Nhận diện các loại hình kiến trúc gỗ Việt Nam qua bố cục không gian, tổ chức mặt bằng, cấu trúc mái và kết cấu khung gỗ
Nhận diện các loại hình kiến trúc gỗ Việt Nam qua bố cục không gian, tổ chức mặt bằng, cấu trúc mái và kết cấu khung gỗ
Một lần, tôi có dịp đón những người bạn KTS từ Đức đến Việt Nam nghiên cứu và học tập về kiến trúc truyền thống địa phương. Sau buổi tham quan nhà cổ, đền – chùa – miếu khắp Sài Gòn – Chợ Lớn, hầu hết các bạn trời Âu đều tấm tắc: “Wonderful Chinese Style houses”… Câu nói cửa miệng bỗng khiến tôi giật mình. Thì ra những kiến trúc gỗ cổ truyền của Việt Nam và các nước Đông Á đều được các bạn phương Tây đặt chung cho một cái tên như vậy.
Cái cảm giác “na ná giống nhau” này không chỉ ở kiến trúc giữa hai quốc gia, mà chính người Việt cũng không dễ phân biệt sự khác nhau của kiến trúc gỗ Việt Nam giữa các vùng miền…
Chỉ cần suy xét trên khía cạnh khí hậu thổ nhưỡng, Trung Quốc – Bắc Kinh có khí hậu ôn đới, với mùa đông lạnh giá và hằng năm có tuyết bao phủ. Trong khi đó, Việt Nam thuộc nền văn minh sông nước, khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm – mưa cũng nhiều, kèm theo là hạn hán, bão lũ thường xuyên. Không những thế, điều kiện tự nhiên ở Việt Nam cũng có thể được chia ra 3 vùng khí hậu rõ rệt Bắc – Trung – Nam với tầng nhiệt khác nhau, kiểu gió mùa khác nhau, địa hình sông núi khác nhau… Những đặc điểm đó thôi hẳn nhiên sẽ tạo nên hai phong cách kiến trúc có nhiều khác biệt giữa hai quốc gia, và những sắc thái khác nhau giữa kiến trúc các vùng miền của Việt Nam.
Trong giới hạn bài viết, Tác giả sẽ phân tích các đặc điểm cơ bản để nhận diện và phân biệt sự khác nhau giữa kiến trúc gỗ cổ truyền của hai nước, và các biến thể của kiến trúc gỗ giữa các vùng miền của nước ta, qua đó có thể thấy được Kiến trúc gỗ Việt Nam vô cùng đa dạng và cũng đầy bản sắc.
Bố cục không gian kiến trúc
Về bố cục không gian, Ngôi nhà của người Trung Quốc, đặc biệt là ở Bắc Kinh thường được bố cục quây quần theo kiểu “Tứ hợp viện” (Siheyuan). Tứ hợp viện gồm các nếp nhà xếp vuông vắn bao quanh một sân trong, được kết nối bằng hành lang, nếp nhà chính thường ở phía Bắc, cổng vào chếch hướng Đông Nam (hướng Tốn) và những vòm cửa thông nối các khoảng sân với nhau. Tùy vào quy mô mà nhà có thể có 1, 2, 3,… sân trong (nhất tiến, nhị tiến, tam tiến tứ hợp viện) và nhiều lớp cổng vào khác nhau… Tất cả thể hiện rõ nét các quan niệm Phong thủy nghiêm ngặt, tôn ti trật tự và quyền quý trong lối nghĩ của người Trung Hoa, và đặc biệt cái sân trong kín đáo giúp giữ nhiệt cho ngôi nhà trong các điều kiện thời tiết lạnh giá của phương Bắc. Hình thức sân trong vuông hay dài, rộng hay hẹp sẽ tùy vào mức độ thời tiết nóng – lạnh thay đổi ở mỗi vùng miền khác nhau của Trung Quốc. Ví dụ vùng phía Nam thời tiết cận nhiệt đới nên sân trong có xu hướng mở rộng hơn, tường bao cũng có thể mở thêm cửa cho thông thoáng; trong khi ở phía Tây khí hậu nóng thì các khối nhà có xu hướng trải dài theo hướng Đông – Tây để tránh nắng nóng về chiều.
|
Hình 1,2,3 – Một số dạng bố cục điển hình của Tứ hợp viện – Nguồn: Internet |
|
Hình 4,5 – Sân trong, hành lang kết nối cổng và các nếp nhà (Di hòa Viên) – (Nguồn: Tác giả) |
Trong khi đó, Nhà truyền thống của người Việt không xoay quanh một sân trong như vậy, mà chủ yếu là một nếp nhà chính ở trung tâm và các dãy nhà ngang, nhà kho hai bên. Phía trước nhà chính là khoảng sân rộng và thoáng, và bao quanh là vườn tược, cây trái, ao hồ. Ngôi nhà về cơ bản không “đóng khung” trong 4 bức tường, mà mở ra những không gian thoáng rộng để thu nạp bầu không khí xanh mát, giải tỏa cái nắng mùa hè.
|
Hình 6,7 – Bố cục một ngôi nhà ở điển hình vùng ĐBBB – Hình ảnh một ngôi nhà điển hình Làng cổ Đường Lâm (Nhà ông Huyến). (Nguồn: Hình vẽ – [1]; Hình chụp – Tác giả) |
|
Hình 8,9: Bố cục của một nhà vườn điển hình xứ Huế – (Nguồn: Hình vẽ: [2], Hình chụp: Tác giả – Nhà ông Tế, Làng cổ Phước Tích) |
Không chỉ đúng đối với Nhà ở của thường dân, những hệ thống kiến trúc quy mô lớn khác như Dinh thự, Cung điện,… cũng tuân theo các quy tắc bố cục này, với quy mô lớn hơn. Trong Cố cung Bắc Kinh, hệ thống cung phòng là tập hợp của những Tứ hợp viện gộp lại, được ngăn cách bởi những bức tường kín kẽ, biệt lập. Trong khi đó, hệ thống cung điện của Kinh thành Huế là tập hợp của những cung phòng tách rời, được chia cách bởi những khoảng xanh xen giữa.
|
Hình 10 – Cố cung Bắc Kinh là tập hợp của những ‘Tứ hợp viện” trùng điệp nối tiếp nhau… (Nguồn: Internet) |
|
Hình 11,12 – Trong khi Cung điện Huế vẫn là những nếp nhà độc lập đan xen giữa cây xanh – mặt nước. (Nguồn: internet) |
Tổ chức mặt bằng ngôi nhà
Về tổ chức mặt bằng, kiến trúc Trung Quốc đa phần làm nhà hình chữ Nhất, tức là một mặt bằng hình chữ nhật, chia thành nhiều gian theo chiều ngang, lối vào chính ở gian giữa, được bao che bằng một bộ mái dốc về 4 phía. Kiểu làm nhà này giúp tuyết vương trên mái nhà có thể dễ dàng rơi xuống mặt đất mà không làm nặng thêm cho bộ mái. Với kiểu nhà này, khi có nhu cầu tạo lập không gian lớn hơn thì người Trung Quốc có xu hướng mở rộng số gian theo chiều ngang nhà, nâng tầng, hoặc đưa tỉ lệ ngôi nhà lớn hơn. Cũng vì lẽ đó mà kiến trúc Trung Quốc ngày càng cao lớn và đồ sộ.
|
Hình 13,14 – Mặt bằng điển hình – Điện Thái Hòa Bắc Kinh. (Nguồn: Internet) |
Trong khi đó, cách tổ chức mặt bằng của một nếp nhà người Việt thì đa dạng kiểu dáng hơn, với hình dạng chữ Nhất, Nhị, Tam, chữ Đinh, chữ Công, Nội công ngoại Quốc,… thịnh hành ở miền Bắc, dạng “Nhà kép” trùng thiềm điệp ốc thịnh hành ở miền Trung, hay dạng nhà “Xếp đọi” với nhiều nếp nhà xếp dọc liên hoàn từ trước ra sau phổ biến ở vùng Nam Bộ. Các cách bố trí này cho phép mở rộng và phát triển không gian theo chiều sâu nhà thay vì chiều ngang. Theo đó, các bộ mái cũng được nối ghép linh hoạt hơn, tạo ra các dốc mái đan xen hay rãnh thoát nước mưa giữa các bộ mái. Sở dĩ người Việt lựa chọn mở rộng lòng nhà theo chiều sâu là vì nước ta có lượng nhiệt và giờ nắng rất cao, nên không gian lòng nhà là nơi mát mẻ, dễ chịu hơn so với các không gian kế cận ngoài trời. Cũng vì trên thì nắng đè, dưới thì lũ quét, giõ bão vần vũ nên những ngôi nhà người Việt đa phần vẫn cứ “thấp tè tè” như lời mô tả của cụ Nguyễn Khuyến là vậy.
|
Hình 15 – Một số kiểu mái thịnh hành ở miền Bắc. (Nguồn: Tác giả) |
|
Hình 16,17 – Chùa Tây Phương (Chữ Tam) và Khải Thánh Điện, Văn Miếu Quốc Tử Giám (Chữ Công). (Nguồn: Tác giả) |
|
Hình 18,19 – Kiến trúc Điện Thái Hòa, Huế với mặt bằng dạng Nhà kép – Trùng thiềm điệp ốc. (Nguồn: Tác giả) |
|
Hình 20,21 – Đình Bình Thủy, Cần Thơ – Đặc trưng kiểu nhà Xếp đọi Nam Bộ (Nguồn: Internet) |
Cấu trúc mái
Một trong những đặc điểm dễ nhận dạng nhất của kiến trúc Trung Quốc và kiến trúc Việt Nam là ở “cấu trúc bộ mái”. Ngoài những dạng mái chung của 2 quốc gia như mái tường hồi, mái khu đĩ, mái 2 tầng có diềm mái, thì hệ mái Trung Quốc còn thịnh hành thêm các kiểu mái 4 dốc (không có khu đĩ), mái chóp, mái hình nón, mái nóc bằng. Trong đó, kiểu mái 4 dốc là kiểu mái đặc trưng, thường được sử dụng cho những kiến trúc quan trọng nhất.
|
Hình 22 – Một số kiểu mái thịnh hành ở Trung Quốc. (Nguồn: Sưu tầm) |
Và dù ở kiểu dáng mái nào thì người Trung Quốc cũng đều tạo hình “Dốc mái cong thoải” từ đỉnh mái đến chân mái. Có thể lý giải cách tạo hình này một phần sẽ giúp gia tăng độ dốc đến đỉnh mái, tạo điều kiện để tuyết có thể dễ dàng trượt khỏi mặt mái vào mùa đông.
|
Hình 23 – Ngoại triều tam điện với kiểu mái 4 dốc (Thái Hòa), mái chóp (Trung Hòa), mái khu đĩ (Bảo Hòa) – dốc mái cong thoải. (Nguồn: Internet) |
|
Hình 24,25 – Điện Kỳ Niên và Hoàn Cung Vũ, Thiên Đàn Bắc Kinh – Mái hình nón. (Nguồn: Tác giả) |
Ngược lại, cấu trúc mái của Việt Nam chỉ thịnh hành 2 kiểu mái là mái khu đĩ, mái tường hồi bít đốc và những biến thể của nó. Khác với Trung Quốc, mái của người Việt có dốc mái thẳng, để cho cầu kỳ hơn thì các góc chân mái được tạo hình cong vút lên như đầu đao, mũi thuyền. Cách tạo hình này rất độc đáo, không chỉ cho cảm giác bộ mái trở nên nhẹ nhàng (vì tỉ lệ mặt mái rất lớn so với toàn mặt đứng, có khi chiếm đến 2/3 chiều cao công trình), mà còn tạo nên “hình tượng con thuyền” với những mái chèo đang lướt trên sông trước những gợn sóng lăn tăn. Kiểu tạo hình vô cùng đặc sắc này là sản phẩm riêng có của nền văn minh lúa nước Phương Nam.
|
Hình 26,27 – Mái tường hồi bít đốc (Tả vu Khải Thánh điện) và Mái khu đĩ (Đình làng Chu Quyến) – Hai kiểu mái đặc trưng của kiến trúc Bắc Bộ. (Nguồn: Bích Hoàn) |
|
Hình 28,29 – Đình Bảng, Mái đầu đao, hình tượng con thuyền – kiến tạo đặc sắc của nền văn minh lúa nước. (Nguồn: Sưu tầm) |
Ngoài ra, Bộ mái người Việt khi mở rộng vào Đàng Trong thì còn được cải biến thành kiểu mái khu đĩ với bờ mái thẳng không uốn cong đầu đao, hay kiểu mái bánh ú (bờ nóc ngắn) là kết quả của việc mở rộng lòng nhà, tạo thành mặt bằng nhà gần vuông. Kiểu mái bánh ú này thịnh hành chủ yếu ở xứ Nam Bộ.
|
Hình 30- Chính tẩm Lăng Minh Mạng – Bờ mái thẳng; nhưng bờ nóc, bờ quyết đắp Rồng uốn cong vẫn tạo cảm giác mái cong nhẹ nhàng. (Nguồn: Tác giả) |
|
Hình 31,32 – Chùa Giác Viên, Sài Gòn – Bờ nóc ngắn do lòng nhà rộng. (Nguồn: Tác giả, Võ Văn Tường) |
Với các quy định nghiêm ngặt hạn chế quy mô và hình thức xây dựng nhà cửa thời Phong Kiến, những ngôi Nhà ở dân gian, hay được gọi bằng cái tên thân thuộc “Nhà ba gian” cũng có những biến thể thú vị của nó để phục vụ cho nhu cầu sống ngày càng cao của mỗi gia đình.
Từ quy định nhà dân không được làm nhà quá 3 gian, ông cha ta đã biến chuyển từ nhà ba gian thành kiểu nhà 3 gian 2 chái, 3 gian 2 chái kép (chái nhà có 2 gian), nhà kép (Nhà vỏ cua, mở rộng thêm không gian tiền sảnh thành một nếp nhà mới), hay kiểu Nhà lầu ở những khu phố thị. Đây có thể xem là cách “lách luật” thú vị để mở rộng không gian sống của những người có điều kiện.
|
Hình 33 – Các biến thể của Nhà ba gian miền Trung và Nam bộ. (Hình ảnh và bảng biểu: Tác giả, Hình vẽ: [3]) |
#2
57
Vàng quan điểm
Kết cấu bộ khung gỗ
Đặc biệt, tạo hình của bộ khung gỗ cũng chính là điểm nhận diện đặc trưng giữa kiến trúc Trung Quốc và Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm hình thành và điều chỉnh, hai quốc gia đã tự tạo ra cho mình những bộ khung gỗ đặc trưng. Thoạt nhìn, ta cảm thấy hai bộ khung gỗ cũng giống nhau vì cùng được chia thành từng hàng cột từ trong ra ngoài, tạo thành các gian nhà đối xứng, cùng được lắp ghép bằng các liên kết mộng – chốt, và đều được gọi chung là kiểu Kết cấu “chồng rường”, các thanh rường chồng lên nhau để cùng đỡ cho hệ đòn tay giữ bộ mái.
Tuy nhiên, hệ kết cấu gỗ của Trung Quốc được định hình rõ nét bằng hệ “Chồng rường – Đấu củng” với những Đấu củng vươn dài từ đầu cột ra hai bên để đỡ cho hệ mái và mái đua hàng hiên. Với kết cấu bộ khung gỗ vươn cao bề thế, hệ Đấu củng cũng được vươn xa không ngừng, và có thể được tạo hình và chịu lực cả hai phương dọc và ngang nhà.
gược lại, bộ kết cấu gỗ người Việt thường không vươn cao mà thấp đậm hơn. Về nguyên lý làm việc, hệ vì kèo nóc (Vì nóc) giữa đỉnh mái cũng là hệ vì Chồng rường tương tự như hệ vì nóc Trung Quốc. Tuy nhiên, thay vì sử dụng hệ Đấu củng, vì kèo các hàng cột ngoài của Việt Nam sử dụng hệ Vì nách mô phỏng lại hệ vì nóc, và hệ Kẻ truyền, Bẩy chạy dọc theo dốc mái để tận dụng tối đa chiều cao thông thủy của lòng nhà. Tùy vào quy mô của công trình, số hàng cột mà ông cha ta có thể phối hợp các hệ vì nào cho phù hợp.
Dưới đây là minh họa một số hệ kết cấu khung gỗ phổ biến và mô tả của chúng:
Như vậy, bộ khung gỗ Việt Nam nhìn chung thấp bé, vừa với tỉ lệ con người, và các bộ vì được chuyển đổi, sắp xếp linh hoạt tùy nhu cầu sử dụng chứ không theo một công thức cố định.
Ngoài ra, bộ Vì nóc Việt Nam cũng được chuyển đổi với nhiều biến thể đa dạng từ Bắc vào Nam, tiêu biểu là các hệ vì nóc Chồng rường, Chồng rường – Giá chiêng, Chồng rường – Kẻ truyền ở miền Bắc; hệ vì nóc Chồng rường – Giả thủ, Giao nguyên ở miền Trung, và hệ vì nóc Giao nguyên – Trụ đội ở miền Trung và Nam Bộ.
Từ những tổng hợp cơ bản trên, có thể khẳng định kiến trúc gỗ cổ truyền của Việt Nam tuy nhỏ bé, khiêm tốn nhưng rất đa dạng trong loại hình và linh hoạt trong sắp đặt. Tất cả trái ngược với sự quy cũ, đồng bộ và đồ sộ trong tạo hình của kiến trúc Trung Quốc. Để thấy rằng, hai dân tộc đều giữ cho mình những bản sắc rất riêng, không thể nhầm lẫn được.
Đặc biệt, tạo hình của bộ khung gỗ cũng chính là điểm nhận diện đặc trưng giữa kiến trúc Trung Quốc và Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm hình thành và điều chỉnh, hai quốc gia đã tự tạo ra cho mình những bộ khung gỗ đặc trưng. Thoạt nhìn, ta cảm thấy hai bộ khung gỗ cũng giống nhau vì cùng được chia thành từng hàng cột từ trong ra ngoài, tạo thành các gian nhà đối xứng, cùng được lắp ghép bằng các liên kết mộng – chốt, và đều được gọi chung là kiểu Kết cấu “chồng rường”, các thanh rường chồng lên nhau để cùng đỡ cho hệ đòn tay giữ bộ mái.
Tuy nhiên, hệ kết cấu gỗ của Trung Quốc được định hình rõ nét bằng hệ “Chồng rường – Đấu củng” với những Đấu củng vươn dài từ đầu cột ra hai bên để đỡ cho hệ mái và mái đua hàng hiên. Với kết cấu bộ khung gỗ vươn cao bề thế, hệ Đấu củng cũng được vươn xa không ngừng, và có thể được tạo hình và chịu lực cả hai phương dọc và ngang nhà.
|
Hình 34,35 – Kết cấu gỗ Chồng rường – Đấu củng, với hệ đấu củng vươn dài đỡ bộ mái. (Nguồn: Sưu tầm) |
|
Hình 36,37 – Kết cấu tiêu biểu của bộ khung gỗ mái 1 tầng và 2 tầng của Trung Quốc. (Nguồn: Sưu tầm) |
|
Hình 38 – Kết cấu hệ Đấu củng và hệ Rui – Mè dày đặc, màu sắc là tiêu biểu của kiến trúc Cung Đình Trung Quốc. (Nguồn: Tác giả) |
gược lại, bộ kết cấu gỗ người Việt thường không vươn cao mà thấp đậm hơn. Về nguyên lý làm việc, hệ vì kèo nóc (Vì nóc) giữa đỉnh mái cũng là hệ vì Chồng rường tương tự như hệ vì nóc Trung Quốc. Tuy nhiên, thay vì sử dụng hệ Đấu củng, vì kèo các hàng cột ngoài của Việt Nam sử dụng hệ Vì nách mô phỏng lại hệ vì nóc, và hệ Kẻ truyền, Bẩy chạy dọc theo dốc mái để tận dụng tối đa chiều cao thông thủy của lòng nhà. Tùy vào quy mô của công trình, số hàng cột mà ông cha ta có thể phối hợp các hệ vì nào cho phù hợp.
Dưới đây là minh họa một số hệ kết cấu khung gỗ phổ biến và mô tả của chúng:
|
Kiểu 1: Vì nóc – Vì nách – Kẻ truyền – Đầu kẻ (hoặc Bẩy). Vì nách thường là mô phỏng kiểu dáng của vì nóc. Hình: Đình làng Chu Quyến. (Nguồn: Sưu tầm) |
|
Kiểu 2: Vì nóc – Kẻ truyền – Đầu kẻ (hoặc Bẩy). Không sử dụng vì nách. (Nguồn: Hình vẽ: Sưu tầm, hình chụp:Tác giả) |
|
Kiểu 3: Vì nóc – Vì nách – Bẩy. Không sử dụng kẻ truyền (Chùa Keo). (Nguồn:Sưu tầm) |
|
Kiểu 4: Vì kèo mái 2 tầng. Hình: Chùa Kim Liên, Hà Nội. (Nguồn: Sưu tầm) |
|
Kiểu 5: Hệ vì kèo Nhà kép, hai khung nhà nối nhau bằng trần Thừa lưu. (Nguồn: Tác giả) |
|
Kiểu 6: Vì nóc – Các hệ kẻ truyền (kẻ ngồi) nối tiếp đến cột hiên (Đình làng Lại Thế, Huế). (Nguồn: Hình vẽ: [3], Ảnh: Tác giả) |
Như vậy, bộ khung gỗ Việt Nam nhìn chung thấp bé, vừa với tỉ lệ con người, và các bộ vì được chuyển đổi, sắp xếp linh hoạt tùy nhu cầu sử dụng chứ không theo một công thức cố định.
Ngoài ra, bộ Vì nóc Việt Nam cũng được chuyển đổi với nhiều biến thể đa dạng từ Bắc vào Nam, tiêu biểu là các hệ vì nóc Chồng rường, Chồng rường – Giá chiêng, Chồng rường – Kẻ truyền ở miền Bắc; hệ vì nóc Chồng rường – Giả thủ, Giao nguyên ở miền Trung, và hệ vì nóc Giao nguyên – Trụ đội ở miền Trung và Nam Bộ.
|
Hình 45 – Một số hệ Vì nóc phổ biến trong kiến trúc gỗ Việt Nam. (Nguồn: Sưu tầm) |
|
Hình 46 – Một số hệ Vì nóc phổ biến trong kiến trúc gỗ Việt Nam. (Nguồn: Tác giả) |
Từ những tổng hợp cơ bản trên, có thể khẳng định kiến trúc gỗ cổ truyền của Việt Nam tuy nhỏ bé, khiêm tốn nhưng rất đa dạng trong loại hình và linh hoạt trong sắp đặt. Tất cả trái ngược với sự quy cũ, đồng bộ và đồ sộ trong tạo hình của kiến trúc Trung Quốc. Để thấy rằng, hai dân tộc đều giữ cho mình những bản sắc rất riêng, không thể nhầm lẫn được.
Nhận xét
Đăng nhận xét