đổi và thay vào đó sẽ là các tòa nhà, cửa hàng văn minh hiện đại sang trọng không kém các cửa hàng ở New York, và đường sẽ trở thành một quảng trường đi bộ và một phần xe chạy. Nhưng như thế có phải là tốt hơn không về cảnh quan, đặc thù văn hóa xã hội, hay ngay cả về phương diện kinh tế?. Với vốn đầu tư trong dự án cải tạo đường Nguyễn Huệ khoảng 430 tỉ đồng, đường Nguyễn Huệ sẽ trở thành đường hiện đại nhất nước như các báo đã đăng tin (Người Lao Động , Báo Mới, 30/3/2015). Với một dự án đồ sộ như vậy, thay đổi cảnh quan một đại lộ trung tâm, nhưng hầu như thành phố không có tham khảo hay có một diễn đàn công luận hay một phương cách nào mà trong đó có sự tham gia ý kiến của các hội đoàn, tầng lớp trong xã hội dân sự bị ảnh hưởng hay có liên hệ trực tiếp, gián tiếp đến sự thay đổi này.
Hình 24 – Đường Nguyễn Huệ, tháng 2 2015 (Ảnh của Tim Doling.). Dãy nhà cạnh Sun Wah tower có độ tuổi từ cuối thế kỷ 19 (xem hình 5 và 6 mà nhà nhiếp ảnh Émile Gsel chụp ở thế kỷ 19).
Để có một sắc thái riêng và cảnh quan gắn liền với quá khứ, lịch sử trong đó ký ức đô thị và linh hồn của một thành phố được có đất dung dưỡng thì chúng ta phải có một qui hoạch bảo tồn những công trình có giá trị lịch sử văn hóa đặc trưng cho thành phố. Thành phố Saigon-Chợ Lớn và con người Saigon tượng trưng cho sự hòa hợp hài hòa của các nền văn hóa, một vùng đất mở, cửa ngỏ ra thế giới bên ngoài, du nhập và gìn giữ những các đẹp , mỹ thuật của các nền văn minh. Cải tạo hiện đại nhưng cũng không quên quá khứ lịch sử văn hóa trong một qui hoạch phát triển hài hòa trong đó tiếng nói dân sự phải có chổ đứng trong quá trình qui hoạch và thực thi các đề án phát triển đô thị. Được sự đồng thuận của cả chính quyền và xã hội thì kết quả của dự án phát triển đô thị sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn là sẽ có nhiều bất trắc, bất an và thiếu hiệu quả.
Chú thích:
(1) Alexandre Falguière (1831-1900) là một nhà điêu khắc nổi tiếng ở Pháp. Các tượng của ông như Jeanne d’Arc, Diane, Eve, Triomphe de la Revolution (xe ngựa chiến thắng dựng trên Khải hòa môn), General de la Fayette, Alphonse de Lamartine là những công trình có tiếng được biết nhiều. Ngoài ra bức tượng La danseuse mô phỏng theo nừ công Cléo de Mérode đã gây nhiều xôi động, tựợng này hiện ở bảo tàng Musée d’Orsay.
Tham Khảo
(1) Saigon Republicain, 10/11/1888, A1, N53.
(2) Les Tablettes coloniales. Organe des possessions françaises d’outre-mer, No. 45, 19/12/1888
(3) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.
(4) Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007. (http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf).
(5) Nguyễn Đức Hiệp, Singapore – Saigon – Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-dong-nam-a/1957-singapore–saigon–hong-kong-quan-he-thuong-mai.html
(6) Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l’itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aîné (Paris), 1869
(7) Le Monde Illustré 29/7/1865, A9, T17,N433
(8) Le Monde Illustré 24/12/1864, A8, T15,N402
(9) Nguyễn Đức Hiệp, Saigon đầu thế kỷ 20 đến 1945 : Việt Nam thức tỉnh, http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/saigon-111au-the-ky-20-111en-1945-viet-nam-thuc-tinh
(10) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.
(11) Cochinchine françaises, Procès-verbaux du Conseil colonial, Session ordinarie 1884-1885, Imprimerie du gouvernement, Saigon 1885.
(12) Oscar Chapuis, The last emperors of Vietnam: From Tu Duc tớ Bảo Đại, Greenwood Press, Connecticut, 2000.
(13) Annuaire complet (européen et indigène) de toute l’Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières… : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, éditeurs L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
(14) L’Information d’Indochine. économique et financière, Saigon, 1935, 1936, 1940.
(15) Tim Doling, Icons Of Old Saigon: Établissements Bainier Auto Hall, http://saigoneer.com/saigon-buildings/3697-icons-of-old-saigon-etablissements-bainier-auto-hall
(16) Écho Annamite, 22/1/1927, A8, No. 787
(17) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. để l’Union (Saigon), 1917
(18) Annuaire général de l’Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.
(19) Excursions et reconnaissances, 1882, N14, pp. 372, Imprimerie du Gouvernement, 1882, Paris, Challamel, 5 rue Jacob.
(20) Procès-verbaux du Conseil Colonial, Imprimerie du Gouvernement, Saigon 1883.
(21) Procès-verbaux du Conseil Colonial, Session ordinaire 1885-1886, Imprimerie du Gouvernement, Saigon 1886.
(22) Annuaire de l’Indo-Chine, 1890, T1, pp. 198-199, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1890.
(23) Annuaire de l’Indo-Chine, 1897, T1, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
(24) Bulletin official de l’Indochine française, N1, P1, 1898.
(25) Recueil du Conseil d’État, 1913, T82, S2.
(26) Nguyễn Thị Minh, “Nguyễn An Ninh: Tôi chỉ làm cơn gió thổi”, Nxb Trẻ, 2005.
(27) Phillipe Peycam, The Birth of Vietnamese Political Journalism: Saigon, 1916-1930, 2012, Columbia University Press.
(28) Le Nouvelliste d’Indochine, 6/3/1937, 1/5/1937, 11/7/1937, 7/5/1939.
(29) Annuaire de la Cochinchine française pour l’année 1870, Imprimerie du Governemnt, Saigon 1869.
(30) Người Lao Động, Đường Nguyễn Huệ hiện đại nhất nước, 30/3/2015, http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/duong-nguyen-hue-hien-dai-nhat-nuoc-20150330232220484.htm
Nhận xét
Đăng nhận xét