TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC - TRƯỜNG MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG


Đại học Kiến trúc Sài Gòn

Đăng ngày: 03:55 23-03-2010
http://tmddesign.multiply.com/journal?&=&page_start=0
http://tmddesign.wordpress.com/
http://xaydungqh.blogspot.com/2008/08/c-rt-nhiu-kiu-hn-m-c-th-bn-cha-tng-mng.html
Duong Manh Tien KT 70
Nhìn lại lịch sử đại học Kiến trúc Sài Gòn qua ảnh.
Trong một lần tham quan trường đại học Kiến trúc thành phố Hồ chí Minh tôi được bàn bè kể khá nhiều về lịch sử phát triển của trường -nhiều ý kiến trái ngược nhau. Thời gian gần đây qua trao đổi với bạn bè chúng tôi đã dành nhiều thời gian nghiên cứu và quyết định chuyển một phần qua blogkientruc.com chia sẻ cùng các bạn



Ban Kiến trúc thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương

  • Năm 1926: Một ban đặc biệt về kiến trúc được mở thêm trong phạm vi trường Mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội (N.Đ. 1-10-1926).
  • Năm 1942: Ban Kiến trúc thuộc trường Cao đẳng Mỹ thuật trường Mỹ thuật Đông Đương được chia làm 2 mảng riêng biệt:
    • Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
    • Trường Mỹ nghệ Thực hành Hà Nội
      Ban Kiến trúc thuộc trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (N.Đ. 22-10-1942).

Trường Kiến trúc thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương

  • Năm 1944: Ban Kiến trúc được nâng lên thành Trường Kiến trúc và vẫn nằm trong phạm vi Trường Cao đẳng Mỹ thuật (N.Đ. 22-2-1944).
Để tránh hiểm họa chiến tranh, Trường Kiến trúc được di chuyển vào Đà Lạt.
  • Năm 1945: Chính phủ Pháp công nhận văn bằng Kiến trúc sư của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương có giá trị để hành nghề tại PhápĐông Dương (N.Đ. 6-2-1945).
Sau khi dời vào Đà Lạt được mấy tháng, vì thời cuộc, Trường Kiến trúc phải ngưng hoạt động.
  • Năm 1947: Trường Kiến trúc Đông Đương, sau mấy niên học ngưng hoạt động được mở lại tại Đà Lạt kể từ ngày 1 tháng 2 năm 1949.

Trường Kiến trúc thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris

  • Năm 1948: Được coi là một trường kiến trúc địa phương của Pháp. Trường Kiến trúc tại Đà Lạt phải chịu lệ thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris về chương trình áp dụng, hệ thống kiểm soát, thi cử, cấp văn bằng (N.Đ. 6-9-1948).

Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt

  • Năm 1948: Cuối năm 1948, Trường Kiến trúc tại Đà Lạt được nhập về Viện Đại học Đông Dương và được nâng lên hàng trường cao đẳng. Kể từ đây Trường Cao đẳng Kiến trúc tách riêng ra khỏi các Trường Cao đẳng Mỹ thuật nhưng vẫn giữ một thể lệ như một trường địa phương thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris.

Trường Cao đẳng Kiến trúc Sài Gòn

  • Năm 1950: Cuối năm 1950, Trường Cao đẳng Kiến trúc được chuyển từ Đà Lạt về Sài Gòn.
  • Năm 1954 và về sau: Theo Hiệp định Genève, Viện Đại học Hà Nội chuyển thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam và sau cùng lấy danh hiệu là Viện Đại học Sài Gòn.Trường mở thêm Ban thiết kế đô thị, thời gian đào tạo là 2 năm và Ban cán sự Kiến trúc thời gian đào tạo là 3 năm .
    Trường Cao đẳng Kiến trúc thuộc Viện Đại học Sài Gòn đã mở thêm:
  1. Ban Thiết kế Đô thị (từ niên khóa 1955-1956)
  2. Ban Cán sự Kiến trúc (từ niên khóa 1958-1959)
1967: Trường cao đẳng Kiến trúc trở thành trường Đại học Kiến trúc thuộc Viện Đại học Sài gòn. Từ năm 1967 ngưng đào tạo Ban cán sự Kiến trúc
1969: Ngưng tuyển sinh vào Ban thiết kế đô thị
1972: Nghiên cứu thành lập phân khoa thị tứ.
1976: Thành lập Trường Đại học Kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh ( tên trường vẫn được duy trì tới ngày nay )
(Thông tinban cán sự trườngblogkientruc tổng hợp từ wikipedia )

Thầy Bùi quang Hanh , Phạm văn Thâng và các kiến trúc sư tương lai.
Ảnh : Bác Tmd design – chụp năm 1972 .

Giáo sư Ban Cao đẳng Kiến trúc

  • TRẦN VĂN TẢI, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
  • BÙI QUANG HANH, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
  • PHẠM VĂN THÂNG, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
  • LOUIS PINEAU, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Văn bằng Thiết kế Đô thị
  • NGUYỄN QUANG NHẠC, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
  • HUỲNH KIM MÃNG, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
  • TÔ CÔNG VĂN, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
  • VÕ DOÃN GIÁP, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • NGUYỄN BÁ LĂNG,Kiến trúc sư DPLG PARIS


Trưởng khoa thầy Phạm văn Thâng chụp ảnh cùng các sinh viên mới ra trường
Ảnh : Bác Tmd

Nhiệm giáo Ban Cao đẳng Kiến trúc
  • TRẦN VĂN BẠCH, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris
  • PHAN ĐÌNH TĂNG, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris
  • LÊ KIM ĐÍNH, Cử nhân Toán, Chứng chỉ Cao học Thiên văn Thẩm cứu (Certificat d’étude supérieures d’Astronomie approfondie)
  • NGUYỄN ĐÌNH HẢI, Tốt nghiệp Viện Anh ngữ của Đại học Michigan, Hoa Kỳ (English Language Institute, University of Michigan)
  • LÊ VĂN HỢI, Kỹ sư trường Cao đẳng Công chánh Eyrolles Paris
  • NGUYỄN VĂN KIẾT, Cử nhân Văn khoa và Văn chương Cao học
  • TRỊNH HỮU ĐỊNH, Trang trí gia tốt nghiệp Truờng Quốc gia Cao đẳng Trang trí Paris
  • VÕ ĐỨC DIỂN, Kỹ sư Trường Bách khoa Montréal
  • NGÔ KHẮC TRĂM, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • NGUYỄN HỮU THIỆN, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • PHẠM MINH CẢNH, Kỹ sư tốt nghiệp Viện Kỹ thuật Normandie
  • MAI HIÊP THÀNH, Kỹ sư Công chánh
Giảng viên
  • NGUYỄN HUY,Kiến trúc sư Viện đại học SAIGON
  • VÕ ĐÌNH DIỆP,Kiến trúc sư Viện đại học SAIGON
  • NGUYỄN TRỌNG KHA,Kiến trúc sư DPLG PARIS
  • TRẦN PHONG LƯU,Kiến trúc sư Viện đại học SAIGON
  • CỔ VĂN HẬU,Kiến trúc sư Viện đại học SAIGON
  • KHƯƠNG VĂN MƯỜI,Kiến trúc sư Viện đại học SAIGON
  • HỒ THIỆU TRỊ,Kiến trúc sư Viện đại học SAIGON
Giáo sư Ban Thiết kế Đô thị
  • LÊ VĂN LẮM, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Văn bằng Thiết kế Đô thị
  • HUỲNH KIM MÃNG, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
  • TRẦN PHI HÙNG, Kiến trúc sư Viện Đại học Sài Gòn, Master of Regional Planing (Hoa Kỳ)
Giáo sư Ban Cán sự Kiến trúc
  • NGUYỄN HỮU THIỆN, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • VŨ ĐÌNH HÓA, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • NGUYỄN VĂN ĐỨC, Kỹ sư Công chánh Đông Dương
  • NGUYỄN ĐĂNG LINH, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • LÊ VĂN HỢI, Kỹ sư Trường Cao đẳng Công chánh Eyrolles Paris
  • NGUYẼN VĂN LONG, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • NGUYỄN VĂN ANH, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • ĐAN HOÀI NGỌC, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • NGÔ KHẮC TRĂM, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
  • ĐỖ BÁ VINH, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt, Chứng chỉ Kiến trúc Nhiệt đới (London)

H/a hai sinh viên trên nóc trường ddh Kiến Trúc SG
Ảnh :Bác Tmd Design:”
hình như lúc đó mới xong tầng phòng chấm bài, nên cột sắt vẫn còn chờ lên tiếp những tửng trên, hình như lúc đó là năm 73



Thầy Thâng và sinh viên Tiến ( với đồ án tốt nghiệp )

Một vài dòng nhật ký hồi bác Tmd còn là sinh viên trường đại học Sài Gòn :
“Một buổi tối đầu năm 76, sau khi hẹn trước với thầy Thâng, tôi và mẹ đến thăm thầy cô và gia dình tại nhà, biệt thự số 3 đường Hồ xuân Hương, gần ra góc Bà Huyện Thanh Quan. Bước vào nhà, còn đi qua chiếc xe sport Ford Mustang của thầy. Mẹ tôi muốn đích thân đến nói lời cám ơn thầy, vì bà có 2 người con trai tốt nghiệp kts, mà thầy Thâng là Giáo sư hướng dẫn đồ án ra trường cho cả hai, buổi tối đó, thầy giới thiệu cô và toàn gia đình.
Lần đầu tiên đến nhà thầy là vào năm 75, nhờ thầy ký tên trên esquisse đồ án tốt nghiệp, nhưng lần đó, không làm bài ra trường.
Lúc đậu vào trường năm thứ nhất, 70, thầy Thâng bắt đầu nhiệm kỳ Khoa Trưởng 4 năm, năm đó thầy dậy năm thứ nhất, bài nói chuyện lần đầu của thầy tới tên cốt đột 17 tuổi, giờ vẫn còn nhớ.
“Tụi bay, nếu muốn làm kts thì phải ráng giữ hai cái : con mắt để dòm, và những ngón tay để vẽ .. và phải chú tâm tới chuyện mình làm, thầy kể : ở dưới quê thầy, hồi còn nhỏ, thầy biết có một thằng bắn ná thun rất giỏi, bắn đâu trúng đó .. thầy tìm ra là : tên đó chỉ tập bắn ná thun vào ban đêm, thắp một nén nhang lên, trong đêm tối chỉ thấy đốm đỏ để bắn .. cho nên ban ngày, khi bắn, tên đó chỉ nhi thấy mục tiêu mà không bị chia phối bởi cảnh vật chung quanh ..”

Bản vẽ tay năm thứ nhất tương đương với đồ án số 1 bây giờ


Tấm hình khi bác Tmd qua Mỹ học ở trường đại học Oregon

Kiến trúc năm nhất – giờ học họa thất -1970
“Xưởng họa thất 4, trường đại học kiến trúc, nay không còn nữa. Tôi thích ngôi nhà này, thông thoáng trên dưới hai từng, ánh sáng tràn lan, mở rộng 4 mặt. Trong hình trên, có: Trần ngọc Lâm, Trương thanh Vàng, Dương mạnh Tiến, Nguyễn ngọc Dziễm, Nguyễn tri Kiệm, Trầm xuân Hiếu, Phạm minh Toàn ..”

Bài thiết kế nhanh : ” Nhà trú ẩn trong công viên “



Bữa ăn trưa tập thể của sinh viên kiến trúc khóa 1970 quán chú Năm sau trường .


Ảnh : Hoàng văn Phố k69
“Không biết anh Phố mượn bài năm thứ nhất của Tâm như thế nào mà chắc hơn 40 năm sau, mới lên Biên Hòa làm lễ trao trả kỷ vật này rất long trọng. Còn giữ được bài năm thứ nhất là cho vô viện bảo tàng trường đại học KT SG được rồi.”
KTS DMT
Thời gian trôi qua biết bao thế hệ sinh viên đã được đào tạo nơi đây để trở thành những người đi xây tương lai .Người còn người đã xa , nhưng gặp nhau họ vẫn như những sinh viên ngày nào nhiệt huyết và cháy bỏng .Đây cũng chính là lời kết ban quản trị blogkientruc muốn gửi tới các bạn .
--------------
Trường Đại học Kiến trúc TP. HCM được hình thành từ năm 1976 trên cơ sở của trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn ( thành lập 1951 do tách ra từ Khoa Kiến trúc của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương 1927), được tổ chức lại qua từng thời kỳ và qua từng giai đoạn phát triển:
  • 1976 đến 1995 trường ĐHKT TP. HCM trực thuộc Bộ Xây Dựng.
  • 06/ 1996 đến 10/ 2000 là thành viên của ĐHQG TP.HCM.
  • 10/2000 đến 03/2003 trực thuộc Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
  • Từ 04/ 2003 thuộc Bộ Xây Dựng.

Qua nhiều lần thay đổi cơ quan chủ quản, hiện nay trường Đại học Kiến trúc TP.HCM đã ổn định cơ cấu tổ chức hợp lý từng bước được đầu tư xây dựng trở thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học để cung cấp nguồn nhân lực thuộc lĩnh vực Kiến trúc – Xây dựng – Mỹ thuật công nghiệp có trình độ cao phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa ở các tỉnh phía Nam. Nằm trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam , trường Đại học Kiến trúc Tp.HCM là một trường Đại học công lập có quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Đào tạo trình độ đại học với 5 chuyên ngành Kiến trúc, qui hoạch đô thị, xây dựng, Mỹ thuật công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị. Đào tạo trình độ sau đại học bao gồm Thạc sĩ, Tiến sĩ với các chuyên ngành kiến trúc và quy hoạch đô thị. Đào tạo Đại học hệ không chính quy một số ngành thích hợp tại các địa phương Vĩnh Long, Lâm Đồng, Thủ Đức và Long An. Ngoài đào tạo nguồn nhân lực theo các lĩnh vực chuyên môn, trường còn tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất phục vụ các yêu cầu của xã hội, tăng cường liên kết, hợp tác với các trường đại học trong nước và trên thế giới. Với quy mô đào tạo gần 3800 sinh viên bậc Đại học hệ chính quy và hơn 1000 sinh viên không chính quy, hiện nay mỗi năm trường cung cấp cho xã hội khoảng 500 sinh viên tốt nghiệp các ngành kiến trúc, quy hoạch đô thị, xây dựng và mỹ thuật công nghiệp.Trong tương lai gần, một số chuyên nghành cần được mở rộng, phát triển nhằm đa dạng hoá loại hình đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực cho nhu cầu phát triển như :thiết kế nội thất, thiết kế cảnh quan, kinh tế xây dựng và môi trường đô thị. Với những nỗ lực và phấn đấu không ngừng, đại học kiến trúc TP.HCM mong muốn trở thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học có uy tín trong nước và khu vực.

VÀI NÉT LỊCH SỬ TIỀN THÂN CỦA ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP. HCM
1926
Ban Kiến trúc thuộc trường Mỹ thuật Đông Dương
(Ecole des Beaux Arts) tại Hà Nội
1942
Ban Kiến trúc thuộc trường Cao đẳng Mỹ thuật
1944
Trường Kiến trúc thuộc Cao đẳng Mỹ thuật,
di chuyển từ Hà Nội vào Đà Lạt
1945
 Văn bằng Kiến trúc sư của Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
được công nhận có giá trị hành nghề tại Pháp và Đông Dương.
1945
Ngưng hoạt động do chiến tranh
1947
Hoạt động trở lại từ 01/02/1947.
1948
Trường Cao đẳng Kiến trúc tách khỏi Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương nhưng quy chế, văn bằng... như là Trường địa phương thuộc trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
1950
Trường Cao đẳng Kiến trúc không trực thuộc vào Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris . Cuối năm 1950 Trường cao đẳng Kiến trúc chuyển từ Đà Lạt về Sài gòn.
1954
Trường Cao đẳng Kiến trúc trực thuộc Viện Đại học Sài gòn. Trường mở thêm Ban thiết kế đô thị, thời gian đào tạo là 2 năm và Ban cán sự Kiến trúc thời gian đào tạo là 3 năm.
1967
Trường cao đẳng Kiến trúc trở thành trường Đại học Kiến trúc thuộc Viện Đại học Sài gòn.
Từ năm 1967 ngưng đào tạo Ban cán sự Kiến trúc.
1969
Ngưng tuyển sinh vào Ban thiết kế đô thị
1972
Nghiên cứu thành lập phân khoa thị tứ.
1976
Thành lập Trường Đại học Kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh
GIÁM ĐỐC, KHOA TRƯỞNG, HIỆU TRƯỞNG CÁC THỜI KỲ

1950-1954
Giám đốc O. Arthur Kruze. Kiến trúc sư (KTS) trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris (QGCĐMT)
1955-1966
Giám đốc Trần Văn Tải, Giáo sư, KTS trường  QGCĐMT Paris.
1967-1970
Khoa Trưởng Nguyễn Quang Nhạc, Giáo sư, KTS trường QGCĐMT Paris.
1971-1973
Khoa Trưởng Phạm Văn Thâng, Giáo sư, KTS trường QGCĐMT Paris.
1974-1975
Khoa Trưởng Tô Công Vân, Giáo sư, KTS trường QGCĐMT Paris.
1976-1978
Hiệu Trưởng Trương Tùng, PGS, Phó Tiến sĩ, KTS trường ĐH Kiến trúc Moscow .
1979-1995
Hiệu trưởng Mai Hà San, PGS, Kỹ sư trường ĐH Bách khoa Hà Nội.
1995-2005
Hiệu trưởng Hoàng Như Tấn, KTS trường ĐH Xây dựng Hà Nội, PTS trường Đại học Kiến trúc Moscow .
  -------------

Đào tạo kiến trúc sư ở VN 50 năm giữa thế kỷ XX

KTS ĐOÀN ĐỨC THÀNH

Lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta có những biến đổi lớn lao, đặc biệt là trong 50 năm giữa thế kỷ XX (1925-1975). Vào thời điểm này, lần đầu tiên ở nước ta đã đào tạo kiến trúc sư thế hệ đầu tiên và cũng trải qua những bước thăng trầm nhất trong quá trình hình thành và phát triển giới nghề. Bài viết này nêu lên quá trình đào tạo kiến trúc sư ở nước ta trong các giai đoạn với những biến đổi nhiều nhất, trước khi được ổn định và phát triển mạnh mẽ đông đảo như ngày nay.

Giai đoạn tiền Cách mạng (1925- 1945)
Kiến trúc truyền thống nước ta dù rộng lớn như mái đình, mái chùa hay nhỏ như ngôi nhà ở ba gian cũng xây dựng theo cây thước tầm của bác thợ cả. Từ bao đời nay ông cha ta vẫn xây dựng theo phương cách ấy. Phải đến năm 1925, khi hoạ sĩ người Pháp Victor Tardieu (1876-1937) sáng lập và là Hiệu trưởng đầu tiên Trường Mỹ thuật Đông Dương, đào tạo kiến trúc sư (Khoa Kiến trúc được thành lập thêo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 1-10-1926) với phong cách nghệ sĩ thiên về nghệ thuật sáng tạo, thì đến năm 1931 nước ta lần đầu tiên mới có kiến trúc sư người Việt Nam và công trình bắt đầu được xây dựng theo bản vẽ trên giấy do kiến trúc sư nước ta vẽ. Từ ấy nội dung và hình thức công trình bắt đầu phong phú hơn, đa dạng hơn, kiến trúc ở nước ta thực sự sang một trang mới. Có thể coi đây là khởi điểm của kiến trúc hiện đại Việt Nam.
Trong 20 năm - từ 1925 đến 1945 - Trường Mỹ thuật Đông Dương đã đào tạo tốt nghiệp được 11 khoá kiến trúc sư, với trên 50 kiến trúc sư. Danh tính kiến trúc sư trong thời gian này như sau:
Theo nhà nghiên cứu kiến trúc Christian Pedelahore de Loddis (Pháp), cuốn 40 năm và cuốn 45 năm truyền thống đào tạo của Trường đại học Kiến trúc Hà Nội thống kê thời gian này có 29 kiến trúc sư. Khoá 1925-1930: Nguyễn Xuân Phương, Lê Quang Tỉnh; 1926-1931: Nguyễn Văn Ninh, Nguyễn Tường Tam (tức nhà văn Nhất Linh); 1927-1932: Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp; 1928-1933: Trần Hữu Tiềm, Nguyễn Gia Đức; 1929-1934: Đoàn Ngọ, Bạch Văn Chụ, Phan Văn Hoá (có thể nhầm với Vũ Đình Hoá- T G); 1930- 1935: Đoàn Văn Minh, Võ Đức Diên; 1931-1936: Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Ngọc Điệp; 1932-1937: Đỗ Hữu Dư (tức Hoàng Linh), Phạm Khắc Hệ (tức Phạm Hoàng); 1934-1939: Nguyễn Ngọc Chân, Nguyễn Nghi, Tạ Mỹ Duật, Nguyễn Ngọc Ngoạn, Nguyễn Ngọc Diệm; 1938- 1943: Ngô Huy Quỳnh, Khổng Toán, Lương Tấn Khoa, Phạm Khắc Nhu (có thể nhầm với Huỳnh Văn Nhu - T G); 1940-1945: Huỳnh Soàn, Trần Văn Đường, Đỗ Bá Vinh, khoá này năm cuối làm đồ án tốt nghiệp và nhận bằng kiến trúc sư tại Đà Lạt.
Qua quá trình tìm hiểu, tôi thấy còn những kiến trúc sư sau đây tốt nghiệp trong giai đoạn này mà chưa thấy tên trong danh sách ở trên, không biết các ông học khoá nào. Xin ghi lại để gia đình các kiến trúc sư và ai có nguồn tư liệu nào khác mong được bổ sung hoặc đính chính cho rõ hơn:
KTS Phạm Quang Bình, một trong 8 kiến trúc sư đã dự Hội nghị thành lập Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam tại Việt Bắc (ngày 24 đến 27- 4- 1948) và Hội nghị Kiến trúc sư Việt Nam lần thứ II tại Hà Nội (ngày 26 đến 27- 4- 1957).
KTS Phan Nguyên Mậu, trước năm 1945 đã từng mở chung Văn phòng Kiến trúc với KTS Trần Hữu Tiềm ở Đà Lạt. Hội nghị thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam lần thứ nhất tại Việt Bắc (ngày 23 đến 25-7-1948) đã mặc niệm tưởng nhớ đến những văn nghệ sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, trong đó có hai kiến trúc sư: Huỳnh Tấn Phát và Phan Nguyên Mậu (1).
KTS Nguyễn Xuân Tùng, người từng cộng tác với KTS Nguyễn Ngọc Ngọan thiết kế chùa Quán Sứ và KTS Võ Đức Diên thiết kế nhà Thuỷ Tạ bên hồ Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Năm 1954, làn sóng dân Bắc di cư vào Nam đã xáo trộn đến giới nghề, nhiều kiến trúc sư ở trong vùng địch tạm chiếm đã rời Hà Nội vào Sài Gòn như : Võ Đức Diên, Nguyễn Gia Đức, Đỗ Bá Vinh, Vũ Đình Hoá, Đào Trọng Cương, Phạm Gia Hiến, Nguyễn Thuỵ, Nguyễn Mạnh Bảo, Bạch Văn Chụ, Vũ Bá Đính, Lê Văn Cấu, Nguyễn Đăng Linh, Ngô Khắc Trăm, Hồ Đắc Cáo, Nguyễn Khắc Siêu, Đỗ Đức Trung, Nguyễn Xuân Nghị, Phạm Khánh Chù,...(trong số này có 14 kiến trúc sư chưa có tên trong danh sách thống kê ở trên). Những kiến trúc sư này đã cùng với kiến trúc sư Sài Gòn là Huỳnh Tấn Phát, Trần Văn Đường, Huỳnh Văn Nhu, Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn Hữu Phi, Hoàng Hùng, Huỳnh Ẩn, Nguyễn Văn Nhị, Lâm Du Tốt,…(có 6 kiến trúc sư chưa ghi tên trong danh sách nêu trên) hợp lại thành lực lượng sáng tác lớn mạnh. Như vậy, tôi thống kê chưa đầy đủ thì trước Cách mạng Tháng Tám nước ta đã có 51 kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương, chứ không phải 29 kiến trúc sư như các nguồn trong và nước ngoài lâu nay.
Năm 1942, nhà điêu khắc Hiệu trưởng mới là Evariste Ronchere - người kế tục hoạ sĩ Victor Tardieu từ năm 1937- chủ trương đào tạo kiến trúc sư thực hành và hoạ sĩ sản xuất mỹ nghệ nên đã chia Trường Mỹ thuật Đông Dương làm hai trường riêng biệt: Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, trong đó có Khoa Kiến trúc và Trường Mỹ nghệ thực hành Hà Nội (Nghị định ngày 22-10-1942 của Toàn quyền Đông Dương).
Năm 1944, Khoa Kiến trúc được nâng thành Trường Kiến trúc, nhưng vẫn trực thuộc Trường cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Nghị định 22-2-1944). Nhật đảo chính Pháp nên Toàn quyền Đông Dương ra quyết định chuyển Trường Kiến trúc vào Đà Lạt.
Đầu năm 1945, Chính phủ Pháp công nhận văn bằng kiến trúc sư của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương có giá trị để hành nghề tại Pháp và Đông Dương (Nghị định 6-2-1945). Cuối năm 1945 thì nhà trường ngưng hoạt động do Nhật đảo chính Pháp, tình hình chính trị không ổn định.
Với 3 năm - từ 1942 đến 1945 - Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đào tạo 3 khoá học dở dang, có trên 20 sinh viên đang học phải nghỉ học do chiến tranh.

Giai đoạn Cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Mùa Thu năm 1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Ngay sau khi giành chính quyền, ngày 8-10-1945, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục đã ra Nghị định khai giảng Trường Mỹ thuật Việt Nam dưới chính thể nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 15-11-1945, Trường Mỹ thuật Việt Nam đã tổ chức lớp học và chiêu sinh. Khoa Kiến trúc được thành lập, các kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Văn Ninh, Hoàng Như Tiếp, Tạ Mỹ Duật,… bắt đầu chuẩn bị chương trình giảng dạy và soạn thảo giáo án đào tạo kiến trúc sư. Nhưng tình hình an ninh không bảo đảm, Lễ khai giảng phải trì hoãn nhiều lần.
Ở Đà Lạt, cuộc chiến tạm yên, chính phủ Pháp chủ trương tiếp tục cho Trường cao đẳng Kiến trúc hoạt động trở lại từ 01- 02-1947. Năm 1948, Trường Kiến trúc Đà Lạt nhập vào Viện Đại học Đông Dương và nâng lên thành hệ cao đẳng. Từ đó, Trường cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt tách riêng ra khỏi Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Tuy vậy, mọi thể lệ vẫn như một trường địa phương thuộc Trường Quốc gia cao đẳng Mỹ thuật Paris (Nghị định 6-9 -1948).
Năm 1950 ở Việt Bắc, Bộ Giao thông- Công chính thành lập Vụ Kiến trúc, tổ chức thiết kế kiến trúc đầu tiên của Nhà nước ta. Các kiến trúc sư được tập trung thành một tổ chức lớn mạnh. Từ Vụ Kiến trúc đã cử hai kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh và Hoàng Linh sang Liên Xô (cũ) tu nghiệp, đồng thời tổ chức cho các sinh viên kiến trúc học dở dang ở Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương một kỳ thi làm đồ án tốt nghiệp kiến trúc sư. Dương Hy Chấn, Đàm Trung Lãng, Đàm Trung Phường, Vương Quốc Mỹ đã được bảo vệ đồ án và được xếp ngạch kiến trúc sư. Tuy vậy cũng còn những sinh viên kiến trúc vì ở xa không có điều kiện học tiếp như Nguyễn Sanh Kha, Võ Như Tỷ, Nguyễn Văn Long. (Các ông này cũng được mời dự Hội nghị Kiến trúc sư Việt Nam lần thứ II tại Hà Nội).
Năm 1950 ở miền Nam, chính phủ Pháp quyết định Trường cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt không còn trực thuộc Trường Quốc gia cao đẳng Mỹ thuật Paris. Giám đốc mới là KTS người Pháp Arthur Kruze, ông vốn là Chủ nhiệm Khoa Kiến trúc từ thời Trường Mỹ thuật Đông Dương trước đây. Do tình hình chính trị trong nước thời gian này chưa ổn định nên rất ít sinh viên theo học, kể cả những sinh viên kiến trúc đang học dở dang. Trường phải chuyển từ Đà Lạt về Sài Gòn với tên gọị mới là Trường cao đẳng Kiến trúc Sài Gòn. Trong năm này chỉ có vài sinh viên đang học dở dang trước đây nhập học như Võ Minh Nghiệm, Nguyễn Bá Lăng,... còn hầu hết các sinh viên kiến trúc ở Sài Gòn có gia đình khá giả đều sang Pháp học tiếp ở Trường Quốc gia cao đẳng Mỹ thuật Paris, như: Nguyễn Quang Nhạc, Huỳnh Kim Mãng, Phạm Văn Thâng, Trần Văn Tải, Tô Công Văn, Bùi Quang Hanh, Lê Văn Lắm, Ngô Viết Thụ, Võ Thành Nghĩa, Nguyễn Mỹ Lộc, Nguyễn Văn Hoa, ...
Giai đoạn đất nước chia cắt hai miền Nam Bắc (1954 - 1975).
Năm 1954, Hiệp định Geneve chia đất nước làm hai miền, cách nhau bởi dòng sông Bến Hải nằm trong vĩ tuyến 17.
Ở miền Bắc, năm 1956 Trường đại học Bách khoa thành lập tại Hà Nội, ngay từ khoá đầu tiên đã chiêu sinh một lớp kiến trúc sư với 26 sinh viên. Nhưng chưa đủ điều kiện về cơ sở vật chất và giáo viên giảng dạy nên học được một học kỳ phải chuyển đổi nội dung trở về ngành xây dựng. Một số kỹ sư sau khi ra trường đã làm công việc của kiến trúc sư như Tôn Thất Đại, Nguyễn Đức Thiềm, Lê Văn Lân, Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Trần Hùng. Các anh chị đã và đang làm tốt những công việc của kiến trúc sư trong sáng tác, giảng dạy, lý luận phê bình,...
Năm 1960, KTS Nguyễn Cao Luyện, Thứ trưởng Bộ Kiến trúc và KTS Nguyễn Nghi sang Trường đại học Thanh Hoa (Bắc Kinh) và Đồng Tế (Thượng Hải), hai cơ sở đào tạo kiến trúc sư ở Trung Quốc khảo sát, nghiên cứu, tìm hiẻu về chương trình đào tạo, kinh nghiệm giảng dạy để chuẩn bị mở trường tại Việt Nam.
Năm 1961, Bộ Kiến trúc được Chính phủ cho phép mở Lớp đào tạo Kiến trúc sư, số lượng tuyển sinh năm đầu là 100 người (Quyết định số 1927 CN ngay 8-6-1961). Bộ Kiến trúc đã bổ nhiệm Ban Lãnh đạo gồm KTS Nguyễn Cao Luyện (Trưởng ban), KTS Nguyễn Nghi (Phó ban, phụ trách giáo vụ). Tháng 9-1961, khai giảng khoá I, Lớp đào tạo Kiến trúc sư tại Khoa Xây dựng thuộc Trường đại học Bách Khoa Hà Nội. Một số kiến trúc sư, hoạ sĩ trực tiếp giảng dạy từ khoá đầu như Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp, Nguyễn Nghi, Nguyễn Văn Ninh, Đoàn Văn Minh, Nguyễn Ngọc Chân, Trần Hữu Tiềm, Tạ Mỹ Duật, Đoàn Ngọ, Khổng Toán, Vương Quốc Mỹ, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đức Nùng, Lương Xuân Nhị,... (Trường Mỹ thuật Đông Dương); KTS Vũ Tam Lang, Nguyễn Kim Luyện, (Trường Thanh Hoa- Bắc Kinh)...
Tháng 10-1963, Bộ Giáo dục và Bộ Kiến trúc thống nhất chuyển Lớp đào tạo Kiến trúc sư từ Trường đại học Bách khoa về cơ sở mới ở Bãi Phúc Xá với tên gọi mới là Lớp đại học Kiến trúc trực thuộc Bộ Kiến trúc. Thời điểm này Lớp có trên 200 sinh viên hệ chính quy (khoá 1, khoá 2) và 30 sinh viên khoá 2 hệ tại chức (riêng 30 sinh viên khoá 3 thuộc về Khoa Xây dựng thuộc Trường đại học Bách khoa). Từ khoá 4 giảm xuống còn 25 sinh viên, các khoá 5, 6, 7 ổn định 40 sinh viên. Từ khoá 6 (1966) lớp Chuyên tu Kiến trúc đầu tiên ra đời. Các khoá học vào những năm cuối đều có phân ngành kiến trúc dân dụng, kiến trúc công nghiệp, quy hoạch đô thị và nông thôn. Mỗi ngành học thêm một số chuyên đề và làm đồ án tốt nghiệp.
Năm 1966, Trường đại học Xây dựng thành lập theo Quyết định số 144/CP ngày 8-8-1966 của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở Khoa Xây dựng Trường đại học Bách khoa Hà Nội. Hiệu trưởng là nhà giáo Nguyễn Sanh Dạn. Chủ nhiệm Khoa Xây dựng là nhà giáo Đỗ Quốc Sam. Bộ môn Kiến trúc trong Khoa Xây dựng được tách thành Khoa Kiến trúc Đô thị. Chính phủ quyết định sáp nhập Lớp đại học Kiến trúc sư vào Trường đại học Xây dựng. Tháng 11-1967, bàn giao và di chuyển Lớp đại học Kiến trúc vào Khoa Kiến trúc Đô thị thuộc Trường đại học Xây dựng, KTS Nguyễn Nghi làm Chủ nhiệm khoa.
Năm 1969, Chính phủ ra quyết định thành lập Trường đaị học Kiến trúc trên cơ sở Khoa Kiến trúc Đô thị tách ra từ Trường đại học Xây dựng (Quyết định số 181/CP ngày 17-9-1969). Phó tiến sĩ- KTS Vương Quốc Mỹ làm Hiệu trưởng, KTS Đoàn Văn Minh làm Chủ nhiệm Khoa Kiến trúc đến năm 1972 thì nghỉ hưu. Năm 1972, KTS Dương Hy Chấn được đề bạt làm Hiệu trưởng thay KTS Vương Quốc Mỹ giữ cương vị Thứ trưởng Bộ Kiến trúc, KTS Khổng Toán Chủ nhiệm Khoa Kiến trúc. Năm 1974 ông Lê Đình Cương, năm 1975 ông Hoàng Quốc Minh thay nhau làm Hiệu trưởng.
Trường đại học Xây dựng tiếp tục duy trì Khoa Kiến trúc và chiêu sinh từ năm học 1969-1970, KTS Nguyễn Nghi tiếp tục làm Chủ nhiệm khoa. Từ đó đến ngày thống nhất đất nước mỗi khoá học chiêu sinh khoảng trên dưới 30 sinh viên kiến trúc.
Ở miền Nam, năm1954, Trường cao đẳng Kiến trúc không còn trực thuộc Viện đại học Sài Gòn. Trường mở thêm Ban Thiết kế đô thị, thời gian đào tạo là 2 năm và Ban cán sự Kiến trúc thời gian đào tạo là 3 năm. Từ năm 1955, lần đầu tiên một kiến trúc sư người Việt Nam làm Giám đốc Trường cao đẳng Kiến trúc tại Việt Nam, đó là GS Trần Văn Tải. Năm 1967, GS.KTS Nguyễn Quang Nhạc làm Khoa trưởng (2). Thời điểm này Trường cao đẳng Kiến trúc trở thành Trường đại học Kiến trúc thuộc Viện Đại học Sài Gòn và ngưng đào tạo Ban cán sự Kiến trúc, sau đó hai năm tiếp tục ngưng tuyển sinh vào Ban thiết kế đô thị. GS. KTS Phạm Văn Thâng đảm nhiệm Khoa trưởng từ năm 1971, sau đó một năm ông cho nghiên cứu thành lập phân khoa thị tứ. Năm 1974, GS. KTS Tô Công Văn được giao trọng trách Khoa trưởng Trường đại học Kiến trúc Sài Gòn cho đến khi giải phóng miền Nam 30-4-1975.
50 năm giữa thế kỷ XX, trải qua những thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước, trong hai chế độ, với hai thế hệ kiến trúc sư đầu tiên đã được đào tạo bằng nhiều nguồn khác nhau từ trong nước. Các kiến trúc sư đàn anh của nước ta đã đoàn kết một lòng, xây dựng nền tảng cho sự phát triển nền kiến trúc đất nước sang một giai đoạn mới ngày một hiện đại có bản sắc.
( Tạp chí Kiến Trúc, Số 145, 5-2007)
----------------------------

(1) Xem bài " Diễn văn khai mạc Hội nghị Văn nghệ Toàn quốc" ngày 23-7-1948 của nhà văn Hoài Thanh, Tạp chí "Văn nghệ", số 4, tháng 8-1948.
(2) Người đứng đầu Nhà trường, tương đương với Hiệu trưởngvà Giám đốc trước và sau đó.

http://xaydungqh.blogspot.com/2009/04/ao-tao-kien-truc-su-o-vn-50-nam-giua-ky.html?zx=1253fb29a2c9d76f
http://forum.ashui.com/index.php?topic=2025.0

 

SINH VIÊN KIẾN TRÚC TRƯỜNG MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG

* Giảng viên và sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương, thập niên 30, thế kỷ XX. Sv Nguyễn Văn Ninh hàng thứ 3, thứ 2, bên trái (áo đen) Ảnh tư liệu của gia đình KTS Nguyễn Văn Ninh. Đoàn Đức Thành sưu tầm.
SINH VIÊN KIẾN TRÚC TRƯỜNG MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG

ĐOÀN ĐỨC THÀNH

doanducthanh-KIẾN TRÚC VIỆT: NHÂN KỶ NIỆM 85 NĂM TRƯỜNG MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG (TIỀN THÂN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM), TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU MỸ THUẬT CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM & VIỆN MỸ THUẬT RA SỐ ĐẶC BIỆT KỶ NIỆM SỰ KIỆN NÀY (SỐ 3(35).9.2010). NGOÀI NHỮNG BÀI VIẾT VỀ ĐÀO TẠO HỌA SĨ CÒN CÓ BÀI VỀ SINH VIÊN KIẾN TRÚC THẾ HỆ ĐẦU TIÊN. DƯỚI ĐÂY LÀ BÀI CỦA ĐOÀN ĐỨC THÀNH.

Nền kiến trúc truyền thống Việt Nam đã để lại một kho di sản phong phú với những đền đài, cung điện, thành quách, nhà ở, đình chùa... nhờ bàn tay khéo léo của những nghệ nhân tài hoa. Các tác phẩm kiến trúc được hình thành từ những suy tư nghệ thuật, những kinh nghiệm tích lũy đời này qua đời khác. Đặc điểm bao quát của sáng tạo kiến trúc thời kỳ này là các công trình xây dựng trên cơ sở những ký hiệu trong cây thước tầm của bác thợ cả.
Kiến trúc mới Việt Nam tiếp thu phương pháp sáng tạo của nền kiến trúc hiện đại phương Tây, tức là kiến trúc có bản vẽ đã mở ra giai đoạn mới của kiến trúc Việt Nam với tư duy sáng tạo mới, phương pháp thiết kế mới và đã làm nên những tác phẩm kiến trúc mới. Gắn với sự hình thành nền kiến trúc mới Việt Nam là những kiến trúc sư được đào tạo theo phương pháp của phương Tây tại Trường Mỹ thuật Đông Dương.
* Cổng Trường Mỹ thuật Đông Dương trước năm 1945 (nhìn ra đường Lê Duẩn, Hà Nội ngày nay)
Tham vọng khai thác thuộc địa của thực dân Pháp không chỉ dừng ở việc bóc lột tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ mạt mà còn cả ở việc huy động nhân lực có học vấn, được đào tạo nghề nghiệp để phục vụ cho các bộ máy của chính quyền thực dân. Từ đó nền giáo dục phổ thông, dạy nghề, cao đẳng kỹ thuật... đã dần được triển khai. Nha học chính Đông Dương lập vào năm 1906 đã định ra ba bậc học cơ sở là ấu học (ở thôn xã), tiểu học (ở phủ huyện) và trung học (ở các tỉnh). Một số trường cao đẳng được thành lập và đến năm 1906 thì mở ra Trường Đại học Đông Dương. Nền văn hóa Pháp qua đó được chuyển hóa vào Việt Nam đã tạo nên sự tiếp xúc giữa văn hóa truyền thống nước ta với văn hóa hiện đại phương Tây. * Họa sĩ Victor Tardieu (1876-1937) Hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương từ năm 1925 đến năm 1937* KTS Ernest Hébrard và sinh viên kiến trúc Việt Nam. Ảnh: Đoàn Đức Thành sưu tầm.* Giảng viên và sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương, thập niên 30, thế kỷ XX. Ảnh tư liệu gia đình KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn. Ngô Huy Giao sưu tầm.* Giảng viên và sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương, thập niên 30, thế kỷ XX. Sv Nguyễn Văn Ninh hàng đầu bên trái.Ảnh tư liệu gia đình KTS Nguyễn Văn Ninh. Đoàn Đức Thành sưu tầm.
Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây ở Việt Nam được thể hiện rõ nhất tại các đô thị, trước tiên là các đô thị lớn như Hà Nội và Sài Gòn. Tại đây, bên cạnh những cấu trúc đô thị truyền thống, những “khu phố Ta” đã thấy có những “khu phố Tây” với những cách thức về xây dựng đô thị của châu Âu đã được đưa vào Việt Nam. Tại những không gian đô thị mới này đã mọc lên những tòa nhà uy nghi của chính quyền thực dân như để chứng tỏ sự hiện diện của một thế lực đang áp đặt lên xã hội thuộc địa. Chính quyền thực dân đã cử những kiến trúc sư người Pháp có năng lực để thực hiện những công trình này, họ đã mang được nhiều nét tinh hoa văn hóa và kiến trúc Pháp đã rất phát triển tới những đô thị này. Vượt lên trên những mưu đồ bóc lột và nô dịch của Chủ nghĩa thực dân, nhiều kiến trúc sư người Pháp đã có những đóng góp đáng kể cho sư tiếp xúc và hòa hợp của hai nền văn hóa Đông – Tây với những kiến trúc có sự kết hợp những yếu tố của hai nền văn hóa.

Khoa Kiến trúc trong Trường Mỹ thuật Đông Dương
* Sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương, thập niên 30, thế kỷ XX. Từ phải sang trái: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cao Luyện, Đoàn Ngọ,... Ảnh gia đình KTS Nguyễn Cao Luyện. Đoàn Đức Thành sưu tầm.
Tháng 11-1925 trường khai giảng khóa đầu (1925-1930) với 12 sinh viên (tuyển từ 270 thí sinh toàn Đông Dương), trong đó 10 sinh viên học hội họa: Lê Văn Đệ, Nguyễn Tường Tam, Mai Trung Thứ, Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Công Văn Chung, Lê Ăng Phan, Georgeo Khánh, Nguyễn Xuân Phương, Lê Quang Tỉnh… Khoa Kiến trúc được thành lập (Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 1-10-1926), là một khoa của Trường Mỹ thuật Đông Dương, cơ sở đào tạo kiến trúc sư của Pháp duy nhất ở nước ngoài.
Ngay khi thành lập Khoa Kiến trúc thì Nguyễn Xuân Phương và Lê Quang Tỉnh được chuyển chuyển sang học kiến trúc. Nguyễn Tường Tam và Lê Ăng phan đang học dở dang thì bỏ, chuyển sang làm nghề khác.
V. Tardieu là một nghệ sĩ có tư tưởng tiến bộ, vượt ra khỏi quan điểm hẹp hòi của Chủ nghĩa thực dân. Trong suốt 12 năm làm Hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Đông Dương (1925-1937) ông đã xây dựng nhà trường thành một trung tâm đào tạo các họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến trúc sư Việt Nam, được học theo chương trình của Trường Mỹ thuật Quốc gia Paris. Trong thời gian này, nhà trường đã mời các thầy dạy là kiến trúc sư người Pháp có tài năng đã từng sáng tác nhiều công trình ở Pháp và Đông Dương như: KTS Ernest Hébrad (là một trong hai kiến trúc sư đoạt Giải Prix de Rome được giao nhiệm vụ phụ trách quy hoạch - kiến trúc Đông Dương từ năm 1921, người khởi xướng Phong cách Kiến trúc Đông Dương) kiêm Chủ nhiệm Khoa Kiến trúc của Trường. GS Athur Kruze – một người thầy dạy nhiệt tình, có phương pháp sư phạm về chuyên môn kiến trúc độc đáo: Phương án của sinh viên được treo lên, thầy trò cùng bình luận ưu khuyết điểm, sau đó sinh viên sửa chữa bổ sung, nên kết quả học tập tiến bộ nhanh. Các kiến trúc sư vừa giảng dạy vừa sáng tác đã mở mang kiến thức cho sinh viên kiến trúc nhiều mặt như: Gaston Roger; Louis Gaerges Pineau; Jacques Lagisquet,… các kiến trúc sư có xu hướng tiến bộ này đã đào tạo kiến trúc sư thiên về nghệ thuật sáng tạo. * Bằng kiến trúc sư Trường Mỹ thuật Đông Dương, năm 1939 cấp cho sinh viên Nguyễn Văn Nghi. Chụp lại từ bằng gốc do gia đình KTS Nguyễn Văn Nghi cung cấp. Ngô Huy Giao sưu tầm.
Ngoài môn mỹ thuật học chung còn có các môn khác cho sinh viên kiến trúc: GS Batteur, là Ủy viên Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, hướng dẫn sinh viên kiến trúc đi vẽ ghi các công trình kiến trúc đình chùa ở Hà Nội và các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình,…những tài liệu được hoàn chỉnh và lưu giữ làm tài sản quốc gia. Các giáo trình giảng dạy kiến trúc do Violet le Duc soạn thảo. Sách nghiên cứu chủ yếu của Pháp, có khai thác thêm sách kiến trúc của Trung Quốc và Nhật Bản.
Trong quá trình học tập, một số sinh viên kiến trúc đã bắt đầu sáng tác những công trình biệt thự, nhà ở hàng phố đạt yêu cầu thẩm mỹ cao.
Nằm trong khuôn khổ của những ý đồ “Khai hóa thuộc địa” của Chủ nghĩa thực dân thì không tránh khỏi quan điểm đào tạo có những ý tưởng thiên về thực dụng, chỉ đào tạo những nghệ nhân làm hàng mỹ nghệ chứ không phải những nghệ sĩ có năng lực sáng tạo. Điều này gây phản ứng ở nhiều người và đôi lúc nhà trường có nguy cơ bị đóng cửa. Vì thế rất cần ghi nhận người có công dẫn dắt nhà trường hướng tới việc đào tạo các nghệ sĩ sáng tạo chính là ông Hiệu trưởng V. Tardieu, với sự cộng tác của họa sĩ Nam Sơn đã kiên định quan điểm cho rằng người bản xứ hoàn toàn có khả năng được đào tạo để trở thành những nghệ sĩ tạo hình chân chính.
Nhà điêu khắc Evariste Ronchere - người kế tục hoạ sĩ V. Tardieu làm Hiệu trưởng từ năm 1937 - năm 1942 chủ trương đào tạo kiến trúc sư thực hành, với mục đích để kiến trúc sư người Pháp tìm ý tưởng, còn kiến truc sư Việt Nam vẽ kỹ thuật. Còn hoạ sĩ người Việt thì chuyên sản xuất mỹ nghệ, nên đã chia Trường Mỹ thuật Đông Dương làm hai trường riêng biệt: Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, trong đó có Khoa Kiến trúc và Trường Mỹ nghệ thực hành Hà Nội (Nghị định ngày 22-10-1942 của Toàn quyền Đông Dương). Từ đây, nội dung đào tạo được chuyển đổi và thấp hơn so với chương trình đào tạo kiến trúc sư tại Trường Mỹ thuật Quốc gia Paris.
Tháng 12 năm 1943, lực lượng đồng minh thuộc quân đội Mỹ trong Chiến tranh Thế giới lần thứ II ném bom xuống Hà Nội. Theo chủ trương của Nha Học chính Đông Dương, các trường học phải sơ tán khỏi Hà Nội. Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã chia thành ba bộ phận, sơ tán ở ba nơi:
- Các lớp Mỹ nghệ sơ tán về Phủ Lý, do Georges Khánh và Bùi Tường Viên phụ trách.
- Khoa Kiến trúc và một phần lớn Lớp Điêu khắc vào Đà Lạt, do E.Jonchere phụ trách.
- Khoa Hội họa và một phần nhỏ Lớp Điêu khắc lên Sơn Tây, do giáo sư Inguimberty cùng các họa sĩ Nam Sơn và Tô Ngọc Vân phụ trách.
Năm 1944, Khoa Kiến trúc ở Đà Lạt được nâng thành Trường Kiến trúc, nhưng vẫn trực thuộc Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (Nghị định ngày 22-2-1944).
Sau cuộc đảo chính của Nhật hất cẳng Pháp khỏi xứ Đông Dương ngày 9-3-1945, Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương giải thể vào cuối năm 1945.
Từ năm 1942 đến 1945, Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đào tạo 3 khoá học dở dang, có trên 20 sinh viên kiến trúc không có điều kiện tiếp tục học tập ở trường này.
Trong 20 năm (1925-1945), Trường Mỹ thuật Đông Dương sau này là Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã tổ chức đào tạo được 18 khoá học (trong đó 11 khóa có sinh viên kiến trúc), đã đào tạo tốt nghiệp tạo trên 150 sinh viên ngành Mỹ thuật và trên 77 sinh viên ngành Kiến trúc, có trình độ vững vàng, được học tập theo chương trình giảng dạy và phương pháp đào tạo khoa học của Trường Mỹ thuật Quốc gia Paris ở Pháp.
Kiến trúc sư đào tạo từ Trường Mỹ thuật Đông Dương vẫn hành nghề bó hẹp trong phạm vi các nước Đông Dương, mãi đến đầu năm 1945, Chính phủ Pháp mới công nhận văn bằng kiến trúc sư của Trường Mỹ thuật Đông Dương có giá trị hành nghề ở Pháp và Đông Dương (Nghị định 6-2-1945).
Những sinh viên học dở dang vì đất nước có chiến tranh, việc học bị ngưng trệ, sau đó đã được làm đồ án tốt nghiệp hoặc học tiếp (ở vùng kháng chiến Việt Bắc, ở thủ đô Paris của nước Pháp hoặc ở Sài Gòn). Phần lớn họ đã trở thành người làm nghề và có nhiều đóng góp cho nền kiến trúc mới Việt Nam.

Sáng tác kiến trúc phục vụ dân sinh của thế hệ kiến trúc sư đầu tiên
Những kiến thức nghề nghiệp được nhà trường trang bị đã mở ra chân trời mới cho hoạt động sáng tạo của kiến trúc sư Việt Nam vốn có mong muốn đem sức mình tạo dựng những công trình kiến trúc trên đất nước mình. Không chỉ là học nghề để kiếm sống, các kiến trúc sư hiểu rõ đất nước còn trong vòng nô lệ, cuộc sống người dân còn chịu bao thiếu thốn và đang đòi hỏi những bàn tay tài năng chăm lo việc xây cất nhà cửa cho họ. Học nghề và làm nghề lúc đó không thể tính đến việc cạnh tranh làm các công trình lớn, đặc biệt là các công trình của nhà nước thực dân vốn chỉ dành riêng cho những kiến trúc sư người Pháp từ “chính quốc” sang. Nhiệt huyết làm nghề thôi thúc nên ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, nhiều sinh viên đã bằng cách này hay cách khác có được những tác phẩm qua những cuộc thi sáng tác kiến trúc, thiết kế phục vụ dân sinh, dịp để thể hiện tinh thần tìm về nền kiến trúc dân tộc. Nhiều kiến trúc sư đi vào nghề đã chứng tỏ bản lĩnh nghề nghiệp của mình. Giai đoạn đầu (trước những năm 1940) sáng tác của các kiến trúc sư còn chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp, lệ thuộc vào kiến thức của các thầy. Giai đoạn sau, tư tưởng sáng tác đã định hình, các kiến trúc sư đã tìm về cuội nguồn dân tộc, do vậy mà tạo nên những công trình kiến trúc gần gũi với tình cảm người dân hơn.* Nhà Thủy Tạ bên hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, xây dựng năm 1937 do KTS Võ Đức Diên và KTS Nguyễn Xuân Tùng thiết kế. Ảnh: Đoàn Đức Thành sưu tầm.
Rất nổi trội vào thời kỳ này phải kể đến bộ ba kiến trúc sư đã mở văn phòng kiến trúc đầu tiên ở Hà Nội. Các ông đã đóng góp cho xã hội nhiều công trình đáng ghi nhận. Kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện học rất giỏi, được học bổng đi tu nghiệp tại Pháp, ra nghề không làm việc cho chính quyền thực dân mà mở phòng kiến trúc tư với các bạn học gồm kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp cùng khóa và kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức học khóa sau. Mỗi người đều đã có sáng tác để lại nhiều ấn tượng tốt ở Hà Nội (Nguyễn Cao Luyện có các biệt thự 65 Lý Thường Kiệt, 77 Nguyễn Thái Học, 215 Đội Cấn, 7 Thuyền Quang... Hoàng Như Tiếp có biệt thự 14 Phạm Đình Hồ… Nguyễn Gia Đức có biệt thự Lê Đình H ở phố Hàng Đẫy, Bình Minh trang ở khu Quần Ngựa...). Công trình mang tính khoa học mang tên Nhà ánh sáng (kiểu nhà ở bình dân không đắt tiền nhưng có môi trường ở tiện nghi, nhiều ánh sáng...) đã làm cho các ông được cảm phục nhờ tính nhân văn, hướng nghề nghiệp vào việc phục vụ đời sống dân nghèo thành thị.
Ở Sài Gòn cũng nổi bật nhiều tác phẩm: Biệt thự của bác sĩ Trần Văn Chương của kiến trúc sư Hoàng Hùng; Câu lạc bộ Thuỷ quân, các biệt thự 40/40 Lò Heo, 150 đường Nguyễn Đình Chiểu, số 6 Nguyễn Huy Lượng, nhà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (góc đường Bà Huyện Thanh Quan - Nguyễn Thị Minh Khai)…của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Một số biệt thự ở Đà Lạt của các kiến trúc sư Phan Nguyên Mậu, Trần Hữu Tiềm, Nguyễn Văn Ninh, Nguyễn Ngọc Chân, Huỳnh Tấn Phát...được dư luận thời bấy giờ đánh giá cao.

Sáng tác kiến trúc phục vụ Cách mạng
Vốn là những kiến trúc sư giàu lòng yêu nước, ngay từ trước Cách mạng Tháng Tám, các kiến trúc sư đầy sức trẻ và tài năng cũng đã đóng góp những công trình thật sự có ý nghĩa lớn cho Cách mạng. Đó là Kỳ đài cao 15 mét được xây dựng giữa đô thành Sài Gòn vào ngày 25-8-1945 phục vụ cuộc mít tinh khổng lồ chào mừng Cách mạng Tháng Tám do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (lúc đó 32 tuổi) thiết kế và tạo dựng. Còn ở thủ đô Hà Nội người dân được chứng kiến Lễ đài Độc Lập ở Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập vào ngày 2-9-1945, khai sinh Nhà nước Dân chủ Cộng hòa đầu tiên ở Đông- Nam Á. Công trình do kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh thiết kế và chỉ huy việc xây dựng.* Hồ Chủ tịch xét duyệt quy hoạch thủ đô Hà Nội, 1959, do thế hệ kiến trúc sư đầu tiên thiết kế.
Toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, tin tưởng vững chắc vào tiền đồ dân tộc, theo tiếng gọi của Hồ Chủ tịch, nhiều kiến trúc sư đã từ bỏ cuộc sống giàu sang ở đô thị đưa gia đình ra vùng tự do, lên chiến khu Việt Bắc, vượt qua khó khăn gian khổ để hoà vào công cuộc kháng chiến kiến quốc của toàn dân. Các kiến trúc sư đã tự nguyện làm bất kỳ công tác gì có lợi cho cách mạng.
Cuộc sống mới yêu cầu những loại hình kiến trúc mới như hội trường, trụ sở ủy ban, lớp bình dân học vụ, nhà triển lãm, khu giao tế, nhà thông tin...vật liệu chủ yếu bằng tre, gỗ, nứa, lá, khai thác tại chỗ. Các kiến trúc sư đã sáng tác đáp ứng với nội dung sử dụng, tạo nên những hình thức mới, đường nét kiến trúc giản dị, ẩn mình trong rừng cây Việt Bắc, cấu tạo theo kỹ thuật truyền thống được gia công kỹ lưỡng, với vẻ đẹp nao lòng, đã phục vụ đắc lực cho nhiều yêu cầu hoạt động của chính quyền non trẻ, củng cố thêm niềm tin đối với quần chúng nhân dân. Đặc biệt quần thể công trình kiến trúc khu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đã gây tiếng vang lớn.
Hiệp định Geneve 1954 lập lại hòa bình ở Việt Nam, đất nước bị chia cắt thành hai miền tạo những bối cảnh kinh tế xã hội khác nhau đối với hoạt động kiến trúc. Khung cảnh hòa bình xây dựng đất nước ở miền Bắc, xóa dần vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế để tiến tới một xã hội phồn vinh trong sự giúp đỡ chí tình của các nước XHCN khi đó là mảnh đất thuận lợi cho những sáng tạo kiến trúc.
Thủ đô Hà Nội được giải phóng đã tưng bừng đón đoàn quân chiến thắng trở về, gấp rút chuẩn bị cho cuộc đại lễ đón chào Bác Hồ, Đảng và Chính phủ. Địa điểm tiến hành lễ nghi này cũng chính là Quảng trường Ba Đình, nơi 9 năm trước từng có Lễ đài Độc Lập. Việc xây dựng công trình phục vụ đại lễ được giao cho kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh gồm hai công trình là Lễ đài và Đài Liệt sĩ. Trong thời gian rất ngắn, với vật liệu chủ yếu bằng gỗ, hai công trình đã được tạo dựng theo đường nét kiến trúc dân tộc rất bề thế và hoành tráng. Cũng với tinh thần phải làm gấp rút cho những hoạt động của Thủ đô mới giải phóng, một nhà hát và sân khấu ngoài trời cũng bằng gỗ đã nhanh chóng được xây dựng đủ chỗ cho 3000 người, đó là Nhà hát Nhân dân theo thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện.
Hội nghị Kiến trúc sư toàn quốc lần thứ II vào ngày 26,27-4-1957 là dịp để tập hợp lực lượng sau 9 năm kháng chiến giữa các kiến trúc sư từ chiến khu về và các kiến trúc sư trong Hà Nội bị tạm chiếm. Nhiệm vụ to lớn nhưng lực lượng tập hợp lại cũng chẳng lớn lao gì, tất cả chỉ có 20 người. Họ làm việc trong các cơ quan Nhà nước ở Trung ương (Bộ Thủy lợi- Kiến trúc, về sau là Bộ Kiến trúc) và ở Hà Nội (Sở Kiến trúc). Về chuyên môn ở Bộ có 2 cơ quan là Cục thiết kế Dân dụng (sau là Viện thiết kế Kiến trúc) và Cục Đô thị – Nông thôn (sau là Viện quy hoạch Đô thị và Nông thôn). Những kiến trúc sư có năng lực nhất làm việc ở đây đã là trụ cột của hoạt động kiến trúc thời kỳ này.
Nằm ở vị trí đối diện với Hội trường Ba Đình, quần thể kiến trúc gắn với vị Chủ tịch nước, Bác Hồ kính yêu không chỉ thể hiện lòng tôn kính vô hạn của toàn Đảng toàn dân đối với Người mà còn là tâm huyết cháy bỏng của các kiến trúc sư mong được đóng góp sức mình vào công việc cao cả này. Có vinh dự hàng đầu phải kể đến kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đã được giao nhiệm vụ sáng tác ngôi nhà bằng gỗ dạng nhà sàn làm nơi ở và làm việc của Bác. Công trình giản dị như chính cuộc đời của Bác nay đã trở thành vật lưu niệm linh thiêng về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Năm 1960, Nhà nước chủ trương xây Lễ đài Ba Đình bằng gạch kiên cố hơn, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh vẫn thiết kế theo tinh thần lễ đài gỗ trước đây, nhưng thể hiện đúng bản chất của vật liệu gạch và bê tông, hiện đại hơn nhưng vẫn mang phong cách kiến trúc truyền thống.
Bước vào cuối những năm 1950 đầu những năm 1960 cho tới ngày đất nước thống nhất, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến hành ở miền Bắc đòi hỏi những cố gắng lớn lao để xây dựng một hệ thống hạ tầng cho xã hội mới, các kiến trúc sư lúc này đứng trước những nhiệm vụ cực kỳ to lớn và họ đã hết sức nỗ lực cho sự nghiệp đó.
Cơ quan Chính phủ từ vùng kháng chiến về Thủ đô tất yếu phải có chỗ làm việc, các kiến trúc sư đã thiết kế nhiều trụ sở cơ quan làm việc. Khởi đầu là Trụ sở Bộ Kiến trúc ở Vân Hồ do kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Chân thực hiện. Công trình có hình khối chắc, khỏe nhìn về phía công viên Thống Nhất đánh dấu bước phát triển mới khu vực phía Nam của Hà Nội. Cùng với nhiều trụ sở cơ quan khác, công trình có kiến trúc gây ấn tượng vào lúc này là Trụ sở Tổng cục Thống kê do kiến trúc sư Đoàn Văn Minh thiết kế. Công trình có vị trí đẹp góc phố Hoàng Diệu và Hoàng Văn Thụ đã được tác giả khai thác khéo léo với mặt nhà cong như để ôm lấy một quảng trường trong tương lai. Tầng một là tầng đế vững chắc cho các tầng trên với các trụ giả suốt ba tầng tạo vẻ hoành tráng theo phong cách Kiến trúc Cổ điển (phương Tây). Cũng ở khu Vân Hồ và nằm không xa trụ sở Bộ Kiến trúc còn có tòa nhà dùng làm Trụ sở Liên cơ quan của Hà Nội do kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn thiết kế cũng tạo được một hình ảnh kiến trúc bề thế và nhẹ nhõm.
Kiến trúc trường học cũng là đòi hỏi lớn vào thời gian này. Ngoài một số trường đã có cơ sở cũ thì nhiều trường mới thành lập phải xây dựng cơ sở mới. Gây ấn tượng mạnh về kiến trúc trường học thời kỳ này phải kể đến công trình Trường đại học Thủy lợi, một quần thể kiến trúc lớn trên một khu đất rộng mà tác giả thiết kế là kiến trúc sư Đoàn Văn Minh, thêm một lần nữa chứng tỏ tài năng kiến trúc của mình. Mặt chính tổng thể kiến trúc dàn ra cả một đoạn phố, chính giữa được nhấn mạnh bằng khối cao gắn bó chặt chẽ với các khối bên theo một tỷ lệ và nhịp điệu hài hòa. Cũng nằm trên một không gian bề thế về phía Tây của Thủ đô, kiến trúc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc do kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Chân thiết kế cũng gây được ấn tượng tốt bởi tính trang nghiêm và không kém phần trong sáng của tổng thể kiến trúc mà trung tâm là khối nhà Hội trường đặt trước một không gian quảng trường ấm cúng. Đóng góp cho thể loại kiến trúc trường học còn phải kể đến công trình của Trường trung cấp Thương nghiệp là sáng tác của kiến trúc sư Tạ Mỹ Duật với nhiều nét nhẹ nhàng, thanh thoát có phong cách mới mẻ.
Kiến trúc các công trình công cộng xây dựng vào thời kỳ này được xem là đóng góp vô cùng quan trọng của bàn tay các kiến trúc sư lớp đầu của nền kiến trúc mới Việt Nam. Có ý nghĩa lớn về chính trị và xã hội phải kể đến công trình Hội trường Ba Đình được sử dụng làm nơi họp Quốc hội và các đại hội lớn của Đảng và Nhà nước, trong lúc chưa xây dựng được trụ sở chính thức của Quốc hội. Các tác giả thiết kế là kiến trúc sư Trần Hữu Tiềm và kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện (khi đó là Thứ trưởng Bộ Kiến trúc có vai trò chỉ đạo). Việc xác định địa điểm xây dựng dựa theo phác thảo nhanh về Quy hoạch khu Ba Đình của kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh (với ý tưởng gắn kết hội trường với trụ sở của các bộ kề bên). Vào lúc mà điều kiện đầu tư xây dựng rất hạn hẹp và phải làm nhanh để sớm phục vụ, các tác giả đã phải vượt qua nhiều khó khăn để làm nên một kiến trúc có quy mô khá lớn vào lúc đó...Một tác phẩm kiến trúc công cộng khác được đánh giá cao vào thời kỳ này là nhà Bảo tàng Việt Bắc ở Thái Nguyên do kiến trúc sư tài hoa Hoàng Như Tiếp thiết kế. Công trình có diện tích tới 2000m2, trên một đỉnh đồi, với 5 khối trưng bày được liên kết khéo léo bằng hành lang và tiền sảnh, có những sân trong làm vườn cảnh rất sinh động. Tác phẩm được đánh giá là thành công trong sự hài hòa giữa tính hiện đại và tính dân tộc.
Cùng với những đóng góp về kiến trúc công trình như nêu trên thì về mặt quy hoạch đô thị các kiến trúc sư lớp đầu tiên cũng có những đóng góp không nhỏ. Được chuyên gia các nước bạn XHCN khi đó giúp đỡ, việc lập quy hoạch các đô thị được triển khai mạnh, trước tiên là thủ đô Hà Nội. Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh đã có nhiều năm học tập ở Liên Xô (cũ), nay cùng với các chuyên gia Liên Xô tạo bước khởi đầu về nghiên cứu quy hoạch của đô thị quan trọng nhất của cả nước này. Sau Thủ đô, nhiều thành phố công nghiệp mới cũng đã được làm quy hoạch như các thành phố Thái Nguyên, Việt Trì, Vinh... với công sức đóng góp của các kiến trúc sư Đàm Trung Phường, Khổng Toán.
Ở cương vị lãnh đạo cơ quan chuyên môn quy hoạch đô thị, kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp dành tâm huyết cho công việc này không chỉ ở việc chuyên môn cụ thể mà ở cả tầm nhìn chiến lược đối với ngành khoa học mới mẻ này. Cũng như vậy, kiến trúc sư Tạ Mỹ Duật khi nhận nhiệm vụ lãnh đạo cơ quan quy hoạch của Hà Nội cũng đã có nhiều đóng góp lớn lao trong việc triển khai công việc này trên địa bàn Thủ đô.
Những bản phác thảo quy hoạch cho các đô thị nêu trên đã có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo và quản lý các hoạt động xây dựng tại các đô thị trong giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Rất nhiều khu công nghiệp đã hình thành theo quy hoạch, kèm theo đó là hệ thống giao thông, cầu cống, các hệ thống kỹ thuật cung cấp điện, cấp nước và thoát nước cho các khu đô thị mới phát triển. Nhiều khu dân cư được chỉnh trang có môi trường sống tốt hơn cùng với việc phát triển hệ thống hạ tầng xã hội về văn hóa, giáo dục, thương nghiệp, y tế…
Nhu cầu phát triển nhanh nhà ở cho cán bộ và nhân dân đòi hỏi việc xây dựng những khu ở tập trung tại các đô thị lớn Hà Nội, Hải Phòng, Vinh... Các kiến trúc sư ở Cục Đô thị – Nông thôn với sự giúp đỡ của nước bạn đã lập quy hoạch các khu ở theo cấu trúc quy hoạch tiểu khu, tạo cơ sở cho việc hình thành các khu ở mới như Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ ở Hà Nội, An Dương ở Hải Phòng, Quang Trung ở Vinh.
Quy hoạch và kiến trúc các khu ở mới đã thể hiện mối quan tâm của xã hội tạo chỗ ở cho đông đảo người dân lao động. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, việc xây dựng phải hết sức tiết kiệm nhưng các kiến trúc sư đã hết sức cố gắng để kiến trúc có thể “đẹp trong điều kiện có thể” như phương châm cho việc thiết kế vào lúc đó. Hướng vào việc xây dựng kiểu công nghiệp hóa, nhà ở được thiết kế cho kỹ thuật nhà lắp ghép là loại kỹ thuật trước đây chưa từng làm, nhưng việc thiết kế đã vượt qua nhiều khó khăn, đã tạo dựng nhiều khu nhà ở tập thể đủ khang trang cho đông đảo người dân lao động ở các đô thị.
Kiến trúc xây dựng ở miền Bắc vừa qua giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh, bước sang kế hoạch xây dựng 5 năm là thứ nhất thì cũng là lúc đế quốc Mỹ gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 5-8-1964 và leo thang gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Phần lớn thành quả của giới kiến trúc sư thực hiện trong 10 năm hoà bình và trước đó đã bom đạn phá huỷ. Để đời sống đáp ứng với cuộc chiến tranh huỷ diệt, giới kiến trúc sư miền Bắc một lần nữa đi tìm loại hình kiến trúc mới để bảo vệ thành quả cách mạng, chống lại các loại bom đạn phá huỷ. Đó là loại “nhà hầm” để Bác Hồ, Bộ Chính trị ở và làm việc trong lúc máy bay bắn phá. Đó là các cơ sở làm việc của Đảng và Nhà nước sơ tán ở trong các rừng sâu thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc. Đó là hàng chục đài phát thanh, cơ quan thông tấn, các kho tàng xây dựng trong các hang động cao đến 5-7 tầng… kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Chân tuổi ngót 60 vẫn chủ trì thiết kế vượt qua những làn bom đạn đến những công trường theo dõi thi công những công trình tuyệt mật ấy trong nhiều năm.
Để đánh dấu chiến công của quân và dân Nam Định bắn rơi nhiều thần sấm, con ma- những không lực Hoa Kỳ- kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện có một tác phẩm kiến trúc rất độc đáo. Đó là công trình Bảo tàng Cổ vật, mà tư duy sáng tạo dường như có phần “đi trước thời gian” nên đã không được chấp nhận ngay khi nó xuất hiện. Kiến trúc này được xem là thuộc “phong cách biểu hiện” mà thế giới đã làm nhiều nhưng ở nước ta mới có lần đầu. Tinh thần đổi mới phong cách kiến trúc của kiến trúc sư lão thành đã là tấm gương để nhiều kiến trúc sư trẻ học tập.
Sau khi Bác Hồ qua đời, Đảng và Chính phủ quyết định xây dựng Lăng để bảo quản thi hài cho con cháu muôn đời sau được chiêm ngưỡng Người. Việc thiết kế công trình Lăng Bác Hồ được các chuyên gia Liên Xô (cũ), nơi có nhiều kinh nghiệm giúp đỡ, có sự phối hợp của các kiến trúc sư thế hệ đầu tiên trong quá trình phác thảo tìm ý cũng như quá trình hoàn thiện, như các kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Văn Ninh, Hoàng Như Tiếp, Vương Quốc Mỹ,…Đặc biệt là kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Chân là người chủ trì về phía Việt Nam thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã thiết kế phương án Lăng theo gợi ý của Bộ Chính trị Việt Nam, kiên trì thuyết phục các chuyên gia Liên Xô thiết kế kỹ thuật theo phương án Việt Nam như đã xây dựng.
Vào thời điểm miền Bắc khôi phục kinh tế, tiến lên XHCN và sau đó xảy ra chiến tranh phá hoại, thì ở miền Nam nước ta đang tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc tiến tới thống nhất Tổ quốc. Tại các thành thị, bộ máy chính quyền thực dân mong muốn duy trì vai trò thống trị dựa vào nguồn lực từ bên ngoài cũng tạo được khung cảnh yên ổn làm ăn cho người dân. Trên đất Sài Gòn mọc lên nhiều công trình mới và dần có bộ mặt kiến trúc mới, trong đó có sự đóng góp tài năng của nhiều kiến trúc sư thuộc thế hệ đầu tiên.

Đóng góp của kiến trúc sư miền Nam
Trong số các gương mặt kiến trúc sư có nhiều hoạt động nghề nghiệp đóng góp vào sự phát triển nền kiến trúc mới Việt Nam trên địa bàn phương Nam, chủ yếu là ở Sài Gòn, thì kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát là một trường hợp đặc biệt nổi trội.
Sau năm 1954, đất nước chia hai miền, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát được phân công hoạt động bí mật ở Sài Gòn. Để hoạt động hợp thức, ông hợp tác làm việc tại văn phòng của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện, thiết kế nhiều công trình có giá trị. Trong cương vị Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, với bề bộn công việc lãnh đạo, ông vẫn dành nhiều thời gian cho kiến trúc, trực tiếp vẽ kiểu hoặc chỉ đạo xây dựng các công trình ở căn cứ cách mạng, trong đó có Hội trường để phục vụ đại hội Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam ở Lò Gò, phác thảo phương án quy hoạch thủ phủ tạm thời của Chính phủ Cách mạng ở Lộc Ninh.
Lực lượng sáng tác kiến trúc ở miền Nam lúc này được tập hợp từ nhiều nguồn: Kiến trúc sư quê miền Nam ra Hà Nội học ở Trường Mỹ thuật Đông Dương đã tốt nghiệp hoặc sinh viên kiến trúc đang học thì xảy ra chiến tranh, sau đó sang Pháp học tiếp tại Beaux – Arts de Paris (khi tốt nghiệp được nhận bằng của chính phủ Pháp: bằng DPLG, diplomé par le gouvernemet). Những sinh viên không có điều kiện du học thì sau này học tiếp và tốt nghiệp ở Trường đại học Kiến trúc Sài Gòn. Kiến trúc sư ngoài Bắc tốt nghiệp ở Trường Mỹ thuật Đông Dương đã di chuyển vào trong Nam khi đất nước bị chia cắt, năm 1954. Lực lượng kiến trúc sư ở Sài Gòn khá đông đảo, trên 50 người.
Nổi bật nhất giữa trung tâm đô thành Sài Gòn là công trình Dinh Độc Lập do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế, được xây dựng trên nền móng của Dinh Norodom xưa (xây dựng vào năm 1868, sau này bị bom phá sập). Công trình có quy mô bề thế trên khuôn viên đất rộng 13 hecta, trên một trục không gian kéo dài qua đại lộ tới khu cây xanh lớn Thảo Cầm Viên. Ông cũng là tác giả của nhiều công trình kiến trúc được xã hội đánh giá cao như khu Đại học Thủ Đức, Đại học Nông – Lâm – Súc ở Thủ Đức, Trụ sở Hàng không Việt Nam ở Sài Gòn, Viện Hạt nhân ở Đà Lạt, Trường Sư phạm Huế, Khách sạn Hương Giang (I và II) ở Huế…
Kiến trúc trường học chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động sáng tác của các kiến trúc sư ở phía Nam, tập trung chủ yếu ở Sài Gòn, Thủ Đức và một phần ở Huế, Cần Thơ như: Đại học Thủ Đức nằm cạnh xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa. Công việc thiết kế được giao cho nhiều kiến trúc sư, ngoài Đại học Nông – Lâm – Súc còn có Trường Bách khoa, Trường Kinh tế, Vũ Tòng là người thiết kế. Kề bên khu giảng dạy còn có khu biệt thự (làng đại học) là nhà ở của các thầy giáo (khoảng 200 biệt thự). Kiến trúc các biệt thự rất đa dạng, phần lớn do các kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng, Nguyễn Duy Đức, Tô Công Văn, Lê Văn Lắm thiết kế.
Trong số các công trình kiến trúc phục vụ văn hóa, nổi bật nhất là nhà Thư viện Quốc gia (nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh) nằm ở một vị trí khá đẹp tại trung tâm thành phố (góc phố Lý Tự Trọng và Nguyễn Trung Trực). Các tác giả thiết kế (Nguyễn Hữu Thiện, Bùi Quang Hanh) đã tạo hình khéo léo kết hợp khối nhà nằm ngang của các phòng đọc với khối đứng là kho sách, đem lại những hình ảnh sinh động từ nhiều góc nhìn. Đặc biệt mặt nhà khối phòng đọc được trang trí bằng mạng lưới hoa văn bê tông kết hợp những panô vuông, đúc nổi hình rồng phượng đã gây được hiệu quả tốt về sự kết hợp tính hiện đại của khối nhà với những chi tiết trang trí khai thác từ kiến trúc truyền thống.
Kiến trúc ngân hàng là một phạm vi hoạt động nghề nghiệp mà các kiến trúc sư ở miền Nam đã có những đóng góp đáng kể. Ngân hàng Việt Nam Thương tín cao 11 tầng ở vị trí góc phố Tôn Thất Đạm và đại lộ Hàm Nghi đã cho thấy dấu hiệu về sự tìm đến kiến trúc hiện đại thế giới với sự đóng góp của nhiều kiến trúc sư. Phương án được chọn để thực hiện là của kiến trúc sư Phạm Văn Thâng. Cùng theo tinh thần khai thác kiến trúc hiện đại thế giới có thể kể đến kiến trúc của nhiều ngân hàng khác như Ngân hàng Trung Nam (góc phố Nguyễn Công Trứ và Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của Văn phòng Kiến trúc sư Hoa - Thâng - Nhạc. Việt Nam Công thương Ngân hàng do kiến trúc sư Trần Văn Ba thiết kế cũng như các công trình dịch vụ về thương mại, tài chính như: Trụ sở Công ty Bảo hiểm V.A.R (Lê Văn Lắm), Thương xá Crystal Palace (Ngô Viết Thụ).
Vào các năm 1965 – 1970 còn có các công trình Trung Nam Ngân hàng (Phạm Văn Thâng).
Về khách sạn và nhà ở, sớm nhất là Khách sạn Caravelle (nay là Khách sạn Độc Lập) khởi đầu do kiến trúc sư Masson người Pháp thiết kế, nhưng sau khi Pháp rút lui khỏi miền Nam thì Văn phòng Kiến trúc Hoa - Thâng - Nhạc thiết kế, xây dựng năm 1956, khánh thành năm 1962. Khách sạn 11 tầng này từng được coi là “tối tân và đẹp nhất ở Sài Gòn”.
Không thua kém về mức độ trang bị hiện đại, công trình REX hotel của kiến trúc sư Lê Văn Cấu và Crystal Palace hotel (nay là Khách sạn Hữu Nghị) ở góc đường Nguyễn Huệ - Ngô Đức Kế là sáng tạo của kiến trúc sư Vũ Bá Đính được đánh giá là hiện đại và trang nhã.
Kiến trúc nhà ở không phải là lĩnh vực được quan tâm nhiều, tuy cũng có xây dựng nhiều khu cư xá như Phú Lâm, Trương Minh Giảng, Tân Thuận Đông... Một số khu ở của công chức thuộc tầng lớp trên trong xã hội, đặc biệt là các cư xá của cán bộ ngành ngân hàng với các kiểu biệt thư đơn lập và song lập: Ngân hàng Việt Nam Thương Tín (đường Trương Minh Giảng, Thoại Ngọc Hầu) kiến trúc sư Phạm Văn Thâng thiết kế. Cư xá Thanh Đa là hiện tượng cá biệt xây dựng nhà ở cho dân cư đông đảo trên khu đất rộng 36 hecta nằm cạnh kênh Thanh Đa và sông Sài Gòn, cấu trúc khu nhà gồm hai phần (giống như hai nhóm nhà ở trong một tiểu khu nhà ở) cho trên 5000 gia đình.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, phần lớn kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương tuổi đã cao, song bằng kinh nghiệm và sự từng trải, các ông vẫn tiếp tục sự nghiệp cao cả của kiến trúc sư là làm đẹp đất nước. Các ông đã chủ trì hoặc tham gia thiết kế nhiều đồ án quy hoạch đô thị ở Thủ đô và các tỉnh thành trong cả nước. Nhiều công trình lớn như Bảo tàng Hồ Chí Minh, Nhà hát Hoà Bình, Sân bay Quốc tế Nội Bài, Cung Thiếu nhi Thủ đô, các trụ sở Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân, khách sạn, Trường đại học lớn… đã được các ông chủ trì, thiết kế hoặc chỉ đạo thực hiện đã đạt chất lượng cao. Do sớm được tiếp cận với những thành tựu của kiến trúc hiện đại thế giới, mặt khác có sự khai thác nhuần nhuyễn kiến trúc truyền thống và yếu tố khí hậu nên kiến trúc mang được sắc thái địa phương, thể hiện những đặc trưng phong cách kiến trúc hiện đại – dân tộc – nhiệt đới hóa, tao nên những tác phẩm rất phong phú, đa dạng đáp ứng với yêu cầu cách mạng và tạo được nhiều hình ảnh sinh động.
Sự đóng góp của các kiến trúc sư thế hệ đầu tiên cho bộ mặt kiến trúc ở khắp nước ta là rất đáng kể. Những hoạt động nghề nghiệp nêu trên, tuy không phải là tất cả, nhưng có thể xem là tiêu biểu cho sự nghiệp chuyên môn của thế hệ kiến trúc sư đầu tiên đã đóng góp cho nền kiến trúc mới Việt Nam.
Sự đóng góp của kiến trúc sư thế hệ đầu tiên cho Tổ quốc là vô cùng quý báu, các ông đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng ngời. Các ông đã đặt những viên gạch bằng công sức của mình xây dựng ngôi nhà Việt Nam, ngôi nhà - Tổ quốc của chúng ta ở thời đại vươn tới phồn vinh và hoà đồng với thế giới văn minh. Tổ quốc ghi công của các ông bằng những tấm huân chương, huy chương cao quý. Về sáng tạo văn học – nghệ thuật, thế hệ kiến trúc sư đầu tiên đã có những gương mặt tiêu biểu, được Chủ tịch nước tặng những giải thưởng cao quý:
Giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt 1, năm 1996 cho tác phẩm của các kiến trúc sư: Nguyễn Cao Luyện, Huỳnh Tấn Phát, Hoàng Như Tiếp.
Giải thưởng Nhà nước, đợt 1, năm 2001 cho tác phẩm của các kiến trúc sư: Nguyễn Văn Ninh, Nguyễn Ngọc Chân, Đoàn Văn Minh, Ngô Huy Quỳnh, Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn Quang Nhạc, Đàm Trung Phường.

LỜI KẾT
Thế hệ kiến trúc sư đầu tiên của nền kiến trúc mới Việt Nam trong lịch sử có nhiều nét đẹp, thể hiện rõ nhân cách lớn, bản lĩnh lớn, giàu sức sống, là gương sáng cho các kiến trúc sư hậu thế noi theo.
Với tay nghề và kiến thức vững vàng, giàu tính sáng tạo, song thế hệ kiến trúc sư đầu tiên lại sống trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Làm kiến trúc mà không có hoà bình, đó là thiệt thòi lớn cho một thế hệ, lại là thế hệ đầu tiên. Khát vọng làm nghề cháy bỏng, ý thức dân tộc và lòng yêu nước cao, nhiều kiến trúc sư đã theo tiếng gọi của Bác Hồ, rời chốn thị thành phồn hoa lên chiến khu Việt Bắc, vào bưng biền, vượt khó khăn gian khổ để phụng sự Tổ quốc. Không ít bỡ ngỡ đứng trước cảnh bom đan tàn phá tiêu điều, vườn không nhà trống, rừng thiêng nước độc, thiếu thốn đủ bề ở chiến khu. Thư Bác Hồ gửi Hội nghị Kiến trúc sư ở Thản Sơn soi sáng: "Chúng ta phải tuỳ hoàn cảnh mà xây dựng ngay trong khi kháng chiến và sau khi kháng chiến thành công. Các kiến trúc sư đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của Tổ quốc giao. Gia tài để lại cho các thế hệ sau chính là những nỗ lực trong quá trình hoạt động nghề nghiệp. Đó là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự nghiệp kiến trúc Việt Nam./.
Trich từ Blog của Bác Đoàn Đức Thành
http://my.opera.com/doanducthanh/blog/show.dml/23859612 

Kiến trúc sư Nguyễn Quang Nhạc
 
Picture Giáo sư – kiến trúc sư Nguyễn Quang Nhạc không chỉ sáng tác kiến trúc mà còn giảng dạy tại Trường cao đẳng Kiến trúc Sài Gòn (Trường đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) từ năm 1958 đến ngày hưu trí, năm 1990.


Kiến trúc sư Nguyễn Quang Nhạc sáng tác nhiều tác phẩm kiến trúc tiêu biểu, là người thầy học rộng biết nhiều, thông tuệ, suốt đời tận tuỵ gương mẫu với công việc, một trí thức toàn diện.

Ông sinh ngày 7-6-1924 tại thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Năm 1943 cùng Phạm Văn Thâng, Trần Văn Tải, Vương Quốc Mỹ ra Hà Nội học ở L'école supérieure des Beaux- Arts de L'Indochine(1), học đến năm thứ hai thì Nhật đảo chính Pháp, trường chuyển vào Đà Lạt rồi giải thể. Đang vui bỗng dưng bị hẫng hụt, đành ở nhà ra thư viện tìm sách kiến trúc xem cho đỡ nhớ trường, nhớ thầy, nhớ bạn và chờ thời.
Năm 1950 ông sang Pháp học và hành nghề kiến trúc sư, tám năm sau trở về nước mở văn phòng và giảng dạy tại Trường đại học Kiến trúc Sài Gòn. Mái trường gắn bó cả đời ông từ khi còn trai trẻ đến khi nghỉ hưu.Việc đầu tiên sau khi về nước ông đã cùng các kiến trúc sư Phạm Văn Thâng, Nguyễn Văn Hoa khai trương Văn phòng kiến trúc sư tư vụ Hoa- Thâng- Nhạc ở Sài Gòn. Nhóm tác giả ba thành viên này sáng tác thiên về phong cách Kiến trúc Hiện đại, thông thạo nhiều lĩnh vực: quy hoạch đô thị, kiến trúc công nghiệp, kiến trúc dân dụng. Trong mỗi lĩnh vực các ông thực hiện đều xuất sắc nhiều thể loại.

Giáo sư – kiến trúc sư Nguyễn Quang Nhạc không chỉ sáng tác kiến trúc mà còn giảng dạy tại Trường cao đẳng Kiến trúc Sài Gòn (Trường đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) từ năm 1958 đến ngày hưu trí, năm 1990. Năm 1967-1975,Ông được bổ nhiệm làm Trưởng Khoa Kiến trúc-Viện đại học Sài Gòn, ông có công đào tạo hàng trăm kiến trúc sư, học trò của ông đang đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Giới nghề bầu ông làm Đoàn trưởng - Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Kiến trúc sư Đoàn. Năm 1975-1990, ông được giao trọng trách Chủ nhiệm Bộ môn Kiến trúc Dân dụng-Trường đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh, được phong hàm Giáo sư bậc II. Đại hội bầu ông làm Phó Tổng Thư ký Hội Kiến trúc sư thành phố Hồ Chí Minh 3 khoá liền (1981-1999), Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Việt Nam khoá III,IV,V. Cống hiến của ông đã được Nhà nước tặng Huân chương Lao động Hạng III (1977). Năm 2001 ông được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật, đợt I.

Với Giáo sư – kiến trúc sư Nguyễn Quang Nhạc, sáng tác kiến trúc và giảng dạy là hai việc song song đồng hành, ông nhận ra hai lĩnh vực này luôn hỗ trợ cho nhau ngày một thêm hoàn thiện. Để có một vị trí sáng tác đạt đến đỉnh cao nghệ thuật đẹp như cái tâm trong sáng của người thầy mẫu mực, hết lòng với sinh viên ông đã lao tâm khổ tứ tự rèn luyện cả một đời người.
Kiến trúc sư Nguyễn Quang Nhạc từ trần 4h ngày 17-8-2004 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Thụy Nhã www.cad.vn (Nguồn: diendankientruc)
----------------------

KTS danh tiếng: Ngô Viết Thụ


Ngô Viết Thụ (Sinh: 17 tháng 9, 1926 tại Lang Xá, Thừa Thiên-Huế.
Mất: 1 tháng 1, 2000 tại Saigon, thọ 73 tuổi), là một kiến trúc sư Việt Nam danh tiếng, ông đã đoạt giải Khôi nguyên La Mã năm 1955 là tác giả nhiều công trình kiến trúc hiện đại tại VN. Là con của ông Ngô Viết Quang và bà Nguyễn Thị Trợ.
Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc tại trường Cao đẳng Kiến trúc ở Đà Lạt. Trong giai đoạn 1950-1955, ông là sinh viên ngành kiến trúc tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia ở Paris. Năm 1955, ông nhận giải nhất Giải thưởng lớn Roma về kiến trúc, thường được gọi là khôi nguyên La mã, và tốt nghiệp kiến trúc sư D.P.L.G.. Trong thời gian 1955-1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của viện hàn lâm Pháp tại Roma để làm nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc.






Từ năm 1960, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ về Việt Nam làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Nhà cầm quyền và dư luận rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính mới. Rất tiếc là vì lý do thời cuộc, dự án này không thực hiện được.Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.)J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy HryniewieckiJohn B. Parkin. cùng với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời như vàÔng đã thiết kế nhiều công trình xây dựng lưu dấu ấn đầy giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật.



Từ năm 1960, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ về Việt Nam làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Nhà cầm quyền và dư luận rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính mới. Rất tiếc là vì lý do thời cuộc, dự án này không thực hiện được.











Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.) cùng với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời như J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin.

Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, ông bị bắt đi học tập cải tạo một năm.
Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng lưu dấu ấn đầy giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Ông còn cộng tác với nhiều KTS khác trong các công trình Viện Quốc Tế Mỷ Thuật Paris (với nhóm KTS Pháp, 1958-1960), chợ Đà Lạt (chỉnh sửa lại tổng thể thiết kế của KTS Nguyễn Duy Đức, bổ sung thiết kế cầu nổi và các khu phố lầu, 1958-1962), Trường Đại Học Y Khoa TP Hồ Chí Minh (trưởng nhóm KTS Việt Nam, cộng tác với nhóm KTS Mỹ).





Ngoài ra, ông còn chứng tỏ năng lực xuất sắc của mình trong lĩnh vực hội họa với bức tranh "Thần Tốc" và bộ tranh Sơn hà cẩm tú. Bộ tranh này và được treo trong dinh Thống Nhất, gồm có 7 bức, mỗi bức dài 2 m và rộng 1 m. Ông cũng là một nghệ sĩ sành sỏi các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
Ông qua đời năm 2000 tại Saigon.



Con trai ông, Tiến sĩ, kiến trúc sư (KTS) Ngô Viết Nam Sơn hiện là một chuyên gia về kiến trúc và quy hoạch đồng thời cũng là giảng viên đại học tại Bắc Mỹ. KTS Ngô Viết Nam Sơn tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Washington, thạc sĩ tại Đại học Tổng hợp California thành phố Berkeley và văn bằng KTS tại Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh. Tham gia các dự án đã và đang được thi công như Phố Đông Thượng Hải (được giải thưởng danh dự của Viện kiến trúc Hoa Kỳ), Đô thị mới Filinvest và Nhà ga sân bay quốc tế Aquino tại Philippines, Cao ốc đa chức năng Almaden tại San Jose (Mỹ), Cao ốc Công ty HDB tại Singapore, Trung tâm huấn luyện phi công tại Orlando (Mỹ), Tổng mặt bằng quy hoạch phát triển mở rộng campus và khu dân cư lân cận của Đại học Washington tại Seattle (Mỹ). Có 3 dự án mà anh mong có cơ hội cùng hợp tác với những người có cùng chí hướng:
- Giáo dục - Học bổng Ngô Viết Thụ: Tìm nguồn hỗ trợ tài chính và cộng tác về tổ chức quản lý để tuyển chọn mỗi năm một nhóm chuyên viên thuộc nhiều ngành (quy hoạch, kiến trúc, kỹ thuật, kinh tế, xã hội và quản lý) cùng đi làm việc trong 3 tháng hè tại một nước APEC với sự hướng dẫn của một nhóm giáo sư hoặc chuyên gia quốc tế, để nghiên cứu một vấn đề bức xúc của đô thị, sau đó đúc kết lại trong một báo cáo về khả năng ứng dụng các bài học kinh nghiệm đó tại Việt Nam.
- Quy hoạch - Tư vấn chiến lược: Viết bài hoặc tham gia vào các nhóm tư vấn chiến lược cho các nhà lãnh đạo trung ương và địa phương trong việc vạch ra đường hướng mới cho chiến lược và chiến thuật phát triển và bảo tồn di sản đô thị tại các vùng đô thị đang phát triển mạnh.
- Kiến trúc Việt Nam và APEC: Cùng vận động để các KTS Việt Nam được quyền hành nghề tại các nước APEC, và hợp tác cùng đồng nghiệp trong việc lập ra một trường phái kiến trúc hiện đại có bản sắc riêng, gắn liền với truyền thống lịch sử và văn hóa của Việt Nam, đặc biệt là trong thiết kế các công trình với kỹ thuật tiên tiến; quy hoạch và kiến trúc một campus đại học tổng hợp quốc tế tại Việt Nam.
(Trích từ:
 
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_Vi%E1%BA%BFt_Th%E1%BB%A5
http://web.thanhnien.com.vn/Kieubao/2006/3/5/140834.tno)
Publié par DAT NGUYEN à 16:47
http://xaydungqh.blogspot.com/2008/06/kts-danh-ting-ng-vit-th.html

------------------------------------
Đẹp trong cái nhìn tổng quát
09.11.2007

 
KTS Nguyễn Trọng Kha được đào tạo tại Pháp, về dạy Đại học Kiến trúc Sài Gòn từ năm 1972. Hiện nay ông là giảng viên khoa Kiến Trúc và quy hoạch của một số trường Đại học tại Paris . Nhân chuyến trở lại TP. Hồ Chí Minh lần này, ông chia sẻ những cảm nhận ban đầu
Thưa ông, ông có nhận xét gì về bộ mặt kiến trúc Sài Gòn trong lần về nước này?
- Trước đây, vào những năm 1987 - 1988, mỗi lần về nước trong chương trình trao đổi Pháp - Việt, tôi phải dừng tại Bangkok để cho sinh viên Pháp thấy được Á châu như thế nào. Dần dần, khi Trung Quốc và Việt Nam mở cửa mạnh mẽ thì “khuôn mặt kiến trúc” cũng thay đổi rất nhiều. Lần này, sau gần hai mươi năm xa Sài Gòn tôi mới trở lại và cũng mới được ít ngày, chưa đi được nhiều nơi nhưng tôi đã thấy nhiều ngôi nhà rất đẹp. Thậm chí bây giờ về mặt kiến trúc nội thất, mình làm hay hơn bên Tây, bên Thái Lan…

Theo ông, vì sao mà có được thực tế lạc quan như ông thấy?
- Vì người Việt Nam rất có khiếu. Chương trình và phương pháp đào tạo kiến trúc sư ở Việt Nam có thể chưa tốt, nhưng chuyện làm nên cái đẹp không cần lý luận nhiều. Cảm thức thẩm mỹ trước hết từ bản năng dội ra rồi mới suy nghĩ, đúc kết. Tôi lại được biết, kiến trúc sư bên mình thường kiêm nhiệm thi công hoặc đeo đuổi công việc thi công rất tận tình. Cộng thêm cái tính chất “thủ công” của quá trình làm ra sản phẩm cũng cho ta một vẻ đẹp nội thất “mềm” hơn, có tình cảm hơn.
Một điều nữa là quan niệm về cái nhà đã thay đổi. Mức sống được nâng cao, kéo theo nhu cầu hưởng thụ về ở. Gia đình Việt Nam nay cũng khác xưa; ít con hơn, các thế hệ không còn sống chung theo kiểu “tam, tứ đại đồng đường” trong một không gian chật chội, thiếu tiện nghi…

Còn những điều gì chưa ưng ý, thưa ông?
- Phải nói rằng tôi chú trọng nhiều về mặt quy hoạch hơn là nhà ở và tôi thường dạy sinh viên sáng tác trong cái nhìn tổng quát. Một ngôi nhà đẹp phải nằm trong một khu nhà đẹp, trong cả một thành phố đẹp. Tôi vừa được bạn bè đưa đến xem một khu biệt thự có giá cỡ 400.000 USD/ngôi, cảm thấy từng cái nhà thì tốt nhưng tính trật tự đô thị và môi trường chung không đạt yêu cầu. Cứ liên tưởng đến một bãi đậu xe hơi; có nhiều xe đời mới, loại đắt tiền, nhưng đậu ngổn ngang, mất trật tự…
Ở đô thị Việt Nam, số nhà xây tự phát có lẽ nhiều hơn nhà do kiến trúc sư thực hiện. Tính tự phát thấy rõ qua việc “thoải mái” sử dụng vật liệu; trong khi ở Pháp chẳng hạn, người ta quy định trong một khu phố thì chỉ được dùng một số loại vật liệu nào đó mà thôi.
Người mình cũng hay tận dụng diện tích, trên một miếng đất hẹp vẫn muốn có diện tích xây dựng tối đa. Phải chăng đó là do tâm lý “lo xa”, muốn có “của để dành”, hoặc cho rằng nhà giàu thì phải… đồ sộ? Hay cũng có thể vì giá đất quá cao nên phải xây tận dụng? Dù sao thì tình trạng nói trên cũng làm giảm cái đẹp, cái sang của ngôi nhà. Ở góc độ quản lý kiến trúc đô thị, cần phải quy định tỷ lệ xây dựng trên một đơn vị diện tích đất, để hạn chế tác hại đó.



Được biết, trong khuôn khổ chương trình trao đổi Pháp - Việt, ông thường có dịp đi về các vùng nông thôn. Ông nghĩ gì về bản sắc kiến trúc Việt Nam qua những chuyến đi ấy?
- Trong nhà ở nông thôn Việt Nam , không gian thờ kính khá đặc trưng. Và tôi nhận thấy nhà ở thôn quê Nam Bộ rất uyển chuyển, rất cởi mở khi xử lý không gian này. Nếu như ngôi nhà “cổ truyền” của nông thôn miền Bắc thường bố trí bàn thờ thụt sâu bên trong, không muốn để người ngoài đi vào khu vực đó; thì ở Nam Bộ rất khác, gian thờ làm to nhất, chủ nhà niềm nở tiếp khách ở ngay chỗ thờ ông bà, tạo nên sự giao hòa ấm cúng thường ngày.
Còn nhiều ví dụ nữa, nhưng theo tôi, bản sắc là cái hình thành một cách tự nhiên, thành cá tính không thể áp đặt; nó sinh ra để đáp ứng nhu cầu thật sự, cụ thể, của cuộc sống con người trong từng thời đại, từng vùng miền. Hiểu như vậy thì kiến trúc “cứ tự nhiên mà sống”. Ngay như kiến trúc tôn giáo vốn rất đặc trưng, rất “công thức”, như chùa Việt chẳng hạn, tôi nghĩ rồi nó cũng phải khác đi, giống như kiến trúc nhà thờ bên châu Âu đã từng thay đổi qua các thời kỳ lịch sử.

Vâng, có lẽ KTNĐ sẽ bàn sâu về kiến trúc nông thôn vào một dịp khác. Xin trở lại vấn đề ở trên, ông có nói đến việc “sáng tác trong cái nhìn tổng quát”. Vậy cái nhìn tổng quát của ông là…
- Trong chuyến trở về thăm thú nơi này nơi kia, tôi hết sức lạc quan về thành tựu kinh tế, về quyết tâm làm giàu của dân ta; nhưng thú thật, về mặt văn hóa xã hội thì tôi hơi… rụt rè khi nêu nhận xét. Có lẽ ở đâu cũng vậy, làm ra đồng tiền dễ hơn “làm ra” kiến thức.
Ngôi nhà đẹp - khu phố đẹp - thành phố đẹp; muốn đạt cả ba cái đó, từ cá thể đến tổng thể hay từ tổng thể đến cá thể, theo chiều nào cũng phải từng bước tuần tự. Kiến trúc là sản phẩm tổng thể của xã hội. Nhưng nếu kiến trúc làm tốt thì có thể tác động ngược trở lại trật tự xã hội.

Trong những ưu tư về kiến trúc nước nhà, tôi nghĩ quan trọng nhất vẫn là phương thức đào tạo, trang bị kiến thức nền cho con người làm kiến trúc. Và phải đưa kiến thức - văn hóa kiến trúc đi sâu, tỏa rộng vào quần chúng nhân dân. Để đáp ứng nhu cầu này, một ấn phẩm có đường hướng như Tạp chí KTNĐ quả thật là cần thiết, bên cạnh những cách thức, những phương tiện khác.
Xin chân thành cảm ơn ông
------------------
KTS. Võ Thành Lân


Một bài phát biểu của KTS. Võ Thành Lân
  Xin chào các bạn đồng nghiệp,
Kính thưa Quý ông, Quý bà



Nghề với nghiệp là hai thứ gắn liền với nhau như hai mặt của một bàn tay. Kiến trúc sư cũng là một nghề như mọi nghề khác và cũng phải: “Mang lấy nghiệp vào thân!”.

Thế giới nầy hàng ngày có một số nghề mất đi và cũng có nhiều nghề mới xuất hiện, đó là quy luật tự nhiên, và điều đó phản ánh một thực tế là công việc nào không còn có ích cho đời thì không có lý do để tồn tại. Chúng ta, những kiến trúc sư thật là may mắn khi chọn cho mình một cái nghề gắn liền với cái nhu cầu thiết yếu của con người từ thuở sơ khai và chắc là sẽ còn cần thiết lâu dài. Một lọai nghề đặc biệt có một thứ ngôn ngữ riêng mà ai cũng có thể hiểu được trong cái thế giới rộng lớn bao la nầy.

Trong thâm tâm, mỗi kiến trúc sư đều tự hào về cái vị trí xã hội đó và thường kháo nhau rằng ai muốn thành kiến trúc sư phải tốn công học hành vất vả, còn đã là kiến trúc sư thì rất dễ dàng hội nhập bằng vai phải lứa với hầu hết mọi giới trong cuộc đời. Một kiến trúc sư có thể dễ dàng nói chuyện một cách hết sức hiểu biết nhau với bác nông dân, với anh xích lô, với chàng trai miền núi, với chị bán rau ngòai chợ…có thể thù tạc không chút e ngại với nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, thầy giáo…có thể vẽ tranh, bình luận bóng đá…và rất có khả năng nhanh chóng hiểu các chị em đang muốn gì, có vấn đề gì cần giải quyết !…- Kiến trúc sư là như thế và phải như thế vì cái nghề nầy cần như thế!

Nghề kiến trúc sư chỉ có Thầy chứ không có Tổ, cho nên cái nghiệp của nó phải tự nó gánh vác, khắc chướng gì cũng phải tự mà gỡ không có Thánh thần nào ngồi sẳn đó để hối lộ, để mà cầu xin ban phước, giải oan. Cái nghiệp của kiến trúc sư cũng lớn như cái vóc xã hội của cái nghề, cũng mênh mông và bất định trong sự lu tỏ nhập nhòe của cuộc đời. Một cái nghiệp dễ dắt người ta lạc vào cái cỏi phiêu diêu mộng ảo làm ta quên mất cái chức phận của mình, quên mất rằng cái nghiệp của chúng ta không phải là một thứ bí ẩn của số phận mà chỉ là một lời răn, là sự nhắc nhở :“Hãy trả nợ cuộc đời bằng chính cái nghề của mình”.- Cái nghiệp của chúng ta là như thế !, đơn giản và chân thực như thế thôi.

Nước ta hiện nay có bao nhiêu kiến trúc sư ? – Có thể nhiều mà cũng có khi rất thiếu. Nhiều là nhiều người có bằng kiến trúc sư, ít là ít kiến trúc sự thực sự mang lên đôi vai của cái nghiệp của mình. Thực ra còn có phân lọai: kiến trúc sư già trẻ, trong Hội hay ngòai Hội, kiến trúc sư là đảng viên hay ngòai đảng; lại còn có thêm kiến trúc sư là thạc sĩ, là tiến sĩ, là giáo sư…có rất nhiều cách định danh, và mỗi danh xưng lại có không gian tư duy và họat động khác nhau thậm chí khác nhau hòan tòan.

- Có người suốt đời chỉ biết làm cán bộ, làm quan chưa từng sản xuất ra một bản thiết kế nào nhưng lại rất giỏi cái việc làm cho tác giả của những bản thiết kế nào đó đó cụt hứng bất cứ lúc nào


- Có những người trên danh thiếp trước chữ kiến trúc sư có đến vài tiếp đầu ngữ được ghi rất sang trọng nhưng suốt đời hoặc từ rất lâu rồi chưa hề cầm đến cây bút vẽ thế mà lại rất thạo cái việc phát biểu trước hội đồng nầy, hội thảo nọ và làm rất tốt cái việc tạo ra những phiên bản giống y như họ cho những ai có nhu cầu.…



Còn nhiều, còn rất nhiều sự khác biệt không thể tương thích nổi giữa những người mang danh là kiến trúc sư trong xã hội. Nhiều đến mức việc định nghĩa kiến trúc sư là ai, kiến trúc sư làm gì trở thành một việc không cần thiết, chỉ có những anh dở hơi mới cần có cái định nghĩa vô bổ như thế!


Có phải thực sự là như thế không ?

- Tôi hồi mới ra trường, còn trẻ ham vui, rán sức cậy cục nặn ra được một cái gọi là đồ án gởi đi dự thi quốc tế. Phước chủ may thầy, được một cái giải thưởng nho nhỏ. Thế là được lên báo lên đài, được kết nạp vào Hội, được đưa vào Ban chấp hành từ đó cho đến nay.

- Cách nay không lâu, có lần tôi được Sở Xây dựng mời làm giám khảo cuộc chi thiết kế chung cư với dự án được mô tả có quy mô vài ngàn tỷ đồng với lời mời rất chân tình và thiết tha. Nhưng khi tôi hỏi thù lao trả cho tôi trong công việc nầy là bao nhiêu thì mọi thứ trở nên khác hẵn, tôi được nhìn như là một người ngòai hành tinh. Ở đâu cũng vậy, tại hội đồng thẩm định Cung hội nghị quốc gia với vốn đầu tư mấy trăm triệu đô; tại cuộc thi quốc tế quy họach Thủ Thiêm; nơi hội đồng giải thường nhà nước…không thấy ai nói gì đến thù lao cụ thể cả mà chỉ là những chiếc phong bì tùy hỉ. Cung cách đối đãi nầy thể hiện sự kéo dài của một cách nhìn về trí thức như là lọai thành phần xã hội mà ý kiến chuyên môn của họ chỉ được nhìn nhận ở mức tham khảo; thể hiện một thói quen cái gì có sẵn thì dùng và của ai muốn lấy thì lấy.

- Chừng hai năm trước, một ngày đẹp trời nọ có người mang đến nhà cho tôi một cái huy chương, Huy chương vì sự nghiêp văn hóa với giấy chứng nhận do bộ trưởng Bộ Văn hóa và TT ký hẳn hoi. Dần dà hỏi ra mới biết tôi được thưởng huy chương cùng lúc với một số kiến trúc sư khác. Tự xét, tôi thấy mình thực sự có công trạng gì đâu, thì ra chỉ là vì cái danh sách xin huy chương kia nếu có thêm tên tôi xem chừng sẽ tròn trịa về thành phần cấu tạo hơn, dễ thuyết phục hơn mà thôi. Vốn là người nhẹ dạ, tôi nghĩ thôi kệ người ta vui thì mình cũng vui…Thế nhưng làm ta không thể không suy nghĩ về sự tồn tại của mình, sự tồn tại đó có phải như là một thực chất xã hội hay là một lọai chỉ cần để cấu tạo hoặc trang trí cho đẹp chơi ?!

- Gần nay thôi có các bạn trẻ hỏi tôi rằng qua 30 năm làm kiến trúc sư tôi cảm nhận thế nào về nghề nghiệp của mình. Một câu hỏi tưởng chừng như đơn giản nhưng lại khó quá cho tôi để mà trả lời. Nhớ lại rằng từ khi sinh ra còn chưa biết gì, rồi thì tập ăn tập nói, rồi đi học; tới 15 tuổi thì đã biết xuất tinh, nhìn trộm con gái…và tới 18 tuổi thì biết đủ thứ, đã có thể lấy vợ, làm bố…Thế mà từ khi mang danh kiến trúc sư đến nay đã 30 năm rồi vẫn còn bối rối trước câu hỏi mình là ai và làm gì !- Tại sao thế nhỉ ?, tại sao cái vấn đề lẽ ra là cái sự đơn giản nhất lại trở thành khó khăn và ám ảnh đến mức khó chịu như vậy ?

Người xưa nói “ Ngũ thập tri thiên mệnh” – Đêm nằm ngẩm nghĩ cái mệnh nào của mình đây ?, mình đang là to hay nhỏ; To chứ, vì mình đã từng có mặt ỡ những nơi quan trọng, đã từng đứng ngồi gần các ông to nắm trong tay tiền tỷ tỷ của nhà nước , hay đã từng tiếp xúc với các đại gia bảnh chọe thứ gì cũng biết…Nhưng lại cũng rất nhỏ, nhỏ bởi vì mình chỉ được làm những cái việc mà người ta cho mới được làm, nhỏ bởi vì mình chỉ làm theo cái việc người ta biểu mình, sai mình làm mà thôi…Lớn là bởi vì mình đang có những thứ mà nhiều người khác không có, nhỏ ở chỗ người ta có cho thì mình mới có được dù anh có tài giỏi siêng năng đến mấy thì cũng một phép mà tuân thủ..!!!.

Thật tình nhiều lúc có ý định bỏ nghề vì thấy sao kỳ cục quá:

- Kỳ cục nhất là mấy ông bà chủ bên A, ai cũng trịch thượng đòi chia tiền thiết kế như thể họ có quyền ban cho hay lấy đi cái công sức lao động của mình và nếu không có họ thì sẽ không có gì cả cho anh em mình.

- Cùng một công việc như nhau, nếu là người nước ngòai thì được hưởng thiết kế phí cao hơn kiến trúc sư trong nước 10-20 lần. Đồ nội có yếu hơn đồ ngọai thì cũng không thể có cách đánh giá về giá trị sáng tạo hay khả năng sản xuất chênh lệch xa đến mức như vậy.

Đây không chỉ là sự phân biệt đối xử, mà từ lâu đã là một lọai vật cản không vượt qua được trên con đường đi lên và hội nhập của ngành thiết kế kiến trúc nước nhà. Cái giá thiết kế hiện nay đang đặt các kiến trúc sư và doanh nghiệp của mình trước bờ vực của sự phá sản, đang biến chúng ta thành những tên ăn cắp, ăn cắp định nghĩa theo công ước Bernt; đang biến chúng ta trở thành những tên tội đồ nhỏ nhoi và tội nghiệp.

Bây giờ các cuộc thi thiết kế, người ta thích yếu tố nước ngòai và thậm chí còn tìm cách lọai hẳn các kiến trúc sư trong nước ra khỏi cuộc chơi, do vậy nhiều anh em mình do ham việc phải bấm bụng mà núp dưới một cái tên Tây tên Tàu nào đó để tìm cơ hội mong manh ngay trên sân nhà. Lẽ ra một anh nước ngòai phải theo một anh local thì mới đúng - Tình thế hiện nay là rất kỳ cục như vậy. Các ông quan chức lớn ở Bộ vô tình với dân mình đến thế sao ?! – Chắc chắn là không vô tình đâu, vì sự tồn tại những tập đòan dưới trướng của họ mới thực sự là điều cần quan tâm và càng ít đi các văn phòng thiết kế tư nhân thì càng tốt chứ sao !?

- Cà nước có chừng 10 trường có đào tạo kiến trúc sư. Các trường phải tuân thủ nghiêm ngặt chương trình giảng dạy, học trò muốn được học phải qua xét tuyển kỹ càng. Nhưng bên cạnh đó mỗi tỉnh có một ông quan cấp Sở có quyền cho hoặc không cho giấy phép hành nghề và danh sách các ông quan nầy không nằm trong một danh mục nào cả !

- Với tấm bằng kiến trúc sư cộng thêm một số quen biết cần thiết, kiếm một chỗ ngồi cấp phép xây dựng, một chân quản lý dự án, hay quản lý một vài thứ lằn nhằn gì đó ở các cơ quan quản lý xây dựng, quản lý kế họach, quản lý đầu tư…xem chừng kiếm ăn khá hơn và bảnh bao hơn, được người ta xum xoe ve vuốt, hơn là phải khoanh tay cúi đầu nhịn nhục trước những cái "thùng rỗng" và gò lưng trên bản vẽ với cái mộng tưởng làm đẹp cho đời.

Và còn nhiều thứ trái khóay khác có kể hết cũng đến mai !

Và cứ như thế cái nghiệp đời phủ cái bóng đen to lớn của nó cái nghiệp nghề bất phân phải trái, trắng đen. Và cứ như thế mỗi ngày một chút, cái nghề kiến trúc sư trở thành cái nghề vẽ thuê, cái nghề làm dịch vụ, là cái cớ góp phần thực hiện những toan tính nhiều mầu lắm vẻ nhưng bên trong chứa đựng không ít điều hắc ám.

Chân thành xin lỗi các đồng nghiệp!


Chả có mấy khi gặp gỡ nhau đông đúc thế nầy. Thường thì tiêu chí vui vẻ được đặt lên hàng đầu trong những cuộc anh em đồng nghiệp có dịp gần gũi nhau, vui vẻ là cần thiết, là thuộc tính tự nhiên của kiến trúc sư, không ai giỏi hơn các kiến trúc sư về việc tạo ra sự vui vẻ dù bất cứ ở đâu và trong hòan cảnh nào.

Và song song, cũng không ai hơn kiến trúc sư về cái khả năng nhận ra chân tướng những éo le của cuộc đời. Chúng ta không bi kịch hóa cuộc đời, cũng như không tự huyễn hoặc mình trong một cái bối cảnh không gian mộng tưởng nào đó, kiến trúc sư là những người vui vẻ và chân thực, hồn nhiên và đáng yêu.

Một tiếng nói chung nào đó ở đây vào lúc nầy theo tôi nghĩ đều không ngòai mục đích bảo vệ cái tính chất nghề nghiệp trong sáng và yêu đời của chúng ta, trong mỗi người chúng ta bắt đầu từ việc dẹp bỏ tự ái và những lời thị phi sang một bên mà định nghĩa lại : Ai là kiến trúc sư ?, và bao giờ thì ta thực sự là một kiến trúc sư ? – Phải kiên trì trả lời cho được câu hỏi nầy dù đó là một câu hỏi khó trả lời, bởi vì tuy không khó về nội dung và chữ nghĩa mà lại rất khó ở tại lòng người !

Không vượt qua được câu hỏi nầy thì làm sao cái nghiệp nghề và cái nghiệp đời thành một được – Làm sao để khi nói đến kiến trúc sư thì chủ yếu là nói đến người làm công việc sáng tác và thiết kế thực sự chứ không phải đánh đồng với kiến trúc sư quan, kiến trúc trúc sư quản lý, kiến trúc sư thầu, kiến trúc sư chạy chọt… Một khi câu hỏi còn đó thì chúng ta còn phải sống theo cái kiểu phân thân nữa vời và trong hòan cảnh nầy chúng ta có gặp nhau thì cũng chỉ gặp có một nữa của mỗi người mà thôi. Một ngàn cái một nữa cũng không bao giờ thành một được. Có vui cũng là vui gượng kẻo mà…

Để trở thành một: một thực thể xã hội, một nguồn lực quốc gia, một tình yêu nghề nghiệp chân phương, một trách nhiệm cá nhân hòan hảo của giới kiến trúc sư, cần phải bắt đầu từ một không gian nghề nghiệp lành mạnh và hiệu quả hơn. Tất cả, tất cả có gì khác hơn đó là cần phải có một KIẾN TRÚC SƯ ĐÒAN. Mà nào có xa lạ chi, khó khăn chi, cả thế giới nầy thiên hạ ai cũng làm vậy.


Nãy giờ tôi nói có gì chưa đúng hay làm phiền lòng ai, xin hãy bỏ qua vì nỡ nào bắt lỗi một kẻ thiệt tình – Có tâm đắc về điều gì đó qua cái tâm sự lòng thòng của tôi thì xin cũng đừng vỗ tay vì có gì mới lạ đâu mà tán thưởng. Điều tôi nghĩ cần làm lúc nầy là giữ nửa phút im lặng để chúng ta thực sự thấy rằng chúng mình rất gần nhau…
Kiến trúc sư Võ Thành Lân



-------------------------------------------------

GƯƠNG MẶT "VINH DANH NƯỚC VIỆT"
Kiến trúc sư Hồ Thiệu Trị
24/12/2004


CÔNG TY TNHH KIẾN TRÚC SƯ HỒ THIỆU TRỊ VÀ CỘNG SỰ

Đôi nét về tiểu sử:
KTS Hồ Thiệu Trị sinh năm 1945 tại Long Xuyên – Việt Nam . Quốc tịch: Pháp
Sau khi tốt nghiệp trường đại học Kiến trúc Sài Gòn, năm 1974, KTS Hồ Thiệu Trị sang Pháp, tại đây, ông đã tiếp tục học thêm về chuyên môn kiến trúc tại Paris, cũng trong thời gian này KTS Hồ Thiệu Trị trở thành thành viên chính thức của Hội Kiến trúc sư Pháp (năm 1979), đồng thời là KTS quy hoạch (Mỹ, năm 1984).
Trong suốt thời gian sống và làm việc tại Pháp, ông đã từng làm việc tại văn phòng của KTS DEVINOY, tham gia thiết kế nhiều công trình trụ sở làm việc, trung tâm thương mại, bệnh viện và các công trình văn hoá công cộng, sau đó hợp tác và là thành viên của Công ty CR Architecture (tại Paris) của KTS Claude Costantini & KTS Michel Regembal – tác giả của Sân vận động Stade de France nổi tiếng.
Năm 1995, KTS Hồ Thiệu Trị trở lại Việt Nam , bắt đầu với việc cải tạo, nâng cấp Nhà hát Lớn Hà Nội. Năm 1998, thành lập Công ty Hồ Thiệu Trị E.S.A.S tại Hà Nội, tiền thân của Công ty Kiến trúc sư Hồ Thiệu Trị & Cộng sự (Ho Thieu Tri Architect & Associates) ngày nay.

Quá trình làm việc:
Năm 1979: Thành lập văn phòng kiến trúc sư Ho Thieu Tri Architect ESAS tại Paris – Pháp
Năm 1980 đến nay: Hợp tác và làm việc với công ty CR Architecture: Costantini – Regembal Architect (Paris)
Năm 1995 đến nay: Thành lập Công ty Ho Thieu Tri Architecte E.S.A.S tại Hà nội
Năm 2002 đến nay: Thành lập Công ty Kiến trúc sư Hồ Thiệu Trị & Cộng sự (Ho Thieu Tri Architect & Associates) tại Hà nội.

Các công trình thực hiện tại Pháp cùng với CR Architecture:
1994-1996: Thiết kế Toà nhà Hiệp hội các ông chủ vùng Loiret (tại Orleans, Loiret)
1994-1997: Sân vận động Quốc gia Pháp (Seine-Saint-Denis) 80.000 chỗ ngồi
1994-1997: Tham gia dự án đấu thầu Sân vận động KOLN (Cologne-Đức)
1994-1998: Trúng thầu dự án Khu 50 căn hộ HLM và nhà vườn (Paris)
1997: Nhà hát – Phòng hoà nhạc Zenith de Clermont – Ferrand 8.000 chỗ
1997-1999: Thiết kế Trung tâm Nghe nhìn Beaugency
1998: Trung tâm nghe nhìn Narbonne
1998: Tham gia và trúng thầu dự án Sân thể thao & đỗ xe 4.800m2 tại Yvelines.
1998-2001: Trúng thầu dự án Khu căn hộ Pla và căn hộ cứu trợ xã hội
(Seine Saint-Denis)
1999: Toà nhà văn phòng Grimbergen (Bruxulles, Bỉ) diện tích 33.000m2
1999: Dự án Trung tâm thương mại và văn phòng khách sạn tại Kerepesi, Budapest, Hungari với tổng diện tích 200.000m2
1999: Trung tâm Thương mại Tongres (Bỉ)
1999: Dự án Sảnh lễ tân lớn khu Auverghe et Zenith
2000: Tham gia dự án đấu thầu Sân vận động Franckfurt (Đức) 55.000 chỗ ngồi
(đạt giải Nhì)
2000: Tham gia thiết kế Khu liên hợp Thể thao Olympique Bắc Kinh 2008
2001: Công trình cải tạo bảo tàng lịch sử văn hoá Polonaise (Paris)
2001: Bản quy hoạch Trung tâm thành phố Saint Georges 30ha.


Các giải thưởng đã giành được tại Pháp:
Tại Pháp, cùng với CR Architecture, KTS Hồ Thiệu Trị đã tham gia thiết kế và giành được nhiều giải thưởng uy tín về kiến trúc như:
- Giải thưởng Thước kẻ Bạc;
- Giải thưởng về kiến trúc khu vực vùng;
- Giải thưởng kiến trúc đặc biệt kiến trúc quốc tế cho công trình Sân vận động Stade de France.


Các giải thưởng kiến trúc đã đạt được tại Việt Nam :
Năm 1997: Giải thưởng kiến trúc do Bộ Văn hoá Thông tin trao tặng dành cho công trình tôn tạo Nhà hát Lớn Hà Nội, đóng góp vào sự thành công Hội nghị cấp cao 7 các nước Pháp ngữ.
Năm 1998: Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Xây dựng và Hội Kiến trúc sư Việt nam trao giải thưởng cho việc tu bổ, cải tạo, nâng cấp Nhà hát Lớn Hà Nội.
Năm 2002: Bộ Xây dựng trao giải A cho phương án kiến trúc Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình
Năm 2003: Bộ Xây dựng trao giải A cho phương án kiến trúc Nhà Quốc Hội & Hội trường Ba Đình mới.
Năm 2003: Bằng khen của UBND tỉnh Quảng Ninh về công trình Trung tâm Tổ chức Hội nghị tỉnh Quảng Ninh.
Năm 2004: Giải 3 cuộc thi phương án thiết kế Trụ sở Tổng công ty Vận tải và Dịch vụ công cộng Hà Nội Transerco.


Tại Việt nam, KTS Hồ Thiệu Trị & các cộng sự đã thiết kế nhiều công trình nổi tiếng như:
1997: Tôn tạo Nhà hát Lớn Hà Nội
2000: Trung tâm Chiếu phim Quốc gia (Láng Hạ, Hà Nội)
2001: Khu biệt thự cao cấp Hồ Tây (Đặng Thai Mai, Tây Hồ, Hà Nội)
2001: Cao ốc Văn phòng 21 tầng Bitexco (Q1, TP Hồ Chí Minh)
2002: Trung tâm Ngôn ngữ Văn minh Pháp L’ Espace (24 Tràng Tiền, Hà Nội)
2002: Khách sạn 5 sao Tân Hoàng Cung (Huế)
2002: Resort Mỹ Cảnh – Bảo Ninh (Đồng Hới, Quảng Bình)
2003: Trung tâm Tổ chức Hội nghị tỉnh Quảng Ninh (Hạ Long, Quảng Ninh)
2003: Khu du lịch sinh thái Giang Điền 30ha (Đồng Nai)
2004: Nhà hỗn hợp cao tầng ở & làm việc 21 tầng Lilama (124 Minh Khai, HN)
2004: Khách sạn Zephir (4-6 Bà Triệu, Hà nội)
2004: Nhà câu lạc bộ Sân gôn Tam Đảo (Vĩnh Phúc)
2004: Quy hoạch Khu đô thị mới Nam thị xã Vĩnh Yên 1300ha (Vĩnh Phúc)
2004: Quy hoạch Khu đô thị mới Đại Phước 464ha (Đồng Nai)
2004: Quy hoạch Khu đô thị mới Nhơn Phước 201ha (Đồng Nai)
2004: Trụ sở làm việc Tỉnh uỷ Kiên Giang
2004: Trung tâm Kinh doanh đồng bộ 3 chức năng Toyota Mỹ Đình (Mỹ Đình)
2004: Cao ốc văn phòng 10 tầng (63 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q1, TP HCM)
2004: Cao ốc văn phòng 15 tầng (10 Công trường Quốc tế, Q1, TP HCM)… và nhiều công trình, biệt thự cao cấp khác … 

 

KTS Nguyễn Trường Lưu:”Muốn kiến thiết đô thị, phải biết cầm cương quy hoạch”

(Nguon: Lao Động Cuối tuần số 32 Ngày 09/08/2009)
 
Kiến trúc sư Nguyễn Trường Lưu. K73.












(LĐCT) – Trong những công trình của kiến trúc sư Nguyễn Trường Lưu như: Kho bạc nhà nước, Đài Truyền hình TPHCM, Khu tưởng niệm các Vua Hùng ở công viên Lịch sử Văn hoá Dân tộc TPHCM, quận 9…, tất cả đều để lại dấu ấn của vùng đất miền Nam nắng gió, phóng khoáng, mạnh mẽ và hiện đại.
Riêng công trình đền tưởng niệm Vua Hùng là một khái niệm rộng mở để gắn kết tâm linh người Việt với nguồn cội. Nhưng có lẽ những công trình đó được giải thưởng của Hội Kiến trúc sư VN vẫn là một nốt đàn riêng không hợp bè với dàn nhạc quy hoạch đầy ngổn ngang lộn xộn hiện nay.
Người ta nói căn bệnh trầm kha của đô thị TPHCM đến bây giờ thì không thể nào chữa nổi. Ông nghĩ sao về điều này?- Tôi từng sống ở Hà Nội, đến năm 1976 vào Sài Gòn. Ngay những ngày đầu ở đây, tôi đã có cảm nhận trong mình một đô thị không ổn. Sài Gòn là một cái lò nung, nơi nhiều người muốn sự thành đạt thì vào đây, nhưng sau khi thành đạt rồi lại muốn tìm cảm giác bình yên, thanh thản, không xô bồ ở Hà Nội. Tuy nhiên, phải nhìn ở góc độ kinh tế, mỗi năm, GDP của TPHCM tăng 10%, chiếm tỷ trọng 30% GDP cả nước. Nên phát triển thế nào để giữ được văn hoá? Tôi không cổ xuý cả thành phố người đi rầm rập, nhưng đã là con người, ai cũng muốn thành công, muốn có nhiều thứ.
Mặt khác, trong một đô thị, phải có không gian này, không gian khác. Ơ TPHCM trước đây, người ta thường bảo: “Ăn quận 5, nằm quận 3″ (quận 5 có nhiều quán ăn ngon, quận 3 nhiều nhà biệt thự yên tĩnh, thoáng mát, nhiều cây), nhưng đến nay đã khác lắm rồi. Sắp tới, quận 3 là nơi tập trung nhiều cao ốc văn phòng nhất sau quận 1. Tương tự, Đà Lạt trước đây thưa thớt, êm đềm, thì nay cũng sắp trở thành lò lửa (cả khí hậu đang nóng dần lên, lẫn việc nâng cấp thành đô thị loại 1).
Cái chính là khi thay đổi như vậy, người dân có chịu thiệt thòi? Đấy mới là bài toán. Mới đây, xem chương trình thời sự, tôi lại thấy người ta khánh thành con đường đắt nhất thế giới ở Hà Nội. Đắt, mà vẫn là con đường xô bồ, nhiều công trình nhà phố chen chúc lô nhô, như thế thì quá lãng phí. Hay như ở TPHCM có con đường Nguyễn Văn Trỗi tốn kém là thế, mà chỉ giải quyết mặt giao thông, còn hình ảnh nhà phố vẫn lam nham.
Tất cả là do không có thiết kế đô thị, không triệt để trong công tác chỉnh trang đô thị. Ở đấy chỉ là vấn đề mở con đường to hơn. TP đang lúng túng trong quy hoạch. Đó mới là điều chính. Còn những vấn đề như ngập nước, lô cốt, tắc đường… thì một đô thị đã 300 năm (có những hạ tầng kỹ thuật đã tồn tại khoảng 200 năm), từ khoảng một triệu dân phát triển lên đến 8 triệu dân thì rõ ràng, toàn bộ hệ thống hạ tầng cơ sở đều phải làm lại, nên không tránh khỏi những cảnh bề bộn, dang dở, bực mình. Chỉ có điều, trong giai đoạn này, thi công từng khúc như thế nào thì phải tính toán cho hợp lý.
Như vậy, ông cho rằng, một khi quy hoạch lúng túng và bế tắc, thì cách duy nhất để sửa dần chính là bàn tay thiết kế đô thị?- Đúng! Chúng ta không đổ đồng các con đường như nhau. TPHCM mới đây bắt đầu ngồi lại nghiên cứu, bắt đầu từ khu trung tâm thành phố. Trước đây chúng ta có dễ dãi quá không? Cũng có lúc, để nâng cấp hạ tầng, phải chống chọi với những hỗn loạn, nhưng vấn đề là người hoạch định chính sách phải biết cầm cương, cho con ngựa-quy hoạch lồng đến đâu, chống chọi được cú lồng đó, không kiềm chế nó và ưu tiên phát triển kinh tế, miễn là sự phát triển đó không phá hoại đô thị.
Về mặt mỹ quan, ông cho rằng đô thị TPHCM lố nhố, xấu đều, thiếu thẩm mỹ. Các công trình đẹp đứng cạnh nhau thì không còn đẹp. Vậy theo ông, có cách nào khắc phục tình trạng này?- Các viện nghiên cứu về quy hoạch, khi nghiên cứu thiết kế đô thị nên chú ý đến sự liên quan giữa các không gian trong một cụm. Bản thân từng kiến trúc sư có thể có những công trình đẹp, thậm chí, người ta còn mời chuyên gia quốc tế đến vẽ kiểu, nhưng khi xét đến toàn cảnh thì phải chú ý đến sự hài hoà về không gian giữa các công trình với nhau để tạo một không gian đô thị. Khi những công trình “đẹp” đứng cạnh nhau mà không được nghiên cứu có một không gian hài hoà thì không khác một dàn nhạc mạnh ông nào ông ấy gõ, mà khi tấu lên, thì không nghe được.
Khi thực tế cho thấy quản lý thẩm mỹ đô thị hoàn toàn thất bại, thì có cần thiết chấp nhận tính hổ lốn, màu mè, dễ gây cảm giác nổi cáu từ kiến trúc đô thị, hay phải có cái nhìn khác, theo ông?- Một khi đã đến nước Mỹ, có thể thấy từ Washington DC, Los Angeles, Houston…, không nơi nào đặc biệt như New York. Nước mình cũng cần có một đô thị như lò lửa tập trung mọi thứ – đó là Sài Gòn. New York toàn building, đời sống căng thẳng, nhiều áp lực hơn mọi nơi khác, nhưng là nơi người ta đổ xô về tìm cơ hội.
Ngay trong TPHCM, khu đô thị chỉn chu như Phú Mỹ Hưng có nhiều người Hàn Quốc, Đài Loan đến ở; ngược lại, khu Thảo Điền, quận 2 lại nhiều người Châu Âu. Phải chăng, người Châu Âu đã quá quen với văn minh đô thị mà thích cảnh bề bộn, hoang dã một chút, nơi hễ triều cường, trẻ con Tây lại hăm hở lội nước và vác xuồng đi chơi?
Hay có những đô thị đầy sinh khí, và những nơi vô hồn? Chấp nhận triều cường, sống chung với thiên nhiên hay làm ngược lại? Tôi nghĩ rằng, cách quản lý tốt chính là khắc phục nhược điểm. Các khu đô thị bị ngập thì phải nâng nền lên chẳng hạn.
Đường dẫn vào đền tưởng niệm các vua Hùng.
Một đô thị đẹp như Phú Mỹ Hưng nhưng lại được đặt ở nơi từng là vùng trũng thoát nước của TP. Phải chăng những sự bất cập trong quy hoạch này là nguyên nhân gây ngập ngày càng tăng?- Không chỉ riêng Phú Mỹ Hưng, mà các khu quy hoạch mới đều chen chân mọc lên lấn hết đất của những vùng hồ điều hoà mực nước trong TP, từ Phương Nam Sài Gòn, Kỳ Hoà, Phú Thọ cho đến Bình Thạnh. Đến lúc này, chuyện ngập đã trở thành bình thường. Người ta đang tính đắp đập ở các con sông từ đây đến Long An, triều cường lên thì đóng lại.
Chấp nhận một đô thị lộn xộn, sống chung với nó, nhưng cái đẹp không chấp nhận sự hỗn loạn, thiếu quy chuẩn. Cuối cùng vẫn là vai trò quản lý đô thị mà thôi.
Một đô thị, dù có thế thiết kế đẹp, đồng bộ đến thế nào chăng nữa, thì yếu tố đó chỉ mới chiếm 30%, 70% còn lại là do con người sống trong đó tạo nên vẻ đẹp văn minh đô thị. Sở dĩ, New York có vẻ đẹp trong chính sự hỗn độn của nó, là vì người ta quản lý được TP này. TP giàu nhất nước Mỹ, mà nước Mỹ là cường quốc giàu nhất thế giới, hơn nữa, người ta có đủ kinh nghiệm quản lý đô thị, định hướng sự phát triển của nó. Trong đô thị có những lằn ranh của nó. Còn ở ta, gần như không ghìm cương được con ngựa này.
Một kiến trúc sư Mỹ từng nhận xét: “Nếu đô thị VN không chuyển động theo hướng tích cực hơn thì những công trình kiến trúc vô hồn và khu ổ chuột sẽ mọc lên ngày càng nhiều”. Vậy theo ông, làm sao khơi dậy bản sắc trong kiến trúc đô thị ở ta?- Gần đây có nhiều hội thảo quốc tế về kiến trúc ở triển lãm kiến trúc TPHCM, trong đó, các diễn giả nói đến kiến trúc bền vững, sinh thái, mối tương quan giữa kiến trúc và xây dựng. Nhiều người cho rằng, Trung Quốc đang là một nơi thử nghiệm kiến trúc trên toàn thế giới, nhưng hiện nay, họ đang tự hào vì có những công trình tốt.
Một số diễn giả Châu Âu cho rằng đó chỉ là những con khủng long của thế kỷ 21. Đẹp hay xấu trong kiến trúc tuỳ theo quan điểm mỗi người. Ở ta cũng vậy. Có người lo sợ Sài Gòn sẽ không còn bản sắc với tốc độ xây dựng như hiện nay. Nhưng tôi cho rằng, nếu có bê cả kiến trúc Hồng Kông vào Sài Gòn thì Sài Gòn cũng không thể thành Hồng Kông được.
Nền kinh tế xã hội của một quốc gia càng phát triển, thì cái bản sắc dân tộc càng rộ lên. Cái chính là cần hướng về kiến trúc, quy hoạch bền vững. Bền vững không có nghĩa là giữ được nhà bêtông sau 100 năm, mà là sử dụng kiến trúc đó hợp lý, theo quy luật tự nhiên để nó tồn tại trong vòng 100 năm và hơn nữa.
Đô thị là cuộc chơi của người có tiền, nhưng đôi khi có tiền rồi mà chưa chắc đã chơi đẹp được. Ngay cả chuyện giữ lấy kiến trúc cổ và bảo tồn cũng đã là cuộc chơi quá tốn kém và gây tranh cãi…- Người ta vẫn lẫn lộn giữa chuyện cuộc sống hàng ngày và giữ hình ảnh cho những khu đô thị cổ. Ở Quảng Tây, Trung Quốc, có khu phố cổ Dương Sóc, được người ta gìn giữ rất tốt. Lý do là người dân không sống trong những khu phố cổ đó, mà chỉ kinh doanh và khai thác du lịch, tối về ngủ ở nơi khác. Còn ở Hội An, ta vẫn dùng dằng giữa sống chung với phố cổ và làm du lịch, giữa khốn khổ chịu đựng nhà cổ xuống cấp và không bảo tồn ngôi nhà được.
Quan niệm của ông về kiến trúc đẹp…

- Có hai yếu tố kết hợp: Cái duyên với mình và đáp ứng những tiêu chuẩn về cái đẹp. Có những không gian mà khi bước vào, người ta lập tức yêu thích, muốn ở ngay, thì đó là cái duyên. Còn đẹp thì phải đúng chuẩn. Đôi khi phải tính đến cái đẹp trong sự xếp đặt không gian, đặt công trình A bên cạnh công trình B, sao tạo được sự hài hoà; hoặc có thể, là tương phản, để mỗi bên tôn lên cái đẹp của nhau.
Xin cảm ơn ông.
Kiến trúc sư Nguyễn Trường Lưu - ủy viên Đoàn Chủ tịch Hội kiến trúc sư thành phố Hồ Chí Minh – đã nhận nhiều giải thưởng, trong đó có công trình: Đài Truyền hình TPHCM, Kho bạc TPHCM, Khu chung cư 14A Lạc Long Quân, Resort Hoàng Ngọc… 
 
Nhật Lệ thực hiện
-------------

30-4-1975, Tổng thống Dương Văn Minh và kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái

http://my.opera.com/doanducthanh/blog/show.dml/10716111
KIẾN TRÚC VIỆT: Đã gần 20 năm, tôi (KTS Đoàn Đức Thành) quen biết KTS Nguyễn Hữu Thái. Anh là cộng tác viên nhiệt tình của Tạp chí Kiến trúc (Hội Kiến trúc sư Việt Nam), tôi là Phó Tổng biên tập Tạp chí này, thường xuyên trực tiếp quan hệ về bài vở với anh. Bẵng đi mấy năm, anh sang Canada sinh sống. Sang thế kỷ này anh trở lại định cư ở thành phố Hồ Chí Minh. Hai năm trước anh tặng tôi bài viết này và một đĩa hình giới thiệu kiến trúc Dinh Độc Lập, cùng hai đĩa nhạc của con trai anh - KTS Nguyễn Hữu Thái Hòa (Giám đốc chất lượng quản lý hơn 40 nhà máy của Công ty Schneider Electric tại châu Á - Thái Bình Dương - VT1 chương trình Người đương thời, 2007, đã giới thiệu) thể hiện những bài hát của Trịnh Công Sơn, nhờ anh chuyển cho tôi.
Ngày mai, 30-4-2010, miền Nam giải phóng 35 năm, KIẾN TRÚC VIỆT trân trong giới thiệu bài viết của KTS Nguyễn Hữu Thái, anh là người giới thiệu lời đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh Tổng thống cuối cùng Việt Nam Cộng hòa tại Đài phát thanh Sài Gòn vào trưa ngày 30-4-1975. Anh nguyên là Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1963-1964) từng có nhiều dịp tiếp xúc với tướng Minh và cũng là một nhân chứng trong ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


* Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng
tại Đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30-4-1975, KTS Nguyễn Hữu Thái, thứ 2 (cầm tập giấy) kể từ phải
Ảnh: Nhà báo Kỳ Nhân, phóng viên ảnh Hãng thông tấn AP Mỹ.


Bản thân tôi đã từng gặp gỡ tướng Dương Văn Minh vào nhiều thời điểm và tình huống lịch sử khác nhau trong những năm 1950-1970 của thế kỷ trước. Thời học sinh, năm 1955, lần đầu tôi nhìn thấy ông như người hùng diệt Bình Xuyên. Năm 1963 làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, tôi có dịp tiếp cận nhiều lần với Trung tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Năm 1971, tôi ra tranh cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa dưới chiêu bài hòa bình hòa giải dân tộc trong nhóm Dương Văn Minh. Vào ngày lịch sử 30-4-1975, chính tôi là người giới thiệu lời đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa trên Đài phát thanh Sài Gòn.* KTS Đoàn Đức Thành và KTS Nguyễn Hữu Thái (từ trái sang phải).

Người hùng lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, 1963

Lần đầu tiên nhìn thấy tướng Dương Văn Minh rất trẻ ở tuổi, chưa tới 40, là vào năm 1955 khi tôi còn là một học sinh trường Taberd Sài Gòn. Vị Đại tá mới vinh thăng Thiếu tướng Dương Văn Minh oai phong dẫn đầu đoàn quân chiến thắng quân Bình Xuyên của Bảy Viễn từ Rừng Sát quay về, trong cuộc duyệt binh lớn trên đường Catinat (nay là Đồng Khởi) vào những ngày đầu chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam.
Bẵng đi một thời gian không nghe nhắc đến tên ông. Tên tuổi Dương Văn Minh bỗng lại nổi lên như cồn vào năm 1963 khi ông lãnh đạo “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Báo chí phương Tây thường gọi ông là “Big Minh” (Minh Lớn). Tuy vóc dáng dềnh dàng rất nhà binh, ông là một Phật tử có tâm, ăn nói điềm đạm, ôn tồn và chất phác kiểu một “bon papa” (người cha hiền lành dễ chịu).
Ông sinh năm 1916, tại Mỹ Tho, đang là sinh viên trường thuốc, thì bị gọi thi hành nghĩa vụ quân sự vào hàng sĩ quan trừ bị quân đội Pháp khi nổ ra Thế chiến II. Có lẽ ông không đồng chính kiến với người em đi theo Việt Minh chống Pháp, vì quan niệm rằng Việt Nam có thể được trao trả độc lập nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Vào năm 1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm sử dụng ông để diệt các nhóm chống đối vũ trang Bình Xuyên và giáo phái ly khai ở miền Tây Nam Bộ.
E ngại ảnh hưởng của ông quá lớn, Ngô Đình Diệm không dám giao ông chức vụ gì quan trọng, chỉ cử ông sang Mỹ học một khóa tham mưu cao cấp rồi phong quân hàm trung tướng, giữ một chức vụ hữu danh vô thực “Cố vấn quân sự của Tổng thống”, ngồi chơi xơi nước! * Tướng Dương Văn Minh ngày lật đổ Ngô Đình Diệm, 1963
Tôi được tập thể sinh viên Sài Gòn đề cử làm Chủ tịch đầu tiên ngay sau ngày chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Chính Hội đồng Quân nhân Cách mạng lúc đó đã ký giấy giao tòa nhà số 4 đường Duy Tân (nay là Nhà Văn hóa Thanh niên đường Phạm Ngọc Thạch), nguyên là trụ sở Thanh niên Cộng hòa của Ngô Đình Nhu cho sinh viên làm nơi hoạt động và tôi là người đích thân đứng ra nhận lãnh.
Tuy vậy, trong nội bộ tướng lãnh lại sớm lục đục nhau. Chỉ ba tháng sau ngày lật đổ Ngô Đình Diệm, vào đầu năm 1964, Trung tướng Nguyễn Khánh từ Quân đoàn II ở Tây Nguyên bay về hợp cùng nhóm Đại Việt thân Mỹ làm cuộc “Chỉnh lý” (đảo chính êm thắm) bắt giữ hầu hết những người chung quanh tướng Minh. Họ tố cáo nhóm ông thân Pháp và âm mưu đưa miền Nam Việt Nam vào con đường trung lập do Tổng thống De Gaulle chủ xướng, tuy họ vẫn phải giữ ông lại ngôi vị bù nhìn Chủ tịch Hội đồng Quân nhân (tương đương vai trò Quốc trưởng) do uy tín ông còn quá lớn trong nhân dân và quân đội.
Tết năm đó, tôi đại diện sinh viên Sài Gòn dự buổi tiếp tân Tất niên tại dinh Gia Long của Quốc trưởng. Trung tướng Minh chỉ làm vì, quyền hành thực sự nằm trong tay tướng Nguyễn Khánh và nhóm tướng lãnh trẻ, người Mỹ gọi là “Junta”.
Cuộc đảo chính của tướng Khánh mới xảy ra, nên cuộc vui cũng không trọn. Các tướng lãnh, chính khách, đại diện các đoàn thể nhân dân, tôn giáo đều có mặt. Lần đầu tiên tôi gặp mặt hầu hết các tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa. Tôi chỉ góp chuyện xã giao với tướng Minh và các nhân vật đang lên vào lúc đó là các tướng Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm.
Tôi còn nhớ Nguyễn Văn Thiệu mới được vinh thăng thiếu tướng và đảm trách chức vụ tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa, được tướng Minh nhắc nhở, nửa đùa nửa thật: “Hãy coi chừng! Việt Cộng hoạt động dữ lắm trong mấy ngày Tết!” Cuộc họp mặt cuối năm diễn ra khá hình thức và buồn tẻ. Tôi đứng chụp hình chung với một số tướng lãnh và Tổng giám mục Công giáo Nguyễn Văn Bình rồi rời dinh Gia Long, trong lòng không vui.
Do công tác, sinh viên chúng tôi lại có dịp hội kiến Quốc trưởng Dương Văn Minh. Nhân phút nhàn đàm về viễn tưởng chiến tranh và hòa bình, tướng Minh tâm tình: “...Bộ các em không muốn nước Việt Nam mình trung lập như Thụy Sĩ hay sao?” Có lẽ do những ý hướng hòa bình, trung lập kiểu đó mà tướng Minh từ năm 1964 đã sớm bị nhóm tướng Nguyễn Khánh cùng người Mỹ chủ trương leo thang chiến tranh đẩy ra khỏi chính trường miền Nam và bị lưu đày nhiều năm ở nước ngoài.
Vào thời đó, tôi không biết đích xác sự việc bên trong ra sao, chỉ nghe tin đồn là Dương Văn Nhựt, người em ruột tướng Minh theo Việt Minh tập kết ra Bắc nay quay vào Nam bắt liên lạc và tác động tướng Minh ngả về chủ trương trung lập hóa miền Nam để chấm dứt chiến tranh.

Con đường hòa giải dân tộc Phật giáo

Sau vụ chính biến Phật giáo miền Trung đấu tranh chống “Nội các chiến tranh” Nguyễn Cao Kỳ năm 1966, tôi bị bắt. Ra tù đầu năm 1968, tôi bị đưa thẳng vào quân trường đi lính. Nhờ được công tác tại Sài Gòn, tôi quan hệ với nhiều anh em tiến bộ tán thành lập trường hòa bình, hòa giải dân tộc trong số dân biểu đối lập chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và nhóm trí thức tiến bộ tập hợp chung quanh tướng Minh vừa từ Bangkok quay về cuối năm 1968. Chúng tôi chủ yếu hoạt động trong tờ báo Tin Sáng do dân biểu đối lập Ngô Công Đức chủ biên.
Năm 1971, Việt Nam Cộng hòa tổ chức bầu cử Quốc hội và tiếp theo là bầu cử Tổng thống. Người của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đề nghị tôi ra tranh cử với lập trường hòa bình đứng giữa, chuẩn bị cho “Thành phần thứ ba”. Hội nghị Paris về vấn đề Việt Nam tuy chưa ngã ngũ nhưng người ta đang bàn luận đến việc lập chính phủ ba thành phần, trong đó có thành phần đứng giữa làm trung gian hòa giải trong chính phủ liên hiệp tương lai. Thật khó khăn nếu tự ra ứng cử đơn thương độc mã một mình. Tên tuổi của tôi tuy cũng có một thời được nhiều người biết đến, nhưng nay chắc không ai còn nhớ đến trong cái Sài Gòn rộng lớn và bận rộn làm ăn này. Dẫu có tự do bỏ phiếu thì tranh cử kiểu không tiền bạc, không thế lực nào hậu thuẩn như tôi chỉ là chuyện vô ích. * Yểm trợ Nguyễn Hữu Thái ra tranh cử Quốc hội Sài Gòn, 1971.
Phải tìm hậu thuẫn nơi khối đông đảo quần chúng đô thị, lúc này không ai khác hơn là lực lượng Phật giáo, nhất là ở miền Trung. Tôi bàn bạc với người Mặt trận Giải phóng sẽ về Đà Nẵng quê tôi để tranh cử. Bấy giờ tôi có thuận lợi là vừa được sự ủng hộ của nhóm tướng Dương Văn Minh, người sẽ ra tranh cử Tổng thống với chiêu bài hòa bình lẫn sự hỗ trợ của Thượng tọa Thích Trí Quang. Nhà lãnh đạo Phật giáo uy tín nhất miền Nam lúc đó đang bị Thiệu-Kỳ cô lập ở Sài Gòn đã đích thân gửi thư yêu cầu vị sư đại diện tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng là Thích Minh Chiếu sắp tên tôi vào danh sách những người được Phật giáo ủng hộ công khai. Nhưng việc đó không thành, do lủng củng bên trong nội bộ lãnh đạo giáo hội. Phe chống Cộng như các Thượng tọa Thiện Minh, Huyền Quang không chấp nhận tôi, nghi ngờ là người của Giải phóng, nên tôi đã thất cử. Tướng Minh vào giờ chót cũng rút lui ra khỏi cuộc tranh cử Tổng thống và chuẩn bị lực lượng cho một vận hội mới vào một thời điểm thích hợp hơn.
Tôi ngày càng gắn bó hơn với nhóm trí thức trẻ hoạt động chung quanh tướng Minh, đặc biệt với các dân biểu đối lập và tiến bộ như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quí Chung, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Binh… Tôi trở thành một trong các cây bút chủ lực báo Điện Tín do nhóm Dương Văn Minh chủ trương, sau khi tờ Tin Sáng quyết liệt chống Nguyễn Văn Thiệu bị đóng cửa và nhiều dân biểu chủ trương hòa hợp hòa giải bị loại ra khỏi Quốc hội.

Thay người khác mà vác cờ trắng

Tôi lại bị chính quyền Sài Gòn bắt giam trước ngày ký kết Hiệp định Paris về hòa bình Việt Nam vào cuối năm 1972 do bị tố cáo là thuộc Thành phần thứ ba thân Cộng. Khi ra tù năm 1974, tình hình đã biến chuyển nhanh theo hướng chấm dứt chiến tranh. Chính quyền Sài Gòn ráo riết đàn áp đối lập và những ai kêu gọi hòa bình hòa giải dân tộc. Tôi phải trốn tránh, rút lui vào hoạt động bí mật.
Về tình hình trong tháng tư năm 1975 liên quan đến việc tướng Minh ra nhận chính quyền Việt Nam Cộng hòa, sau này tôi đọc được trong tập hồi ức của Thượng tọa Trí Quang ghi rằng: “...Ấy thế mọi việc diễn ra có lúc đến chóng mặt. Cho đến mùa xuân 2519 (1975) thì một ngày mà có người ba lần đến vận động tôi đừng chống việc ông Dương Văn Minh đứng ra, “vì chính quyền của ông ấy sẽ có bảy phần mười là người tiến bộ ”. Tôi không nói lại gì cả, chỉ quan tâm lời thầy Trí Thủ nói, rằng chim cá còn mua mà phóng sinh, lẽ nào đồng bào mà không hy sinh cấp cứu. Rồi ông Dương Văn Minh gặp tôi, đưa ra hai mảnh giấy báo cáo mật cho thấy ngân hàng trống rỗng và quân sự nguy ngập, và nói ông không vụ lợi vì lợi không còn gì, không cầu danh vì danh đến quốc trưởng là cùng, ông chỉ không nỡ ngồi nhìn chết chóc. Tôi nói, nếu lòng ông như thế là ông làm như lời thầy Trí Thủ nói, và có nghĩa ông thay người khác mà vác cờ trắng !“
Tôi đang trốn tránh trong nhà dân biểu Lý Quí Chung do Thượng tọa Trí Quang gửi gắm và biết anh là một trong những người thân cận nhất của tướng Dương Văn Minh vào thời điểm đó. Tôi chú ý thấy tướng Minh thường ghé nhà anh bàn bạc. Sau này, anh nói rằng sự thật thì từ giữa tháng 4-1975, nhóm Dương Văn Minh đã quyết tâm ra nắm chính quyền với mục tiêu tìm mọi cách chấm dứt cuộc chiến, nếu cần phải cầm cờ trắng đầu hàng. Anh cho rằng: “quyết định làm người cầm cờ đầu hàng cũng là một sứ mạng lịch sử”! Cụ thể là đã có đến ba phần tư những người trí thức hoạt động chính trị chung quanh tướng Minh đã quan hệ với Mặt trận Giải phóng hoặc là cán bộ Cách mạng rồi. Đó là những người như thẩm phán Triệu Quốc Mạnh, Bộ trưởng Nguyễn Văn Diệp, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, giáo sư Lý Chánh Trung,... Tướng Dương Văn Minh dẫu sao cũng đại diện cho một phần nhân dân miền Nam và là vị tướng lãnh có uy tín cuối cùng không bỏ chạy khỏi miền Nam Việt Nam vào lúc đó.
Bản thân Lý Quí Chung không trực tiếp quan hệ với cách mạng, nhưng anh có những bạn bè gần gũi như các nhà báo Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt, sau này là Tổng biên tập báo Công An TP.HCM), Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn), Trương Lộc… mà anh biết là người của Mặt trận Giải phóng. * Tướng Dương Văn Minh và Lý Quí Chung.
Tuy vậy, sự việc cụ thể diển biến không mấy bình thường như Lý Quí Chung suy nghĩ và viết ra trong hồi ký của mình. Đã thật sự xuất hiện không ít âm mưu kéo dài tình trạng nhập nhằng với sức ép đàng sau của cả bạn lẫn thù của phe cách mạng. Không ít người trong nhóm Dương Văn Minh đã tìm nhiều cách, vận động nhiều hướng, nhiều phía để tìm kiếm sự ủng hộ nước ngoài. Cho đến giờ chót, họ vẫn ấp ủ hy vọng chính quyền Dương Văn Minh tồn tại lâu dài và được công nhận như một chính phủ hoặc một thành phần quan trọng trong “Chính phủ Liên hiệp” mà họ tự nghĩ ra !

Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng…

Sáng tinh mơ ngày 30-4, từ cơ sở chuẩn bị nổi dậy của sinh viên ở Đại học Vạn Hạnh (gần chợ Trương Minh Giảng), tôi bàn với Nguyễn Trực người thân cận với Thượng tọa Trí Quang rồi chạy vội lên chùa Ấn Quang (đường Sư Vạn Hạnh) gặp vị sư lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên nhóm Dương Văn Minh này. Lâu nay tôi vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với ông, tuy ông biết rõ tôi đến từ phía nào rồi. Tôi báo ngay: “Tình hình cấp bách quá rồi, xin Thầy làm sao tác động gấp nhóm ông Minh chủ động tìm cách chấm dứt ngay cuộc chiến để tránh đổ máu và tàn phá Sài Gòn. Các đường giây liên lạc với bên kia nay đã đứt hết rồi, không còn thì giờ đưa giải pháp này nọ nữa đâu…”
Thượng tọa Trí Quang hiểu ngay và choàng áo sang phòng bên gọi điện thoại. Tôi nghe vị Thượng tọa nói chuyện qua lại một hồi, rồi quay về cho biết:
-Thái cứ yên tâm, Thầy không gặp được ông Minh (Tổng thống mới nhậm chức), nhưng đã nói chuyện với ông Mẫu (Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng nội các mới), có lẽ họ cũng nhanh chóng hành động theo hướng đó…
Tôi quay về Đại học Vạn Hạnh và khoảng hơn 9 giờ (giờ Sài Gòn thời đó, sớm hơn nay một giờ), thì nghe tướng Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn: “Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải của người Việt Nam để khỏi thiệt hại xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, không nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong một trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”.
(Theo băng ghi âm Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nay còn cất giữ).
Sinh viên chúng tôi bèn chia làm 2 mũi lên đường hướng về các Đài phát thanh và truyền hình nhắm chiếm đài, phát đi tiếng nói Cách mạng. Một nhóm anh em sinh viên có trang bị vũ khí nhẹ lên xe ca đến Đại học Nông lâm súc, áp sát chuẩn bị xâm nhập vào các đài. Tôi cùng nhà báo Nguyễn Vạn Hồng và giáo sư Huỳnh Văn Tòng (tiến sĩ sử học tiến bộ ở Pháp về, giảng dạy báo chí ở các đại học) vào dinh Độc Lập nhắm thuyết phục những người quen biết trong chính quyền tướng Minh bàn giao chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng một cách êm thắm nhất.
Khoảng 10 giờ, chúng tôi lên chiếc xe Renault 8 màu xanh của Hồng. Nhà báo có giấy phép đặc biệt vào ra Phủ Tổng thống nên chắc không có gì trở ngại. Nhưng khi xe chạy vào cửa hông đường Nguyễn Du, thấy vắng tanh nên tiến thẳng luôn vào thềm dinh. Tôi vội vàng đi tìm Lý Quí Chung, lúc đó là Tổng trưởng Thông tin duy nhất được chỉ định chính thức trong Nội các mới. Chung đồng ý ra Đài phát thanh ngay với chúng tôi trên một công xa, nhưng không một tài xế nào chịu lái đi vì sợ bị bắn.
Chúng tôi đang loay hoay thì bỗng mọi người cùng hướng nhìn về đại lộ Thống Nhất (Lê Duẩn ngày nay). Một cảnh tượng hùng tráng diễn ra: một đoàn xe tăng rầm rộ tiến về hướng Dinh. Bỗng chốc cổng Dinh bị húc đổ, đoàn tăng cày lên thảm cỏ, tiến thẳng đến thềm Dinh. Tôi và anh Huỳnh Văn Tòng giúp người bộ đội xe tăng cầm cờ Giải phóng cắm lên nóc Dinh.
Phải ra ngay Đài phát thanh, tôi tháp tùng xe của Chính ủy Bùi Văn Tùng cùng các nhà báo Tây Đức Von Boric Gallasch và Hà Huy Đĩnh đưa Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và Tổng trưởng Thông tin Lý Quí Chung ra Đài phát thanh.

Xin giới thiệu lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh về vấn đề đầu hàng

Anh em sinh viên đã cùng bộ đội chiếm giữ Đài rồi, nhưng không vận hành được cũng như không biết phát đi nội dung gì. Chúng tôi tìm được anh Trần Văn Bảng kỹ thuật viên phát thanh vận hành lại Đài, còn nhà báo Đức thì cho mượn chiếc cát xết thu lời đầu hàng của tướng Minh và lời chấp nhận đầu hàng của chính ủy Bùi văn Tùng, do chính ông Tùng soạn thảo.
Tướng Minh nhìn thấy tôi trong đám người này có vẻ cũng yên lòng. Trông ông mệt mỏi và không mấy vui. Thân hình ông vẫn to lớn nhưng mặt ông hơi hốc hác. Dẫu sao ông cũng đã hy sinh danh dự của một tướng lãnh (dù là một tướng bại trận) để thực sự cứu thành phố này khỏi cảnh tàn phá và đổ nát. Sau này tôi mới biết là ông và bộ tham mưu từ mấy ngày qua đã quyết định đầu hàng dẫu có bị đối xử không tương xứng của phía đối nghịch. Đó cũng là một hành động can đảm và đáng ca ngợi của một Phật tử vào cuối đời. Có lẽ ông chưa bao giờ thành công trong hoạt động chính trị. Ông chỉ là nhân vật cần thiết của tình thế nhưng không nắm được quyền lâu dài. Vào năm 1963, không ai ngoài ông trong số tướng lãnh đủ uy tín đứng ra lãnh đạo cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Lần này, có lẽ chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng không còn con bài nào khác để chấm dứt cuộc chiến một cách êm thắm. Ít ra ông còn giữ được nguyên vẹn Sài Gòn và phần còn lại của miền Nam tránh khỏi đổ nát và đổ máu thêm một cách vô ích trong cuộc thư hùng cuối cùng giữa những người anh em ruột thịt.
Tôi nhìn sang Giáo sư Vũ Văn Mẫu, ông có vẻ bình thản trong bộ complê màu xanh nhạt luôn chỉnh tề của một nhà giáo đại học. Khi còn học ở khoa Luật, tôi rất thích lối giảng các bài pháp chế sử, mạch lạc, hùng biện và cả hóm hỉnh của ông. Tuy xuất thân trong gia đình quan lại miền Bắc và di cư vào Nam năm 1954, khi nổ ra vụ tranh đấu Phật giáo năm 1963, đang giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa ông can đảm từ nhiệm và cạo trọc đầu phản kháng Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Nay ra lãnh chức vụ Thủ tướng, tôi nghĩ ông không có ước mong gì khác hơn là đem lại hòa bình, hòa hợp hòa giải thật sự cho dân tộc.
Về nội dung bản tuyên bố đầu hàng, tôi nhìn thấy giữa tướng Minh và chính ủy Tùng có lời qua tiếng lại. Hình như tướng Minh không muốn nêu chữ “Tổng thống” mà dùng tiếng “Đại tướng” quen thuộc hơn. Ông Tùng cương quyết không chịu vì cho rằng dẫu sao thì tướng Minh cũng đã làm Tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, nay phải tuyên bố với tư cách đó mới ra lệnh được cho cả bên dân sự lẫn quân sự. Thu băng thử đi thử lại mấy lần mới xong. Lời phát biểu của Thủ tướng Mẫu thì ông được nói trực tiếp.
Loay hoay đến gần hai giờ chiều (giờ Sài Gòn lúc đó, sớm hơn hiện nay một giờ) chúng tôi mới phát đi được tiếng nói Cách mạng đầu tiên trên Đài phát thanh Sài Gòn. Nguyên văn tiếng nói mở đầu của tôi:
“Chúng tôi là những người đại diện cho Ủy ban Nhân dân Cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Chúng tôi là những người đầu tiên tới Dinh Độc Lập trước 12 giờ và đã cùng anh em quân đội giải phóng cắm cờ trên Dinh Độc Lập. Chúng tôi là giáo sư Huỳnh Văn Tòng và cựu Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn Nguyễn Hữu Thái… Đời sống bình thường đã trở lại Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố mà Bác Hồ đã mong đợi, nay đã được giải phóng… Xin giới thiệu lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu của chính quyền Sài Gòn về vấn đề đầu hàng ở thành phố này…”
Đại tướng Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng theo bản văn do Chính ủy Bùi Văn Tùng soạn thảo:
“Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”.
Giáo sư Vũ Văn Mẫu phát biểu trực tiếp:
“Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào hãy vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc, và trở lại sinh hoạt bình thường. Chuyên viên của các cơ quan hành chính quay trở về vị trí cũ dưới sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng”.
Tiếp đó là lời Chính ủy Bùi Văn Tùng:
“Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố Thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của ông Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn”.
Và tôi tiếp tục dẫn chương trình: “…Quân Giải phóng đã tiến vào dinh Độc Lập và đã làm chủ hoàn toàn các điểm chốt quân sự cũng như dân sự của vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định…”
(Các lời tuyên bố trên đài phát thanh đều còn giữ lại được trong một băng ghi âm do Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã thu trong chiều 30-4-1975).
Sau đó, bộ đội đưa đoàn tướng Minh về lại Dinh Độc Lập. Tôi đích thân đứng ra điều hành buổi phát thanh cho đến 4 giờ chiều thì giao lại cho nhóm anh em sinh viên đại học Khoa học Sài Gòn, do tôi phải lên trường Petrus Ký (nay là trường Lê Hồng Phong) nơi đóng quân của Ban Chỉ huy chiến dịch Giải phóng Sài Gòn gặp ông Mai Chí Thọ. Sinh viên chỉ giao lại Đài phát thanh cho ban phát thanh Giải phóng vào tối hôm đó.

Tôi đã góp phần tránh một cuộc đổ máu vô ích cuối cùng cho Sài Gòn

Những người thân cận tướng Dương Văn Minh ở Dinh Độc Lập nhớ lại mấy sự kiện này. Vào sáng sớm có một đơn vị thiết giáp đến vây quanh Dinh, viên chỉ huy đề nghị tướng Minh tử thủ. Ông từ chối và thuyết phục họ rút đi. Ông cũng làm như vậy với nhóm biệt kích Lôi Hổ đằng đằng sát khí. Cuối cùng, một số sĩ quan cao cấp hải quân đến mời tướng Minh xuống tàu chạy đi, ông cũng từ chối. Lát sau viên tướng Pháp đội lốt ký giả Francois Vanuxem hối hả vào xin gặp tướng Minh và nói với họ: “Hãy rút về Cần Thơ, cố thủ Vùng 4 chiến thuật, chỉ vài ngày nữa thôi thì Trung Quốc sẽ áp đặt giải pháp trung lập hóa Miền Nam”. Tướng Minh than: “Hết Tây đến Mỹ, chẳng lẽ bây giờ còn đi làm tay sai cho Tàu nữa sao!”
Việc Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đầu hàng ở cái “nút” ấy, một người trong cương vị ông Minh có thể có nhiều quyết định. Nếu quyết định khác đi, sẽ là máu đổ, sẽ là nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn. Sài Gòn sẽ tan tành... Lúc đó có nhiều người nói ông Dương Văn Minh yêu nước thương dân nhưng cũng có người hoài nghi cho rằng ông Minh đã ngầm theo Cách mạng? Sau những Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn cùng nhiều nhà tình báo vĩ đại khác, suy nghĩ trên không phải không có cơ sở.
Tướng Dương Văn Minh nguyên là một sinh viên miền Nam ra học trường thuốc ở Hà Nội, cùng thời với kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, một trong các lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Khác chính kiến với người em trai tham gia phong trào Việt Minh, ông đã trở thành sĩ quan trong quân đội Pháp và nghĩ rằng Việt Nam có thể độc lập trong khối Liên hiệp Pháp. Phải chăng do sai lầm đó mà nay tại Dinh Độc Lập ông đã quyết tâm quên mình chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện để cứu người thôi đổ máu theo tinh thần của một Phật tử.
Trong buổi lễ, Chủ tịch Ủy ban Quân quản tướng Trần Văn Trà đã phát biểu: “Trong cuộc chiến đấu lâu dài này không có ai là kẻ thắng ai là kẻ bại. Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng, chỉ có đế quốc Mỹ xâm lược là kẻ chiến bại. Nhân dân Việt Nam là dân tộc duy nhất trong lịch sử nhân loại đã đánh bại quân Mông Cổ. Vào năm 1954, chúng ta đã đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ, và nay chúng ta đã đánh bại Hoa Kỳ, nước tự hào cho mình là hùng mạnh nhất thế giới. Đây là niềm hãnh diện chung của tất cả nhân dân Việt Nam chúng ta”. * Buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập tối ngày 2-5-1975.
Tướng Dương Văn Minh đã trả lời thật chân tình: “Ngày hôm nay, đại diện cho các anh em có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ Cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước... Tôi nghĩ rằng với hành động của mình, tôi đã góp phần tránh một cuộc đổ máu vô ích cuối cùng cho Sài Gòn. Đó là phần đóng góp cụ thể của tôi trong cuộc chiến đấu này. Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”.
(Theo băng ghi âm buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tối ngày 2-5-1975 tại Dinh Độc Lập)
Ba mươi ba năm đã trôi qua sau sự kiện lịch sử Giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, tôi ghi lại những gì chính bản thân mình đã tai nghe mắt thấy về nhân vật Dương Văn Minh, mong cung cấp một số tư liệu sống về diễn biến các hoạt động của một vị tướng Việt Nam Cộng hòa nổi tiếng và từng gây nhiều tranh cãi nhất liên quan đến ngày 30-4-1975.

Nguyễn Hữu Thái
3-2008

"Đô thị Việt Nam khá hỗn độn" - KTS Nguyễn Hữu Thái

Thứ hai, 08 Tháng 12 2008 21:45 Pháp Luật TPHCM
Email In PDF.
Tại hội thảo quốc tế về Việt Nam học, thảo luận của tiểu ban “Đô thị và đô thị hóa” đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Xung quanh những vấn đề nóng về phát triển đô thị, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái (ảnh) đã chia sẻ những lo lắng về quá trình phát triển đô thị “trống rỗng về lý luận”:

- Tham luận tại hội thảo lần này, tôi muốn đề cập tác động của toàn cầu hóa đến quy hoạch đô thị. Do tác động của quá trình toàn cầu hóa về kinh tế, tại nhiều nước đã hình thành các thành phố toàn cầu, từ đó trên toàn thế giới hình thành mạng lưới đô thị toàn cầu. Điểm chung của các thành phố này là cái lõi kinh doanh, dịch vụ trung tâm, các nút giao thông lập thể, xa lộ băng ngang thành phố. Chúng là các công cụ hữu hiệu để đẩy mạnh kinh tế, đáp ứng đòi hỏi của thị trường và lợi ích tài chính tư nhân. Tuy nhiên, lối quy hoạch đó đã từng làm hại môi trường lẫn chất lượng cuộc sống đô thị, mầm mống của nhiều bất ổn xã hội.

Những thách thức lớn

Theo ông, các thách thức của phát triển đô thị Việt Nam hiện nay là gì?

- Đô thị Việt Nam có chung các đặc trưng cơ bản của thành phố châu Á. Tuy vậy, vừa thoát khỏi chiến tranh và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nước ta vẫn còn là một nền kinh tế đang phát triển với một khu vực nông thôn to lớn. Quần cư đô thị Việt Nam thường xuất hiện với một thành phố hạt nhân luôn quá tải, bao quanh là nông thôn bao la mang nặng cơ cấu truyền thống với mặt bằng dân trí thấp. Trong cơn sốt phát triển theo kinh tế thị trường, đô thị Việt Nam như một công trường xây dựng lớn, khá hỗn độn. Thiên nhiên bị phá hủy, đất nông nghiệp bị lấn chiếm để xây dựng các khu công nghiệp, nhà ở ngoại ô và cả sân golf. Bùng nổ đầu cơ nhà đất đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, một yếu tố gây rối loạn nền kinh tế trong nước.

Các mặt yếu kém của đô thị xuất hiện ngày càng nhiều: ô nhiễm, nhà ổ chuột, úng ngập, tắc nghẽn giao thông. Không ít trung tâm lịch sử bị phá hủy như khu phố cổ Hà Nội, khu phố Pháp, phố Tàu cũ ở TP.HCM.

Trong tham luận, ông có đặt câu hỏi “đô thị Việt Nam: toàn cầu hóa hay phát triển bền vững”. Như vậy, phải chăng quá trình toàn cầu hóa có ảnh hưởng đến việc phát triển bền vững?

- Toàn cầu hóa gây ra sự bất bình đẳng giữa các nước và trong lòng mỗi nước. Về mặt quy hoạch đô thị, nhiều dự án phát triển đô thị mới dựa trên cơ sở lý luận quy hoạch hiện đại chủ nghĩa phương Tây, thỏa hiệp với sức mạnh của lòng tham và lợi nhuận. Đô thị Việt Nam có chung những thách thức mà các đô thị của hầu hết các nước hiện nay phải đối mặt. Đó là sự phá hủy môi trường và lối sống địa phương chưa từng thấy do quá trình đô thị hóa. Đó là tình trạng dân nghèo đô thị - nạn nhân của sự giải tỏa đô thị và tái phát triển, những người không được hưởng phần chia công bằng đáng ra phải có từ lợi ích của sự phát triển. Mặt khác, còn có một sự trống rỗng của lý luận đô thị mới, phần nhiều các đô thị đang sao chép lại mô hình đô thị hiện đại của phương Tây.
  • Ảnh bên : Kiến trúc tuyến đường mới Kim Liên - Ô Chợ Dừa (Hà Nội)
Riêng trong lĩnh vực đô thị, phát triển bền vững nên được hiểu cụ thể như thế nào, thưa ông?

- Một đô thị phát triển bền vững là đô thị mà trong đó con người sống hòa thuận với tự nhiên, hình thành các dải đô thị sinh thái chứ không phải đô thị công nghiệp. Thứ hai là trong đô thị đó phải có công bằng xã hội. Người nghèo, người mất đất ở đô thị vẫn khổ quá. Để quy hoạch đô thị phát triển bền vững, có kiến trúc sư Singapore đề xuất “phát triển đô thị theo đạo lý châu Á”. Kiến trúc sư người Malaysia S. W. Lim (nguyên chủ tịch khu vực châu Á của Hiệp hội Kiến trúc sư quốc tế) cho rằng quy hoạch kiến trúc đô thị có tầm nhìn phải giải quyết được ba vấn đề: Phục hồi và sáng tạo lại quá khứ; tham gia vào xã hội hậu hiện đại toàn cầu và phát triển đô thị cho nhân dân theo các tiêu chí công bằng và bình đẳng.

Bảo vệ tương lai

Trận mưa lũ lịch sử vừa qua ở Hà Nội đã gây ngập lụt lớn ở khu đô thị mới Mỹ Đình và Trung tâm Hội nghị quốc gia. Điều này khiến nhiều người lo lắng về chất lượng quy hoạch của các khu đô thị mới. Ông nghĩ gì về điều này?

- Theo tôi biết thì các khu đô thị mới có xây dựng hệ thống thoát nước. Tuy nhiên, nước thoát khỏi khu vực đó thì thoát đi đâu khi rất nhiều hồ trong thành phố đã bị bê-tông hóa. Vấn đề là sự lúng túng trong quy hoạch tổng thể. Theo tôi, việc quy hoạch khu đô thị mới như ở Phú Mỹ Hưng (TP.HCM) có thể là một kinh nghiệm mà các nhà quy hoạch, kiến trúc sư Việt Nam nên học hỏi. Nhà đầu tư Đài Loan thuê hẳn một công ty Trung Quốc xây dựng cơ sở hạ tầng trước rồi mới bắt tay xây dựng các khối nhà, công viên cây xanh, hồ điều hòa nước... Tôi thấy cách làm của họ khá bài bản.

Theo ông, nếu phát triển đô thị Việt Nam không nên sao chép lại quy hoạch hiện đại chủ nghĩa của phương Tây thì nên theo mô hình nào?

- Có thể học được những bài học phát triển đô thị từ các nền kinh tế phát triển nhanh ở châu Á. Các kiến trúc sư hàng đầu ở Malaysia và Singapore đã thành công khi thiết kế nhà chọc trời xanh, mang tính nhiệt đới. Hong Kong là hình ảnh rõ rệt nhất của thành phố toàn cầu với hải cảng, nhà chọc trời và giao thông không ngớt. Nhưng nơi đây vẫn có bản sắc riêng của nó vì đằng sau nhà chọc trời là công trình thương mại, nhà ở gồm các khối nhà có hình thù, số tầng và quy mô khác nhau, mang bản sắc “phố Tàu”. Công tác chỉnh trang gọi là “hậu quy hoạch” ở thành phố này có ý thức và khá sáng tạo đã biến thành phố vừa hiện đại vừa mang bản sắc riêng.

Ông có kiến nghị cụ thể nào về hướng phát triển cho đô thị Việt Nam?

- Chúng ta cần rút ra bài học kinh nghiệm về phát triển đô thị ở các nước châu Á. Tìm cách biến sự phát triển chậm của mình thành thế mạnh và bảo vệ tương lai bằng cách phát huy chứ không nên làm lu mờ những đặc điểm lịch sử, di sản văn hóa, lý tưởng công bằng xã hội của mình trong lĩnh vực quy hoạch kiến trúc đô thị.
http://mag.ashui.com/index.php/tuongtac/doithoai/56-doithoai/533-do-thi-viet-nam-kha-hon-don-kts-nguyen-huu-thai.html
>> Nghề Kiến trúc - Thách thức và Hội nhập (tác giả: KTS Nguyễn Hữu Thái)
----------

Nghề Kiến trúc - Thách thức và Hội nhập

Thứ năm, 28 Tháng 8 2008 09:54 KTS. Nguyễn Hữu Thái
Email In PDF.
Nếu qui định được trách nhiệm rõ ràng giữa thiết kế và thi công, việc quản lý sẽ đơn giản, mọi vi phạm đều có pháp luật xử lý. Bên thiết kế chủ yếu bảo đảm công năng sử dụng, mỹ thuật kiến trúc, giám sát công trình. Do uy tín nghề nghiệp, trách nhiệm trước pháp luật, cạnh tranh về chất lượng, đơn vị thi công thường tự tổ chức giám sát riêng, với đội ngũ chuyên viên có trình độ. Ưu tiên cho một mô hình quản lý xây dựng

Tôi không đồng tình lắm với nhận xét cho rằng tất cả các công trình xây dựng của ta đều yếu kém. Có lẽ một số công trình nhà nước thì như vậy thật, nhưng công trình tư nhân, nhất là công trình sở hữu nước ngoài đa phần đều tốt. Rồi ai cũng ngạc nhiên: vì sao cũng với những công nhân, kiến trúc sư, kỹ sư người mình đó, nhưng xây cất công trình cho nước ngoài thì tốt, mà làm công trình cho mình thì lại rất dở?

Xem xét lại thì rõ ràng ta chưa làm tốt khâu cơ bản đầu tiên: Quản lý xây dựng. Yếu nhất là khâu giám sát thi công. Thực tế ở các nước, vào bất cứ thời đại nào, nếu không quản lý chặt chẽ, trách nhiệm phân chia không rõ ràng, tiêu cực vẫn có.

Trước tình trạng thất thoát lãng phí đó, thay vì tìm ra các giải pháp căn cơ, ngăn chặn tận gốc thì phải chăng ta chỉ đề ra các biện pháp mang tính đối phó tình thế. Như tăng cường bộ máy kiểm tra phức tạp nhiều tầng bậc; ban hành thêm qui định mới, chồng chéo nhau; giao phó cho nước ngoài thiết kế và thi công... Làm như vậy, trong tình hình pháp lý chưa rõ ràng, năng lực cán bộ quản lý còn yếu lại quan liêu, xử lý vi phạm chưa minh bạch thì chỉ gây thêm khó khăn cho người làm nghề kiến trúc.

Vì sao để giải quyết vấn đề trên, ta không làm một cách đơn giản hơn? Đó là ưu tiên rà soát và ấn định lại các qui định, thủ tục điều hành công tác quản lý xây dựng: đơn giản, chặt chẽ, khả thi, nhằm bảo đảm chất lượng, đẩy nhanh tiến độ thiết kế và thi công. Nhìn ra các nước chung quanh, họ đều có kinh nghiệm và làm tốt khâu này, ta cần học hỏi. Tham khảo rồi chọn một mô hình nào phù hợp và đạt được chất lượng công trình tốt nhất, có biện pháp hữu hiệu, tránh tiêu cực, thất thoát lãng phí trong xây dựng.

Nếu qui định được trách nhiệm rõ ràng giữa thiết kế và thi công, việc quản lý sẽ đơn giản, mọi vi phạm đều có pháp luật xử lý. Bên thiết kế chủ yếu bảo đảm công năng sử dụng, mỹ thuật kiến trúc, giám sát công trình. Do uy tín nghề nghiệp, trách nhiệm trước pháp luật, cạnh tranh về chất lượng, đơn vị thi công thường tự tổ chức giám sát riêng, với đội ngũ chuyên viên có trình độ.

Điều đó, ngành kiến trúc xây dựng ở miền Nam trước 1975 đều làm. Các công trình xây dựng tại Sài Gòn thời đó như Dinh Độc Lập, Thư viện Quốc gia, Khách sạn Caravelle, Bệnh viện Vì Dân (Thống Nhất), Trường Y khoa... đã áp dụng mô hình này, chất lượng và thẩm mỹ cho đến nay không có vấn đề gì đáng phàn nàn.
4.jpg
Ảnh minh họa 

Xác định vai trò thiết kế của kiến trúc sư

Trước đây ở Sài Gòn và nay thì cả thế giới đều áp dụng việc phân công tách bạch các khâu thiết kế và thi công trong xây dựng công trình. Chỉ có ở nước ta là có tình trạng mập mờ và nhập nhằng này mà thôi!

Kiến trúc sư chủ yếu đảm trách phần công năng, mỹ thuật công trình: bố cục, kiểu dáng, hình khối, màu sắc, vật liệu, tổng dự toán. Theo thông lệ quốc tế, phần thiết kế thể hiện (kết cấu, điện, nước) được chuyển qua khâu thi công, giải tỏa trách nhiệm của kiến trúc sư không có điều kiện quán xuyến hết mạng lưới kỹ thuật rất phức tạp. Căn cứ trên hồ sơ thiết kế kiến trúc, bên thầu đảm trách việc này vì một công ty thầu đúng nghĩa đều có bộ phận chuyên viên, kỹ sư riêng.

Một khi đã có phân công rạch ròi, đơn vị thi công chịu trách nhiệm về phần kết cấu từ 10 đến 15 năm, các phần khác từ 1 đến 2 năm. Xảy ra sự cố, bên thi công phải sửa chữa, làm chậm có thể mất tiền ký quỷ, bảo hành và nếu nghiêm trọng hơn thì đưa ra tòa xét xử theo luật.

Ở đây có một vấn đề cần lưu ý ngay. Do những mâu thuẫn và khó khăn trong thiết kế, nhiều người trách nhiệm bộ ngành, thành phố đã không tìm hiểu giúp khai thông bế tắc mà vội vàng gây cả phí phạm không sử dụng đội ngũ chuyên viên người mình cần việc làm. Tôi đã thử phân tích và nhìn thấy hầu hết công trình do nước ngoài đảm trách đơn giá quá cao, điều hành bảo quản tốn kém, không phù hợp với điều kiện sử dụng tại Việt Nam (lạm dụng điều hòa nhiệt độ, ít tận dụng ánh sáng, thông thoáng tự nhiên, không phù hợp với thời tiết khí hậu nhiệt đới). Trong thực tế, điều này tạo điều kiện cho người nước ngoài giành hết công ăn việc làm, rồi tiếp tục thuê mướn lại chuyên viên và nhân công trong nước làm thay với lương rẻ!

Trước đây ở Sài Gòn và tại tất cả các nước, giới thiết kế nước ngoài làm ăn tại nước nào đều bắt buộc phải hợp tác một cách nào đó với chuyên gia, người thiết kế tại chỗ. Điều này tôi nhìn thấy trước 1975 người ta đã làm và Trung Quốc thì đã áp dụng cách đây trên 20 năm rồi.

Nói như vậy, không phải ta cứ chủ quan cho rằng cái gì mình cũng  giỏi, không cần kinh nghiệm của người. Phải nhìn nhận có một số công trình đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao ta chưa có kinh nghiệm, vẫn cần tư vấn nước ngoài. Nhưng không phải công trình nào cũng cần làm như vậy, mà nên làm kiểu sao cho họ phải hợp tác với người mình để ta học hỏi được thêm. Trung Quốc chẳng hạn, nay tuy đã khá, vẫn không ngần ngại tiếp tục thuê tư vấn nước ngoài cho các công trình lớn và phức tạp về kỹ thuật, nhưng bản thân chuyên gia họ đều được hợp tác làm việc với chuyên gia nước ngoài.  
2.jpg
3.jpg
Ảnh minh họa 

Một Đoàn nghề nghiệp đích thực  

Suốt mười năm qua, anh em trong nghề không ngớt tranh luận và tìm kiếm phương cách tập hợp nhau lại, nhằm tạo sức mạnh trong hoạt động nghề nghiệp đạt hiệu quả cao.

Phải nói lực lượng kiến trúc sư và kỹ sư của ta nay đã khá đông đảo, nhưng hoạt động còn rất phân tán. Một số làm việc trong cơ quan nhà nước, đa phần thì chưa có công ăn việc làm ổn định. Đặc biệt đối với giới trẻ hành nghề càng khó khăn hơn, thường phải bươn chải tự làm lấy (do chưa được đào tạo hành nghề ở nhà trường hoặc thực tập cụ thể sau tốt nghiệp). Không ít người phải tìm kiếm nghề khác kiếm sống. Số đeo bám nghề, phải thỏa hiệp, móc ngoặc để có việc làm, tranh giành nhau rất mất đoàn kết, vì vậy mà hoạt động nghề nghiệp khó đạt hiệu quả cao.

Đất nước đang bước vào thời tích cực hội nhập với khu vực và thế giới, khối lượng xây dựng cơ sở vật chất là rất lớn (từ nguồn ngân sách nhà nước, vốn nước ngoài, tư nhân trong nước). Nếu ta chấn chỉnh lại đội ngũ, tổ chức nghề nghiệp rõ ràng, tìm biện pháp nâng cao tay nghề anh em trong nước thì đây là thời cơ hiếm giúp cho lực lượng xây dựng nước mình có cơ hội phát triển nghề nghiệp ngang tầm thế giới.


Tôi nhận xét thấy hình như ta đang lúng túng giữa hai mô hình tổ chức nghề nghiệp:
Hoặc như Trung Quốc vẫn duy trì Hội kiến trúc sư quy về một mối lực lượng thiết kế, nhưng nhằm đáp ứng yêu cầu kinh tế thị trường vẫn hình thành các tổ chức thiết kế tư vụ cùng một số tập đoàn thiết kế & thi công lớn, đầy đủ năng lực kỹ thuật và nhân sự tay nghề cao, có thể cạnh tranh ngang ngửa với nước ngoài.       

Hoặc theo gương hầu hết các nước trên thế giới, nhất là ở khu vực Đông Nam á (và cũng là mô hình Sài Gòn trước 1975), hình thành Đoàn chuyên nghiệp về nghề thiết kế kiến trúc, hoạt động tương tự như Đoàn Luật sư hiện nay.

Nay ở ta, phải chăng đang có sự nhập nhằng về các quan niệm tổ chức “Hội kiến trúc sư” (hoạt động đoàn thể) hay “Đoàn kiến trúc sư” (hoạt động nghề nghiệp). Theo thông lệ quốc tế và lề lối hành nghề trong nền kinh tế thị trường, văn bằng cấp phát ở đại học chỉ là một chứng chỉ xác nhận trình độ đào tạo chuyên môn, Đoàn nghề nghiệp mới là tổ chức quyết định về việc hành nghề tư vụ. Tốt nghiệp bất cứ một môn học nào, sau một thời gian thực tập ta có thể thi để lấy chứng chỉ hành nghề, do tổ chức nghề nghiệp cấp phát. Đây là một dạng thi tuyển làm nghề, do nhà nước ủy quyền cho Đoàn nghề nghiệp thực hiện theo đúng Luật hành nghề chuyên môn nào đó. Đối với nghề kiến trúc cũng tổ chức như vậy, giống như Đoàn Luật sư, Đoàn Bác sĩ...

Phải chăng đó là những công việc cấp bách của tất cả anh em trong nghề kiến trúc chúng ta hôm nay. Dẫu làm muộn còn hơn không trước thách thức hội nhập cũng như yêu cầu việc làm của đội ngũ ngày càng đông đảo kiến trúc sư trẻ.
  http://mag.ashui.com/index.php/tuongtac/phanbien/55-phanbien/166-nghe-kien-truc-thach-thuc-va-hoi-nhap.html


Phật tử kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện - nhà kiến trúc lớn
KTS.Nguyễn Hữu Thái

Những dòng này viết về một Phật tử thuần thành, một con người yêu nước, một nhà kiến trúc lớn: kiến trúc sư (KTS)Nguyễn Hữu Thiện. Ông đã vĩnh viễn ra đi cách đây đúng 20 năm và để lại nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là chùa tháp, hiện đại mà đậm đà bản sắc Việt Nam.
Kiến trúc cộng sinh Âu - Á
Tháng 8 vừa qua, Nhà nước đã trao giải thưởng đợt I cho 15 tác phẩm kiến trúc của 13 tác giả, trong đó có công trình Thư viện Tổng hợp ở TP.HCM do KTS Nguyễn Hữu Thiện thiết kế, cộng tác với các KTS Bùi Quang Hanh và Lê Văn Lắm.
Trước năm 1975, nhiều người biết tiếng KTS Nguyễn Hữu Thiện như là một Phật tử thuần thành, một nhà kiến trúc đã xây dựng nhiều công trình chùa tháp khắp vùng Sài Gòn-Gia Định. Nhưng chắc ít người biết rằng ông là người bạn đồng học, người cùng chí hướng đấu tranh giải phóng dân tộc với KTS Huỳnh Tấn Phát, nhà lãnh đạo hàng đầu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ông mất đi vào năm 1981 khi đang là Viện trưởng Viện Quy hoạch TP.HCM đầu tiên sau ngày giải phóng. Công trình kiến trúc do ông thiết kế khá đa dạng, từ các biệt thự sang trọng cho đến các khu nhà ở cho người có thu nhập thấp, khá nhiều công trình tôn giáo, và xuất sắc nhất là Thư viện Tổng hợp thành phố. Suốt đời, ông chủ trương sáng tác theo hướng kết hợp Đông-Tây, cụ thể là sử dụng kỹ thuật mới của phương Tây trong kết cấu và bố cục không gian nhưng phù hợp với lối sống và thời tiết khí hậu Nam Bộ.
Đối với chùa Phật, ông luôn chú trọng việc bố cục mặt bằng, không gian hợp lý, nơi lễ bái thoáng đãng, nhưng cũng không quên tạo dáng công trình theo kiểu truyền thống dân gian quen mắt với mái cong, hoa gió, điêu khắc theo mô-típ xưa gần gũi với phần đông người mình. Các ngôi chùa lớn như Ấn Quang (đường Sư Vạn Hạnh, từng là trụ sở Giáo hội Phật giáo Thống nhất trước1975), Huê Lâm (Cây Gõ, Chợ Lớn), tháp Phổ Đồng trong khuôn viên chùa Huệ Nghiêm (H.Bình Chánh)...
Chùa Ấn Quang có bố cục không gian kiểu mới, vừa đáp ứng được yêu cầu một nơi thờ tự trang nghiêm lẫn trụ sở điều hành Giáo hội, nơi ở của giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam thời cũ. Tháp đựng tro cốt Phổ Đồng có lẽ là một công trình kiến trúc tôn giáo độc đáo và quy mô vào hàng lớn nhất ở nước ta.
Đặc biệt, ông cũng là tác giả tháp chuông ngôi nhà thờ Thiên Chúa  giáo ở Thị Nghè xây dựng theo phong cách Rô-man (Pháp) nhưng lại mang dáng dấp tháp Việt cổ, với chóp mái cong lợp ngói ống, hoa gió làm theo mô-típ trang trí xưa.  
Một công trình kiến trúc độc đáo        
Đỉnh cao sáng tác kiến trúc của KTS Nguyễn Hữu Thiện là công trình Thư viện Tổng hợp thành phố (tên cũ là Thư viện Quốc gia). Công trình tuy không to lớn lắm nhưng được xem là một trong những công trình sáng tạo tiêu biểu nhất do người Việt tự thiết kế và xây dựng thời Sài Gòn cũ.
Từ năm 1956, ông đã được giao việc nghiên cứu một quần thể văn hóa trên khu đất nguyên là Khám Lớn Sài Gòn (bị phá bỏ vào năm 1955). Công trình thư viện do ông chủ trì thiết kế chỉ bắt đầu thực hiện vào năm 1965 và hoàn tất việc xây cất vào đầu các năm 70.
Đây là một tòa nhà lớn gồm khối đứng làm kho chứa sách và khối ngang làm phòng đọc sách. Mái nhô xa, hành lang rộng đặt trên hồ nước thả sen súng, tường hoa pa-nô trang trí rồng phượng, con triện, sân vườn cây xanh tươi mát... là những yếu tố kiến trúc rất gần gũi với lối sống Việt đã góp phần tạo nên một công trình kiến trúc độc đáo, vừa hiện đại vừa dân tộc. Công trình thư viện này được giới kiến trúc cả nước đánh giá là một trong những công trình tiêu biểu nhất của nền kiến trúc hiện đại mà giàu bản sắc ở nước ta.
Tôi biết KTS Nguyễn Hữu Thiện khi theo học với ông ở Trường Kiến trúc Sài Gòn cũng như qua các hoạt động nghề nghiệp, Phật sự lẫn yêu nước của ông trước cũng như sau ngày giải phóng. Viết những dòng này là để tưởng nhớ một tấm gương sáng nghề nghiệp, một con người yêu nước và trên hết là một Phật tử chân chính.
(Báo Giác Ngộ, số Xuân 2002)
Diễn đàn đầu Xuân:
KTS Nguyen 
Huu Thai Tham vong vuot nguoi
Phát triển đất nước không chỉ dựa vào nguồn lực đầu tư, khoa học kỹ thuật mà phải dựa vào ý chí quyết tâm vươn lên của đông đảo người trẻ.
Biết tôi hay đi đây đó, các bạn trẻ gặp tôi thường hỏi: So sánh với lớp trẻ các nước, thanh niên ta có những ưu - khuyết gì? Tôi không ngần ngại trả lời: thế mạnh của họ là tinh thần kỷ luật, ý thức tập thể và lòng quyết tâm cao. Bạn trẻ mình phải biết vượt qua chuyện thiếu đoàn kết, nóng vội chụp giựt, mặc cảm tự ti... Trên đường trở lại quê hương sau mấy năm xa cách, tôi cố tình đi chầm chậm, nán lại nhiều nơi trên đất Mỹ và Trung Quốc. Tôi muốn nhìn kỹ lại lớp trẻ ở các nước này, mong làm một cuộc đánh giá và so sánh khách quan giữa họ và mình. Nhất là gặp gỡ lớp trẻ người mình ở nước ngoài.
Ở Mỹ, tôi có dịp báo cáo một đề tài nghiên cứu khoa học tại thành phố Boston ở miền đông, cái nôi của các đại học nổi tiếng hàng đầu, như Harvard, MIT... Tôi ngạc nhiên nhìn thấy rất nhiều gương mặt sinh viên châu Á. Nhìn một lớp trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có không ít người VN mình, rõ ràng là họ quyết tâm tranh thủ được những kiến thức tiên tiến nhất để quay về phát triển đất nước.
Bên phía kia, ở miền Viễn Tây, là các đại học lớn Stanford, Berkeley, Caltech... cũng xuất hiện những người trẻ châu Á đó, đang chiếm đa số trong tập thể sinh viên năng động vào bậc nhất nước Mỹ này. So sánh, tôi nhận thấy sinh viên Nhật có ý thức trách nhiệm và tự trọng cao nhất trong tập thể du học sinh nước ngoài. Người Hoa, Hàn, Ấn nay cũng tỏ ra không thua kém người Nhật.
Cho nên tôi không lấy lạ khi sinh viên các nước này làm mọi người vị nể, vì rõ ràng họ đoàn kết, xuất sắc. Chỉ có điều đáng buồn là so sánh với họ, người trẻ Việt ở nước ngoài tuy cũng xuất sắc không kém, có khi còn hơn, nhưng sao một số vẫn còn chia rẽ, ít tự tin hơn.
Tham quan lại dài ngày trên đất nước Trung Quốc, không khỏi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về sự phát triển thần kỳ của họ, nhưng riêng tôi lại chú ý hơn đến ý chí vươn lên của lớp trẻ mới. Ở Trung Quốc, do lớp người tuổi trên 45 bị thiệt thòi trong một thời gian dài xáo trộn, chưa bắt kịp được thế giới, cho nên lớp tuổi dưới 40 hiện nay là những chủ nhân thật sự của đất nước mở cửa và phát triển.
Gặp gỡ bàn luận với một số cán bộ kỹ thuật và quản lý trẻ công tác tại các công ty liên doanh nước ngoài ở Thượng Hải, Thâm Quyến, Hàng Châu..., tôi nhìn thấy ở họ toát lên sự lạc quan hướng về tương lai và nhất là một lòng kiên định vượt qua phương Tây. Họ nói với nhau: chúng ta đã bị bỏ lại đằng sau năm thế kỷ so với thế giới phương Tây rồi, nay ta nhất định phải vươn lên, chẳng những bằng mà phải vượt cả người.
Có thật nhiều điều đáng học hỏi ở lớp trẻ mới Trung Quốc. Không ai nói rằng họ không thực dụng, tham vọng và náo nức kiếm tiền, nhưng vẫn làm ăn lương thiện, tiết kiệm và biết tự trọng, tôn trọng luật pháp. Các đặc điểm của giới trẻ này là tinh thần học hỏi, tính kỷ luật, ý thức tập thể cao và nhất là ý chí vượt khó, tham vọng vượt hơn người.
NGUYỄN HỮU THÁI (kiến trúc sư)
Chùa Phật xưa và nay (KTS Nguyễn Hữu Thái) PDF In E-mail
Người viết: ThanhHung   
28/02/2010
CHÙA PHẬT XƯA VÀ NAY
* KTS Nguyễn Hữu Thái
Giáo lý của đạo Phật cũng như đặc điểm nổi bật nền kiến trúc Phật giáo, là tính giản dị, đại chúng và bình đẳng, từ bi. Có nghiên cứu so sánh công trình kiến trúc nhiều tôn giáo khác nhau, tôi cho rằng các yếu tố nêu trên giống như sợi chỉ xuyên suốt nối kết các công trình như chùa tháp, Tăng viện trên hai nghìn năm qua. Những ngôi chùa Phật luôn là trung tâm tôn giáo lẫn trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, từng góp phần tích cực làm phong phú thêm nền văn hóa địa phương nơi đạo Phật đặt chân truyền bá đến.
               Từ những Stupa, Chaitya, Vihara
Phát sinh vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, ở miền Bắc Ấn Độ, đạo Phật xuất hiện như phản ánh lòng bất bình của quần chúng đối với chế độ đẳng cấp hà khắc và quyền uy độc đoán của giới thống trị Tăng lữ Bà la môn.
Tiếc rằng ngày nay, những công trình kiến trúc Phật giáo huy hoàng của triều đại Asoka (271-231 trước Tây lịch) nay không còn, nhưng những gì còn lại của những thế kỷ sau cũng đủ để mô tả sinh hoạt đạo Phật thời kỳ đầu đó.
Bên cạnh các đền đài Bà la môn đồ sộ, mang nặng tính phô diễn nhưng khép kín, xuất hiện các công trình tôn giáo khiêm tốn, dung dị nhưng mở rộng ra cho quần chúng nhân dân, không phân biệt đẳng cấp, nguồn gốc.
Vết tích còn lại sớm nhất là các ngôi tháp tròn Stupa ở vùng Sanchi vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, mang dạng bán cầu đồ sộ chứa di cốt hoặc thánh tích. Chúng vừa là biểu tượng vũ trụ, có 4 cổng day ra bốn hướng gió, trên chóp 3 tầng dạng tán lọng. Còn lại nhiều nhất là các điện thờ Chaitya (nay thường bị đạo Bà la môn chiếm dụng), những không gian giản đơn, không thấy có trang trí gì khác ngoài hình tượng Đức Phật.
Nhưng thể hiện rõ ràng nhất các nét kiến trúc Phật giáo ban sơ là các Phật học viện ở vùng Ajanta (thế kỷ thứ I sau TL) và rất nhiều Tăng viện Vihara ở vùng Elephanta vào thế kỷ VII sau TL. Đó là những đền hang, đục vào đá theo truyền thống kiến trúc cổ Ấn Độ, gồm các không gian rộng rãi nhưng không trang trí gì khác ngoài các phù điêu, tượng đắp nổi, chỉ duy nhất mang hình tượng Đức Phật.
Tương truyền trong thời kỳ đầu của PG, ngay cả hình tượng Đức Phật cũng không được sử dụng trang trí các chùa hang, Tăng viện. Về sau, do yêu cầu đại chúng dân gian, hình tượng Đức Phật mới xuất hiện, nhưng đơn giản và không kèm theo các trang trí rườm rà nào khác, giống như các đền đài Bà la môn, hoặc Hồi giáo về sau này.
Các khu chùa Phật ban đầu trở thành các không gian mở, đón nhận hàng nghìn tín đồ hành hương đến nghe giảng kinh, học tập kinh nghiệm tu đạo chứ không phải là nơi đến để lễ bái, cầu phúc lộc. Từ thời đạo Phật thịnh hành dưới triều đại Asoka, chùa Phật đã xuất hiện như các trung tâm sinh hoạt tôn giáo - văn hóa cộng đồng rất sinh động, mang đậm nét đại chúng, hướng về tu dưỡng, tu tập theo đạo pháp hơn là lễ bái.
 
Đến các chùa tháp, Wat và các chùa Phật hiện đại
Nếu vào thế kỷ VII và VIII, đạo Phật đã suy ở Ấn Độ, thì đạo này lại phát triển nhanh ở Đông Á và Đông Nam Á, phía Bắc đến tận vùng Mãn Châu, Nhật Bản, Sri Lanka, Indonesia.
Nếu đạo Phật truyền sang Tây Tạng mang sắc thái Lạt ma với các công trình Tăng viện quy mô lớn vùng núi Hymalaya cao vút, thì những chùa tháp Trung Quốc đã làm thay đổi cả bộ mặt sinh hoạt tôn giáo, vốn mang tính đa thần dân gian bản địa vùng Đông Á mênh mông. Các công trình PG ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam là những phức hợp kiến trúc tôn giáo quy mô lớn, đặt ở những vị trí cảnh quan đẹp nhất. Ngôi bảo tháp tròn Stupa nay vút lên cao với nhiều tầng bậc. Trung tâm chùa là Phật điện. Truyền thống bố cục mở, đại chúng vẫn duy trì với sân rộng, hành lang lớn đặt bên trái, bên phải (Đông lang, Tây lang) đón khách thập phương.
Chùa Phật xuất hiện rất khác với đền miếu Khổng giáo, Lão giáo với tháp cao, gác chuông và cả nơi ở, tu tập của Tăng Ni, lẫn nhà khách. Stupa Ấn Độ nay biến thành bảo tháp (pagoda) làm đài kỷ niệm hoặc tàng trữ xá lợi và các di vật lễ bái. Thường thì tháp tích Phật đặt ở phía trước, có nhiều tầng, chóp tán lọng hoặc búp sen, bầu rượu, xung quanh có đường chạy đàn (vừa tụng niệm vừa kinh hành) vòng quanh tháp. Tháp mộ đặt tự do ở phía sau, gìn giữ tro cốt tu sĩ, ít tầng hơn, chừa cửa tò vò nhỏ đặt bàn thờ.
Điện thờ là trung tâm chùa, thường gồm 3 phần : tiền đường là nơi vân tập thiện nam tín nữ, tòa thiêu hương (bái đường) nơi tiến hành lễ và tòa thượng điện (chánh điện) là nơi đặt tượng Phật. Thời Lý - Trần ở nước ta, chỉ đặt tượng Phật A Di Đà, sau đặt ba vị Tam thế (quá khứ, hiện tại và vị lai). Thời Lê, Nguyễn từ thế kỷ XV trở đi còn có cả Ngọc Hoàng, Thổ công, Thổ địa.
Nhưng cơ bản chùa Phật vẫn là công trình gắn bó hài hòa với cảnh quan sông nước, núi đồi bao quanh, bố cục cân xứng và mở, chỉ có tháp là mang tính chế ngự, nhấn mạnh toàn khu thờ tự theo phương vị đứng, có thể nhìn thấy từ xa.
Tôi đã đi qua những nước Đông Nam Á theo đạo Phật, vẫn nhìn thấy các chùa Phật Wat Thái Lan, Lào, Campuchia với tháp nhọn, điện thờ giản dị, mở ra cho đại chúng. Nhân dân gắn liền suốt đời với đạo Phật, từ tuổi trẻ vào chùa tu tập, học văn hóa, lớn lên là cư sĩ, chết đi để tro bình ở chùa.
Chùa Phật như vậy là vẫn tiếp nối truyền thống duy trì được xuyên suốt từ buổi sơ khai ở vương quốc Capilavastu miền biên giới Nepal, Bắc Ấn Độ, cho đến nay tại toàn bộ châu Á. Ở phương Tây, chùa Phật nay đang trở thành các trung tâm sinh hoạt cộng đồng di dân gốc châu Á, mang tính tôn giáo và xã hội - văn hóa cộng đồng khá sống động.
Ở Nhật Bản, đang xuất hiện nhiều công trình kiến trúc Phật giáo khá hiện đại của các tông phái, nhưng cơ bản nhà chùa vẫn là nơi tu tập, tu dưỡng hướng nội, dung dị, rất khác với công trình tôn giáo khác, vẫn mang nặng tính hướng ngoại, phô diễn thanh thế.
Xu hướng sinh sống đô thị hóa ngày nay không còn dễ dàng xây dựng các khu chùa Phật rộng lớn quá khứ, nhưng ngôi chùa trong phố vẫn duy trì một truyền thống đại chúng, mở rộng cửa đón mọi người, không phân biệt. Đó phải chăng là bản sắc riêng của chùa Phật, xưa cũng như nay.
Cập nhật ( 28/02/2010 )

KTS & time


http://kien-truc.org/pacti.htm

Net chan dung ban be

LINK: http://picasaweb.google.com/minhbo/NetChanDungBanBe#


De nho dong mon KT   minhbo 




Tran Khanh Trung KT 80




Nguyen Van Tat KT 73

Chau My Anh KT 75

Co Van Hau KT 57

Danh Manh Hai KT 71

Duong Hong Hien KT 76
Duong Manh Tien KT 70
Ha NGuyen Hung KT 71
Tran Hien KT 71

TRẦN CÔNG HÒA K.73
Huynh Tan Phat KT 71
Huynh Quang Nghiem KT 61


Khuong Van Muoi KT 67

Le Minh Chau KT 71
Nguyen Thi Minh Tam KT 83
Le Van Rot KT 65
Le Van Tam KT 71
Le Cam Thuy KT 79
Ly Thai Son KT 65
Ngo Nham KT 66
Ngo Quang Tuan KT 70
Nguyen Manh Dung KT 75
Nguyen Duc Manh KT 75
Nguyen Phuoc Thi Ly Kt 70
Nguyen Phuoc Thien KT 81
Nguyen Thi Nang KT 67
Nguyen Tien Quang KT 66
Nguyen Van Diep KT 65
Nguyen Van Tat KT 73
Nguyen Ngoc Phi KT 70
Hoang Dinh Tuyen
O.B.Le Minh Chau KT 71
O.B.Nguyen Thanh Can
Pham Sy Tu KT 70
Phan Lieu KT70
Mung tho Son om
Tran Minh Tam KT 78
Thach Bien Hoa KT 79
Thach BH KT 79
Thai Ngoc Hung KT 80
To Minh Kiem KT 70
Ton That Hau KT 70
Ton That Duy Kha KT 77
Tran Khanh Trung KT 80
Tran Minh Tam KT 78
Tran Quang Minh Kt 65
3Tran Van Tieu KT 66
Vo Bach Lan KT 71
Vo Thanh Chung KT 71
Vo Thanh Lan KT 70
Vo Van Tuan KT 70


KTS Ngô Viết Nam Sơn. Tranh Hoàng Tường



http://www.3dvn.com/forums/showthread.php?t=14229

http://www.ktsvn.net/H%E1%BB%99iVi%C3%AAn/tabid/55/Default.aspx

http://trelang.wordpress.com/category/san-ch%C6%A1i-tre-la%CC%80ng-kie%CC%81n-vie%CC%A3t/ve%CC%83-chan-dung-kts/

đọc tạp chí Kiến Trúc Xây Dựng Mới của Tổng Nha Kiến Thiết năm 1967. kientruc5sj. .
.
z-xaydungmoi-1.jpg picture by tddesign
.
.
.
.
z-xaydungmoi-2.jpg 
picture by tddesign
.
.
.
z-xaydungmoi-3.jpg picture by 
tddesign
.
.
.
z-xaydungmoi-4.jpg picture by 
tddesign
.
.
.
bài trên trong tạp chí Xây Dựng Mới của Tổng Nha kiến Thiết ấn hành, do thầy Lê văn Lắm làm tổng giám đốc. Anh Nguyễn hoàng Phố KT69 đã có nhã ý scan tặng cho anh chị em đọc nhớ những ngày xưa … kiến trúc Saigon, gần nửa thế kỷ trước. Cám ơn anh Nguyễn hoàng Phố.
http://tmddesign.multiply.com/journal/item/914
Kiến Lửa
Chuyện kể về kiến trúc


Hồi thứ Nhứt

Từ thuở trước, khi trường ta thưa thớt,
Ðến ngày nay, lúc đào tạo đại trà...


Thuở khoảng thập niên 60, có hai thầy Tàu đi ngang trường Kiến trúc. Ngắm nghía hồi lâu, một thầy buộc miệng nói: “Cuộc đất thật hay, tiếc rằng nhân tài thưa thớt quá!” Ông kia bấm đốt tay rồi thở dài: “Khi nào bên kia đường có nhà xây, tiên sinh sẽ thấy sinh viên trong trường đông đảo. Nhưng mà...”

Một người đứng gần tình cờ nghe được, tò mò bèn đường đột hỏi tại sao. Một ông bực mình đáp: “Thiên cơ bất khả lậu, nị đừng nên biết nhiều, chỉ thêm hại mình mà thôi”. Rồi hai ông ngoắc taxi rủ nhau lên xe đi mất.

Câu chuyện chỉ có thế, được truyền rỉ tai nhau. Nhưng vì tam sao thất bổn riết không ai thèm để ý. Chỉ biết rằng trong những năm ấy, sinh viên trong trường rất ít. Khi đã vào trường thì học hành rất kham khổ vì thầy nào thầy nấy cực kỳ nghiêm khắc. Nhiều anh than rằng chắc thầy sợ đệ tử ra trường sẽ giựt mối của thầy nên thầy “tiên hạ thủ vi cường” cho chắc ăn. Có tay độc mồm độc miệng dám khẳng định trường dùng chính sách “ngu dân” của thực dân mà bóp chẹt “đầu ra” để duy trì chủ nghĩa độc quyền Kiến trúc. Ôi thôi thì mồm miệng thiên hạ ai chấp làm gì. Chân lý chỉ chứng minh rằng bấy giờ hễ ai ra trường thì người nào đáng mặt người đó. Vì họ đã phải vượt qua cái ải tốt nghiệp trước một hội đồng hệt kiểu “Thập bát La Hán trận” của Thiếu Lâm tự trước khi xuống núi vậy.

Cái học thì muôn trùng mà sức người thì có hạn. Anh nhà Kiến phải lướt qua hàng chục môn lặt vặt không cần thiết lắm nhưng không học thì không xong. Còn vẽ thì ôi thôi! “Cày” quanh năm suốt tháng. Cứ bù đầu trong họa thất hết hội họa, analogue [1] tới họa cảo rồi đồ án này đồ án nọ. Nai lưng “charrette” [2] làm đêm mà không kịp giờ nộp bài cho thầy là chuyện thường ở họa thất. Gặp anh “trưởng tràng” họa thất cũng có quyền hành dữ dội kiểu “thương cho roi cho vọt”. Thêm anh tay sai “thiên lôi” sẵn sàng trừng trị mấy “ne” nào cứng đầu. Dù là hết lòng nâng đỡ đàn em song mấy ảnh cũng ưa bắt đám lính mới phải tuân lịnh một cách tuyệt đối. Chỉ đơn giản là “bắt gì làm nấy” cho đúng nghĩa làm “ne” hay nói huỵch toẹt móng heo ra là làm “mọi” (nègre).

Ne ơi ta bảo ne này,
Ne vô họa thất ne “cày” cùng ta,
Trưởng tràng có luật đưa ra,
Kêu gì làm nấy, liệu mà biết khôn,
Bắt cởi truồng, phải cởi truồng,
Kêu nằm “quậy cỏ, liệu hồn “rendu” (thu hoạch)...

Anh nào không tuân theo thì đừng hòng làm dân kiến trúc, liệu hồn mau cuốn gói đi học trường khác. Mới lần đầu thì nghe ghê lắm nhưng từ từ quen rồi thì cũng thấy thường tình, nhờ vậy về sau tình cảm anh em càng thắm thiết. Mà tục lệ này chưa từng có ở trường đại học nào khác. Cảnh vừa học bạn, vừa học thầy theo tính dân chủ làm không khí họa thất lúc nào cũng thân mật kiểu gia đình Kiến trúc. Người viết bài này năm 1993 có lượm một bài thơ tả sinh viên kiến trúc trong hội trường như sau, tiếc thay đến nay chưa biết tên tác giả:

Sinh viên kiến trúc thực là hay,
Miệng “nổ”, chạy sô suốt cả ngày,
“Trả nợ” xanh da, quầng cặp mắt,
“Binh bài” quì gối, chống hai tay.
Cà phê, thuốc lá tha hồ hút,
Rượu đế, bia ôm mặc sức say.
Năm năm quần thảo không biết mệt,
Càng già, càng dẻo lại càng dai.

Càng già, càng dẻo lại càng dai,
“Nử Kiến” nhà ta chẳng kém ai,
Rotring một cán cầm đúng điệu,
Template mấy vòng quậy mê tay.
Sáng binh, chiều vẽ “lên tới bến”,
Một nử mấy ne (nègre) quậy “mát trời”.
Càng ham đòi hỏi, ne càng khổ,
Mỏi gối, đau lưng lại phồng tay.

Trước trường là một công viên thoáng mát. Sau giờ “lên” bài căng thẳng ban ngày thì vài anh tranh thủ ban đêm chạy ra công viên để gặp gở hẹn hò một tí ti với mấy chị em cho vơi nỗi “cô đơn nơi tiền đồn”. Yêu nhau lắm cắn nhau đau, tiền bạc trả sau sanh nhiều rắc rối với cảnh “xù tiền” chạy trốn thẳng vô trường làm mấy em bên ngoài đứng vẩu môi đỏ tru tréo, chửi rủa không từ ai, trong đó có một “lời nguyền độc địa” nghe là thất kinh: “...rồi tụi bây khỏi mong ra trường”. Thành ra nhiều anh trong trắng rớt oan mạng hoài vì lời nguyền “lạc đạn” ấy. Họa ứng nhãn tiền cả chục năm là thấy đậu thì ít mà rớt thì đông vô kể. Thời ấy chưa có cảnh trò đi năn nỉ thầy lộ liểu như ngày nay vì ở miền Nam nhứt là ở Sài gòn bấy giờ chưa ai đủ bản lãnh được gọi là cao thủ trong “nghề” này. Mấy thầy đã được ăn lương no đủ thì đừng ai hòng mà đi đêm để mang họa lâu dài về sau. Có anh tên Q. ì ạch thi rớt mãi, tới khi đậu được ra trường bèn hận đời tức khí quăng tập sách ra gốc cây trứng cá sân trường đái xè xè lên cho bỏ ghét! Gặp thời chiến, nhiều anh cố ý ráng trây thời gian trong trường để hy vọng trốn lính ngày nào hay ngày nấy. Kết quả khi hòa bình đến, trong hồ sơ ghi rõ có anh bám rễ trong trường kỷ lục là 21 năm! Còn trung bình thì cũng là 5 năm, 10 năm. Sau đó, nhà trường phải dùng biện pháp “thanh lý” cho ra lò hết để rảnh tay nhận “hàng mới” thì số lượng Kiến từ ấy về sau “được nước” bắt đầu tăng rõ rệt. Bản kiểm điểm của ban giám hiệu trường Ðại học Kiến trúc (ÐHKT) về việc thực hiện nghị quyết 28-29 của thành ủy và UBNDTP có một đọan ghi với một sự tràn trề lòng tự hào dân tộc Kiến. Nguyên văn như sau:

“...Trong 2 năm qua, nhà trường đã tổ chức tốt nghiệp trên 200 sinh viên – bằng số lượng trên 30 năm mà trường ÐHKT Sài Gòn đã tổ chức tốt nghiệp...”

Kinh không, thưa bà con?

Ban đầu người ta dùng phương cách 1 “mở đầu vào, bóp đầu ra”, dùng giáo sư nhằm phong tỏa sinh viên. Sang thời bình, thấy kế sách này nếu duy trì hoài thì kềm hãm công danh mấy anh “khai quốc công thần” quá cỡ nên kế sách đào tạo nhân tài chuyển sang phương cách 2 “bóp đầu vào, mở đầu ra”, lấy sinh viên phong tỏa lại mấy ông giáo viên (khi ấy mấy ổng bị giáng chức giáo sư gần hết cả rồi). Chỉ như thế mới hy vọng đền ơn đáp nghĩa đám công thần và con cháu của họ. Ban đầu, kế sách có kết quả đặc biệt. Phe công thần được ưu đãi như dân thời Nghiêu Thuấn. Hễ có thi là sẵn sàng “chấp” đối thủ mình vài ba điểm và vẫn được xét đậu ngọt xớt. Tha hồ nhẹ bước hoạn lộ. Gặp anh gốc gác trong rừng, hay là dân tộc ít người thì càng hay hơn nữa vì trình độ càng thấp thì phải được bù trừ bằng thật nhiều ưu tiên trong đường khoa bảng. Hỏi vậy thì ai mà dám chê trách thi cử không bênh vực kẻ yếu. Khi ấy anh sĩ tử thuộc gien trí thức, học quá giỏi xưa nay thì phải nhường nhịn cho kẻ dở hơn mình ít nhiều điều kiện cho công bằng. Một bên chấp điểm, bên kia chấp lý lịch. Ðiểm có thể thay đổi còn lý lịch thì có sao để vậy. Rốt cuộc rồi mấy anh “lý lịch đen” phải túi bụi học luyện thi, từ lớp 10,11 mà vẫn rớt hoài rớt hủy. Ðại đa số phải nhắm mắt liều mạng “chơi” kiểu đấu cờ tướng chấp Ðế Thích 2 xe và chịu ép đi nước hậu. Thấy tội nghiệp mấy anh ấy quá, nhiều lúc hội đồng tuyển sinh thương tình buộc lòng phải thông báo kết quả thi của mấy ảnh trước khi nộp hồ sơ để mấy ảnh khỏi thi mất thì giờ vàng ngọc của tuổi trẻ. Còn mấy anh nòi “công thần” luôn có sẵn “ba đời cùng thi, làm gì chẳng đỗ”. Trò “3 trong 1” này đi trước chiêu tiếp thị ngày nay cả chục năm!

Cuộc thi vũ môn luôn kết thúc tốt đẹp. Sinh viên cuối cùng cũng gồm nhiều thành phần giai cấp được hòa đồng sàng lọc một cách công bằng và âm thầm qua các tiêu chuẩn bên lề trình độ học vấn. Mà đã đậu vào trường rồi thì được trường cưng như trứng. Mỗi lúc vẽ bài thì cứ vô giáo vụ lãnh giấy về vẽ. Vẽ xong một mặt, tận dụng luôn mặt sau cho một đồ án nữa thành thử chẳng bao giờ sợ khan hiếm giấy. Hàng tháng lại được phòng đời sống cấp gạo, thịt... về tẩm bổ tăng cường sinh lực. Ðể giúp sinh viên đỡ túng thiếu, phòng tài vụ được lệnh phát cho từng anh học bổng để xài vặt. Tệ lắm cũng mua được vài gói thuốc “có cán” hút cho thơm râu. Thì thôi, nếu không đáng công đèn sách thì cũng đáng công dũng cảm chiến đấu dành chức “vô địch thiên hạ” mà bia miệng còn lưu lại.
Vì “bóp đầu vào, mở đầu ra”, đã là sinh viên thì tội chi học nhiều cho khổ. Xưa thì khác, bù lại nay cứ vô tư chơi nhiều, đằng nào thì cũng ra cũng làm giám đốc, tệ lắm thì cũng có bằng KTS lấy le với hàng xóm.. Sinh viên vào tương đối nhiều hơn xưa song vẫn còn thưa thớt. Cảnh trường như một thiên đàng thu nhỏ. Nhớ những năm sinh viên bị điều đi gác trường ban đêm thì sân trường sẵn cây xoài, vài cây mít tha hồ cho sinh viên thưởng thức trộm (vì ăn vụng ngon miệng hơn ăn công khai nhiều). Trời nóng thì có sẵn xe hơi của hiệu trưởng để cho vài anh liều mạng cạy cửa vào mà bật máy quạt ngủ suốt đêm; thây kệ ngày hôm sau xe cạn bình hết chạy làm hiệu trưởng kẹt việc tức điên mà không làm gì được. Vẽ bài tuy không căng thẳng như xưa nhưng cái họa charette thì vẫn còn đó. Cũng may là thầy sau này không dám thẳng tay đánh rớt mấy sinh viên “công thần”. Hễ ông nào đánh rớt thẳng tay thì sinh viên sẽ la làng cho ban giám hiệu quở trách chê thầy dạy dở vì làm điểm thi đua và thành tích báo cáo của trường bị sút giảm. Hơn nữa nhà trường lãnh đào tạo hệ B, chuyên tu, tại chức dùm cho các sinh viên từ địa phương xa xôi nên bằng mọi giá phải làm sao cho họ tốt nghiệp đàng hoàng. Nếu không đào tạo được thì mất mặt trường. Tất nhiên phải ráng dàn xếp yêu cầu mấy thầy nhắm mắt cho điểm kha khá để cho “vui lòng khách đi” mà duy trì uy tín và hạ quyết tâm đập tan ý đồ xấu xa của câu xuyên tạc: “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Chưa hết, trường ta còn nhận các du học sinh từ nước láng giềng Cam-pu-chia để mở rộng ảnh hưởng. Cái hay hơn các trường đại học khác trên thế giới là không cần biết rành tiếng bản xứ vẫn ra trường được và có bằng cấp đàng hoàng như ai với chất lượng “hữu nghị”. Do vậy, nhiều nhóm ở bển sang học chỉ cần một người hiểu tiếng Việt sơ sơ là có thể kèm cặp níu kéo đồng đội mình lên lớp đều đặn. Khách hàng được xem là vua nên tiêu chuẩn lên lớp của du học sinh được ưu đãi hơn sinh viên bản xứ. Chỗ ở của mấy anh luôn ngon lành hơn ký túc xá “phe ta”. Tiền bạc thì bên nước mẹ gởi sang xài thoải mái, chơi “sộp” hơn cả sinh viên nội địa. Gặp mấy năm có phong trào buôn lậu xe gắn máy ở biên giới nhộn nhịp, có anh lợi dụng cuối tuần chạy ra cửa khẩu đem xe Honda về Sài Gòn bán kiếm tiền tiêu vặt. Mấy thầy hay sinh viên có nhu cầu sắm xe cộ cứ tìm nhờ mấy ảnh để yên tâm tin tưởng còm-măng (order) được hàng tốt mà không sợ bị lầm hàng “luộc”. Từ đó mới thấy tại sao thầy cô bạn bè trong trường luôn quý mến mấy du học sinh này. Lúc tốt nghiệp càng được dể dãi hơn. Ấy là chuyện về sau. Ðể bảo đàm quyền lợi bằng cấp cho các sinh viên nên ban giám hiệu phải dùng biện pháp kinh tế để phong tỏa tính nghiêm khắc của mấy thầy. Trước mắt là lương mấy thầy bị cắt giảm hơn xưa. Thầy cũng lãnh “tiêu chuẩn” thịt, sữa, gạo, khoai lang... hàng tháng với mức chênh lệch về chất lượng lẫn số lượng chẳng hơn trò bao nhiêu. Thầy cũng có lúc bị bắt đi gác đêm, hay xách cuốc đi trồng khoai, bắp cho có kinh nghiệm sản xuất dân gian, cũng vác gậy đi tập quân sự quay trái quay phải, lăn lộn bò lết cho thấm cái khổ ải chiến tranh mà yêu chuộng hòa bình. Ông nào “ba-gai” thì đừng trách khi bị cắt giảm tiêu chuẩn hay cho nghỉ việc. Thỉnh thoảng nhà trường thương tình cho thầy đi nghỉ mát bồi dưỡng sức khỏe để tiếp tục lên bảng làm nghề ”kinh doanh cháo phổi” thêm phát đạt. Nghĩ lại nhà trường cũng lao tâm lao lực lo cho từng người mà lúc nào cũng bị thiên hạ đàm tiếu.

Lo mãi cũng kiệt sức, nếu không lầm, thì đến khi ấy trong trường chỉ còn lại dàn hiệu trưởng, hiệu phó là có cái bụng “tương đối» kha khá hơn các thầy khác mà thôi. Còn các tiêu chuẩn cho thầy trò dần dần bị thay thế bằng tiền “bù lỗ” cho nhẹ gánh. Từ đó nhân sự ở phòng Ðời sống cũng được “thanh lý” để giảm ngân sách để đáp ứng thời đại “tiền-lương-giá”. Mãi đến 1987, sẵn tình hình năm ấy có nhiều con ông KTS đi thi mà năm ấy cái lạ kỳ nhứt là đề thi cực dễ mà đa số không ai làm được. Nhiều phòng thi buổi đầu đã vắng mặt vì bỏ cuộc hết gần phân nửa. Tình hình thi rớt đông đảo thấy rõ (năm ấy tỷ lệ 1 chỉ chọi khoảng 60 – còn quá ít so với ngày nay). Từ xưa nay vốn luôn bị ám ảnh tin xuyên tạc “thi rớt sẽ bị bắt lính” nên nhiều ông Kiến cha vì quá thương con phải đồng lòng vận động lên trên Bộ khẩn cấp lập thêm “hệ hợp đồng” (hệ “B”). Hệ này sẵn sàng mở toạc cửa thu nhận tất cả những ai có nhu cầu học kiến trúc mà trước hết là đám con mấy ổng, rủi có rớt thì cũng còn “Sinh môn” mà thoát. Ðiều kiện đơn giản là: bất cứ ai được ông kiến trúc sư (KTS) nào trong Hội KTS chịu đỡ đầu giới thiệu và có tiền đóng thì đương nhiên trở thành sinh viên Kiến trúc ngọt xớt. Mà tiền học thì bấy giờ chi trả dựa trên cơ sở giá gạo. Ác nghiệt ở chỗ, năm ấy vào lúc đóng tiền thì giá gạo biến động vùn vụt. Nhiều “Kiến tơ” lo chạy tiền trối chết. Mừng thay trường chưa dựa trên cơ sở giá gạo Nàng Hương! Ơn Trời còn thương chúng sanh nhà Kiến. Có năm sợ sinh viên đóng tiền trễ, nhà trường yêu cầu ai đóng trể phải kèm thêm “lãi suất tiền trường” làm báo chí phải động lòng can thiệp cứu giúp mấy sinh viên. Dù sao thì kết quả thu nhập của trường vẫn luôn vượt chỉ tiêu làm ngân sách nhà trường dồi dào đáng kể. Mấy thầy cũng có dịp cải thiện hầu bao riêng tư một cách hợp pháp mà trò cũng vui vẻ chi trả rẹt rẹt không than vãn trước sự hợp tác đôi bên cùng có lợi. Dân số trường Kiến trúc nhờ thế tăng ồ ạt. Bãi xe của trường xưa chỉ lèo tèo vài chục chiếc xe đạp. Nay thì từ sân, sảnh, ra tận cổng trường tràn ngập xế nổ của thầy và trò. Lâu lâu có thêm vài chiếc xế hộp xịn hơn cả tiêu chuẩn đi lại của hiệu trưởng đậu chễm chệ trong sảnh nhà trường. Thấy nhiều thầy “lên đời” xe làm mấy anh em nhà nghèo ngứa mắt ganh tỵ rồi bêu xấu không ít.

Sự chuyển biến từ cái thế hệ “AK” thời hậu chiến cần sự nâng đỡ của nhà trường đến thế hệ “a-còng” ngày nay thừa tiền lắm của tài trợ vỗ béo cho ngân sách nhà trường làm bộ mặt trường ta tươi mát hẳn ra với một sự bội thu sinh viên và bội chi KTS chưa từng thấy.

Cuối thập niên 50, cả trường hàng năm chỉ có khoảng chưa đầy 50 sinh viên. Ðến nay Số Kiến ra lò đến nay trung bình khoảng gần 200 sinh viên/khóa. Nếu dựa theo bảng kiểm điểm báo cáo của nhà trường như trên đã ghi thì trong 4 năm cuối thế kỷ 20 thôi, số sinh viên ra lò đã tương tương 100 năm đào tạo của ÐHKT Sài Gòn cũ.

Gớm chưa các cụ?

Sự tiên tri của hai ông thầy Tàu đã ứng nghiệm rõ ràng. Khi nhà nước cho xây nhà thi đấu Phan Ðình Phùng xóa sổ công viên “tươi mát” đối diện thì số lượng sinh viên Kiến tăng rõ rệt. “Lời nguyền độc địa” ngày xưa ở xóm công viên ấy đã được hóa giải triệt để kể từ ngày mấy “chị em” không còn đất hành nghề nữa.

Việc học trong trường ra sao, cứ xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi thứ Nhì

Phòng giáo vụ làm nổi cơn gió bụi
Ðời sinh viên gặp lắm nỗi truân chuyên.

Báo trước với anh em, hồi này hơi dài, xin chịu khó đọc cho hiểu phần nào cảnh đời sinh viên éo le đủ thứ. Dù nói hoài cũng không hết!

Sau một thời gian đầu lo thủ tục nhập học: cắt hộ khẩu, cắt công nghệ phẩm, cắt sổ dầu, sổ gạo, sổ lương thực... để chuyển vào trường (kéo dài đến cuối thập niên 1980) thì bắt đầu nhập học. Mấy thủ tục trên dần dần lọai bỏ khi chế độ đào tạo đại trà của trường phát triển sau này. Chương trình học so với ngày xưa không khác bao nhiêu. Có chăng chỉ thêm mấy môn học chính trị chính em, Nga văn, quân sự cho hợp thời đại. Thầy mới khá đông, thầy cũ đa số “ra đi” với mọi hình thức bằng nhiều lý do tế nhị. Sự chuyển hệ làm nội bộ trường hơi lục đục theo đúng công thức của thời “quá độ”. Mấy thầy của “hai hệ” đá nhau âm ỉ. Phe này chê phe kia dốt, hay là chê phe nọ khó khăn kỳ cục... vân, vân. Ðặc biệt có trường hợp cô này “chôm” giáo án thầy kia để dành dạy mấy môn quan trọng, bất chấp mình có chuyên môn hay không, với hy vọng có một chân vô “biên chế ” cho yên bụng. Thương cho đám sinh viên bị nạn “oanh kích tự do” mà lãnh đạn trọn ổ. Nhiều anh học theo “hệ” này tất nhiên bị “hệ” kia đì sát ván cho bỏ ghét.

Tính truyền thống của trường Kiến trúc qua cảnh SV “ne” bài nhau vẫn được duy trì. Khi mà nữ SV đã có mặt trong trường thì việc này lại một phần biến chất thành cảnh “Lê Lai cứu chúa” tức là quân tử xả thân từ vẽ bài “phụ” sang vẽ bài “dùm”cho mỹ nhân tận tình. Nếu trường có bắt trả bài chắc chàng cũng “dốc hết tình này” để trả bài vô điều kiện phục vụ đòi hỏi khắt khe của nàng. Khổ nổi là khi bài mình lo chưa nên thân mà phải lo “ngậm bồ hòn làm vui” ôm sô dùm bài của người khác. Nên cảnh thi rớt “đồng quan đồng quách” là thường tình. Hễ là sinh viên Kiến trúc là biết cảnh :

“Tiếc thay, anh còn sa-rết hòai, đồ án nợ chưa dứt nên lận đận truân chuyên...” (lời một bài hát đã cải biên)
Năm đầu tiên vào học, người ta hay nói thiên hạ thường “lọt lỗ chân trâu mà chết”. Vì môn chuyên môn thì học dễ trong khi môn phụ thi cực kỳ gian nan. Có lẽ mấy thầy bị tự ái khi thấy môn học của mình ít ai thèm ngó tới nên phải làm mình làm mẩy tý cho vui dù chẳng “giết” (đánh rớt) ai cả. Có chăng chỉ hù chơi cho vui lần đầu rồi lần sau thi lại cũng cho “qua” tuốt tuồn tuột. Theo hồi tác giả đi học, tác giả cũng phải nhiều phen khiếp vía. Nhứt là môn đại số tuyến tính (năm 1) và tin học (năm 5) của thầy Q. Trong lớp thầy luôn “sạc” lia lịa nếu thấy anh nào có bộ vó học hành lơ mơ. Nhiều “thằng cha, con mẹ” (theo định nghĩa sinh viên của thầy) phải chết rét vừa điếc con ráy với những bài toán đúng nghĩa ma-trận. Lúc thi có lúc một lớp (40 người) chỉ có 2 người đậu. Nhưng thi lại lần 2 thì ai nấy cũng đậu tệ lắm là 5vv (5 vớt “vớt”). Vậy mà ai cũng thương và nhắc tới thầy hoài, chỉ vì cái “Tâm” thầy tốt.

Trong các phương pháp dạy học thì ngòai lý thuyết và thực hành, để sinh viên có thêm kinh nghiệm ngoài đời , một sáng kiến một phương pháp vô tiền khoáng hậu được giảng dạy một cách âm thầm mà ít người ngoài biết: môn “Hậu Quả Xây Dựng”. Người sinh viên không cần biết thầy mình là ai, không cần thi cử, chỉ cần nhìn rồi từ từ “ngộ” ra chân lý. Chẳng có ai phát minh hay tìm ra môn học này. Tất cả đều được phát hiện một cách ngẫu nhiên. Lịch sử của nó như vầy:

Từ ngày khối phòng học đầu tiên được xây vào năm khoảng 77 với một thời gian đáng kể gần 2 năm.. Sau khi thi công xong thì công trình bị thấm dột đủ thứ giúp cho đám Kiến con có thời gian dài chứng kiến học hỏi mọi thứ tệ hại trong xây dựng để sau này liệu mà tránh. Ðúng theo nguyên tắc kiểu binh thư Tôn Võ: “Nếu không biết cái lợi nên làm thì cũng nên biết cái hại để mà tránh”. Một thầy buộc lòng phải giải thích huỵch toẹt cho đệ tử: “Không phải nhà trường không biết cái sai nhưng nhà trường vẫn cố ý làm sai để chỉ dạy cho mấy anh tường tận đó!” Hay chưa?

Chưa hết, năm 1983, sẵn dịp một sản phẩm do chính trưòng ta thi công bên đại học Kinh tế bên cạnh bị sập chết người vừa sau khi gỡ cốp-pha gây chấn động dư luận, anh em sinh viên được dịp hiếm có học một kinh nghiệm ngàn vàng và cũng được “dợt” qua nỗi kinh hoàng do “bể độ” để tập luyện giữ vững tinh thần cho quen, cho biết với người ta. Người viết không gọi việc này là sự cố hay vụ án vì kết quả chẳng thấy vị chóp bu nào đi tù cả. Vì yếu tố bền vững trong nguyên lý đã là chân lý và chân lý thì bắt buộc phải đúng ở khắp nơi. Còn vị nào bị đổi công tác thì tức là được lên chức đổi đời nhanh chóng. Phải chăng đây là cách để trả công “khéo” cho một ý tưởng mới trong giảng dạy, một cống hiến to lớn vào sự nghiệp xây dựng???

1989, không biết có một ông nào nổi hứng chính thức đưa ra luật “cấm ne” kèm theo thêm quy định chỉ cho sinh viên trả nợ trong 2 ngày bất kể đồ án lớn nhỏ. Việc đã làm cho mấy thầy lão làng chân chính phản ứng không ít. Chỉ tiếc một điều là vì mấy lão không còn quyền hành như xưa nên kết quả chống đối chỉ là một cuộc “diễn tập đấu tranh” sương sương không thu kết quả gì. Sinh viên lãnh đủ một trò “thí nghiệm chiến trường” của phòng giáo vụ mà chẳng thấy ai dám can thiệp vô vụ cứu giúp. Trong họa thất thỉnh thoảng có sự “càn quét” của nhân viên giáo vụ đi bắt mấy anh “ne chui”. Rồi còn thêm cái trò hú nhau làm ám hiệu khi thấy “giặc tới” để rồi mấy “ne chui” hè nhau chạy trốn như trò chơi “dọn dẹp lòng lề đường”. Thương chú S. hồi đó quản lý họa thất thấu hiểu truyền thống xưa nay của dân Kiến mà lắm lúc thông cảm nhẹ tay với mấy “ne”. Chú không bao giờ nặng tay với ai cả mà lại luôn phải nhẫn nhục chịu mang tiếng là “tay sai” của giáo vụ. Dù bề ngoài thì lâu lâu thấy chú “hù dọa” làm oai cho lấy lệ. Từ từ riết rồi sinh viên ai cũng biết và trở nên rất quý chú. Một anh sinh viên khóa k88 có câu định nghĩa chữ “KTS” trên sân khấu trong đêm truyền thống năm 1990 như sau: anh em lúc đầu trong họa thất “Kỵ Thầy S.” và riết rồi từ từ “Không Thấy Sợ” là thế. Tuy vậy có một thầy rất sốt sắng trong vụ “bắt ne” này cũng như nổi danh trong nhiều thành tích, phi vụ khác. Ðến nỗi có thơ rằng:

Tiếng đồn thầy Ng. rất tài năng,
Thi cử mấy phen lấy một bằng,
“Hệ B” chạy chọt bao nhiêu đứa?
“Họa thất” tru di mấy chục thằng.
Bợ mông giáo vụ tay còn dấu,
Ðè cổ sinh viên oán chửa tan.
Tưởng nhớ công thầy ghi mấy chữ:
“Ð.M. thầy Ng.“ viết trên tường!

(Năm 1993 nhiều thầy và trò có thấy trên cửa một họa thất có hàng phấn viết nguyên văn như vậy. Nghe kể lại rằng báo hại chú S. phải lo tìm cách xóa cho được hàng chử oan nghiệt ấy!)

Sau dần thì cả vụ “cấm ne” và trả nợ chỉ trong hai ngày” được âm thầm bãi bõ dần vì bỏ liền lập tức thì mấy ổng thấy quê độ khi tay đã nhúng chàm! Phải chờ có một “ông con” nào đó vào học mới có cái cớ để “cải cách sửa sai”. Chuyện về sau sẽ biết.

Trước cảnh nợ nần khó chi trả cùng với nhu cầu giúp tăng thu nhập của mấy ông thầy, năm 1990, mấy ông ban giám hiệâu, nhứt là phe phòng giáo vụ, tài vụ đã sáng tạo một giải pháp tới ngày nay vẫn còn hiệu quả và siêu lợi nhuận hơn cả dự tính: Ðóng tiền với cái gọi là “Lệ phí trả nợ đồ án”. Nó áp dụng luôn trong việc thi lại các môn học. Giá khởi điểm tối thiểu của nó là 4000 đồng/lần. Ðến nay năm 2003 nó đã tăng hơn 10 lần vì nhu cầu ngày càng cao của sinh viên và nhà trường. Do vậy, các sinh viên có giỏi thì cứ thi rớt nếu có tiền đóng và thầy thì mỗi lần đánh rớt thì có dịp sửa bài trả nợ mà cải thiện đời sống. Vì có sửa bài thì giáo vụ-tài vụ-thầy đều được hưởng ăn chia theo tỷ lệ phần trăm (ban đầu là thầy 75%, trường 25%). Hỏi ai chê không thèm làm? Trò thì hể đã đóng tiền thì thi trả nợ cũng dễ “qua”. Thầy-trường lỡ ngậm tiền phải ráng công chấm bài lo thủ tục, sổ điểm... cho đáng đồng tiền bát gạo. Nó tạo điều kiện khuyến khích nhiều thầy thêm hăng say “múa bút tựa múa đao” chấm bài lẫn ký sửa bài trả nợ với sự “ủng hộâ” tận lực của các phòng ban trong trường. Có thầy chỉ cần ký bài trả nợ để khỏi mất công sửa bài dây dưa, rút ngắn công đoạn cho khoẻ anh em và kinh tế của mình cũng được mau cải thiện một cách hợp pháp. Mấy sinh viên Kiến cũng lợi dụng nước đục mà luồn lách. Mỗi lần trả nợ có thể mượn bài của anh nào đậu để chép “nguyên con” cho chắc ăn. Thêm nữa là đã từ lâu nay có sẵn chủ trương rút ngắn xóa bỏ dần ranh giới giai cấp giữa thầy và trò nên vấn đề tình cảm thầy-trò có dịp thể hiện thêm thắm thiết một cách trơn lu qua quà cáp, yến tiệc đầm đìa bia bọt cùng mấy khoảng “tứ khoái trần gian” khác.

Nói vậy chứ cuộc đời còn lắm ngoại lệ. Một hai ông thầy bà cô thấy ăn tiền kiểu này thì sượng quá nên vô giáo vụ và xin từ chối nhận số tiền ấy. Nhưng trò thì vẫn bị buộc phải đóng y số cho đúng luật, còn thầy có chịu lấy tiền hay không thì trò đừng thắc mắc mà mang họa. Cũng còn nhiều ông thầy vì lương tâm cắn rứt khi sợ cảnh học trò mình “mua bằng” nên lâu lâu cũng ra tay trị thẳng cánh một lần trò biết mặt. Cuối năm 1991, khóa k89 (trên 100 người) đã chịu một kỷ lục “rớt” về chuyên môn mà từ sau 1975 chưa thầy nào phá nổi. Ðồ án “nhà an dưỡng” lần ấy theo luật của trường thì phải được ít nhứt hai thầy chấm mới hợp pháp. Thầy H. và một đồng nghiệp khác chấm xong cất kết quả vào tủ (rớt khỏang 3/4) chưa kịp đưa cho giáo vụ thế mà hôm thứ hai đầu tuần đã có kết quả khác chính thức đăng lên trước với tỷ lệ đậu 3/4. Sự việc làm hai thầy phản ứng lên tận hiệu trưởng vì có kẻ “chơi qua mặt”. Sau khi thưa kiện lung tung cuối cùng thầy L. trưởng bộ môn yêu cầu khóa 89 nộp lại bài cũ và đích thân chấm lại với kết quả ban đầu của hai thầy gần như không đổi bao nhiêu. Nguyên nhân chỉ vì thầy K. “nổi máu nghệ sỹ” vô chấm riêng một mình sau khi hai thầy kia chấm xong và đưa bảng điểm lên phòng giáo vụ trước. Ðám sinh viên cả trường từ ấy phải kiêng nể thầy H. và mấy thầy khác nói chung sau trận đánh rớt phủ đầu ấy. Khắp nơi đều lên tiếng rên siết vì trong vòng gần 15 năm chưa thầy nào to gan dám “giết” sinh viên hàng loạt như vậy mà không sợ bị nhà trường rầy. Nhiều “ngư ông đắc lợi” nhờ cái luật “đóng tiền trả nợ” sau đó... Cứ hỏi mấy anh chị K89 “cựu nạn nhân” thì biết rõ hơn.

Có một thầy khác chơi trò áp đảo học trò bằng “tâm lý chiến” bằng cách nổ cho trò sợ tài năng của mình để liệu mà bắt chước. Thầy bảo rằng trong một đêm thầy có thể binh hàng trăm phương án quy họach, tốn hết 3 cuồn giấy calque. Mỗi cuốn 40 thước (?!) đàng hoàng. Thế là hết ai dám coi thường oai mấy thầy trường ta.
Trong khóa k8... một anh nọ học “quá ể” nhưng vì có ông già tía có mối quan hệ rộng trong trường nên mấy thầy cũng phải nể mặt mà nâng đỡ. Nếu chấm thẳng tay thì tội, chấm đậu vớt thì thương ông già bị quê độ. Chấm đậu cao càng không có cách chi lý giải. Thôi thì mấy thầy mới dùng giải pháp cho đậu khá nhưng nhẹm kín đồ án đi với lý do “xin lưu lại bài để tham khảo ý tưởng mới lạ” (!). Ai bảo thầy nào cũng xấu vì tánh ham đì trò?

Tình trạng “giết lầm không bỏ sót” bị nhiều anh em ta thán mà không ai để ý. Một lần, không biết mấy thầy bị “Tổ trác” mà mắt thế nào lại đánh rớt nhiều đồ án công nghiệp một cách khó hiểu. Có một bản vẽ trong đó nhiều chi tiết khai triển bị gạch bỏ với lời phê “cấu tạo chưa từng thấy”. Tác giả đồ án đã tuyên bố chi tiết ấy đã được chép nguyên xi đúng bài trong sách cấu tạo của Mittag. Chỉ biết rằng bài trả nợ của anh sau này y chang bài cũ thì lại đậu. Về phần đồ án quy họach thời ấy đã có một luật bất thành văn: “Nhà phải bắt buộc 100% quay về hướng nam, trường học thể hiện trên bản vẽ phải có dạng chiếc quần xà lỏn mà không được dạng khác, trường đại học cấm không được có sân bóng chuyền...” Anh nào không nghe dù giỏi thế nào cũng bị rớt. Vậy mà riết cả lớp buộc lòng phải vẽ theo như cái “luật bất thành văn” làm cho bài ai nấy cũng gần giống nhau, chỉ khác lối diễn họa và tên tác giả. Kết quả có anh này đậu anh kia rớt khác nhau mà tới nay chẳng ai lý giải được. Chưa, còn nữa, nhiều đồ án được đậu cao chỉ nhờ phối cảnh đẹp mà “pạc-ti” mặt bằng “binh” chưa tới. Trong khi mấy anh nào chịu khó nghiên cứu mặt bằng hoàn chỉnh thì kết quả khiêm tốn hơn, có lúc lại bị 5v xém rớt. Ðó là ý đồ sâu xa của thầy cho mục đích lâu dài về sau. Trường hợp không biết thế nào mà có lần một thầy hướng dẫn đọc bản vẽ hòai không ra trong nhiều lần sửa bài làm mấy anh học hành nghiêm chỉnh còn phải rét vì sợ bị rớt oan; có anh phải chạy đi năn nỉ thầy phó bộ môn lên họa thất làm bộ đi coi chấm bài để có gì “cứu khổ” giùm. Lâu lâu cũng nghe chuyện nhiều bài thi giống nhau như đúc song kết quả thì kẻ đậu người rớt khác nhau. Chẳng ai giải thích được, kể cả chính mấy thầy chấm bài.

“Vỏ quít dày móng tay nhọn”. Ðể đối phó với việc thi cử, các phương pháp phổ thông như là “quay phim” hay năn nỉ thầy... thì xưa như trái đất. Có năm trường hợp đối phó thần sầu đầy tính sáng tạo, xin kể lại để anh em tham khảo nghiên cứu, đừng ham bắt chước vội:

Trường hợp thứ nhứt, một thầy dạy môn nọ (xin giấu tên để bảo vệ nhiều người) nổi tiếng đánh rớt sinh viên. Ðể được “qua phà” an toàn, một anh Kiến nọ chắc cũng kiến thức lịch sử khá dồi dào bèn áp dụng nguyên xi trò Mỵ Châu – Trọng Thủy bằng cách cặp bồ với con gái của thầy là ăn chắc! Thơ rằng:

Tôi kể ngày nay chuyện Mỵ Châu,
Trái tim đúng chỗ để trên đầu,
Ðề thi ăn cắp đưa Trọng Thủy,
Biết bao chàng Kiến đội ơn sâu...

...vì nhờ thế mà thi cử “qua phà” êm đẹp cả!

Trường hợp thứ hai, môn Nga văn vốn là nỗi sợ hãi của nhiều anh chị. Kỳ thi quốc gia lại vào năm thứ 5 trong khi tất cả anh em lại quên sạch vì khóa Nga văn kết thúc giữa năm thứ 3. Dù thầy cô tận tình dạy ôn lại nhưng kết quả chẳng ai nhớ gì ráo. Trong lần thi quốc gia của khóa k87, một chị trong lớp liều mạng tuồn đề ra cho một cao thủ bạn bên ngoài làm xong thì lén thảy vào cứu được gần trọn cả lớp K87 (chỉ có vỏn vẹn 1 - 2 anh rớt). Cô T. lần ấy phải thắc mắc tại sao mấy anh làm bài giống nhau quá? Nếu cám ơn anh cao thủ nọ thì toàn thể SV cũng hết lòng nhớ ơn cô T. đã sáng suốt thức thời cứu vớt dân nhà Kiến, không bao giờ ác tâm trù dập bất cứ anh em nào.

Trường hợp thứ 3 ly kỳ không kém kể về một anh sinh viên vốn nhát đòn sợ rớt môn chính trị chính em. Vì anh vốn kha khá ngoại ngữ nên đã chịu khó vừa nghe và tự học ngoại ngữ bằng cách vừa nghe giảng bài vừa dịch lại toàn bộ bài giảng sang ngoại ngữ. Vào phòng thi, anh bình tĩnh để tập sách ấy trên bàn để lót giấy thi và khi nhân viên giáo vụ gác thi hỏi, anh tỉnh rụi đưa tài liệu cho giám thị (cũng là nhân viên giáo vụ mới kinh chứ!) kiểm tra với lý do đó là bài đi học thêm ngoại ngữ ban đêm. Lật đi đọc lại tới lui một hồi, giám thị đã trả lại để cho anh tiếp tục làm bài yên ổn. Kết quả thì đã rõ.

Ngoạn mục nhứt là trường hợp thứ 4 này. Trong kỳ thi mỹ học, đề thi lần ấy có yêu cầu liệt kê một số công trình kiến trúc lịch sử đặc trưng ở miền Nam có tiêu chuẩn cái đẹp “theo quan điểm mỹ học của ông M.” của thầy giảng. Một bài đã được thầy chấm với số điểm khá cao. Chủ nhân của bài thi đã thú nhận riêng với các Kiến khác là tất cả những công trình anh viết ra đều có đủ số liệu chính xác về năm xây dựng, năm bị phá hủy, đặc điểm công trình... cao hơn cả yêu cầu thầy đưa ra. Chỉ có cái tội là các dữ liệu đều giả hoàn toàn!

Trường hợp chót mô tả một bàn thắng “vô tiền khóang hậu” để cứu một người anh em nắm chắc vé lưu ban vì rớt 1,5 môn được một anh khóa k88 đã thuật lại như sau: theo luật của trường thì anh lớp trưởng hay anh bí thư Ðoàn của lớp được tiêu chuẩn ưu đãi hơn các bạn trong lớp ở chỗ được vớt lên lớp khi bị rớt 1,5 môn (môn chính = 2 môn phụ = 2 x 0,5 môn) trong khi các sinh viên bình thường thì tiêu chuẩn được vớt lên lớp với 1 môn rớt. Nên để “chuyển bại thành thắng” cho đồng môn, cả lớp liền bầu cho anh làm lớp trưởng để anh được lên lớp an tòan và hợp pháp!

Ai bảo sinh viên là dở? Sinh viên khôn lắm chứ...

Vì thời trời xui khiến khi xã hội phát triển bằng sự sàng lọc cao hơn nên kể từ khóa k88, cái gọi là “thi giai đọan” năm thứ 2 dùng để thanh lọc ra những tinh hoa của trường. Ðơn giản là phương cách 3 “bóp đầu vào, thắt đầu giữa, thả nổi đầu ra”. Nói nghe thì hay nhưng nó cam go bằng mấy năm học hành lè phè cộng lại. Cuộc đua “giai đoạn” hàng năm làm nhiều anh chị phải khốn đốn mà cầu Thầy cứu. Cái trò luyện thi, học thêm trong đại học nảy sinh ra làm gợi nhớ ít nhiều lại thời kỳ học phổ thông của chúng mình. Cũng có lợi chứ sao ? Nói chung thì các thầy nào dạy các môn liên quan đến thi giai đoạn thì được lâm vào đại vận hanh thông trong cung tài bạch lẫn quan lộc. Thầy thừa cơ tha hồ “hét ra lửa, mửa ra tro”ù. Chuyện kể lại rằng một ông thầy tên Th. bình thản “dám” đánh rớt người học trò mình dù y đã “thành công” trong việc tặng thầy một chiếc “Ðờ-Rim 2” để trợ giúp thầy trong công tác đi lại. Chính mấy đồng môn của tác giả trước đó vài năm cũng có lần rớt oan mạng khi thầy cố ý ra đề sai khi thi lại. Thầy lý luận: “Có ra đúng mấy anh cũng làm sai (!?)”


Nói là thi giai đọan có từ năm 1988, song trò sàng lọc “chưa chính thức” đã được manh nha thực thi trước đó bằng việc “thi kiểm tra giữa học kỳ”. Anh nào học lơ mơ rớt 2/3 lần thì bị cấm thi ráng chịu. Lúc đầu mấy thầy lại chơi trò “kiểm tra đột xuất”. Vì vậy lần đó khóa k86 năm thứ 3 đã bị cấm thi gần như 100% vì môn X (xin dấu tên). Trò xỏ lá này làm anh em tuyên bố định làm “reo” (grève) với nhà trường. Báo Tuổi Trẻ năm 1989 có bài ghi lại. Nhà trường phải cải tổ ngay lần đó và hứa rằng sẽ báo trước những kỳ kiểm tra. Song nhiều thầy cũng nhiều lúc “xé rào” do ê mặt trước cảnh sinh viên Kiến chán nản cúp cua môn học của mình khá đông. Thỉnh thoảng có nghe chuyện trò rủ nhau cả đàn “biểu tình” năn nỉ ở trước cửa nhà thầy vì thầy trót tuyên bố cấm thi quá đông anh em.

Trong khoảng thời gian này, uy danh các phòng ban, nhứt là phòng giáo vụ (sau đổi tên thành phòng đào tạo mà có kẻ dám xuyên tạc là “phòng đào tiền”!) như một vị quan “tiền trảm hậu tấu”. Tất cả tiền bạc đều phải đóng trực tiếp tại đây, năn nỉ hay khiếu nại tại đây, rút hồ sơ ra khỏi trường cũng tại đây... Hễ nghe mấy ông bà ở đây gác thi thì phải biết!

Bên cạnh tính hiếu sát thì Trời đất còn có tính hiếu sinh đám sinh viên. Số là sau 2 năm từ khi bắt đầu năm thực hiện chế độ thi giai đọan, ông Trời bèn khiến cho một ông con của một ông KTS nọ (vốn có máu mặt trong phòng giáo vụ) học khóa k90. Thế là toàn bộ khóa ấy được mọi ưu đãi nếu may mắn gặp lúc ông con này bị lận đận “sa-rết” trong đèn sách. Có thơ vịnh rằng:

Một lũ con nòi, chẳng giống ai
Idée [3] đồ án rất " trời ơi",
Esquisse [4] "rặn" hoài, không ra...ý,
Rendu [5] "quậy" mãi, chẳng lên tay.
Kết cấu, xì-tin (style) [6] trông rợn óc,
Diplôme [7] , charrette [8] thấy bái dàí!
Trả nợ, “lần 2” luôn hiện diện,
Kiến trúc dòng con lại bất tàí!

Nhờ vậy vụ “cấm ne” đã được nới lỏng dần. Ðặc biệt khi thi giai đọan năm thứ 2 của khóa k90, lần ấy rớt khá đông. Ông con thì khỏi nói ai cũng biết. Ông cha làm trong phòng giáo vụ phải điều chỉnh hạ chuẩn điểm đậu. Thế là rất đông anh em rớt được “ăn theo” ơn mưa móc mà “qua” giai đoạn an toàn. Ai bảo dân giáo vụ ác đức? Mà có hết đâu, những năm mà “ông con” còn mài quần trên ghế nhà trường thì hễ “ông “ gặp khó khăn do làm bài không kịp giờ thì anh em đồng khóa được “dựa hơi” mà “thoát chết” đồng loạt. Khi làm tốt nghiệp anh em cũng được giáo vụ hạ tiêu chuẩn khổ giấy vẽ cho đỡ cực khổ. Có ông KTS bố khi nghe tin buồn: “Mặc dầu có sự tận tình chạy chọt song cậu ấm đã không qua được cuộc thi giai đoạn hiểm nghèo”, đã đề nghị mở thêm một khoa mới để “pát-xê” con mình qua đó tiếp tục học. Ðám Kiến “đồng nạn” cũng được cứu độ theo. Sướng chưa! Trách chi hễ có một tiếng đồn tốt là thiên hạ cứ ùn ùn vô ÐHKT. Hễ vào được là chắc chắn ra trường được với một tấm bằng láng coóng lận lưng quần dễ ợt. Chưa kể nó còn bao gồm luôn cả bằng B ngọai ngữ cấp quốc gia nữa mà!

“Vật cùng tắc biến”. Khi thu nhận sinh viên ồ ạt thì dĩ nhiên nhiều sơ sót bê bối hành chánh, tài chánh bắt buộc sẽ phải lòi ra như cảnh tang gia bối rối mong chính quyền và đồng bào lẫn sinh viên niệm tình tha thứ. Cái “biến tắc thông” là Bà Hỏa “giáng lâm” phòng giáo vụ trong một đêm 16 rạng 17-1-1992 làm sinh viên phải hoãn giờ thi để cho cảnh sát vô điều tra. Vì theo quy luật phát triển mà sách nhà trường đã dạy, thì sau khi sinh ra và tồn tại thì nó cũng phải bị buộc kết thúc giống cũng như tòa Imexco cùng thời bấy giờ. Nghĩ tiếc thay khi dân Kiến ở ký túc xá gần đó có dịp chứng kiến suốt đêm giờ phút chót của tòa Imexco mà lại không có dịp chứng kiến cái công trình giáo vụ trù phú của chính trường mình “trở về cát bụi”. Thiên hạ liền chiêm nghiệm lại sự việc qua chuyện Ðại Hồng thủy trong kinh thánh và cứ thắc mắc bàn tán mổ xẻ “gia đình Noe” lần này gồm những ai??? Ông mang theo ông những thứ gì để duy trì cuộc sống??? và nhiều câu hỏi khác. Mãi tới khi phòng giáo vụ được bố trí chỗ mới mà nỗi kinh hoàng vẫn chưa dứt đến nỗi mấy bà “ở trỏng” phải lập một bàn thờ trước cửa phòng cúng khai trương để cầu an và tạ ơn thần tài phù hộ thoát nạn lâu nay. Riêng về phần sinh viên, sau trận ấy phách rọc bài thi bị cháy sạch không còn khả năng hồi phách vô sổ nên anh em phải rủ nhau đi gặp thầy để nhận dạng bài thi của mình.

Nói đến Kiến trúc mà không không nhắc tới lễ truyền thống quả là một thiếu sót to lớn. Thực chất cũng là lễ nhập môn cho các “ne” năm thứ nhứt, trình làng trước đàn anh, cũng là một trách nhiệm của anh năm cuối trước khi rời khỏi trường. Vì “đời chỉ có một lần” nên một bên thì cố gắng tổ chức cho thật độc xẹt, một bên thì phải cố gắng làm sao đi có mặt thật đầy đủ để cho mọi người biết mặt. Lễ nhập môn bái đàn anh được tổ chức với nhiều hình thức. Cũng đi xin phép chính quyền, in thiệp mời, đi quyên góp mấy nhà hảo tâm, lo dàn dựng, tập dợt... Cảnh tiêu cực cũng không ít vì nhiều anh đi quyên góp cũng thừa cơ chấm mút cho bớt “động lòng”. Ban đầu, thời “phương cách 1” còn áp dụng thì không có gì lớn để mà bàn vì dân số không đáng kể nên không có sự lộn xộn trong tổ chức và sức chứa của trường còn kham nổi. Càng về sau từ khi áp dụng “phương cách 2” trở đi thì mỗi lần truyền thống là luôn có vấn đề lớn từ thượng vàng tới hạ cám. Việc triển lãm tranh biếm họa làm đụng chạm tim đen mấy thầy không ít. Từ đó nảy sinh thêm chế độ kiểm duyệt tranh truyền thống. Ðặc biệt là năm có lịnh “cấm ne” làm phá vỡ truyền thống “dạy nghề” của anh em Kiến làm bất mãn khá nhiều người. Bấy giờ bất cứ hình vẽ hay áp-phích nào có chữ “ne” hay ý nghĩa tương đương đều bị một thầy trong ban giám hiệu đến và thẳng tay lột bỏ vì “phạm húy”. Cảnh chen lấn xâu xé có lúc suýt ẩu đả nhau trong đêm truyền thống là chuyện thường. Các bãi giữ xe của các sinh viên tràn ngập dù giá gởi đã lên gấp 10 lần giá nhà nước. Mà cái vui nhứt theo ý tác giả là tiết mục nhảy đầm cuối lễ truyền thống. Mấy năm mới được phép “nhót” trở lại thì phải biết nó sung sướng biết chừng nào. Danh từ “nhảy son-đố-mì”, “múa đôi” hay “quốc tế vũ” thì dẹp quách đi không thương tiếc do hết hợp thời đại. Tiếp sau buổi lễ kết thúc, dù có tổ chức bê bối chăng nữa thì luôn có lệ phải tổ chức một tiệc liên hoan mừng thành công của đêm truyền thống và lợi nhuận của nó để lấy tinh thần cho mấy khóa sau. Anh em nào còn lại ở trong trường được bao ăn nhậu thả ga, lúc ấy thật là một lễ truyền thống “tập 2” ngoài luồng không sợ chế độ kiểm duyệt bên ngòai “gõ”. Các tiết mục đều có thể biểu diễn tự do không cần đăng ký xin phép. Ðêm truyền thống 19 rạng 20-9 năm 1991 còn có cả sô “thoát y vũ nam” kèm nhạc sống coi miễn phí (chuyện có thật 100%.- tác giả thành thật xin lỗi độc giả vì khi ấy tác giả còn quá ngây thơ ham vui không biết hỏi tên tuổi của vũ nam ấy), khán giả đứng xem được tiếp cận diễn viên trong tầm tay, vừa được phục vụ cháo ăn đêm nếu cần. Xong thì từ từ mạnh ai nấy vô tư nằm la liệt ngủ để hôm sau lấy sức thu dọn chiến trường. Lợi nhuận thu được có lúc thừa sức tổ chức bao trọn gói 1,2 chuyến nghỉ mát Ðà lạt hay Vũng Tàu cho mấy anh em, bao luôn bồ bịch nếu có. Trước khi đi, cũng có bố trí vài anh sinh viên chuyên “dọn đường” bằng cách ghé nhà mấy thầy để “nói một tiếng xin phép nghỉ mấy ngày” cho đúng lễ. Còn bài vở, đồ án thì để đó! Chơi trước tính sau. Nghe kể lại vào năm 1999, nhà trường nổi hứng cấm làm truyền thống qua chủ xướng của thầy giáo sư tiến sỹ thạc sỹ Kiến trúc sư T.H. với nhiều sự lý giải không ai hiểu được, có lẽ thầy học nhiều quá rồi điên chữ chăng? Kết quả là mấy anh em đợt đó ra trường hễ thất bại là đổ thừa “Tổ quở” vì lý do trên.
Trong sự căng thẳng lên bài ngày đêm từ ngàn xưa đến nay, khi thời gian đều đổ hết vào họa thất tất nhiên anh sinh viên Kiến nào cũng đều quên mình vì nghệ thuật dù muốn hay không muốn. Cũng vì lý do học hành càng kham khổ, nếu là nữ, thì tàn phai nhan sắc là không tránh khỏi. Do vậy trong bình minh của lịch sử nhà trường, số nữ không đáng kể (hồi 1955-56 mới chỉ có một người duy nhứt là chị K.N!) dù số “Lê Lai liều mình cứu chúa” không bao giờ thiếu. Nguyên nhân một phần ngày trước trong các họa thất có anh “trưởng tràng” hay sanh tật “bắt ne làm gì thì ne phải làm nấy không được cãi” nên nhiều cô nghe đồn thôi mà đã mất vía rồi. Càng về sau khi “đầu ra” càng dễ thì số nữ tăng dần và nhan sắc Kiến nữ trong trường thấy cải thiện đáng kể thừa sức canh tranh với dân trường Tổng hợp hay trường Kinh tế bên cạnh. Số Kiến nữ tăng đột ngột vào năm 1987. Ðang đói xưa nay, giờ gặp cơm hay phở gì thì mấy anh Kiến đều phơi phới rậm rực ra mặt. Có cô lợi dụng lắm anh theo đuổi, liền chơi trò “đấu thầu” bằng cách nhờ mỗi anh làm một bài để rồi chọn cái hay nhứt lên nộp cho thầy. Khiến mấy anh “hụt thầu” ngẩn ngơ mà không làm gì được. Kiến nữ làm không khí tổ Kiến thêm nhộn nhịp. Có hai chuyện, kể về “sự cố ngàn xưa” thời ấy đậm đặc tính mê ly cụp lạc mà sinh viên ai cũng biết. Một cú bởi trò gây ra (thập niên 80), một ca do thầy là thủ phạm (thập niên 90). Cả hai thầy trò luyện công phu “âm dương chỉ” thế nào không biết mà “dến” cái “bầu tâm sự” cho hai cô bên ngoài (có 1 cô là sinh viên trường bạn) khiến hai cô đến trường “hỏi thăm”, nói hoa mỹ là đòi “bồi thường chiến tranh”. Nhà trường nghe đâu phải âm thầm vào cuộc giải quyết ổn thỏa. Vì quý thành tích học tập tốt nên trò chỉ bị cảnh cáo cho lưu ban, còn thầy thì phải cuốn gói ra đi không hẹn ngày trở lại. Thôi chuyện nghe qua rồi bỏ, chỉ biết sau đó vài năm, bên ngoài thiên hạ tổ chức ì xèo những cuộc thi hoa hậu làm bên trong trường càng thêm rạo rực trước cảnh “cây nhà lá vườn” đang kỳ mơn mởn chưa từng có xưa nay. Yếu tố “mỹ quan” trong nguyên lý kiến trúc bắt đầu được chú trọng và được “rendu” dưới hình thức tân kỳ mới lạ.

Còn mấy Kiến nam thì thực chất chẳng thay đổi bao nhiêu. Do bù đầu làm bài cho mình và “hết lòng thờ vua (bà), xả thân cứu (nữ) chúa lúc nguy nan” nên riết rồi thời gian tắm rửa cũng chẳng còn. Cũng may ngày nay sinh viên có tiền thuê nhà trọ nên cũng bớt cảnh tốn thì giờ sắp hàng hứng nước hay “dành cơm” ở ký túc xá. Nhằm lúc này nhiều “nữ chúa” vào trường quá cỡ nên quỹ thời gian đã kẹt cứng càng thêm kẹt cứng. Ðành mang tiếng ở dơ vậy! Mà dơ bao nhiêu thì người đời tưởng mình có máu nghệ sỹ thiên tài đầm đìa ý tưởng trên trời dưới đất. Càng về sau có mấy anh thấy thế còn chơi “đốt giai đọan”, cứ ở dơ trước cái đã còn thời gian học hành thiếu đủ tính sau. Thêm cà phê, thuốc lá, nhậu nhẹt lu bù gọi là phương tiện kích thích tìm ý đồ sáng tác kiến trúc thì càng hay hơn nữa. Quên phứt đi cái khoản vệ sinh, điều độ bằng mấy cái “khoái” thứ dữ khác cho đủ bộ. Ðể tóc tai bù xù, ăn mặc bê bối làm tăng cường thêm ấn tượng Ðã không được nghệ sỹ bề trong thì cũng phải ráng được nghệ sỹ bề ngoài cho bằng anh bằng em. Bắt chước sai bài, “binh” không tới thì ráng chịu. Mà lạ hơn nữa là nhân viên của trường cũng không kém máu nghệ sỹ. Năm 1978, vào ngày quốc tế phụ nữ, một bà nhân viên chơi nổi “tròng” bộ áo cưới vào trường cho nó “độc xẹt” mặc cho chúng sanh thấy mà lắc đầu. Nhân viên trường còn “nghệ” như thế thì đám sinh viên lập dị cũng đừng ai trách. Cũng vào khoảng mấy năm ấy, nhân có phong trào “cấm để tóc dài”, nhà trường cũng định lợi dụng nhằm hạn chế máu “nghệ” của mấy Kiến nhưng sau vài năm thì “mèo vẫn hoàn mèo”. Nói tiếp về cái trò “ở dơ sống lâu” dần dần trở thành món võ tự vệ độc hại làm thầy nào cũng phải gờm mùi hương lẫn mặt mày của mấy thằng đệ tử và rồi kiêng dè khi sửa bài của chúng. Mấy đồng môn cũng phải bịt mũi “chạy làng”. Lúc lên bài họa thất hay vào lớp thì liệu hồn! Chúng mà ngồi đầu ngọn gió thì làm cả lũ trong sạch nhiễm độc khí chết nhăn răng. Kiến nữ nhờ vậy thêm được thầy chiếu cố tận tình nhờ bộ vó “dẻo như cơm, thơm như mít” rồi từ đó có tiếng đồn nhau rủ rê nhiều nữ sinh khác đổ xô ồ ạt thi vào kiến trúc.

Việc học quân sự tuy bắt buộc nhưng đó không phải là cửa ải. Tuy chỉ tốn có một tháng song là dịp để sinh viên đi ra ngoài thay đổi không khí. Các thầy cũng tương đối dễ dãi. Hồi trước, nhớ có một thầy, thật ra là một ông sĩ quan già tên L. mà dân Kiến hay gọi là thầy Sáu L. Nghe cách nói chuyện hóm hỉnh của thầy, dân Kiến phát hiện trong lý thuyết quân sự chứa đựng tràn trề ý nội, ý ngọai, nghĩa đen, nghĩa bóng cực kỳ thâm thúy. Chỉ có thế mà anh em hứng thú có mặt tương đối đông đủ hơn các giờ lý thuyết khác. Thêm giờ học thực hành ngoài trời ( có lúc ở công viên đối diện Dinh Ðộc lập, có lúc ngay khu đất trống sát tường rào khám Chí Hòa), quả là thiên đường cho mấy anh em có dịp vui chơi hóng mát ngo ngoe tay chân cho đỡ bồn chồn. Lúc giải lao thì thầy trò tụ lại tha hồ đánh “tiến lên”, hòa đồng quân dân với nhau mà không sợ ai bắt lỗi. Cái vui nhứt là vào cuối khóa đi bắn đạn thật trên sân bắn Thủ Ðức. Nhiều lớp lợi dụng dịp này tổ chức cắm trại qua đêm, ăn uống bí tỉ, đêm nằm kề bên nhau ngắm trăng tâm sự, kể lể chuyện đời... tựa hồ:

... Nằm kề bên nhau chờ giặc tới,
Ðầu súng trăng treo...
(thơ Chính Hữu)

... ngay trên bãi tập bắn từ chiều hôm trước. Ðến sáng hôm sau thì bắt đầu thi kiểm tra bắn đạn thật. Vì tình thầy trò vốn đã được đầu tư thắm thiết trong quá trình học nên chẳng ai rớt. Tiếc rằng những năm sau đó tiết mục này bị bỏ dần vì sinh viên càng đông đảo khó tổ chức vì tốn kém. Ban đầu mỗi lớp cử vài đại diện đi bắn. Sau dần chỉ kiểm tra thao tác dùng súng của từng anh chị rồi thôi. Chắc vài năm nữa chỉ cử mấy anh đại diện đi học rồi chuyện gì mới nữa chưa biết trước được nhằm đơn giản hóa tận cùng khóa huấn luyện quân sự. Khóa học luôn kết thúc tốt đẹp nên chẳng có gì gọi là “ác nghiệp”. Chỉ kể nghe qua chơi cho đủ bộ.

Chặng cuối của đời sinh viên là tốt nghiệp cũng cực kỳ quan trọng vì “đời chỉ có một lần”. Sau vài tháng đầu tư sức người và của vào đồ án ra trường, anh nào chị ấy cũng bơ phờ, nhiều người xanh như tàu lá do làm việc ngày đêm quá độ. Thầy cũng phải được bố trí “kè” mấy trò mà hướng dẫn. Vì tính quan trọng của nó mà có trò vì quá thương thầy rồi sẵn sàng xì tiền bồi dưỡng riêng cho thầy chút đỉnh lấy sức. Mấy “ne” cũng đổ quân vào cuộc. Có anh thừa tiền lắm của thuê nhà để vẽ, thuê ne thả ga, bao ăn, bao ngủ từ a tới z. Mấy ne chỉ có việc tô màu, vẽ cây, chấm cỏ, nghe sai bảo lặt vặt... Mấy anh nghèo làm thui thủi một mình cũng tốt nghiệp vang lừng như ai. Cảnh “charette” vẫn còn đó. Tới ngày sơ khảo, nhiều người sốt vó là trò thường tình. Có thầy vì quá thương trò, chạy đôn chạy đáo vô trường huy động thêm “ne” kéo về nhà đệ tử của mình vẽ phụ cho kịp giờ. Sơ khảo xong, bài đem về sửa chữa một lần chót trước khi trình bày tốt nghiệp. Hôm bảo vệ mới thật sự là ngày trọng đại. Mỗi tân khoa tương lai phải một thân chống chọi với một hội đồng thầy tràn trề kinh nghiệm. Mấy anh du học sinh xứ Chùa tháp thì không đến nỗi lo lắng nhiều do đã được trang bị nhiều hậu thuẫn ưu đãi công khai. Ðiển hình là anh nào tiếng Việt còn lọng cọng thì các thầy thấy thương tình liền miễn khoảng trình bày giới thiệu đồ án cho đỡ mất thời gian. Và theo đúng thủ tục tốt nghiệp, mấy thầy vẫn lên thưởng thức đồ án cũng như hỏi vài câu lấy lệ với người ta với tấm lòng tràn đầy gạo muối cầu mong mấy anh mau về nước để truyền bá chất lượng và uy tín của “đằng mình”. Riêng với sinh viên Kiến nội địa nhà ta thì thầy vẫn thương yêu nên những năm gần đây, tỷ lệ rớt ít, ít dần và ít mãi. Có thầy nói nếu chấm gắt quá thì đâu còn đứa nào ra trường, mà mình đánh rớt hòai kiệt sức mình rồi sẽ đánh rớt không nổi nữa, đành phải “cho qua” để “để đức” cho con cháu. Trước trận “biển người” tốt nghiệp đông đảo tất nhiên thầy ủng hộ số đông mà từ bi xí xóa mấy lỗi lặt vặt không đáng kể cho anh em nhà Kiến mừng. Nghe kể lại năm 1994, có một anh sinh viên Kiến “cóp-pi” nguyên xi một sân bay trong sách để làm bài tốt nghiệp. Mặc dù có một thầy phát hiện và phản đối nhưng cả hội đồng thương tình công sức vẽ vời nên thông cảm cho ra trường êm đẹp. Do đó để việc bảo vệ tốt nghiệp thành công thêm rực rỡ, nhiều anh chị mời hết cả bà con họ hàng ông bà chú bác lẫn con cháu đi theo ủng hộ vì biết mình chắc chắn cỡ nào cũng đậu. Có người sau khi bảo vệ xong liền có con cháu đem hoa tặng theo công thức ca sĩ cho thêm tính le lói. Những đêm sau đó, các anh em luân phiên đi ăn nhậu khao quân mừng “chiến thắng” liên tục ở từng nhà các đồng môn với mấy ne ruột. Thầy cũng được mời lu bù và được trò trả công hậu hĩ từ quà cáp tới hiện kim tùy theo nhu cầu hay yêu cầu. Thầy thanh liêm thì chỉ nghe trò nói câu “cám ơn” là thầy mát ruột mà không cần gì khác. Ngày phát bằng còn vui hơn nữa vì còn có thêm tính tập thể cao độ. Rút kinh nghiệm nhiều năm từ các trường khác, trường ta cũng thuê áo mũ cân đai loại “thời trang cử nhân tiến sỹ” đem về trường cho sinh viên thuê lại để có dịp tổ chức đóng tiền đăng ký tên theo thứ tự lên lãnh bằng cho oai. Không khí trường nhộn nhịp hơn xưa vì ngoài sinh viên ra còn có cha mẹ, họ hàng, vợ con, bạn bè, bồ bịch.. đi đến xem chức mừng chia vui rôm rả. Mấy anh phó nhòm cũng có dịp chen chân vô kiếm sống chút đỉnh.
Ðời sinh viên là thế đó! Mà khổ nhiều sướng ít.

Một anh Kiến ôm tê-ke [T-square] miệt mài thi lại và trả nợ đồ án mãi mới tốt nghiệp được. Ra trường xong, y tủi thân hận đời bèn làm một bài thơ lưu lại :

Trời đất hỡi! Sinh viên khốn khổ,
Phải đóng thêm phí nọï tiền kia,
Có tiền, có gạo bề bề,
Dài dài trả nợ cũng ê bẹ sườn.
Lễ tốt nghiệp ra trường cũng đóng,
Thuê áo quần cho giống cử nhân...
Hận thầy ác đức ác nhân,
"Ðì" trò, đánh rớt kiếm ăn, làm tiền...
Thương thầy khác liên miên chạy độ,
“Giết” học trò, không nỡ ra tay,
Cứù cho tốt nghiệp mặc bây
Học không ra thợ, ra thầy, ai thuê?
Sẵn cao học, thôi về học lại,
Ngồi hai năm ra dạy sinh viên,
Thầy già xuống lỗ quy tiên,
Còn bầy đệ tử nửa điên, nửa khùng...

... và kèm theo một tuyên bố xanh rờn: “Ta không còn gì để rớt. Không Top Ten thì cũng Bottom Five” [9] .

Xuyên tạc đến nước như vậy mà thiên hạ vẫn cứ mê kiến trúc như điếu đổ, chen chân vô không dứt!

Trò càng đông thì thầy phải có thêm đủ số. Thầy già về hưu hay chết dần mòn mà thầy mới chưa có bao nhiêu để trám chỗ. Nhiều thầy chán nản bỏ trường đi “chạy ngoài” cho khỏe khỏi lo nhức đầu căng thẳng vì đấu trí mà thu nhập chẳng bao nhiêu. Thầy khác tuyển về để bổ sung thì chất lượng không đạt yêu cầu. Nhiều thầy giỏi về vài bữa, cao lắm là một học kỳ là bị “ma cũ” bứng gốc đành phải dứt áo ra đi. Bên ngoài kinh tế thị trường phát triển mạnh nên nhà trường cũng phải khốn đốn chạy theo cho kịp. Trước thế “lưỡng đầu thọ địch”, một bên nhu cầu đào tạo, một bên là kinh tế, thì chỉ còn nước chữa cháy là mở hệ cao học để đào tạo thạc sỹ và tiếp tục có dịp thu tiền “hụi chót”. Nhiều trường trước tiên phải “lên đời” cho mấy ông phó tiến sỹ thành tiến sỹ để có tư cách đào tạo mấy ông thạc sỹ mới. Trường Kiến tất nhiên không ngoài quy luật trên. Anh em nào muốn lên làm thầy hay để ra đời ngồi ký giấy thì đăng ký cao học khoảng 2 năm. Quá khỏe! Với điều kiện chịu khó đi học có mặt đều vì thầy điểm danh rất ngặt như ở trường phổ thông. Tại vì rút kinh nghiệm sinh viên đại học ưa “cúp cua”, và mấy anh theo cao học vừa có bằng cấp ngon lành ưa sanh tật làm “chảnh” không coi quy định ra gì , nên trường buộc lòng phải dùng biện pháp mạnh. Năm 1993 nghe kể có thầy chuyên gia dạy nguyên lý Kiến trúc trong trường vậy mà khi thi cao học vẫn rớt môn nguyên lý Kiến trúc như thường. Tiếc rằng không biết ai đã chấm bài thầy lần ấy trong khi ngày thường thầy chấm bài người khác. Vì tương lai sáng sủa nên số sinh viên cao học tăng dần bất chấp điều kiện ngày càng gắt. Số thầy được đào tạo từ đủ số đến mức thừa thãi. Miễn “cần cù bù năng khiếu, dù thiếu tài năng” là làm thầy dễ ợt. Có thầy “tu đường tắt” bằng cái mửng “ẵm” trọn gói luận án tiến sỹ của đồng nghiệp đàn em để làm của riêng mình rồi sinh kiện cáo lung tung, phục vụ cho chuyện thâm cung bí sử của trường vốn đã tràn trề nay thêm đa dạng.

Từ cái ngày người ta coi ông KTS như ông trời “nắm thế giới trong bàn tay”, đến nay KTS đầy đường, quần chúng hóa đến mức cao độ. Quả là một sự thay đổi thần kỳ chống chủ nghĩa độc quyền Kiến trúc. Có một thầy đưa ra nhận xét cực chuẩn xác:

“Trường kiến trúc ai dạy cũng được và ai học cũng được.”

Cái tàn ác của kinh tế thị trường là bắt thiên hạ phải chạy theo nó và cạnh tranh với nhau không bao giờ ngưng nghỉ. Từ ngày chỉ có một khoa kiến trúc trong trường, kế tiếp phải mở thêm “hệ B”, chuyên tu, tại chức, rồi quy hoạch, xây dựng, mỹ thuật công nghiệp... để cạnh tranh áp đảo mấy trường khác. Ðêm còn có thêm các lớp họa viên, ngọai ngữ, vi tính, luyện thi, cả “mầm non kiến trúc” cho thiếu nhi nhằm thu hút đủ hạng khách già trẻ lớn bé. Có dạo nhà trường sẵn sàng cho một trường đào tạo hướng dẫn viên du lịch, hay xí nghiệp gạch bông thuê mặt bằng, sảnh cho thuê dùng làm bãi đậu xế hộp ban đêm...Khuôn viên trường được khai thác hết ga vừa để chứng minh tính thích dụng và kinh tế cho sinh viên. Nhiều ông KTS đã tâm sự rằng nếu mà có thêm đất trống chắc nhiều bà bán hột vịt lộn, bia hơi, áo quần sida, keo diệt chuột... quanh trường chắc chắn sẽ mừng lắm vì có mặt bằng ổn định khỏi khốn đốn do bị cảnh sát dí chạy hàng ngày.

Cũng phải thế thôi khi cầu nhiều tất phải có cung nhiều để đáp ứng vậy. Kết quả ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.


© 2004 talawas

Chú thích của talawas:
[1]tương tự
[2] kéo cày
[3]ý tưởng
[4]phác thảo
[5]thu hoạch
[6]phong cách
[7]văn bằng
[8]kéo cày
[9]10 cái đầu – 5 cái chót
Hồi thứ Ba:

Phùng xoè phối cảnh, thân chủ mê ly,
Hù dọa 3d, bà con kiêng nể
Vì ham của rẻ, trúng bả Thầu gian
Thấy giá ngon ăn, dính mồi Kiến tặc.

Sau nhiều năm trường Kiến ta hoan hỉ thu tiền nhận sinh viên thả cửa để đáp ứng nhu cầu bằng cấp của thiên hạ thì ngành kiến trúc lại chuyển tới thời kỳ suy bại về lương tâm nghề nghiệp. Các sinh viên ra trường xâu xé tranh ăn giành “độ” dành “khứa” ì xèo trên cơ sở “tiền nghĩa” rồi tha hồ mà “binh lụi, xây ẩu” gây mất niềm tin sâu sắc ở khách hàng. Tội cho những anh Kiến làm ăn chân chính chán nản buộc lòng phải bỏ nghề lui về nhà ăn lương vợ.

Sử nhà Kiến chép rằng:

“Tổ Kiến trúc ngày xưa đã tiên đoán đến chuyện này nên buồn rầu ghê lắm vìø thấy mình không giúp gì được. Thôi thì “gặp thời thế, thế thời phải thế” biết làm sao. Mà giúp bằng cách nào thì Tổ còn bí tít-tìn-tịt huống chi ai khác.

May thay, nhờ lòng thành khẩn chai tịnh cầu quỷ thần, Tổ đêm nằm mộng thấy Vương Thúy Kiều hiện lên nói:

Này anh thuộc lấy nằm lòng,
Vành ngoài bảy chử, vành trong tám nghề.
Em làm được thì ai chả làm được.

Rồi Kiều bất thần nhào vô ôm đại Tổ khiến Tổ giựt mình té lăn cù xuống đất mà thức dậy.

Tổ thấy điềm lạ liền bấm tay tính được quẻ Dịch là “Hỏa Ðịa Tấn” hóa “Lôi Ðịa Dự” dựa theo điềm mộng: Kiều nhảy vô ôm mình (Tấn), mình hoảng hốt (Dự) té lăn cù (Tấn). Việc này sẽ tương quan tương hợp với ý nghĩa: Cứ liều mạng làm ăn đại (Tấn) thì nổi danh (Dự) như sóng cồn (Tấn).

Liền sau đó nhớ lại câu “Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”, Tổ dành hết tâm huyết điều nghiên thêm mắm dặm muối suốt đêm để viết ra một cẩm nang gối đầu truyền cho các Kiến đời sau. Hiệu quả của cẩm nang thần sầu tựa hồ “Tịch Tà Kiếm Phổ” trong giới giang hồ võ hiệp.

Ðây, nguyên văn do Tổ viết:

Thời thế nhiễu nhương, làm ăn thất bát. Nhân nằm mộng thấy Thúy kiều giáng hạ chỉ bảo, ta viết cẩm nang này hầu truyền cho hậu thế làm kế sinh nhai.

Kiều:

Bảy chử tám nghề,
Nếu chàng không chê,
Em xin chỉ giáo...

Nhân đấy, Ta hỏi:

Ta xin thọ giáo,
Vậy nghĩa là sao?

Kiều giảng:

Bảy chữ nghĩa là:

* Nổ (Múa mép “cương” hết ga, rù quến thiên hạ để bắt công trình)
* Lụi (Vẽ “lụi” hồ sơ để giành khách trước rồi tính sau)
* Ghép (Ghép các chi tiết kiến trúc công trình khác thành kiến trúc của mình)
* Hù (In phối cảnh, làm phim 3D cho le lói cho khách “rét” ý đồ mình)
* Chôm (Bí mật “ẵm” bản vẽ chổ khác về phô-tô lại làm tác phẩm của mình)
* Chế (“Luộc” công trình cũ thành công trình mới để xài tiếp)
* Tẩu (Biết “chạy” khi thiết kế hay thi công bị “bể ổ”)


Ta khen:

Quả là hay vậy!
Tám nghề còn lại,
Xin giảng tận tường.

Kiều giảng:

Tám nghề tức là:

* Thiết kế dân dụng
* Thiết kế công nghiệp
* Thiết kế quy họach (3 nghề này trường Kiến trúc đã dạy)
* Thiết kế phối cảnh (Binh phối cảnh cho đẹp để câu khách)
* Quảng cáo dự án (Phô trương dự án áp đảo thiên hạ)
* Lắp ghép kiến trúc (ghép nhiều chi tiết bản vẽ khác vô thành hồ sơ của mình)
* Cải tạo thiết kế (Sửa chửa hồ sơ bị vẽ “lụi”)
Cấp cứu công trình (Khi thi công bị tê liệt do vẽ “lụi”, phải chỉnh sữa khẩn cấp)



Ta khen:

Quả thật là hay.

Kiều giảng:

Ðó là những bí kíp chân truyền. Dân Kiến ráng tu luyện thiết kế lâu năm tất có người lên làm vua như vua nhà phố, vua biệt thự, vua bếp, vua vệ sinh, vua phối cảnh, vua mô hình... Tệ lắm cũng là một Ðại Kiến Trúc Sư. Chứ sự học thì vô cùng tựa Ðông Hải. Em không tài nào một đêm mà giảng hết vậy.”

Cẩm nang làm sáng mắt biết bao nhiêu chàng Kiến và là một diệu kế xóa đói giảm nghèo cho cả râu ria tộc họ nhà Kiến hai cẳng. Chẳng làm lạ khi thấy bụng Kiến Chúa nào cũng ngày càng phệ do được bầy Kiến Thợ tận tình cung cấp bia bọt, em út thừa mứa quanh năm...

Chuyện của Tổ còn nhiều nữa, ấy là chuyện về sau...

Vì cạnh tranh gay gắt với các đồng nghiệp nên họ Kiến phải học thêm mọi thủ thuật để mà tồn tại. Ðể thuyết phục đám khách hàng chưa rành về chuyên môn là dùng phối cảnh. Ngày xưa nhà trường cũng đã tinh ý dạy phối cảnh cho mọi người nhưng nói trắng ra là để câu khách thì quá sống sượng nên không ai dám tuyên bố huỵch tọet. Anh sinh viên ban đầu phải rị mọ tập dựng hình, tô màu., tỉa chi tiết bản vẽ phối cảnh. Trước áp dụng cho đồ án của mình. Sau đó là thỉnh thoảng bắt mối bên ngòai để kiếm thêm chút đỉnh. Nhiều ông cũng dấu mấy tuyệt chiêu không cho bạn bè biết dù chỉ là mẹo vặt. Ngày ấy vẽ một phối cảnh cũng được lắm tiền nên có anh chỉ vẽ thuê chơi chơi mà bạc tiền rủng rỉnh.


Càng về sau, khi càng văn minh thì thiên hạ lại càng làm biếng tư duy do quá ỷ lại vào phương tiện khoa học kỹ thuật, nên dần dần bản vẽ khó được khách hàng hình dung nổi và phối cảnh càng thêm cần thiết để nói chuyện với thân chủ. Thay vì vẽ nghiên cứu kỹ lưỡng cả mấy ngày về một mặt bằng kiến trúc, người ta chỉ vẽ sơ sịa cũng ra một phối cảnh thật đã mắt vừa sướng hai tay, chất lượng thừa sức bỏ bùa mê hoặc khách.

Nhớ ngày trước có thầy tên Th. đã dạy khai tâm SVKT như sau:

“Khi người ta bịnh, thì người ta tìm tới Bác sĩ. Khi người ta có tội, họ cầu khẩn Luật sư. Hai vị này hét bao nhiêu tiền thì khách cũng phải chạy trả cho đủ vì họ không cần khách mà khách cần họ. Ngược lại, khi người ta giàu có sung sướng họ mới tìm đến Kiến trúc sư. Vì thế họ coi Kiến trúc sư không ra ký lô nào hết. Kiến trúc sư cần tiền nên phải dùng hết bản lĩnh của mình mà cố gắng chinh phục thân chủ ”.

Từ khi có máy vi tính thì công việc KTS Kiến trúc sư thay vì dễ dàng hơn, đàng này ngược lại càng thêm mệt mỏi phức tạp do dùng sai mục đích. Người ta dùng vi tính để “binh” công năng cho lẹ trong khi ở bên chúng ta thì dùng để thiết kế mỹ quan đầy râu ria mắm muối mà chinh phục khách. Mà muốn như vậy thì KTS phải mất giờ học nhiều thủ thuật đồ họa không ăn nhập gì với kiến trúc để pha chế trong khi thời gian đầu tư vô ý tưởng cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Các phối cảnh nhờ vậy được sản xuất hàng lọat ở mỗi công trình. Gặp phần mềm Photoshop hỗ trợ nên anh em có thể ghép công trình người khác làm của mình, thậm chí ôm luôn một hay nhiều phối cảnh nào đó scan từ tài liệu bên ngòai, “luộc” lại một ít bằng ánh sáng, “mông má” thêm màu sắc là có tác phẩm mới đỡ mất công “binh” tới lui mất thì giờ. Thêm máy in tối tân làm cho chất lượng tác phẩm đẹp hơn thực tế hỏi khách hàng nào không khoái mà nhắm mắt ký hợp đồng cái rẹt? Gặp khách hàng khó, thì vẽ thêm phối cảnh công trình vào ban đêm lung linh đèn đóm hay hàng lọat phối cảnh khác từ trong ra ngòai nhà lẫn từng chi tiết phóng to để thôi miên khách cho lẹ. Ðụng nhiều độ lớn thì đòi hỏi công phu cao hơn. Lúc đó máy vi tính phải làm việc ngày lẫn đêm để sản sinh ra một bộ phim phối cảnh hoành tráng nếu trời thương đừng chơi cúp điện bất tử. Có lúc nhà Kiến còn phải chi tiền cho chuyên gia làm thêm mô hình lộng kiếng kiêu sa để khách sờ mó tận tay mà yên tâm. Ðó chỉ là giai đọan đầu để giành khách.

Giai đọan tiếp sau thì bắt buộc phải khai triển kỹ thuật sao cho nó khả thi và hợp lý. Anh nào lơ mơ khâu này thì coi như mất cả chì lẫn chài. Thông thường vì ham dành khách mà vẽ phối cảnh bất chấp kỹ thuật. Ðến khi vẽ vô kỹ thuật thì mọi cái tệ hại mới lòi ra. Lý do ban đầu là vì mặt bằng binh “lụi” cho có nên về sau hậu quả khôn lường. Thêm khổ một nổi là dân bên ngòai không thèm nghe lời ông KTS chân chính mà khoái nghe lời mấy cha hàng xóm hay đặc biệt là ông thầy địa lý dựa trên cơ sở mấy tạp chí Kiến trúc lá cải đủ lọai bán tràn lan bên ngoài. Nghe mấy chư vị đó bàn ra bàn vô vài lần thì tinh thần chủ nhà lung lay rồi tự xây theo ý mình.
Nhắc tới mấy ông thầy địa lý thì nhiều chuyện lắm. Vì học thuyết Ðông phương dựa vào “hình - lý - khí – số”. Nếu có 1 trong 4 yếu tố không đạt thì coi như kết quả sai. Chưa kể rằng tính “Ðồng nhi Dị – Dị nhi Ðồng” (giống mà khác, khác mà giống) và tính “biến hóa” được ít ai thấu hiểu tận cùng. Khác với Tây phương, lý Ðông phương không thể dựa vào công thức đầy tính máy móc để gọi là “nghiên cứu”. Mà cái “lý” thì ít ông thầy nào dám đề cập tới. Vì để thuyết phục thân chủ, mấy thầy ưa dùng “số” bằng cách tra sách thì có chứng cớ cho chủ nhà tin lẹ hơn. Chỉ ông nào thật cao cơ mới dám dùng đủ “hình - lý - khí - số”. Phần vì tính “Ðồng Dị - Biến Hóa” nên chẳng ông nào coi giống ông nào. Mỗi ông có phương pháp áp dụng “liều” nặng hay “liều” nhẹ theo ý riêng mình. Gặp chủ nhà nào ham coi nhiều thầy thì cứ phân vân và thay đổi ý kiến xoành xoạch làm KTS không biết đường nào “binh” cho yên ổn. Có ông thầy bày đặt lập trình vi tính để dễ thuyết phục khách và có lúc còn dám tự ý thiết kế và bắt KTS đem ra khai triển xong rồi ông ngồi sửa lại kích thước địa lý của từng chi tiết cho phù hợp! Chỉ nói cây thước địa lý thôi mà thị trường có khoảng trên 5 cây với kích thước khác nhau, hỏi biết lựa cây nào gọi là chuẩn? Rồi cách trấn yểm mỗi ông chơi mỗi khác riết thành ra đá nhau làm thiên hạ càng mất niềm tin vô các môn học Ðông phương mà vẫn nhắm mắt u mê dùng “trật thuốc”. Rồi thêm thầy bùa, thầy ngãi, thầy mo, thầy chùa, thầy cúng... thiệt giả tùm lum quần thảo chủ nhà kéo theo KTS bị vạ lây. Thơ rằng:

... Thầy địa lý thỏa tài sáng chế,
Thước Lỗ Ban được thế ra oai
Cửa trong cho tới cửa ngoài,
Hướng nhà, hướng bếp, chiều dài cầu thang...
“Sinh Lão Bịnh...” số thang đếm bậc,
“Càn Khôn Ly...” hướng mặt của giường,
Từng ly tấc chớ coi thường,
Ði cầu đúng hướng, ra đường đúng phương(!)...

Khi căn nhà xây xong thì KTS cũng không dám nhận làm tác phẩm của mình dù khách có thể vừa ý khen không ngớt. Nhìn lại phối cảnh bảo đảm cũng chưa chắc giống thật là bao. Hên thì coi như ông KTS ấy được khách hàng vừa ý mà đỡ mất công nghiên cứu. Chưa kể được khách quảng cáo nên nổi tiếng trong thiên hạ. Tha hồ bắt thêm khách nhà giàu khác. Xui thì 2 bên đều lãnh đủ. KTS đổ thừa nói là vì chủ nhà không tuân thủ hòan toàn bản vẽ, nhờ thế cái tội vẽ lụi của “Kiến tặc” được trắng án. Có lúc khách hàng tự làm theo ý mình rồi nói rằng KTS không làm gì cả để kiếm cớ xù tiền hay có lúc lợi dụng một lỗi nào đó để trừ tiền gỡ vốn ít nhiều. Có lúc khách hàng dụ KTS vẽ cho đã rồi sau đó đưa tiếp qua nhiều KTS khác để chắt lọc nhào trộn ý tưởng, rồi ông KTS nào cũng đều bị xù như nhau với lý do là làm không vừa ý. Nên có người nói rằng chưa bị xù tiền lần nào tức chưa là KTS. Gặp sự cố do vẽ lụi không thực thi được trong thi công thì công việc cải tạo thiết kế hay cấp cứu công trình là thường, có lúc phải cầu cứu tới đồng nghiệp khác. Có lúc cũng do lỗi chủ nhà đổi ý bất tử dù đã ký giao kèo thỏa thuận hai bên. Nhiều công trình hoàn thành với bề ngoài thấy “nét tưng” mà không sử dụng được do nứt, lún, thấm dột vì vật liệu bị nhà thầu hao hớt hay kỹ thuật thầy thợ “tay ngang”, cũng có lúc do KTS binh “lủng” pạc-ti. Có ông thầu dám mạnh mồm nói rằng cứ thêm 10 triệu bạc là ổng sẵn sàng lên một tấm sàn dễ ợt! Bên Kiến trúc thì bạo phổi nói kiểu gì “binh” cũng “tới” láng. Khách hàng là người chịu thiệt thòi nhứt. Cái khổ trong xây dựng là khi khách hàng đã lãnh đủ thì họ mới sáng mắt mà hối tiếc vì không chịu tin lời mấy ông KTS chân chính. “Sự thật mất lòng” nên mấy ông này cũng chẳng được ai ưa rồi từ đó ế độ dài dài. Tới nước này thì khách không còn khả năng tìm KTS khác giỏi hơn nữa vì gần như sạt nghiệp. Ðồn ra cho thiên hạ thì chính mình cũng có lỗi nên chẳng ai dại nói ra cho thiên hạ cười mình thối óc. Thành ra mấy anh Kiến “binh lụi” chụp giựt vẫn có đất sống dài dài. Ðám thầu chơi trò “thi công tới đâu binh tới đó” cứ phây phây sống trên đầu mấy khách hàng ngây thơ. Chẳng ai thèm ý thức rằng số tiền lớn trả cho một ông Kiến đàng hoàng vẫn rẻ hơn quá nhiều so với một sự cố hay thiệt hại kỹ thuật nhỏ trong công trình do đám “Kiến tặc cấu kết Thầu gian” quậy mà ra.

Người ta nói rằng để có một công trình tốt trước tiên cần có một sự hòa hợp về ý tưởng giữa KTS và khách hàng như cặp vợ chồng. Mà nhắc tới vợ chồng thì phải đề cập tới cái tệ nạn ngọai tình và con riêng. Cái “ngoại tình-con riêng” ấy trong xây dựng cũng không khác trong tình yêu là bao nhiêu. Việc này gây thiệt hại cho nền kiến trúc nước nhà không ít và KTS hay khách bên nào cũng sẵn sàng phũ phàng công khai cắm sừng bên kia không thương tiếc. Cảnh bên khách nhờ KTS đến vẽ nhà của mình giống như căn nhà X, Y nào đó trong sách hay bên đường A,B. Dĩ nhiên dân Kiến rất tự ái nhưng trước cảnh kiếm cơm nhiều người buộc lòng phải đau khổ tuân theo không chống đối để rồi có một công trình không vừa ý với lương tâm mình chưa kể cũng là lý do để khách tìm cớ quỵt tiền với cớ là tất cả ý tưởng đều do khách đưa ra hết trọi. Hay trong lúc thi công khách tự ý thay đổi thiết kế theo ý người khuất mặt nào đó làm tiêu ma hết ý đồ của Kiến. Ngược lại có KTS ăn cắp công trình ở nơi khác nói là ý tưởng của mình mà dụ khách khỏi mất công nghiên cứu chi cho mệt. Khách, dù có biết, nhiều khi cũng phải nhịn và làm ngơ vì nó cũng “đẹp giai” quá. Tóm lại thì khi công trình hoàn tất người ta không thể nào truy ra được một phong cách hay trường phái kiến trúc của nó do bị tính “dị hợp tử” quá nghiệt ngã.

Có cái nhiêu khê như là khi chủ nhà ban đầu không hình dung, dự trù hết tòan bộ mọi chuyện. Trước hết là tiền. Hễ đụng một sự cố phát sinh nào thì coi như công trình bị kẹt vốn. Rồi người KTS có lúc phải vẽ lại “cấp cứu” hay chủ nhà tự xoay sở để “chữa cháy” cho vừa hầu bao. Thế là phá sản mọi ý đồ của nhà Kiến. Có lúc chủ nhà không hình dung được không gian của công trình rồi yêu cầu KTS vẽ cho to lên thêm nữa mới thấy “đã”. Mãi tới khi hòan thành thì vỡ lẽ rồi “thầy đổ tớ, tớ đổ thầy” gây nhiều xích mích. Vô số sự cố khác như là luật lệ thay đổi, hàng xóm thưa kiện nhau, tranh chấp, tai nạn lao động... luôn rình rập đe dọa làm phá hết chương trình dự kiến giữa nhà Kiến và chủ nhà.

Chỉ nói về những công trình nhỏ là đủ cho thấy hết mọi vấn đề. Chẳng cần phải mất công đề cập tới công trình lớn làm chi vì báo chí đề cập hoài hoài hàng ngày. Thiên hạ vì quá chú ý chuyện lớn mà quên đi chuyện nhỏ trước mắt mới ra như vậy. Ðó cũng là lý do tác giả phải ngứa tay viết vài dòng mong giúp bà con tỉnh ngộ. Mong bà con tha thứ nếu viết có gì đụng chạm. Mời bà con vui lòng xem tiếp hồi sau để biết thêm được chuyện nào hay chuyện đó mà phòng thân.


Hồi thứ Tư

Trúng vô thời thế, xây dựng tràn lan
Hạ cám thượng vàng, dân đen lãnh đủ.
Ham mới nới cũ, đô thị tan hoang,
Tấc đất tấc vàng, liệt cường xâu xé.

Nói tiếp về Tổ, sau khi viết thành công quyển cẩm nang, vì ngồi suốt đêm nghiên cứu động não miệt mài quá độ, thêm bị cái vụ té lăn chiêng xuống giường hồi đêm kia nên lúc này mới thấy mình mẩy rêm không kể xiết. Tổ linh tính thấy chuyện không yên bèn đánh tay tính thêm một quẻ nữa. Nhằm quẻ: “Lôi Ðịa Dự” hóa “Thuần Khôn”.

Thôi chết! Tức là:

Xây dựng bùng nổ (Dự) tùm lum (Thuần Khôn)
Làm ăn chụp giựt (Dự) làm tan hoang (Thuần Khôn)... vân vân...

Càng giải quẻ Tổ càng lo lắng và ân hận. Tiếc rằng đã lỡ viết rồi mà bỏ thì uổng văn của mình quá. Thôi đành chịu vậy! Tổ đành tiếp tục rặn ý viết thêm một “cẩm nang cứu giải” trong trường hợp khẩn cấp. Về sau trước khi tịch, Tổ bắt buộc đệ tử phải luôn truyền bá song song hai cẩm nang. Anh nào làm sai sẽ bị Tổ vật đừng trách! Song có vài đồ đệ sẵn tánh xấu ưa giấu nghề, bất chấp lời nguyền, vô ý một cách tính toán làm thất lạc bản gốc “cẩm nang cứu giải” nên Tổ giận lắm. Ðể tránh bị Tổ phạt, nên về sau, lễ Truyền thống nào cũng phải nhắc tới Thần Kiến trúc, thậm chí một vài năm có thêm cả lễ tế Thần kiến trúc cho chắc ăn là vậy.

Tổ tiên tri không sai. Nhiều năm gần đây khi xây dựng được mùa, ngoài KTS ra, tất cả kỹ sư, thầu tay ngang tay dọc đều có thể làm thiết kế kiêm xây dựng. KTS cũng nhảy vô làm thầu để cạnh tranh với đối thủ. Rồi ngoài ngành xây dựng ra, ngành nào có tiền cũng mở thêm công ty xây dựng được thoải mái. Muốn chất lượng cỡ nào cũng được đáp ứng tới bến. Hễ dính tới xây dựng là có tiếng, tốt xấu tính sau.

“Người người xây dựng, nhà nhà xây dựng, đâu cũng xây dựng được” búa xua. Riết đâu cần học kiến trúc cũng có thể xây nhà dễ ợt vì kiến trúc đã đại chúng hóa đến tận cùng của xã hội. Cứ ra đường là gặp dân Kiến Trúc. Hễ làm quen là anh nào cũng “xì” ra hàng cọc cái “cạc vi-sít” rải như truyền đơn nào là giám đốc, phó giám đốc, manager...tệ lắm cũng là một design supervisor (nói văn chương là “cai thiết kế”). Kèm theo thêm đủ chức vị “sư” này “sỹ” nọ đầy nhóc tấm “cạc”. Ðã lỡ tốn một lần thuê thợ thì phải yêu cầu thợ nó in nhiều nhiều chữ cho đáng đồng tiền bát gạo và xứng cái danh mình hằng mong ước. Tình hình này thì riết KTS chỉ khác với người ngoài duy nhứt ở cái bằng mà thôi. Tội gì học cho tốn tiền mất thì giờ nếu không muốn bon chen khoa bảng với chúng nhân. Ðất đai lên giá vô tội vạ. Ðất vườn, đất ruộng, đất tôn giáo, đất nghĩa địa... đều thổ cư hóa đến tột cùng mà vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu xây dựng của thiên hạ. Dân Kiến làm ăn ban đầu còn dễ dàng, càng về sau bị nhiều “ngoại đạo” dành ăn nên Kiến thật hay Kiến lụi chẳng ai biết nổi. Lợi dụng Kiến thiệt–Kiến giả dành ăn nhau, nhiều “ngư ông” nảy ra sáng kiến nhập vật liệu xây dựng, sách vở, các mẫu nhà trên thế giới vào để mà “đắc lợi”. Ðầu tiên là dụ cho khách hàng mua mấy cái catalô mẫu nhà từ lạ tới lập dị chưa từng có. Từ đó khách hàng sáng tạo kết hợp thêm nhiều kiểu từ nhiều nguồn tạo một phong cách kiến trúc cho riêng mình. Người ít học thì cứ tự do bắt chước cái có sẵn bên hàng xóm mà xây cho chắc ăn vì chẳng có ai chết mà sợ. Chưa có luật bảo vệ bản quyền kiến trúc của nên bà con cứ thoải mái chụp hình, cóp-py lại cái có sẵn và từ đó theo giống là yên bụng. Tất cả biến cái đất này thành cái thế “quần Kiến tranh thực”, tự do hơn cả thế giới tự do vì ai cũng làm xây dựng được mà không bị ai khác kềm hãm ý tưởng và hành động của mình. Các trường phái thế giới từ ngàn xưa đến nay tha hồ được phát huy và thí nghiệm trong cái thiên đường xây dựng này đến tận cùng ngõ hẻm. Chúng còn được vinh dự sánh vai kề bên nhau làm khu phố thêm đa đạng như một cuộc thi hoa hậu đường phố. Kiểu kiến trúc mới về ồ ạt, chưa biết chất lượng ra sao song nhiều người cũng đã thẳng tay phá sạch những căn nhà cổ vô giá của mình để “lên đời” cho thiên hạ nể. Rồi cái phố nhà ta nó trở nên phong phú với nhiều chủng lọai. Trường phái tân cổ giao duyên này đến nay chưa ai có thể định nghĩa được rõ ràng. Ðại khái nó tạm có cái tên dài, khá dài, dài vô tận: “Chino-greco-romano-franco-americano... vietnamese” [1] . Bác sĩ còn phải lỡ tay giết ít nhứt vài người mới có kinh nghiệm để thành bác sĩ giỏi thì KTS trước khi nổi tiếng thì thiết kế tiêu tùng vài căn nhà là chuyện tất nhiên không chối cãi. Nên sẵn dịp này các Kiến thả cửa chế biến, nhào nặn các chi tiết kiến trúc từ nhiều nguồn tài liệu, nhiều công trình tham khảo để “dợt thử ” ý tưởng của mình. Nhiều anh rút kinh nghiệm ở dơ hồi trong trường rồi sản sanh ý tưởng lấy gạch cầu tiêu mà ốp mặt tiền nhà cho dễ rửa ráy, càng thêm sạch sẽ. Mấy anh sẵn tính lười thì có sáng kiến dùng cây nhựa cắm trong các bồn hoa cây xanh để đỡ mất công tưới tiêu, trừ sâu gì ráo mà luôn thấy thấy xanh rờn. Thí nghiệm vũ khí thì bị chống kịch liệt chứ thí nghiệm ý tưởng thì nhiều người còn khuyến khích nhứt là những người không bỏ cắc nào ra và mình chẳng mất mát gì mà sợ. Tạm tóm tắt thì bộ mặt mấy khu phố loại “kiến trúc nhà dân” được diễn tả như sau:

Quán thiên hạ đèn mờ, đèn tỏ
Phố nhà ta đủ kiểu: cửa vòm,
Lan can “bà chửa” khum khum,
Hoa văn “rồng lộn”, cột lùn, cột vuông
Sơn trắng xóa trên tường ba mặt
Gạch vệ sinh ốp lát mặt tiền.
Phù điêu vằn vện ốp lên,
Tượng Lân, Sư, Chó dựng bên lối vào.
Mái đủ loại muôn màu muôn cách
Tượng đại bàng tung cánh phía trên,
Trong nhà, bồn tắm như tiên,
Kiểu nằm, kiểu đứng lại thêm kiểu ngồi.
Ðủ vật liệu, ôi thôi! nội thất
Kiểu Việt, AÂu, Trung Quốc lung tung,
Ðài Loan loè loẹt đèn chùm,
Hy-La, “Gô-tích” um tùm hoa văn.
Thang xương cá tung hoành uốn lượn,
Cạnh quầy bar ngất ngưỡng giữa nhà,
Kề bên: hồ cá, bồn hoa,
Salon đồ sộ kiêu sa muôn màu.
Phòng giải trí thần sầu, lác mắt,
Karaoke, dàn nhạc, video...
Sắm toàn đồ hiệu cho kiêu,
Sao cho lác mắt bao nhiêu người ngoài...

Song song phần “xịn” của “chợ” xây dựng thì cũng có phần “dỏm” mà giới bình dân gọi là “chợ trời xây dựng”. Ai vào đó đều tự do thiết kế, thi công, tính toán, thoải mái kỳ kèo mọi thứ trong xây dựng từ tiền thiết kế phí, thời gian thực hiện, chất lượng công trình, vật liệu,... ngay cả kết cấu và tải trọng công trình nếu cần cũng sẵn sàng được anh em trả giá miễn cho nhẹ tối đa kinh phí. Ðúng luôn theo nghĩa “chợ trời” trong thực tế với kết quả và hậu quả của nó. Vì tiền là căn bản, mục đích nên tất nhiên cũng có tệ nạn trung gian đủ chủng loại: cò nhà, cò giấy phép, cò mô hình, cò phối cảnh, chuyên gia quảng cáo thiết kế cho các công ty, buôn lậu (làm xây dựng không chính thức), và cả... Kiến tặc, Thầu gian (chôm ý tưởng công trình, làm lụi, vẽ lụi, xây ẩu... rồi... ôm tiền quất ngựa truy phong). Lâu lâu cũng có những vụ thanh toán nhau vì tiền đúng bài phim Tàu, phim Mỹ. Chưa nói tới mấy trò “thanh lý môn hộ” lặt vặt thì nhiều không kể xiết.

Nói riêng về loài Kiến hai cẳng, trong thời buổi nhiễu nhương này số Kiến chúa thành công thì ít mà số thất bại hay đi làm Kiến thợ thì đông vô kể. Kiến thợ cũng bị Kiến chúa bóc lột và xù tiền như ai. Thây kệ trong trường trước đây là “anh em” chứ ra trường thì “chúng ông, chúng mày” ráo! Rồi “bôi mặt đá nhau” không ai cấm. Dân Kiến tốt bụng thì lại chẳng khi nào nói khoe khoang ào ào ra ngoài nhiều nên thiên hạ chẳng ai biết rõ đâu mà tìm, trừ khi có khách quen giới thiệu tới. Khắp nơi tràn lan Kiến thợ, đa số là bị buộc “bán thân” cho “lầu xanh Thiết kế” để cong lưng vẽ hoài theo ý của người khác phứt cho rồi mà chẳng được tiền bao nhiêu. Ðường đường là một Ðại Kiến trúc sư mà lúc nào cũng phải bị “e thẹn cúi đầu” trước thu nhập của mấy ả “hàng một triệu” mới tức chớ.

Cái kiếp “sống nhờ lương” mà lương không đủ sống thì sướng nhờ cái chi chi nữa hở trời!

Thỉnh thoảng có thấy mấy anh sinh viên ra trường năn nỉ xin làm không công cho mấy văn phòng KTS để học thêm nghề. Thời thế bắt mấy bác sĩ “chạy“ xin làm không công cho bịnh viện vài năm mới được ra làm phòng mạch tư chưa đủ sao mà bây giờ lại tới lượt hành hạ loài Kiến hai cẳng?

Trong sự bùng phát xây dựng tất nhiên gặp nhiều thủ tục khách hàng phải giải quyết. Thì tất cả đều sẵn sàng có người chạy lo phục vụ khách hàng tới nơi tới chốn. Kiến nhà ta để tiếp tục cạnh tranh tồn tại thì ô-kê “lãnh sô” chơi đại luôn cho công việc xong tới nơi tới chốn. Riết rồi từ chuyên môn ban đầu là khâu thiết kế, Kiến nhà ta liều mạng thực tập dần để làm căn nhà thân chủ từ a-z một mình. Có Kiến sau khi thiết kế xong thì đứng ra làm “cò” thi công cho thân chủ luôn để vét hụi kế. Nếu công trình gặp sự cố thì lại nghiêng về thân chủ làm bộ tư vấn mà xúi thân chủ lấy lý do chất lượng thi công kém mà trừ tiền thầu cho bỏ ghét vừa để tiết kiệm tiền. Nếu êm xui thì đứng nghiêng qua ông thầu mà đòi phần trăm. Do đó luôn được lòng một trong hai bên và thừa cơ bắt tiếp các công trình khác. Anh nào tệ lắm cũng biết chỉ đường cho khách “chạy” sao cho đúng chỗ , đúng thầy, đúng thuốc. Nhưng khi rành rẽ các khâu thủ tục thì nhiều Kiến lại “lục” tay nghề dần. Có anh đạt đến tuyệt đỉnh võ công chỉ bằng độc chiêu ký giấy. Vì trong dân gian đã có câu rằng: “Một tràng chất xám thua đám nước bọt, đám nước bọt không bằng giọt bút bi” là thế.

Khi kiếm ăn càng dễ dàng thì Kiến cũng như lòai khác càng giảm bản năng sinh tồn tức là không còn bền bỉ nghiên cứu chuyên môn cho mệt xác trong khi “chạy ngòai” hiệu quả hơn. Thấy khách hàng không rành chuyện xây cất thì cũng chẳng ai tội gì vẽ kỹ, cứ “thi công tới đâu binh sửa sai tới đó”. Vì vậy thấy hoài chuyện nhiều nhà xây xong phát sinh đủ sự cố mẹ, sự cố con, trong khi...

Rủ nhau, Kiến tặc, Thầu gian,
Ôm tiền chạy sạch, cùng ăn chia lời,
Chúng ông đã trốn đằng trời,
Chủ nhà ở lại chịu đời đắng cay...

... với mọi hậu quả phát sinh không lường trước được.

Ðất đai lên giá vùn vụt, xây dựng thoải mái, nghề xây dựng thu tiền như nước, hỏi ai hổng ham? Thấy miếng mồi quá ngon trước mắt thì việc giành ăn xâu xé không tránh khỏi.

Tại vậy mà xưa nay, bên Tây có câu: “Qui terre a, guerre a” [2] . Quả là chí lý!

Rồi đời sau có thơ vịnh rằng:

... Cảnh xâu xé loi nhoi lúc nhúc,
Như cá tra giành giựt mọi ngày,
Sặc mùi “Ðại Kiến” bậc thầy
Mồm loa mép dãi, lưỡi dài hơn râu.
Trò “bảy chữ” thuộc làu như cháo,
Chiêu “tám nghề” chơi bạo thẳng tay,
Corbusier phải chạy dài,
Kenzo Tange thấy mặt mày thất kinh...
Thị trường béo bở tất nhiên bị liệt cường xâu xé như Trung hoa đời cuối Mãn Thanh. Các Kiến, Thầu trên toàn thế giới đổ xô vào để chia lợi nhuận. Thôi thì khắp nơi nhan nhản tập đoàn “hàng ngoại” với chất lượng và giá cả đáng nể. Không ai cấm những tay Kiến tặc, Thầu gian “ngoại nhập” tràn vô khi không còn đất sống bên bản quốc. Cũng Kiến này Kiến nọ mặt mày bảnh tỏn, ăn nói miệng dẻo quẹo đi dụ khách hàng đúng họ Kiến nhà ta. Ban đầu còn chảnh chỉ tuyên bố nhúng tay vô các “độ” công trình lớn. Dần dà thất thế vì nội lực yếu thì công trình “nhà dân” hay trang trí lặt vặt họ cũng chẳng từ. Khách hàng vốn quá sợ các “gian tặc” nội địa thì khi vừa thấy “hàng ngoại” tất nhiên sẵn sàng bỏ số tiền lớn ra thuê mà không cần thắc mắc, trả giá. Trúng tay “Kiến tặc” ngoại nhập thứ dữ thì kể như tiền nào họa nấy và tệ hơn với nhiều ý tưởng lông lá ngoại bang chưa từng có xưa nay. Dân tứ xứ đổ về phải luôn hợp tác nhau cho tăng thế lực để cạnh tranh với lực lượng nội địa hùng hậu sẵn có. Cứ thế nên dần dần hàng trăm “ông khổng lồ“ về quy hoạch, xây dựng, địa ốc xịn, dỏm nhảy vô đây tha hồ giựt dây cho giá nhà lên cao thả cửa. Dân đen bị lóa mắt trước mấy chân dung tươi rói của “thần tượng Franklin” hay mấy cục “999” bóng lộn nên cứ bán đất củ chạy mua nhà chỗ khác liên tục. Thơ rằng:

...Cảnh chụp giựt tràn lan bát nháo,
Quậy lung tung, nổ láo kiếm tiền.
Chỉ thương một lũ dân đen,
Nghe tin giải tỏa mấy phen hết hồn...

Tuy vậy có nhiều Kiến “ngoại” vô đây hợp tác nhau rồi bị “dính chấu” ôm nhau chết chùm vì bên nào cũng tưởng bên kia giỏi hơn mình để mà dựa hơi nhờ vả. Nếu có đụng chuyện kiểu gì thì rồi công trình cứ bỏ phế đó mặc cho khách hàng méo mặt tự xử phần còn lại với hầu bao đã bị rút sạch.

Khi Kiến chúa ngọai vào đây buộc lòng phải tìm Kiến thợ nội địa như các lực lượng lính “khố đỏ, khố xanh” làm sức mạnh. Và để chỉ huy đám lính này cũng cần có đầy đủ Kiến bộ sậu nào là Kiến thầy đội, thầy cai, cập-rằng, thầy thông hay cô ký, loong-toong chạy việc..., chưa kề cả mấy “me”, mấy “bồi” ngoài biên chế, nội ngoại nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc và tình cảm. Gặp Kiến chúa tài giỏi và nhân từ thì anh em nhà Kiến thợ đỡ khổ dù áp lực công việc căng thẳng hơn nhiều nơi khác, nhưng bù lại có dịp học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Ðó chỉ là cái phúc tí ti.


Than ôi! Lương cao thì cao (trung bình 200-500 usd/tháng, trong khi một lượng vàng khoảng 500 usd) nhưng thử đọc sách truyện sử rồi dại dột đem lương mình ra so sánh thì biết. Bảo đảm sẽ không ai cầm được nước mắt vì lương hàng tháng thời ấy của một cung nữ hay thái giám cũng đã tròm trèm 3 lượng! (cứ thử đọc bộ “Nam Quốc Sơn Hà” của Yên Tử cư sỹ Trần Ðại Sỹ thì rõ). Buồn thay! Trong khi lương một sếp ngoại quốc thì trung bình 2500-4000 usd/tháng.

Cái họa không nhỏ nếu Kiến nào lọt vô ổ Kiến “lụi từ trên xuống dưới”. Từ lão Kiến Chúa “tiền nhiều hơn chữ” đến một đám Cai, Ðội tài năng, đạo đức chẳng ra gì và nói nhiều hơn làm. Rồi thêm một đám lâu la tay sai chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh núp dưới đuôi mấy quan thầy. Mấy xếp dùng “mồm miệng đỡ tay chân” tha hồ trây trét công việc. Có gã xếp, để có dịp rút kinh nghiệm thiết kế, nhắm mắt nướng quân thả cửa để “thí nghiệm chiến trường” thiết kế với nhiều ý đồ quái đản và bất khả thi. Lính Kiến không làm được thì cũng sẵn có mấy tên Ðội, Cai tha hồ chửi đổng mà chẳng sợ bị kiện cáo gì vì mấy tiếng ấy không nằm trong tự điển thì đếch anh Kiến nào hiểu được! “Bảy chữ tám nghề” được chuyên môn hóa lẫn hiện đại hóa bằng mọi phương tiện vi tính đi sau miệng lưỡi. Tất nhiên dẫn đến tai họa từ “charette” đến hậu quả thiết kế là không tránh khỏi mà “bom đạn” lỗi lầm được trút thả ga lên đầu đám Kiến thợ với lý do chất lượng hồ sơ không đạt, cũng vừa là nhằm “đỡ đạn cứu nguy” cho trách nhiệm quản lý. Từ đó mấy thầy chú mới có cớ ép buộc đám Kiến thợ tự nguyện làm ngòai giờ miễn phí thường xuyên mà không oán trách được do trình độ ngoại ngữ Kiến thợ không đủ để lý giải biện bạch “tay đôi”. Ðám tay sai nghẹn họng vì lương không còn sức lên tiếng đấu tranh bảo vệ “người đằng mình”. Nhiều anh chị bị cho “lên đường” oan mạng chỉ vì lương tâm nghề nghiệp buộc họ bất tuân thượng lệnh hơn là vì trình độ kém. Nhiều anh bị đuổi do “gian thần sàm tấu” mà mình không đủ từ vựng để tự bào chữa. Nguyên nhân quái đản hơn là tài mình quá giỏi nên xếp quê độ tống khứ đi cho rảnh mắt để khỏi mất công ganh tỵ. Rốt cuộc chẳng ai thưa kiện được ai vì chứng cớ đều là lời nói bị gió bay mất. Con Kiến kiện củ khoai còn chưa nên thân thì kiện cái gì nữa được? Công cuộc “đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn” cứ kéo dài dài tùy theo nguồn “đạn dược” của ổ Kiến, miễn sao lợi ích cá nhân của mấy Kiến sếp chóp bu không sứt mẻ là được. Có người đồn rằng bên nước ngoài cũng có đường dây “chạy” bằng cho mấy sếp trước khi vào đây hành nghề nên mới xảy ra mấy tệ nạn trên. Chẳng biết có đúng không? Trước mắt là một chuyện thật 100% như sau: tại một công ty thiết kế kiến trúc 100% vốn nước ngoài nọ có một ông Kiến Tây chức vụ “Ðê-em-mờ” (D.M: design manager) với thành tích trên lý lịch 15 năm hành nghề (nghe kinh lắm!). Cách “binh” bài độc nhất vô nhị của ông là: dùng máy scan mấy công trình kiến trúc trong tạp chí sau đó sai “lính” dùng photoshop xử lý lại ít mắm muối, ghép qua ghép lại làm ra tác phẩm của mình, cũng như lấy nhiều thành phần bản vẽ khác nhau của thiên hạ chế thành bản vẽ mới vừa tăng thêm tính đa dạng về phong cách. Binh bài thì binh từ phối cảnh trước, rồi suy ngược về mặt bằng. Thậm chí còn bắt mấy xì-táp (staff) thể hiện các mặt bằng chi tiết lát gạch nền nhà hay địa hình khu đất quy hoạch bằng phối cảnh thì ông mới chịu đọc (!). Ông có cái bạo gan là bố trí quy hoạch sân tennis hay mấy sân thể thao ngoài trời khác theo đủ tám hướng tùy theo ý thích của mình cho đã mắt. Cái biệt tài này của ông mới ác đạn: giải quyết trường hợp ý đồ bị “lủng” do lỡ “binh” công trình lấn vọt ra ngoài ranh đất. Cách thức đơn giản nhẹ nhàng thôi: cứ tiếp tục “binh” lấn ra ngoài xả láng và giải thích một cách cực kỳ trí tuệ:“ Ðề nghị của nhà thiết kế: yêu cầu khách hàng mua thêm phần đất bên cạnh như vầy... như vầy... theo bản vẽ này để tăng giá trị của công trình mới”. Hay chưa? Ðã vậy sẵn quyền sinh sát trong tay nên hể bị “bể ổ” là ông luôn đổ thừa lỗi cho cấp dưới rồi đuổi người như ngoé khiến nhiều anh chị tài giỏi đều bị nhục vì mang tiếng oan là bất tài không ít... Ở bên Việt Nam mấy “kiến ngoại” không nhiều nên ai có nhu cầu tìm gặp ông này để trau đổi kinh nghiệm thì cứ hỏi thăm dần là tìm được ông ngay. Mấy Kiến buồn đời kể chuyện ra ngoài để dãy bày tâm sự lại bị thiên hạ chê là xạo vì ai cũng tưởng đã là công ty “ngoại” thì phải đàng hoàng hơn công ty “nội” nhiều (?!).

Tức khí sanh tình, lợi dụng tính chiến đấu của thơ văn mà có mấy bài thơ được vài Kiến thi sỹ mô tả lại kiếp nạn của dân Kiến “khố đỏ, khố xanh”:

Ai ơi! Vẽ lụi cho mau!
Xếp cần phối-cảnh làm câu trau mình.
Scan tài-liệu công-trình khắp chốn,
Chép CD ảnh bốn phương trời,
Thu gom chi tiết nơi nơi,
Xì-keo (scale) từng bộ-phận rời ghép vô.
Photoshop chơi trò mà mắt,
“Mắc-3D” (3D-Max) thêm-thắt đại tài.
Công-trình tứ xứ về đây
Như hoa đậu trái, như cây thêm cành.
Theo trường-phái “Ngoại Tình Kiến-trúc”
Lắm “con rơi”, bức-xúc anh em.
Làm đêm thân xác rã mềm,
Sáng ra đổi ý, kéo thêm tới chiều
Mặc ai nấy tiêu-điều mỏi mệt,
Tiền ngoài giờ, xếp đếch xì ra,
Việc thì trây líp ba-ga,
Trây lui trét tới, trét qua trây về.
In khổ lớn, ép-phê cuồn-cuộn,
Giấy photo ấn-tượng sửng-cồ.
Giao-thông phối-cảnh sơ-đồ,
Mô-hình cơ-cấu, họa-đồ dọc ngang
Ảnh phối-cảnh kinh-hoàng thiên-hạ,
Ðủ mọi “viu” (view) thấy cả đề-tai (detail),
Châm vào mắm muối lai-rai,
Cứ theo “mửng” ấy, đúng bài là êm...
...xuôi theo kiểu “xêm xêm lai thít” (same same like this)
Xếp nhà ta là “típ” anh tài,
Xẻo-xui “bể ổ ” tầy-huầy,
Ðổ thừa ai đó, cho ngay “lên đường”
“Người thay của” chuyện thường ở huyện.
“Của hơn nguời” hết chuyện lạ đời.
Dựa theo phối-cảnh tuyệt-vời,
All you! See that, mau ngồi triển khai!

“Im-mê-điát! Tu-đai, đu-ít! (Immediate, today, do it!)
Thít uyệc-giăng! Phi-nít tu-nai! (This urgent! Finish tonight!)
Bic-gơ! mo đạc! mo lai! (Bigger! More dark! More light!)
Cất hia! pát thít! thát rai,... Ố-kề! (Cut here! Paste this! That’s right, OK!)
Tú-đờ xuýt, stốp-pê men-nẳng! (Tout de suite, stoppez maintenant!)
Ðề-mẹc-đê, giơ mẳng phú xa! (Demerdez, je m/en fous ca!)
Tu phu xơ truyếc là ba! (Tu fous ce truc là-bas!)
Vẻng xi! xken vít puộc moa xơ là! (Viens ici!, scannes vite pour moi celà!)
A-lê vít! Pát xà oong nốt! (Allez vite! Passes à un autre!)
Phu troa-đê ken giốt ốp-xông!... (Fous 3D quelques autres options!...)
Sa-lô! Mẹt!Tú lơ mông! (Salaud! Merde! Tout le monde!)
Tút en-ca-páp đờ com-prăng-drờ!” (Tous incapables de comprendre!”) [3]

Thầy Ðội giận, chửi xơ chửi xói,
Ðếch lạ chi “nhất Ðội nhì Trời”!
Tay thì trây việc rối bời,
Mồm phun mắm muối chẳng thôi bao giờ.
Mùa cao điểm nổi lo không dứt,
Tìm Cập-rằng phụ giúp thầy Cai,
Tuyển dân kiến-trúc sắc tài,
3d, Phô-(tô)-sốp để xài dài lâu...
Khiến lắm kẻ lo sầu méo mặt,
Tựa cung phi nhan sắc “về chiều”
Hết thời, thất sủng hẩm-hiu,
Lãnh cung rộng mở, đìu-hiu tháng ngày...
“Cục cưng mới” xếp xài mửa mật,
Xếp ra “quần”, vô “quật” tới lui,
Thừa cơ, Cai “dí” túi-bùi (túi-bụi),
Dựa oai, chấm mút dưới đuôi quan thầy.
Búa-xua cảnh tối ngày “sa-rết”(charette)
“Tống” việc xong, mới biết mình hay,
Kèm theo sản-phẩm dẫy đầy,
Nhân viên ai có dám xài hay chăng?
Thị trường béo bở tất nhiên bị liệt cường xâu xé như Trung hoa đời cuối Mãn Thanh. Các Kiến, Thầu trên toàn thế giới đổ xô vào để chia lợi nhuận. Thôi thì khắp nơi nhan nhản tập đoàn “hàng ngoại” với chất lượng và giá cả đáng nể. Không ai cấm những tay Kiến tặc, Thầu gian “ngoại nhập” tràn vô khi không còn đất sống bên bản quốc. Cũng Kiến này Kiến nọ mặt mày bảnh tỏn, ăn nói miệng dẻo quẹo đi dụ khách hàng đúng họ Kiến nhà ta. Ban đầu còn chảnh chỉ tuyên bố nhúng tay vô các “độ” công trình lớn. Dần dà thất thế vì nội lực yếu thì công trình “nhà dân” hay trang trí lặt vặt họ cũng chẳng từ. Khách hàng vốn quá sợ các “gian tặc” nội địa thì khi vừa thấy “hàng ngoại” tất nhiên sẵn sàng bỏ số tiền lớn ra thuê mà không cần thắc mắc, trả giá. Trúng tay “Kiến tặc” ngoại nhập thứ dữ thì kể như tiền nào họa nấy và tệ hơn với nhiều ý tưởng lông lá ngoại bang chưa từng có xưa nay. Dân tứ xứ đổ về phải luôn hợp tác nhau cho tăng thế lực để cạnh tranh với lực lượng nội địa hùng hậu sẵn có. Cứ thế nên dần dần hàng trăm “ông khổng lồ“ về quy hoạch, xây dựng, địa ốc xịn, dỏm nhảy vô đây tha hồ giựt dây cho giá nhà lên cao thả cửa. Dân đen bị lóa mắt trước mấy chân dung tươi rói của “thần tượng Franklin” hay mấy cục “999” bóng lộn nên cứ bán đất củ chạy mua nhà chỗ khác liên tục. Thơ rằng:

...Cảnh chụp giựt tràn lan bát nháo,
Quậy lung tung, nổ láo kiếm tiền.
Chỉ thương một lũ dân đen,
Nghe tin giải tỏa mấy phen hết hồn...

Tuy vậy có nhiều Kiến “ngoại” vô đây hợp tác nhau rồi bị “dính chấu” ôm nhau chết chùm vì bên nào cũng tưởng bên kia giỏi hơn mình để mà dựa hơi nhờ vả. Nếu có đụng chuyện kiểu gì thì rồi công trình cứ bỏ phế đó mặc cho khách hàng méo mặt tự xử phần còn lại với hầu bao đã bị rút sạch.

Khi Kiến chúa ngọai vào đây buộc lòng phải tìm Kiến thợ nội địa như các lực lượng lính “khố đỏ, khố xanh” làm sức mạnh. Và để chỉ huy đám lính này cũng cần có đầy đủ Kiến bộ sậu nào là Kiến thầy đội, thầy cai, cập-rằng, thầy thông hay cô ký, loong-toong chạy việc..., chưa kề cả mấy “me”, mấy “bồi” ngoài biên chế, nội ngoại nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc và tình cảm. Gặp Kiến chúa tài giỏi và nhân từ thì anh em nhà Kiến thợ đỡ khổ dù áp lực công việc căng thẳng hơn nhiều nơi khác, nhưng bù lại có dịp học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Ðó chỉ là cái phúc tí ti.


Than ôi! Lương cao thì cao (trung bình 200-500 usd/tháng, trong khi một lượng vàng khoảng 500 usd) nhưng thử đọc sách truyện sử rồi dại dột đem lương mình ra so sánh thì biết. Bảo đảm sẽ không ai cầm được nước mắt vì lương hàng tháng thời ấy của một cung nữ hay thái giám cũng đã tròm trèm 3 lượng! (cứ thử đọc bộ “Nam Quốc Sơn Hà” của Yên Tử cư sỹ Trần Ðại Sỹ thì rõ). Buồn thay! Trong khi lương một sếp ngoại quốc thì trung bình 2500-4000 usd/tháng.

Cái họa không nhỏ nếu Kiến nào lọt vô ổ Kiến “lụi từ trên xuống dưới”. Từ lão Kiến Chúa “tiền nhiều hơn chữ” đến một đám Cai, Ðội tài năng, đạo đức chẳng ra gì và nói nhiều hơn làm. Rồi thêm một đám lâu la tay sai chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh núp dưới đuôi mấy quan thầy. Mấy xếp dùng “mồm miệng đỡ tay chân” tha hồ trây trét công việc. Có gã xếp, để có dịp rút kinh nghiệm thiết kế, nhắm mắt nướng quân thả cửa để “thí nghiệm chiến trường” thiết kế với nhiều ý đồ quái đản và bất khả thi. Lính Kiến không làm được thì cũng sẵn có mấy tên Ðội, Cai tha hồ chửi đổng mà chẳng sợ bị kiện cáo gì vì mấy tiếng ấy không nằm trong tự điển thì đếch anh Kiến nào hiểu được! “Bảy chữ tám nghề” được chuyên môn hóa lẫn hiện đại hóa bằng mọi phương tiện vi tính đi sau miệng lưỡi. Tất nhiên dẫn đến tai họa từ “charette” đến hậu quả thiết kế là không tránh khỏi mà “bom đạn” lỗi lầm được trút thả ga lên đầu đám Kiến thợ với lý do chất lượng hồ sơ không đạt, cũng vừa là nhằm “đỡ đạn cứu nguy” cho trách nhiệm quản lý. Từ đó mấy thầy chú mới có cớ ép buộc đám Kiến thợ tự nguyện làm ngòai giờ miễn phí thường xuyên mà không oán trách được do trình độ ngoại ngữ Kiến thợ không đủ để lý giải biện bạch “tay đôi”. Ðám tay sai nghẹn họng vì lương không còn sức lên tiếng đấu tranh bảo vệ “người đằng mình”. Nhiều anh chị bị cho “lên đường” oan mạng chỉ vì lương tâm nghề nghiệp buộc họ bất tuân thượng lệnh hơn là vì trình độ kém. Nhiều anh bị đuổi do “gian thần sàm tấu” mà mình không đủ từ vựng để tự bào chữa. Nguyên nhân quái đản hơn là tài mình quá giỏi nên xếp quê độ tống khứ đi cho rảnh mắt để khỏi mất công ganh tỵ. Rốt cuộc chẳng ai thưa kiện được ai vì chứng cớ đều là lời nói bị gió bay mất. Con Kiến kiện củ khoai còn chưa nên thân thì kiện cái gì nữa được? Công cuộc “đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn” cứ kéo dài dài tùy theo nguồn “đạn dược” của ổ Kiến, miễn sao lợi ích cá nhân của mấy Kiến sếp chóp bu không sứt mẻ là được. Có người đồn rằng bên nước ngoài cũng có đường dây “chạy” bằng cho mấy sếp trước khi vào đây hành nghề nên mới xảy ra mấy tệ nạn trên. Chẳng biết có đúng không? Trước mắt là một chuyện thật 100% như sau: tại một công ty thiết kế kiến trúc 100% vốn nước ngoài nọ có một ông Kiến Tây chức vụ “Ðê-em-mờ” (D.M: design manager) với thành tích trên lý lịch 15 năm hành nghề (nghe kinh lắm!). Cách “binh” bài độc nhất vô nhị của ông là: dùng máy scan mấy công trình kiến trúc trong tạp chí sau đó sai “lính” dùng photoshop xử lý lại ít mắm muối, ghép qua ghép lại làm ra tác phẩm của mình, cũng như lấy nhiều thành phần bản vẽ khác nhau của thiên hạ chế thành bản vẽ mới vừa tăng thêm tính đa dạng về phong cách. Binh bài thì binh từ phối cảnh trước, rồi suy ngược về mặt bằng. Thậm chí còn bắt mấy xì-táp (staff) thể hiện các mặt bằng chi tiết lát gạch nền nhà hay địa hình khu đất quy hoạch bằng phối cảnh thì ông mới chịu đọc (!). Ông có cái bạo gan là bố trí quy hoạch sân tennis hay mấy sân thể thao ngoài trời khác theo đủ tám hướng tùy theo ý thích của mình cho đã mắt. Cái biệt tài này của ông mới ác đạn: giải quyết trường hợp ý đồ bị “lủng” do lỡ “binh” công trình lấn vọt ra ngoài ranh đất. Cách thức đơn giản nhẹ nhàng thôi: cứ tiếp tục “binh” lấn ra ngoài xả láng và giải thích một cách cực kỳ trí tuệ:“ Ðề nghị của nhà thiết kế: yêu cầu khách hàng mua thêm phần đất bên cạnh như vầy... như vầy... theo bản vẽ này để tăng giá trị của công trình mới”. Hay chưa? Ðã vậy sẵn quyền sinh sát trong tay nên hể bị “bể ổ” là ông luôn đổ thừa lỗi cho cấp dưới rồi đuổi người như ngoé khiến nhiều anh chị tài giỏi đều bị nhục vì mang tiếng oan là bất tài không ít... Ở bên Việt Nam mấy “kiến ngoại” không nhiều nên ai có nhu cầu tìm gặp ông này để trau đổi kinh nghiệm thì cứ hỏi thăm dần là tìm được ông ngay. Mấy Kiến buồn đời kể chuyện ra ngoài để dãy bày tâm sự lại bị thiên hạ chê là xạo vì ai cũng tưởng đã là công ty “ngoại” thì phải đàng hoàng hơn công ty “nội” nhiều (?!).

Tức khí sanh tình, lợi dụng tính chiến đấu của thơ văn mà có mấy bài thơ được vài Kiến thi sỹ mô tả lại kiếp nạn của dân Kiến “khố đỏ, khố xanh”:

Ai ơi! Vẽ lụi cho mau!
Xếp cần phối-cảnh làm câu trau mình.
Scan tài-liệu công-trình khắp chốn,
Chép CD ảnh bốn phương trời,
Thu gom chi tiết nơi nơi,
Xì-keo (scale) từng bộ-phận rời ghép vô.
Photoshop chơi trò mà mắt,
“Mắc-3D” (3D-Max) thêm-thắt đại tài.
Công-trình tứ xứ về đây
Như hoa đậu trái, như cây thêm cành.
Theo trường-phái “Ngoại Tình Kiến-trúc”
Lắm “con rơi”, bức-xúc anh em.
Làm đêm thân xác rã mềm,
Sáng ra đổi ý, kéo thêm tới chiều
Mặc ai nấy tiêu-điều mỏi mệt,
Tiền ngoài giờ, xếp đếch xì ra,
Việc thì trây líp ba-ga,
Trây lui trét tới, trét qua trây về.
In khổ lớn, ép-phê cuồn-cuộn,
Giấy photo ấn-tượng sửng-cồ.
Giao-thông phối-cảnh sơ-đồ,
Mô-hình cơ-cấu, họa-đồ dọc ngang
Ảnh phối-cảnh kinh-hoàng thiên-hạ,
Ðủ mọi “viu” (view) thấy cả đề-tai (detail),
Châm vào mắm muối lai-rai,
Cứ theo “mửng” ấy, đúng bài là êm...
...xuôi theo kiểu “xêm xêm lai thít” (same same like this)
Xếp nhà ta là “típ” anh tài,
Xẻo-xui “bể ổ ” tầy-huầy,
Ðổ thừa ai đó, cho ngay “lên đường”
“Người thay của” chuyện thường ở huyện.
“Của hơn nguời” hết chuyện lạ đời.
Dựa theo phối-cảnh tuyệt-vời,
All you! See that, mau ngồi triển khai!

“Im-mê-điát! Tu-đai, đu-ít! (Immediate, today, do it!)
Thít uyệc-giăng! Phi-nít tu-nai! (This urgent! Finish tonight!)
Bic-gơ! mo đạc! mo lai! (Bigger! More dark! More light!)
Cất hia! pát thít! thát rai,... Ố-kề! (Cut here! Paste this! That’s right, OK!)
Tú-đờ xuýt, stốp-pê men-nẳng! (Tout de suite, stoppez maintenant!)
Ðề-mẹc-đê, giơ mẳng phú xa! (Demerdez, je m/en fous ca!)
Tu phu xơ truyếc là ba! (Tu fous ce truc là-bas!)
Vẻng xi! xken vít puộc moa xơ là! (Viens ici!, scannes vite pour moi celà!)
A-lê vít! Pát xà oong nốt! (Allez vite! Passes à un autre!)
Phu troa-đê ken giốt ốp-xông!... (Fous 3D quelques autres options!...)
Sa-lô! Mẹt!Tú lơ mông! (Salaud! Merde! Tout le monde!)
Tút en-ca-páp đờ com-prăng-drờ!” (Tous incapables de comprendre!”) [3]

Thầy Ðội giận, chửi xơ chửi xói,
Ðếch lạ chi “nhất Ðội nhì Trời”!
Tay thì trây việc rối bời,
Mồm phun mắm muối chẳng thôi bao giờ.
Mùa cao điểm nổi lo không dứt,
Tìm Cập-rằng phụ giúp thầy Cai,
Tuyển dân kiến-trúc sắc tài,
3d, Phô-(tô)-sốp để xài dài lâu...
Khiến lắm kẻ lo sầu méo mặt,
Tựa cung phi nhan sắc “về chiều”
Hết thời, thất sủng hẩm-hiu,
Lãnh cung rộng mở, đìu-hiu tháng ngày...
“Cục cưng mới” xếp xài mửa mật,
Xếp ra “quần”, vô “quật” tới lui,
Thừa cơ, Cai “dí” túi-bùi (túi-bụi),
Dựa oai, chấm mút dưới đuôi quan thầy.
Búa-xua cảnh tối ngày “sa-rết”(charette)
“Tống” việc xong, mới biết mình hay,
Kèm theo sản-phẩm dẫy đầy,
Nhân viên ai có dám xài hay chăng?
Thị trường béo bở tất nhiên bị liệt cường xâu xé như Trung hoa đời cuối Mãn Thanh. Các Kiến, Thầu trên toàn thế giới đổ xô vào để chia lợi nhuận. Thôi thì khắp nơi nhan nhản tập đoàn “hàng ngoại” với chất lượng và giá cả đáng nể. Không ai cấm những tay Kiến tặc, Thầu gian “ngoại nhập” tràn vô khi không còn đất sống bên bản quốc. Cũng Kiến này Kiến nọ mặt mày bảnh tỏn, ăn nói miệng dẻo quẹo đi dụ khách hàng đúng họ Kiến nhà ta. Ban đầu còn chảnh chỉ tuyên bố nhúng tay vô các “độ” công trình lớn. Dần dà thất thế vì nội lực yếu thì công trình “nhà dân” hay trang trí lặt vặt họ cũng chẳng từ. Khách hàng vốn quá sợ các “gian tặc” nội địa thì khi vừa thấy “hàng ngoại” tất nhiên sẵn sàng bỏ số tiền lớn ra thuê mà không cần thắc mắc, trả giá. Trúng tay “Kiến tặc” ngoại nhập thứ dữ thì kể như tiền nào họa nấy và tệ hơn với nhiều ý tưởng lông lá ngoại bang chưa từng có xưa nay. Dân tứ xứ đổ về phải luôn hợp tác nhau cho tăng thế lực để cạnh tranh với lực lượng nội địa hùng hậu sẵn có. Cứ thế nên dần dần hàng trăm “ông khổng lồ“ về quy hoạch, xây dựng, địa ốc xịn, dỏm nhảy vô đây tha hồ giựt dây cho giá nhà lên cao thả cửa. Dân đen bị lóa mắt trước mấy chân dung tươi rói của “thần tượng Franklin” hay mấy cục “999” bóng lộn nên cứ bán đất củ chạy mua nhà chỗ khác liên tục. Thơ rằng:

...Cảnh chụp giựt tràn lan bát nháo,
Quậy lung tung, nổ láo kiếm tiền.
Chỉ thương một lũ dân đen,
Nghe tin giải tỏa mấy phen hết hồn...

Tuy vậy có nhiều Kiến “ngoại” vô đây hợp tác nhau rồi bị “dính chấu” ôm nhau chết chùm vì bên nào cũng tưởng bên kia giỏi hơn mình để mà dựa hơi nhờ vả. Nếu có đụng chuyện kiểu gì thì rồi công trình cứ bỏ phế đó mặc cho khách hàng méo mặt tự xử phần còn lại với hầu bao đã bị rút sạch.

Khi Kiến chúa ngọai vào đây buộc lòng phải tìm Kiến thợ nội địa như các lực lượng lính “khố đỏ, khố xanh” làm sức mạnh. Và để chỉ huy đám lính này cũng cần có đầy đủ Kiến bộ sậu nào là Kiến thầy đội, thầy cai, cập-rằng, thầy thông hay cô ký, loong-toong chạy việc..., chưa kề cả mấy “me”, mấy “bồi” ngoài biên chế, nội ngoại nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc và tình cảm. Gặp Kiến chúa tài giỏi và nhân từ thì anh em nhà Kiến thợ đỡ khổ dù áp lực công việc căng thẳng hơn nhiều nơi khác, nhưng bù lại có dịp học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Ðó chỉ là cái phúc tí ti.


Than ôi! Lương cao thì cao (trung bình 200-500 usd/tháng, trong khi một lượng vàng khoảng 500 usd) nhưng thử đọc sách truyện sử rồi dại dột đem lương mình ra so sánh thì biết. Bảo đảm sẽ không ai cầm được nước mắt vì lương hàng tháng thời ấy của một cung nữ hay thái giám cũng đã tròm trèm 3 lượng! (cứ thử đọc bộ “Nam Quốc Sơn Hà” của Yên Tử cư sỹ Trần Ðại Sỹ thì rõ). Buồn thay! Trong khi lương một sếp ngoại quốc thì trung bình 2500-4000 usd/tháng.

Cái họa không nhỏ nếu Kiến nào lọt vô ổ Kiến “lụi từ trên xuống dưới”. Từ lão Kiến Chúa “tiền nhiều hơn chữ” đến một đám Cai, Ðội tài năng, đạo đức chẳng ra gì và nói nhiều hơn làm. Rồi thêm một đám lâu la tay sai chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh núp dưới đuôi mấy quan thầy. Mấy xếp dùng “mồm miệng đỡ tay chân” tha hồ trây trét công việc. Có gã xếp, để có dịp rút kinh nghiệm thiết kế, nhắm mắt nướng quân thả cửa để “thí nghiệm chiến trường” thiết kế với nhiều ý đồ quái đản và bất khả thi. Lính Kiến không làm được thì cũng sẵn có mấy tên Ðội, Cai tha hồ chửi đổng mà chẳng sợ bị kiện cáo gì vì mấy tiếng ấy không nằm trong tự điển thì đếch anh Kiến nào hiểu được! “Bảy chữ tám nghề” được chuyên môn hóa lẫn hiện đại hóa bằng mọi phương tiện vi tính đi sau miệng lưỡi. Tất nhiên dẫn đến tai họa từ “charette” đến hậu quả thiết kế là không tránh khỏi mà “bom đạn” lỗi lầm được trút thả ga lên đầu đám Kiến thợ với lý do chất lượng hồ sơ không đạt, cũng vừa là nhằm “đỡ đạn cứu nguy” cho trách nhiệm quản lý. Từ đó mấy thầy chú mới có cớ ép buộc đám Kiến thợ tự nguyện làm ngòai giờ miễn phí thường xuyên mà không oán trách được do trình độ ngoại ngữ Kiến thợ không đủ để lý giải biện bạch “tay đôi”. Ðám tay sai nghẹn họng vì lương không còn sức lên tiếng đấu tranh bảo vệ “người đằng mình”. Nhiều anh chị bị cho “lên đường” oan mạng chỉ vì lương tâm nghề nghiệp buộc họ bất tuân thượng lệnh hơn là vì trình độ kém. Nhiều anh bị đuổi do “gian thần sàm tấu” mà mình không đủ từ vựng để tự bào chữa. Nguyên nhân quái đản hơn là tài mình quá giỏi nên xếp quê độ tống khứ đi cho rảnh mắt để khỏi mất công ganh tỵ. Rốt cuộc chẳng ai thưa kiện được ai vì chứng cớ đều là lời nói bị gió bay mất. Con Kiến kiện củ khoai còn chưa nên thân thì kiện cái gì nữa được? Công cuộc “đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn” cứ kéo dài dài tùy theo nguồn “đạn dược” của ổ Kiến, miễn sao lợi ích cá nhân của mấy Kiến sếp chóp bu không sứt mẻ là được. Có người đồn rằng bên nước ngoài cũng có đường dây “chạy” bằng cho mấy sếp trước khi vào đây hành nghề nên mới xảy ra mấy tệ nạn trên. Chẳng biết có đúng không? Trước mắt là một chuyện thật 100% như sau: tại một công ty thiết kế kiến trúc 100% vốn nước ngoài nọ có một ông Kiến Tây chức vụ “Ðê-em-mờ” (D.M: design manager) với thành tích trên lý lịch 15 năm hành nghề (nghe kinh lắm!). Cách “binh” bài độc nhất vô nhị của ông là: dùng máy scan mấy công trình kiến trúc trong tạp chí sau đó sai “lính” dùng photoshop xử lý lại ít mắm muối, ghép qua ghép lại làm ra tác phẩm của mình, cũng như lấy nhiều thành phần bản vẽ khác nhau của thiên hạ chế thành bản vẽ mới vừa tăng thêm tính đa dạng về phong cách. Binh bài thì binh từ phối cảnh trước, rồi suy ngược về mặt bằng. Thậm chí còn bắt mấy xì-táp (staff) thể hiện các mặt bằng chi tiết lát gạch nền nhà hay địa hình khu đất quy hoạch bằng phối cảnh thì ông mới chịu đọc (!). Ông có cái bạo gan là bố trí quy hoạch sân tennis hay mấy sân thể thao ngoài trời khác theo đủ tám hướng tùy theo ý thích của mình cho đã mắt. Cái biệt tài này của ông mới ác đạn: giải quyết trường hợp ý đồ bị “lủng” do lỡ “binh” công trình lấn vọt ra ngoài ranh đất. Cách thức đơn giản nhẹ nhàng thôi: cứ tiếp tục “binh” lấn ra ngoài xả láng và giải thích một cách cực kỳ trí tuệ:“ Ðề nghị của nhà thiết kế: yêu cầu khách hàng mua thêm phần đất bên cạnh như vầy... như vầy... theo bản vẽ này để tăng giá trị của công trình mới”. Hay chưa? Ðã vậy sẵn quyền sinh sát trong tay nên hể bị “bể ổ” là ông luôn đổ thừa lỗi cho cấp dưới rồi đuổi người như ngoé khiến nhiều anh chị tài giỏi đều bị nhục vì mang tiếng oan là bất tài không ít... Ở bên Việt Nam mấy “kiến ngoại” không nhiều nên ai có nhu cầu tìm gặp ông này để trau đổi kinh nghiệm thì cứ hỏi thăm dần là tìm được ông ngay. Mấy Kiến buồn đời kể chuyện ra ngoài để dãy bày tâm sự lại bị thiên hạ chê là xạo vì ai cũng tưởng đã là công ty “ngoại” thì phải đàng hoàng hơn công ty “nội” nhiều (?!).

Tức khí sanh tình, lợi dụng tính chiến đấu của thơ văn mà có mấy bài thơ được vài Kiến thi sỹ mô tả lại kiếp nạn của dân Kiến “khố đỏ, khố xanh”:

Ai ơi! Vẽ lụi cho mau!
Xếp cần phối-cảnh làm câu trau mình.
Scan tài-liệu công-trình khắp chốn,
Chép CD ảnh bốn phương trời,
Thu gom chi tiết nơi nơi,
Xì-keo (scale) từng bộ-phận rời ghép vô.
Photoshop chơi trò mà mắt,
“Mắc-3D” (3D-Max) thêm-thắt đại tài.
Công-trình tứ xứ về đây
Như hoa đậu trái, như cây thêm cành.
Theo trường-phái “Ngoại Tình Kiến-trúc”
Lắm “con rơi”, bức-xúc anh em.
Làm đêm thân xác rã mềm,
Sáng ra đổi ý, kéo thêm tới chiều
Mặc ai nấy tiêu-điều mỏi mệt,
Tiền ngoài giờ, xếp đếch xì ra,
Việc thì trây líp ba-ga,
Trây lui trét tới, trét qua trây về.
In khổ lớn, ép-phê cuồn-cuộn,
Giấy photo ấn-tượng sửng-cồ.
Giao-thông phối-cảnh sơ-đồ,
Mô-hình cơ-cấu, họa-đồ dọc ngang
Ảnh phối-cảnh kinh-hoàng thiên-hạ,
Ðủ mọi “viu” (view) thấy cả đề-tai (detail),
Châm vào mắm muối lai-rai,
Cứ theo “mửng” ấy, đúng bài là êm...
...xuôi theo kiểu “xêm xêm lai thít” (same same like this)
Xếp nhà ta là “típ” anh tài,
Xẻo-xui “bể ổ ” tầy-huầy,
Ðổ thừa ai đó, cho ngay “lên đường”
“Người thay của” chuyện thường ở huyện.
“Của hơn nguời” hết chuyện lạ đời.
Dựa theo phối-cảnh tuyệt-vời,
All you! See that, mau ngồi triển khai!

“Im-mê-điát! Tu-đai, đu-ít! (Immediate, today, do it!)
Thít uyệc-giăng! Phi-nít tu-nai! (This urgent! Finish tonight!)
Bic-gơ! mo đạc! mo lai! (Bigger! More dark! More light!)
Cất hia! pát thít! thát rai,... Ố-kề! (Cut here! Paste this! That’s right, OK!)
Tú-đờ xuýt, stốp-pê men-nẳng! (Tout de suite, stoppez maintenant!)
Ðề-mẹc-đê, giơ mẳng phú xa! (Demerdez, je m/en fous ca!)
Tu phu xơ truyếc là ba! (Tu fous ce truc là-bas!)
Vẻng xi! xken vít puộc moa xơ là! (Viens ici!, scannes vite pour moi celà!)
A-lê vít! Pát xà oong nốt! (Allez vite! Passes à un autre!)
Phu troa-đê ken giốt ốp-xông!... (Fous 3D quelques autres options!...)
Sa-lô! Mẹt!Tú lơ mông! (Salaud! Merde! Tout le monde!)
Tút en-ca-páp đờ com-prăng-drờ!” (Tous incapables de comprendre!”) [3]

Thầy Ðội giận, chửi xơ chửi xói,
Ðếch lạ chi “nhất Ðội nhì Trời”!
Tay thì trây việc rối bời,
Mồm phun mắm muối chẳng thôi bao giờ.
Mùa cao điểm nổi lo không dứt,
Tìm Cập-rằng phụ giúp thầy Cai,
Tuyển dân kiến-trúc sắc tài,
3d, Phô-(tô)-sốp để xài dài lâu...
Khiến lắm kẻ lo sầu méo mặt,
Tựa cung phi nhan sắc “về chiều”
Hết thời, thất sủng hẩm-hiu,
Lãnh cung rộng mở, đìu-hiu tháng ngày...
“Cục cưng mới” xếp xài mửa mật,
Xếp ra “quần”, vô “quật” tới lui,
Thừa cơ, Cai “dí” túi-bùi (túi-bụi),
Dựa oai, chấm mút dưới đuôi quan thầy.
Búa-xua cảnh tối ngày “sa-rết”(charette)
“Tống” việc xong, mới biết mình hay,
Kèm theo sản-phẩm dẫy đầy,
Nhân viên ai có dám xài hay chăng?
Thị trường béo bở tất nhiên bị liệt cường xâu xé như Trung hoa đời cuối Mãn Thanh. Các Kiến, Thầu trên toàn thế giới đổ xô vào để chia lợi nhuận. Thôi thì khắp nơi nhan nhản tập đoàn “hàng ngoại” với chất lượng và giá cả đáng nể. Không ai cấm những tay Kiến tặc, Thầu gian “ngoại nhập” tràn vô khi không còn đất sống bên bản quốc. Cũng Kiến này Kiến nọ mặt mày bảnh tỏn, ăn nói miệng dẻo quẹo đi dụ khách hàng đúng họ Kiến nhà ta. Ban đầu còn chảnh chỉ tuyên bố nhúng tay vô các “độ” công trình lớn. Dần dà thất thế vì nội lực yếu thì công trình “nhà dân” hay trang trí lặt vặt họ cũng chẳng từ. Khách hàng vốn quá sợ các “gian tặc” nội địa thì khi vừa thấy “hàng ngoại” tất nhiên sẵn sàng bỏ số tiền lớn ra thuê mà không cần thắc mắc, trả giá. Trúng tay “Kiến tặc” ngoại nhập thứ dữ thì kể như tiền nào họa nấy và tệ hơn với nhiều ý tưởng lông lá ngoại bang chưa từng có xưa nay. Dân tứ xứ đổ về phải luôn hợp tác nhau cho tăng thế lực để cạnh tranh với lực lượng nội địa hùng hậu sẵn có. Cứ thế nên dần dần hàng trăm “ông khổng lồ“ về quy hoạch, xây dựng, địa ốc xịn, dỏm nhảy vô đây tha hồ giựt dây cho giá nhà lên cao thả cửa. Dân đen bị lóa mắt trước mấy chân dung tươi rói của “thần tượng Franklin” hay mấy cục “999” bóng lộn nên cứ bán đất củ chạy mua nhà chỗ khác liên tục. Thơ rằng:

...Cảnh chụp giựt tràn lan bát nháo,
Quậy lung tung, nổ láo kiếm tiền.
Chỉ thương một lũ dân đen,
Nghe tin giải tỏa mấy phen hết hồn...

Tuy vậy có nhiều Kiến “ngoại” vô đây hợp tác nhau rồi bị “dính chấu” ôm nhau chết chùm vì bên nào cũng tưởng bên kia giỏi hơn mình để mà dựa hơi nhờ vả. Nếu có đụng chuyện kiểu gì thì rồi công trình cứ bỏ phế đó mặc cho khách hàng méo mặt tự xử phần còn lại với hầu bao đã bị rút sạch.

Khi Kiến chúa ngọai vào đây buộc lòng phải tìm Kiến thợ nội địa như các lực lượng lính “khố đỏ, khố xanh” làm sức mạnh. Và để chỉ huy đám lính này cũng cần có đầy đủ Kiến bộ sậu nào là Kiến thầy đội, thầy cai, cập-rằng, thầy thông hay cô ký, loong-toong chạy việc..., chưa kề cả mấy “me”, mấy “bồi” ngoài biên chế, nội ngoại nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc và tình cảm. Gặp Kiến chúa tài giỏi và nhân từ thì anh em nhà Kiến thợ đỡ khổ dù áp lực công việc căng thẳng hơn nhiều nơi khác, nhưng bù lại có dịp học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm chuyên môn. Ðó chỉ là cái phúc tí ti.


Than ôi! Lương cao thì cao (trung bình 200-500 usd/tháng, trong khi một lượng vàng khoảng 500 usd) nhưng thử đọc sách truyện sử rồi dại dột đem lương mình ra so sánh thì biết. Bảo đảm sẽ không ai cầm được nước mắt vì lương hàng tháng thời ấy của một cung nữ hay thái giám cũng đã tròm trèm 3 lượng! (cứ thử đọc bộ “Nam Quốc Sơn Hà” của Yên Tử cư sỹ Trần Ðại Sỹ thì rõ). Buồn thay! Trong khi lương một sếp ngoại quốc thì trung bình 2500-4000 usd/tháng.

Cái họa không nhỏ nếu Kiến nào lọt vô ổ Kiến “lụi từ trên xuống dưới”. Từ lão Kiến Chúa “tiền nhiều hơn chữ” đến một đám Cai, Ðội tài năng, đạo đức chẳng ra gì và nói nhiều hơn làm. Rồi thêm một đám lâu la tay sai chỉ biết nhắm mắt tuân lịnh núp dưới đuôi mấy quan thầy. Mấy xếp dùng “mồm miệng đỡ tay chân” tha hồ trây trét công việc. Có gã xếp, để có dịp rút kinh nghiệm thiết kế, nhắm mắt nướng quân thả cửa để “thí nghiệm chiến trường” thiết kế với nhiều ý đồ quái đản và bất khả thi. Lính Kiến không làm được thì cũng sẵn có mấy tên Ðội, Cai tha hồ chửi đổng mà chẳng sợ bị kiện cáo gì vì mấy tiếng ấy không nằm trong tự điển thì đếch anh Kiến nào hiểu được! “Bảy chữ tám nghề” được chuyên môn hóa lẫn hiện đại hóa bằng mọi phương tiện vi tính đi sau miệng lưỡi. Tất nhiên dẫn đến tai họa từ “charette” đến hậu quả thiết kế là không tránh khỏi mà “bom đạn” lỗi lầm được trút thả ga lên đầu đám Kiến thợ với lý do chất lượng hồ sơ không đạt, cũng vừa là nhằm “đỡ đạn cứu nguy” cho trách nhiệm quản lý. Từ đó mấy thầy chú mới có cớ ép buộc đám Kiến thợ tự nguyện làm ngòai giờ miễn phí thường xuyên mà không oán trách được do trình độ ngoại ngữ Kiến thợ không đủ để lý giải biện bạch “tay đôi”. Ðám tay sai nghẹn họng vì lương không còn sức lên tiếng đấu tranh bảo vệ “người đằng mình”. Nhiều anh chị bị cho “lên đường” oan mạng chỉ vì lương tâm nghề nghiệp buộc họ bất tuân thượng lệnh hơn là vì trình độ kém. Nhiều anh bị đuổi do “gian thần sàm tấu” mà mình không đủ từ vựng để tự bào chữa. Nguyên nhân quái đản hơn là tài mình quá giỏi nên xếp quê độ tống khứ đi cho rảnh mắt để khỏi mất công ganh tỵ. Rốt cuộc chẳng ai thưa kiện được ai vì chứng cớ đều là lời nói bị gió bay mất. Con Kiến kiện củ khoai còn chưa nên thân thì kiện cái gì nữa được? Công cuộc “đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn” cứ kéo dài dài tùy theo nguồn “đạn dược” của ổ Kiến, miễn sao lợi ích cá nhân của mấy Kiến sếp chóp bu không sứt mẻ là được. Có người đồn rằng bên nước ngoài cũng có đường dây “chạy” bằng cho mấy sếp trước khi vào đây hành nghề nên mới xảy ra mấy tệ nạn trên. Chẳng biết có đúng không? Trước mắt là một chuyện thật 100% như sau: tại một công ty thiết kế kiến trúc 100% vốn nước ngoài nọ có một ông Kiến Tây chức vụ “Ðê-em-mờ” (D.M: design manager) với thành tích trên lý lịch 15 năm hành nghề (nghe kinh lắm!). Cách “binh” bài độc nhất vô nhị của ông là: dùng máy scan mấy công trình kiến trúc trong tạp chí sau đó sai “lính” dùng photoshop xử lý lại ít mắm muối, ghép qua ghép lại làm ra tác phẩm của mình, cũng như lấy nhiều thành phần bản vẽ khác nhau của thiên hạ chế thành bản vẽ mới vừa tăng thêm tính đa dạng về phong cách. Binh bài thì binh từ phối cảnh trước, rồi suy ngược về mặt bằng. Thậm chí còn bắt mấy xì-táp (staff) thể hiện các mặt bằng chi tiết lát gạch nền nhà hay địa hình khu đất quy hoạch bằng phối cảnh thì ông mới chịu đọc (!). Ông có cái bạo gan là bố trí quy hoạch sân tennis hay mấy sân thể thao ngoài trời khác theo đủ tám hướng tùy theo ý thích của mình cho đã mắt. Cái biệt tài này của ông mới ác đạn: giải quyết trường hợp ý đồ bị “lủng” do lỡ “binh” công trình lấn vọt ra ngoài ranh đất. Cách thức đơn giản nhẹ nhàng thôi: cứ tiếp tục “binh” lấn ra ngoài xả láng và giải thích một cách cực kỳ trí tuệ:“ Ðề nghị của nhà thiết kế: yêu cầu khách hàng mua thêm phần đất bên cạnh như vầy... như vầy... theo bản vẽ này để tăng giá trị của công trình mới”. Hay chưa? Ðã vậy sẵn quyền sinh sát trong tay nên hể bị “bể ổ” là ông luôn đổ thừa lỗi cho cấp dưới rồi đuổi người như ngoé khiến nhiều anh chị tài giỏi đều bị nhục vì mang tiếng oan là bất tài không ít... Ở bên Việt Nam mấy “kiến ngoại” không nhiều nên ai có nhu cầu tìm gặp ông này để trau đổi kinh nghiệm thì cứ hỏi thăm dần là tìm được ông ngay. Mấy Kiến buồn đời kể chuyện ra ngoài để dãy bày tâm sự lại bị thiên hạ chê là xạo vì ai cũng tưởng đã là công ty “ngoại” thì phải đàng hoàng hơn công ty “nội” nhiều (?!).

Tức khí sanh tình, lợi dụng tính chiến đấu của thơ văn mà có mấy bài thơ được vài Kiến thi sỹ mô tả lại kiếp nạn của dân Kiến “khố đỏ, khố xanh”:

Ai ơi! Vẽ lụi cho mau!
Xếp cần phối-cảnh làm câu trau mình.
Scan tài-liệu công-trình khắp chốn,
Chép CD ảnh bốn phương trời,
Thu gom chi tiết nơi nơi,
Xì-keo (scale) từng bộ-phận rời ghép vô.
Photoshop chơi trò mà mắt,
“Mắc-3D” (3D-Max) thêm-thắt đại tài.
Công-trình tứ xứ về đây
Như hoa đậu trái, như cây thêm cành.
Theo trường-phái “Ngoại Tình Kiến-trúc”
Lắm “con rơi”, bức-xúc anh em.
Làm đêm thân xác rã mềm,
Sáng ra đổi ý, kéo thêm tới chiều
Mặc ai nấy tiêu-điều mỏi mệt,
Tiền ngoài giờ, xếp đếch xì ra,
Việc thì trây líp ba-ga,
Trây lui trét tới, trét qua trây về.
In khổ lớn, ép-phê cuồn-cuộn,
Giấy photo ấn-tượng sửng-cồ.
Giao-thông phối-cảnh sơ-đồ,
Mô-hình cơ-cấu, họa-đồ dọc ngang
Ảnh phối-cảnh kinh-hoàng thiên-hạ,
Ðủ mọi “viu” (view) thấy cả đề-tai (detail),
Châm vào mắm muối lai-rai,
Cứ theo “mửng” ấy, đúng bài là êm...
...xuôi theo kiểu “xêm xêm lai thít” (same same like this)
Xếp nhà ta là “típ” anh tài,
Xẻo-xui “bể ổ ” tầy-huầy,
Ðổ thừa ai đó, cho ngay “lên đường”
“Người thay của” chuyện thường ở huyện.
“Của hơn nguời” hết chuyện lạ đời.
Dựa theo phối-cảnh tuyệt-vời,
All you! See that, mau ngồi triển khai!

“Im-mê-điát! Tu-đai, đu-ít! (Immediate, today, do it!)
Thít uyệc-giăng! Phi-nít tu-nai! (This urgent! Finish tonight!)
Bic-gơ! mo đạc! mo lai! (Bigger! More dark! More light!)
Cất hia! pát thít! thát rai,... Ố-kề! (Cut here! Paste this! That’s right, OK!)
Tú-đờ xuýt, stốp-pê men-nẳng! (Tout de suite, stoppez maintenant!)
Ðề-mẹc-đê, giơ mẳng phú xa! (Demerdez, je m/en fous ca!)
Tu phu xơ truyếc là ba! (Tu fous ce truc là-bas!)
Vẻng xi! xken vít puộc moa xơ là! (Viens ici!, scannes vite pour moi celà!)
A-lê vít! Pát xà oong nốt! (Allez vite! Passes à un autre!)
Phu troa-đê ken giốt ốp-xông!... (Fous 3D quelques autres options!...)
Sa-lô! Mẹt!Tú lơ mông! (Salaud! Merde! Tout le monde!)
Tút en-ca-páp đờ com-prăng-drờ!” (Tous incapables de comprendre!”) [3]

Thầy Ðội giận, chửi xơ chửi xói,
Ðếch lạ chi “nhất Ðội nhì Trời”!
Tay thì trây việc rối bời,
Mồm phun mắm muối chẳng thôi bao giờ.
Mùa cao điểm nổi lo không dứt,
Tìm Cập-rằng phụ giúp thầy Cai,
Tuyển dân kiến-trúc sắc tài,
3d, Phô-(tô)-sốp để xài dài lâu...
Khiến lắm kẻ lo sầu méo mặt,
Tựa cung phi nhan sắc “về chiều”
Hết thời, thất sủng hẩm-hiu,
Lãnh cung rộng mở, đìu-hiu tháng ngày...
“Cục cưng mới” xếp xài mửa mật,
Xếp ra “quần”, vô “quật” tới lui,
Thừa cơ, Cai “dí” túi-bùi (túi-bụi),
Dựa oai, chấm mút dưới đuôi quan thầy.
Búa-xua cảnh tối ngày “sa-rết”(charette)
“Tống” việc xong, mới biết mình hay,
Kèm theo sản-phẩm dẫy đầy,
Nhân viên ai có dám xài hay chăng?
Một bài khác:

“Chợ trời thiết kế” biết hay chưa ?
Ngất ngưởng “lầu xanh”* trọn bốn mùa.
Làm đêm miễn phí bao nhiêu bận ?
Của ở người đi đã mấy phùa ?
“Cải tạo thiết kế “ khi nát bét.
“Cấp cứu công trình“ lúc te tua.
Khố đỏ, khố xanh, đây, đủ cả,
Cập-rằng, Cai, Ðội “quất” từa lưa.

* vì bấy giờ công ty ấy thuê mặt bằng tại một cao ốc sơn màu xanh.

Có thêm một bài vè đang lưu truyền:

Chuyên môn là ta,
Ba hoa là xếp
Khó khăn trùng điệp,
Giải quyết mặc ta
Xếp ưa đàn bà,
Ta là đàn ông.
Xếp “binh” lòng vòng,
Ta làm bỏ mẹ,
Xếp ưa ọ ẹ,
Ta buộc lắng tai,
Xếp biết mình sai,
Ta đã bị bay ...
“lên đường” vĩnh viễn!

Với cách này thì mới hy vọng thiên hạ ai cũng thấu hiểu và Kiến nào cũng “thấm dần kinh nghiệm vào đầu” rồi liệu mà giữ mình sau này...

Chuyện đời Kiến viết không tài hết dù dùng sạch cả rừng trúc Nam Sơn. Lấy hết nước biển Ðông cũng không gột hết nỗi nghiệp chướng đeo đẳng dân Kiến.

Ôi thương thay!

Mà vẫn có người say mê Kiến trúc và lỳ lợm dấn thân vào.

Je ne regrette rien,
J’avance. [4]
(Paul Éluard)

Thật đáng phục những người ấy!

Trân trọng biết ơn nhiều đồng nghiệp đã tậm tâm bổ sung ý tưởng cho bài.

“Sự thật luôn bị che giấu nhưng vẫn tồn tại mãi mãi”. Chuyện kể chơi rủi có sai cũng không ai chấp vì mục đích chỉ mua vui mà chẳng hại ai, không có ý xuyên tạc bất cứ ai. Tác giả hoàn toàn không chịu trách nhiệm khi có kiện cáo về những việc trên.

Bắt đầu viết 3-3-2004 lúc giờ Thân (Ðịa-Thiên Thái – Ðịa-Trạch Lâm). Viết xong sơ bộ ngày 17-3-04. Hoàn thành ngày 22-4-04. Lúc giờ Hợi (Ðịa Lôi Phục – Thuần Chấn).

© 2004 talawas

[1]“Trungquốc-hilạp-la mã-pháp-mĩ... việtnam”
[2]“Ai có đất thì có chiến tranh”
[3]tạm dịch:
Lập tức, hôm nay, làm ngay!
Cấp bách! Làm xong đêm nay!
To hơn! Tối hơn! Sáng hơn!
Cắt đây! Dán chỗ này! Ðúng rồi, được!
Lập tức! Ngưng liền!
Mánh mung, bất cần!
Mi làm hư chuyện!
Ở đó! Tới đây! Quét mau cho ta cái này!
Gấp lên! Qua cái khác!...
Kệ sát 3-chiều chọn cái khác !
Ðiếm thúi! Cứt! Tất cả mọi người!
Tất cả không có khả năng hiểu nổi!”
[4]“Tôi không hối tiếc/ Tôi tiến tới”

http://www.idr.edu.vn/diendannghiencuu/showthread.php?t=18415&page=2

Trịnh Thanh Thủy
Có hay không một nền kiến trúc Việt Nam đặc thù?


Sau lần viếng thăm Việt Nam gần đây, nhìn thấy một Việt Nam thay đổi ở nhiều mặt, nhất là mặt kiến trúc, tôi nhận ra kiến trúc quê hương tôi đang bước vào một khúc quanh lạ lẫm. Tôi đi từ Bắc chí Nam phát hiện nhiều căn nhà cao tầng sừng sững mọc lên, những cao ốc mỏng mảnh hình ống, đủ màu vui mắt chen chúc nhau gợi tôi nhớ những căn nhà technique color trong khu phố dành cho thế giới trẻ thơ ở Disneyland.

Nhìn vào sự phát triển nhanh chóng của ngành xây dựng hiện nay, tôi vừa mừng vừa lo. Không biết sự tiến hoá này sẽ thay đổi bộ mặt kiến trúc Việt Nam từ thành thị tới nông thôn đến đâu? Không biết có ảnh hưởng trực tiếp đến các di sản quốc gia hay lịch sử vì tính hiện đại của nó không? Bản sắc dân tộc có là một định hướng chỉ nam trong các dự án kế hoạch xây dựng không?

Năm 1989, Ông Sturgis có viết: “Để hiểu thấu nơi chốn chúng ta ở ngày nay, chúng ta cần biết rõ nơi ta ở trong quá khứ”. Tuy nhiên ước muốn bảo tồn lịch sử văn hoá và ước muốn phát triển, đổi mới, làm lại lịch sử đã làm chúng ta do dự. Không tăng trưởng, chúng ta sẽ vướng vào sự chậm tiến, trì trệ. Vì vậy chúng ta cần phải hiểu quá khứ trong khi theo đuổi sự tăng trưởng. Điều tối quan trọng là tôn trọng và bảo tồn những cái chúng ta có trong quá khứ.

Tính “chuộng mới nới cũ” và “chạy cho kịp trào lưu” của người dân Việt hiện nay góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng nền một nền kiến trúc Việt Nam đặc thù hay lai căng. Chúng ta đừng nên rẻ rúng cái cũ hay xem thường kiến trúc của một đô thị hoặc nông thôn vì kiến trúc của nó thể hiện nền văn hoá đặc thù của dân tộc đó. Từ xưa, người Việt mình vì nghèo nên có thói quen khi xây nhà ít khi thuê kiến trúc sư vì sợ tốn tiền. Nhà cửa, cái thụt ra, cái thụt vào, rất mất trật tự. Khi xây thì lấn trước, lấn sau, lấn chỗ nào được thì cứ lấn, được tấc nào hay tấc ấy. Muốn xây nhà thì gọi nhà thầu xây dựng hoặc các ông thợ xây nhà đến và chủ nhà tự ra đồ án, thiết kế lấy kiểu nhà mình thích. Dở hơn thì bắt chước. Cứ qua hàng xóm, lượn một vòng tham quan, khi về là có một kiểu nhà bà phước đồng phục, khác nhau chỉ ở màu sơn. Muốn khác hơn thì thêm bông hoa, màu mè cho bắt mắt miễn sao nhà mới là tốt và có giá thôi.

Ngày nay tuy luật lệ xây dựng chặt chẽ hơn, mọi công trình xây dựng đều phải do Bộ Xây dựng thông qua nhưng vì khe hở luật pháp quá lớn nên những vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng đã xảy ra khá nhiều, nảy sinh những căn nhà, toà nhà cao tầng xây dựng không đúng tiêu chuẩn méo mó, kỳ dị, lún, nứt chỉ sau một thời gian ngắn sau khi xây. Sự sai phạm không theo đúng các quy định pháp luật, lại thêm tham nhũng tạo ảnh hưởng trực tiếp các công trình thi công gây tác hại như làm lệch, lún, nứt đến nhà của cư dân quanh vùng. Đời sống sinh hoạt của khu dân cư cũng bị vạ lây: Không che chắn kỹ làm bụi bẩn, vật liệu rơi vãi xuống nhiều nhà dân; đập bể phốt nhưng không hút, khiến mùi hôi thối bốc ra xung quanh, gây ô nhiễm môi trường suốt mấy tháng trời. Người dân gửi đơn kêu cứu khắp các cơ quan chức năng trong tỉnh, mà sự việc trên vẫn chưa được giải quyết hoặc có giải quyết cũng không thoả đáng.

Trước đây ý niệm văn hoá kiến trúc hầu như không có trong lòng người Việt. Có thể không ai thấy hoặc có lẽ không cần biết đến cái gì gọi là cấu trúc của một đô thị, một quốc gia. Tôi có hỏi ý kiến một vài người về việc này. Có người quan tâm thì bảo mình nghèo quá mà, một quốc gia nặng về nông nghiệp sau nhiều năm chiến tranh mới phát triển như ta thì bàn chi đến việc văn hoá kiến trúc cao xa đó. Gia tài của mẹ để lại sau chiến tranh là một nước Việt buồn. Bom đạn, tan hoang tàn phá khắp nơi, giờ thanh bình chỉ mong có cái nhà gạch để ở là may rồi, nói chi đến văn hoá kiến trúc.

Người ta bảo, nước mình tự do thế mà còn phàn nàn chi nữa, muốn xây thế nào thì xây, kích thước tiêu chuẩn không bị bó buộc, không ai bắt chữa đi, sửa lại. Chả bù, ở Mỹ muốn xây cái gì cũng phải có kỹ sư thành phố xuống kiểm soát, bắt chỉnh đi chỉnh lại cho đúng tiểu chuẩn, xây cái nhà mãi không xong. Khu nào dành cho nhà tư, không cho xây xí nghiệp, nhìn mãi một khuôn mẫu đến là đơn điệu. Khu thương mại thì chỉ có cửa hàng buôn bán không cho ở, trong khi bên ta dưới nhà thường là buôn bán, trên thì xây lầu để ở. Xây thêm cái phòng cũng phải xin phép, sửa lại cái nhà xe làm phòng cho thuê cũng không cho. Ở Việt Nam thế mà sướng, cái gì khó khăn mấy rồi cũng xong. Thủ tục “đầu tiên” qua rồi thì căn nhà có méo mó hay sai luật đến mấy cũng được thông qua.

Kẻ góp ý, tự do là một chuyện, qui luật là chuyện khác. Ta thử nhìn một trang giấy với những dòng chữ đẹp đẽ, ngay ngắn, theo hàng thẳng lối. Nơi nào chữ hoa thì viết hoa, nơi nào xuống dòng thì phải xuống dòng, có đẹp đẽ hơn một trang giấy lổn ngổn chữ, thụt ra thụt vào, chữ to lấn chữ nhỏ, chồng chéo lên nhau. Luật lệ ràng buộc nhiều điều nhưng thiếu chúng mọi sự sẽ loạn. Một đô thị kiến trúc mới, có những luật bảo toàn an sinh rất có lợi cho người dân. Chẳng hạn ở Mỹ mỗi con đường đều có nơi đặt vòi nước cứu hỏa, để phòng khi hoả hoạn có nước mà chữa cháy. Việt Nam có những nơi nhà cửa san sát, ngõ ngách chật hẹp khi bà hỏa tới viếng, người dân không chỗ chen chân để chạy, nói gì đến chỗ cho xe vòi rồng vào cứu hoả.

Nói chuyện mình rồi lại nghĩ tới người. Thái có những đền đài cung điện với kiến trúc chùa tháp và những mái cong là đặc thù của nền văn minh khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha trong những kiến trúc nghệ thuật Roman, sắc nét nhất là các ngôi nhà thờ cổ, toà thánh, trần cao ngất (Sistine Chapel). Các công trình kiến trúc nhà cao tầng, tầng nối tầng, nhà nối nhà, kiên cố ở Ý đã vang danh đế quốc La Mã một thời. Nhữ ng tác phẩm xây dựng lẫy lừng của Brunelleschi, Ghiberti làm lóng lánh các kiến trúc Phục Hưng, Gothic và Baroque. Trung Quốc sắc nét Đông Á trong kiến trúc “Tử cấm thành” nhìn vào ai cũng nhận ra nó là của Trung Hoa. Khi tới Dali, tức nước Đại Lý xưa, du khách chợt sững sờ với một khu phố kiến trúc thật đặc biệt của những căn nhà mái cong sơn trắng trang nhã điểm hoa văn hay tranh vẽ sơn thủy khắp nơi, trong cũng như ngoài nhà. Người dân Đại Lý dành riêng khu phố cổ cho du khách, còn chính họ, họ dời ra nơi khác xây dựng một khu phố mới tân tiến hơn. Hàng năm rất nhiều du khách, phần lớn từ Âu châu ghé thăm Dali, Trung Quốc để tìm hiểu thêm về một nền văn hoá lạ do sự kết hợp của những bộ tộc thiểu số. Họ còn tận hưởng được khí hậu cao nguyên mát mẻ trong lành và thưởng thức những kiến trúc trang nhã hài hoà sạch và đẹp cho giờ phút thư dãn của một chuyến nghỉ hè lý thú.

Nét đặc thù của kiến trúc là một yếu tố quan trọng để lôi cuốn và mê hoặc du khách khắp nơi.

Nhìn lại văn hoá kiến trúc của ta, tôi bỗng tự hỏi: Chúng ta có một kiến trúc Việt Nam đặc thù hay không?

Kiến trúc một quốc gia bao gồm kiến trúc đô thị và kiến trúc nông thôn.

Nhắc đến kiến trúc nông thôn chúng ta chợt thấy gần gũi hơn với cội nguồn, cái cũ và truyền thống vì những gì mới mẻ tân tiến thường xảy ra nơi đô thị là chốn phồn hoa.

Từ xa xưa, kiến trúc nông thôn đi đôi với kiến trúc dân gian là cơ cấu không gian của những đơn vị làng, xã. Đơn vị nhỏ của làng gồm cổng làng, nhà ở, lũy tre bao bọc, nghĩa địa, đình, chùa, chợ búa... Đơn vị nhỏ nhất là nhà, hạt nhân cơ bản của một xã hội. Kiến trúc cổ truyền Việt Nam đa phần sử dụng kết cấu khung gỗ như nhà gỗ truyền thống Việt Nam, gồm các vật liệu bổ trợ như gạch, đá, ngói, đất, rơm, tre...

Trong thể loại kiến trúc này, thực sự không có sự khác biệt hoặc phân chia nhiều về kết cấu. Dựa trên vật liệu và đặc điểm cũng như tính chất của hệ kết cấu, trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam không thực sự tồn tại các công trình có kích thước lớn như ở các quốc gia khác. Những ngôi nhà truyền thống của một vài làng cổ ở miền Bắc còn sót lại đến nay, cho thấy chúng ta có một kiểu mẫu kiến trúc nông thôn căn bản, giản dị, với những mái tranh hoặc một tầng mái dốc. Các ngôi chùa cổ cũng có mái cong, dốc, tầng thấp khiến người muốn vào phải cúi gập người để vào. Theo lời giải thích của một nhà tu, mục đích của lối kiến trúc này giúp con người bớt ngạo mạn, bỏ đi cái tôi, bản ngã to lớn của mình. Có giàu sang, đức độ, tiếng tăm, lẫy lừng đến đâu vào chùa cũng phải cúi xuống mà vào.

Các kiểu nhà miền Bắc thời ấy thường là: Nhà chữ nhị là hai nhà sóng đôi; Nhà chữ công: trước sau hai nhà song có mái hiên nối; Nhà chữ môn: nhà chính và hai nhà phụ hai bên vuông góc với nhà chính. Miền Trung và miền Nam cũng có cấu trúc nhà ba gian, và hai chái phụ ở hai đầu nhà sẽ là hướng Đông Tây chống hơi nóng mặt trời sáng và chiều.

Gian chính làm nhà thờ hay tiếp khách còn hai gian kia để ở và lo việc bếp núc.

Vật liệu xây dựng thì cũng ít có tính cách lâu dài, chỉ trừ các công trình công cộng: gạch, đá, gỗ quý (thiết mộc)... mà đa số dùng các vật liệu địa phương sẵn có như lá, tranh, tre, gỗ đẽo, đá kê nền cột, đất sét nung hoặc không nung, bùn trộn rơm.

Old
 
 



Hướng nhà cũng được chọn, thường hướng Nam, để đón gió cho phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm. Vật lý kiến trúc: thông gió tự nhiên, tường và mái nhà thường trùm kín nhà do mưa rất nhiều, hơn nữa cửa đi và cửa sổ mở rất ít do an ninh ngừa trộm cắp nên chiếu sáng tự nhiên rất tối và kém sáng sủa.

Nơi nào gần sông chúng ta có nhà sàn là những căn nhà cao lêu khêu có chân, cọc đóng dưới nước. Dân tộc thiểu số miền núi cũng ở nhà sàn cao để tránh thú dữ. Sau này khi đi qua các vùng có nhiều đồng bào Thượng ở Đà Lạt, tôi không còn nhìn thấy những căn nhà sàn ấy nữa, hoặc có còn thì rất ít, rải rác vài nơi hẻo lánh. Chính phủ với các công trình quy hoạch xây dựng đã thay thế chúng bằng những khu nhà chung cư, hình ống với tháp tròn hay nhọn cho họ ở. Tiếc quá, theo tôi những ngôi nhà sàn ấy là nét đặc thù của đồng bào dân tộc.

Cây cầu tre
Tôi còn thấy các cây cầu khỉ, cầu tre, cầu ván là nét đặc thù của dân tộc miền Nam Việt Nam. Những cây cầu dễ làm, khó đi, lắt lẻo, đầy tình tự dân tộc réo rắt trong điệu hò, ca dao Việt Nam. “Ví dầu cầu ván đóng đinh - Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi”. Bây giờ những cây cầu khó đi kia dần dần được thay thế bằng những cây cầu đúc rất tiện cho việc đi lại nhưng tiếng hò ru con “cầu tre lắt lẻo” vẫn còn ầu ơ vang vọng nhắc nhớ người người chiếc cầu tre mẹ đi ngày nào dẫn con qua vạn nẻo đường đời trắc trở.

Kiến trúc đô thị: Trong lịch sử của bề dày hàng nghìn năm, kiến trúc Hà Nội xưa tức Thăng Long thành đã sớm có sự giao thoa với kiến trúc Chăm Pa (một nền văn hoá có ảnh hưởng sâu rộng của văn hoá Ấn Độ) như trong bài viết của Đoàn Minh Châu về Hà Nội:

“Sự hoà quyện giữa văn hoá Việt - Chăm trên đất kinh thành tạo ra một nét đặc sắc riêng, trở thành một thành tố cấu thành nghệ thuật điêu khắc – kiến trúc Thăng Long. Điều đó còn thấy rõ ở khá nhiều công trình văn hoá. Sử sách còn ghi dấu một kiến trúc rất Chăm Pa, tháp Báo Thiên nằm bên hồ Lục Thuỷ ( phần còn lại chính là Hồ Gươm hiện nay), ở vào vị trí khu vực chùa Bà Đá - Nhà thờ lớn hiện nay và hồi đó được ca ngợi như “cột chống trời, cao chót vót hơn 4 chục trượng, 12 tầng, do vua Lý sai tù binh chiếm thành (Chăm Pa) xây” (Sách An Nam chí lược của Lê Trắc viết năm 1333). Kiểu kiến trúc như tháp Báo Thiên có thể coi là đặc trưng kiến trúc thời kỳ đầu dựng thành Thăng Long, sau đó đã xuất hiện rất nhiều bên cạnh những ngôi chùa cổ kính mang đậm sắc thái Việt ở nhiều làng quê Bắc bộ như một phần không thể thiếu của nét văn hoá Kinh Kỳ. Nhiều sắc thái của văn hoá Chăm Pa khác còn được lưu giữ ở nhiều di tích như chùa Châu Lâm tức chùa Bà Banh - Bà Đanh, quãng trường Bưởi (Chu Văn An), rồi chùa ‘Bà Già’ ở Phú Xá, Chùa Tứ Liên (cũng đều quanh Hồ Tây), đặc biệt là đã đi vào tấm bia chạm ‘Bà Banh’ trần trụi, rất Chăm còn đọng lại ở nhiều giai thoại văn học.” (Đoàn Minh Châu, “Bản lĩnh văn hoá của Hà Nội nghìn năm”)

Ngoài nét lai Chăm Pa, chúng ta thấy nhiều kiểu thức, sắc thái kiến trúc cơ bản của Việt Nam bị ảnh hưởng mỹ thuật kiến trúc Trung Quốc qua những công trình điêu khắc và kiến trúc còn sót lại. Điển hình là Văn Miếu, Đền thờ Vua Hùng, Vua Đinh Tiên Hoàng ở miền Bắc. Người Hoa dùng màu vàng và đỏ tối đa trong các kiến trúc cung điện hay chùa đình, Tử cấm thành là một thí dụ.

Kinh đô Huế với Đại Nội và các lăng vua qua các triều đại nhà Nguyễn, tiết lộ ảnh hưởng kiểu thức đền đài cung điện Trung Quốc thời Mãn Thanh với nhiều sắc đỏ, vàng đậm đặc. Các lăng tẩm Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức (ngoại trừ lăng Khải Định có thêm nét đặc biệt khảm trai và đồ sứ lai Pháp) rập khuôn cấu trúc Tử Cấm Thành và những biểu trưng quyền lực tối thượng của Hoàng gia là rồng, cùng tứ quý lân, ly, quy, phượng.

Hàn quốc cũng có kiến thiết cung điện giống Trung Quốc, nhưng họ dùng màu sắc khác biệt để tạo nét đặc thù riêng. Kỹ thuật trang trí cung điện Hàn Quốc này gọi là Dancheong tức là Đan Thanh (đỏ xanh) hay Âm Dương theo nguyên tắc ngũ hành. Năm màu chủ lực được dùng là: Trắng, đen, vàng, đỏ và xanh. Màu xanh lá cây nhẹ và cam được dùng nhiều hơn, tạo một phong thái nhẹ nhàng, thanh nhã biện biệt. Nhìn vào mát mắt chứ không chói lọi như hai màu vàng và đỏ. Biểu tượng tối cao của Hoàng gia Hàn Quốc là mặt trăng và phượng hoàng nên các nét chạm trổ và huy hiệu điêu khắc trên trần nhà các nơi mang hình hai vậy quý này.


Mái nhà cổ nước Đại Lý


Mái chùa cổ Kim Liên - Hà Nội

Nếu để ý kỹ ta có thể phân rõ sự khác biệt giữa kiến trúc lăng tẩm, chùa chiền thời Lý trở về trước và các lăng tẩm chùa chiền ở Huế từ thời Gia Long trở về sau. Những kiến trúc xưa như Chùa Một cột, chùa Kim Liên, Hà Nội có góc mái cong khác với các mái cong lăng tẩm chùa chiền Huế. Nó cong vút và thon thả giông giống kiến trúc các góc mái những ngôi nhà cổ ở Dali (nước Đại Lý xưa), Trung Quốc. Điều này nếu có thể sẽ dẫn ra đầu mối cho một giả thuyết mới đây nói về nguồn gốc tộc Việt ngày xưa bắt đầu xuất phát từ các bộ tộc ở nước Đại Lý, Vân Nam tuốt bên Tàu. Các góc mái lăng tẩm triều Nguyễn giống Tử cấm thành nhiều hơn. Vua Gia Long có lẽ ưa chuộng triều Mãn Thanh nên ông bắt chước từ kiến trúc đền đài cho đến luật lệ. Ông đã bỏ cái hay của bộ luật Hồng Đức nhà Lê rất giá trị, tiến bộ và đầy tính nhân bản để ban hành bộ luật Hoàng Việt Luật Lệ dựa theo luật lệ xưa cũ của nhà Mãn Thanh.

Khu phố cổ Hà Nội còn là một quần thể kiến trúc tượng trưng cho kiến trúc đô thị xưa.

Nét độc đáo mang nặng bản sắc dân tộc Việt là cấu trúc 36 phố phường phân rõ theo sản phẩm thủ công dân cư truyền thống. Những phố Hàng Bạc, Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Mã... là những ngôi nhà cổ được xây gạch, lợp ngói. Sau này bên cạnh những mái ngói có những gờ đấu, bờ nóc giật tam cấp lại xuất hiện các ngôi nhà có mặt tiền làm theo kiểu cách Âu châu ghi dấu một thời kỳ kiến trúc thuộc địa. Sự tiến hóa kiến trúc đô thị của Việt Nam có nhiều nét lai Pháp từ Bắc vào Nam là những: Nhà hát lớn Hà Nội, Toà nhà của trường đại học Đông Dương (nay là trường Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Viễn đông Bác cổ (nay là Viện Bảo tàng Lịch sử), Bộ Ngoại giao, Phủ Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch), Thư viện Quốc gia, Nhà thờ Đức Bà, Dinh Bảo Đại, trường học Trần Phú, Lycée Yersin, Marie Curie...

Thể loại kiến trúc này được du nhập từ các nước phương Tây, cùng với sự xuất hiện của người Pháp tại Việt Nam vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Loại hình kiến trúc này phát triển song song với quá trình khai thác thuộc địa của người Pháp.

Ngày nay, song song với việc mở cửa hội nhập với quốc tế bằng nền kinh tế thị trường, nhiều luồng kiến trúc khác nhau cũng hồ hởi du nhập vào nước. Kiến trúc sư Việt Nam đang lần tìm một con đường riêng và cố hình thành một khuynh hướng kiến trúc mới. Do đó đã nảy sinh một trào lưu mới vừa muốn theo phong cách hiện đại với đặc điểm cấu trúc mỹ thuật nước ngoài vừa muốn phù hợp với diện tích đất đai ít ỏi nhỏ hẹp của thành thị. Hậu quả sự lai tạp và sao chép kiểu thức ngoại quốc này khiến nền kiến trúc văn hoá xây dụng nước nhà trở nên hỗn loạn. Những ngôi nhà siêu mỏng, siêu siêu mỏng mà người ta gọi là những ngôi nhà “kỳ dị” ở thành phố Hà Nội đã mọc lên làm rối mắt dân Hà Thành.

“Đó là những ngôi nhà mà bề dày chỉ dưới 1m. Nhà siêu mỏng rất đa dạng về kiểu dáng. Từ hình tam giác, hình vuông, hình ống, hình lục giác... thậm chí là những hình thù kỳ quái mà trong từ điển hình học không có từ để diễn tả. Bộ mặt đô thị cũng vì thế mà trở nên méo mó, dị dạng.” (Trích Việt NamNet, “Vì sao Hà Nội vẫn tồn tại nhà siêu mỏng”)

Gần đây nhất, khi đi từ Bắc chí Nam, tôi bắt gặp nhiều nhà cao tầng hình ống liên kế, nền bê tông, mái nhọn hoặc hình tháp tròn, màu sắc có khi tương phản, chói lọi, mặt tiền trên cao lại điểm thêm những bông trang trí giống Mã Lai hoặc Thái Lan gì đó làm tôi có cảm tưởng sự lai tạp trong kiến trúc làm bay mất tất cả nét đặc thù nếu có của nền kiến trúc Việt Nam.

Đây là ý kiến của Nguyễn Bỉnh Quân trong một bài viết “Nhà ống – ‘thất bại hoành tráng’ của đô thị mới”:

“Đùng một cái với 20 năm kinh tế thị trường, nhà ống bùng phát như một đại dịch. Có nhẽ tới 60-70% dân đô thị ở nhà ống. Chẳng ai hiểu tại sao. Nền cứ bán 4/16-20m và thế là câu hỏi tại sao kia trở nên ngớ ngẩn. Nước ta là một kình ngư khổng lồ đang ra biển lớn, doạ sẽ hoá rồng. Đường sá mọc ra hàng ngày. Nếu đường là bộ xương của đất nước với hàng vạn nhánh thì hàng triệu triệu ngôi nhà ống hai bên là triệu triệu gai đôi hành khổ cơ thể kinh tế và dân sinh. Ai bắt ta phải thế?

Một nhà sử học hỏi: Sao giữa đồi, ngoài cánh đồng cũng nhà ống hả ông? Bêtông hoá đường nông thôn cũng sinh ra nhà ống luôn! Khu công nghiệp mở tới đâu nhà ống vây xung quanh lập tức. Thị trấn, thị xã đều nhất loạt ống hoá cả. Anh nào nghĩ ra cái nền 4/16-20m đáng gọi là sư tổ của nền kiến trúc "manh mún" của Việt Nam. Thế hệ đầu ra phố cứ mặc nhiên coi nhà ống là cách ở bắt buộc. Các phòng thẳng một hàng; xe máy có thể phóng qua; gió lùa một lối; ánh sáng hai đầu, ở giữa tối om. Chả thấy có gì là bất tiện cả! Nguyên Chủ tịch Hội Kiến trúc sư ngồi xe với tôi ở Vũng Tàu reo lên:

Đây có một blốc nhà liên kế kìa! Các blốc nhà liên kế được kiến trúc sư thiết kế đàng hoàng, trệt là các cửa hàng, khu công cộng, dịch vụ, các lầu là các văn phòng, căn hộ tiện nghi. Cứ vài blốc đến một ngã tư ngăn nắp. Hẻm, ngách chỉ hãn hữu. Đó là dạng nhà thông thường của các đô thị. Hiệu quả thu thuế, kinh doanh và sinh sống văn minh cao gấp hàng chục, hàng trăm lần nhà ống. Thế mà ở ta nó lại là sự lạ thì có phải ta đang làm chuyện ngược đời không!”
http://www.idr.edu.vn/diendannghiencuu/showthread.php?t=18416
"Nền kiến trúc đang bị thị trường hóa"

Tác giả: KTS Trần Thanh Vân

KTS Ngô Viết Nam Sơn vừa phát biểu một bài rất hay khi với tư cách là một vị khách mời. Nhưng Kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn sẽ không đóng góp được gì, nếu những người có quyền lực trong ngành kiến trúc và Quy hoạch vẫn sùng Ngoại, bài Nội về hình thức, mà thực chất là "Sùng lợi ích trước mắt của chính họ" thì dù có tài và dù đã hết sức cố gắng cống hiến sức mình, thì với tư cách không còn là khách, ý kiến của ông sẽ không được chính quyền quan tâm nữa.
LTS: Xung quanh câu chuyện làm sao để bảo tồn văn hóa phố cổ Hà Nội và khu phố Sài Gòn cũ đang thu hút sự quan tâm của công luận. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam đăng tải bài viết của KTS Trần Thanh Vân chia sẻ với những ý kiến của KTS Ngô Viết Nam Sơn về Kiến trúc Việt Nam để độc giả cùng suy ngẫm.
Tôi không muốn nhắc lại toàn bộ ý kiến của KTS Ngô Viết Nam Sơn, tôi chỉ muốn nhắc lại đôi điều giới kiến trúc đã nhiều lần kiến nghị nhưng không được chấp nhận, nay có thêm ý kiến của một "chuyên gia nước ngoài gốc Việt" thì hy vọng ý kiến đó sẽ nặng cân hơn. Đó là vấn đề bảo tồn văn hóa phố cổ của thành phố Hà Nội và khu phố Sài Gòn cũ.
Trong phát biểu của mình, KTS Ngô Viết Nam Sơn nhắc tới khu phố cũ Xintiandi ở thành phố Thượng Hải. Đó là nơi tôi cũng rất biết, trong những lần trở lại thăm Thượng Hải sau này tôi cũng đến Xintiandi, chùa Dự Viên, Chùa Phật Ngọc và tôi rất đồng tình với anh. Điều quan trọng là anh đã được mời đến nghiên cứu tôn tạo khu đó và người Thượng Hải đã nghe theo anh.
Cũng nhờ vậy mà Thượng Hải hôm nay, trong một thành phố hiện đại, năng động vào bậc nhất thế giới với hệ thống giao thông hiện đại có 5, 6 tầng này, lại đang tồn tại một khu phố cổ có chỉ sô GDP rất cao. Như vậy là thực hiện được mục tiêu "Bảo tồn giá trị văn hóa mà vẫn sinh lời?". Khu phố cổ Hà Nội xưa và khu phố Pháp Hà Nội cũ đã được nghiên cứu và đề xuất nhiều năm bởi rất nhiều chuyên gia danh tiếng trong và ngoài nước, nhưng có lẽ do nhận thức chưa tới, nên hôm nay đã đến thời điểm tổ chức Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long mà những giá trị quý báu của 1000 năm Thăng Long vẫn đắp chiếu nằm im, chờ ngày được tôn vinh.
Kiến trúc Việt bị thương mại hóa
Nhà thờ Đức Bà (TP. Hồ Chí Minh). Ảnh minh họa: Kevin Tat.
Một điểm nữa tôi rất đồng tình với KTS Ngô Viết Nam Sơn, là nền Kiến Trúc của ta đang bị thương mại hóa, cộng thêm với chính sách nửa vời, tàn dư của bệnh bảo thủ thời bao cấp, nên các nhà đầu tư vẫn bằng mọi giá lao vào chiếm các khu đất vàng ở nội đô để hưởng hệ thống hạ tầng kỹ thuật có sẵn mà không phải trả tiền, để góp thêm một tay phá nát hệ thống hạ tầng vốn đã ọp ẹp, quá tải và đang rất cần được giải cứu. Đây không chỉ thể hiện trình độ quản lý non kém, mà có lẽ còn do lợi ích nhóm đã vượt lên trên lợi ích của quốc gia, của xã hội, cho nên mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã ra lệnh cấm đập biệt thự cũ để xây công trình cao tầng trong khu phố cổ, Hà Nội vẫn kiến nghị cho tiếp tục xây hơn 200 dự án cao tầng đã có quá trình từ trước năm 2010. trong số đó chắc chắn có Trung tâm Thương mại cao 17 tầng trên nền Chợ Âm phủ, sau khi bị phản đối đã được đền ô đất rộng hơn, đẹp hơn ở ngay bên cạnh để xây công trình to hơn, cao hơn.
Vụ Khách sạn Novotel on the Park đã bị phản đối nhưng Nhà đầu tư lại được đền bù hơn 7600m2 đất Nhà máy rượu ở phố Nguyễn Công Trứ và những nhà đầu tư đã quyết định bỏ ý định xây Khách sạn 5 tầng như cũ mà đổi thành Trung tâm thương mại và chung cư cao tầng để có nhiều lãi hơn?.
Ngoài ra, chắc hẳn trong hơn 200 dự án này cũng có Trung tâm thương mại trên phố Lý Thái Tổ của Ngành điện mà Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Thế Thảo đã cương quyết bảo vệ với lập luận rằng Hà Nội chủ trương biến Quận Hoàn Kiếm thành Trung tâm thương mại lớn?
Nhân đây tôi cũng muốn nhắc tới một chỉ số rất cơ bản mà một Kiến trúc sư không được bỏ qua là Khoảng cách giữa hai công trình cao tầng ít nhất không được nhỏ hơn một lần rưỡi chiều cao của công trình đó (gọi là 1,5 H).
Nhìn tổng quát có thể thấy, tất cả các công trình xen cấy ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh hiện nay đều không đạt chỉ số nêu trên. Do vậy mà ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội luôn luôn có hiện tượng đào móng xây công trình mới thì sập công trình có sẵn ở ngay bên cạnh.
KTS Ngô Viết Nam Sơn vừa phát biểu một bài rất hay với tư cách là một vị khách mời. Nhưng Kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn sẽ không đóng góp được gì, nếu những người có quyền lực trong ngành kiến trúc và Quy hoạch vẫn sùng Ngoại, bài Nội về hình thức, mà thực chất là "Sùng lợi ích trước mắt của chính họ" thì dù có tài và dù đã hết sức cố gắng cống hiến sức mình, thì với tư cách không còn là khách, ý kiến của ông sẽ không được chính quyền quan tâm nữa.
Ngay ở Thủ đô Hà Nội, sau sáu bảy lần làm đi làm lại quy hoạch chung, lần nào cũng có chuyên gia danh tiếng đến từ nước ngoài, xưa nhất có chuyên gia Liên Xô, gần đây nhất có chuyên gia Nhật Bản do Jica gửi đến, nhưng tất cả đều đã bị xếp xó, lần tuyển chọn Liên danh Tư vấn Quốc tế quan trọng nhất này xuất hiện ba đơn vị tư vấn hoàn toàn mới là PPJ: gồm POSCO E&C là công ty con của Tập đoàn Thép Hàn quốc POSCO giầu có, Công ty Mỹ Perkins Eastman Architect và Công ty Hàn quốc Jina Architect, họ được giới thiệu là có tài năng và kinh nghiệm hàng đầu thế giới.
Vậy mà hơn một năm rồi, thành phố Thủ đô, ngôi nhà của Tổ quốc ta, quay mặt ra hướng nào? Cổng ngõ ở đâu? Gian thờ đặt ở đâu? Trung tâm hành chính chỗ nào... liên danh tư vấn này vẫn chưa xác định được.
Mới hồi tháng 5/2010 vừa đây, trong Triển lãm QH chung Hà Nội ở Vân Hồ, người ta rầm rộ giới thiệu Trục Thăng Long tức Trục Tâm Linh là đường Hoàng Quốc Việt kéo dài tới Hồ Đồng Mô, thì hôm nay Trục Thăng Long lại đã chạy sang đường Láng Hòa Lạc rồi. Sự tùy tiện sử dụng ngôn từ "Thăng Long" và "Tâm Linh" đó khiến cho dư luận rất đau lòng.
Một góc phổ cổ Hà Nội. Hãy chung sức vì một Việt Nam bền vững trường tồn
Hà Nội không thiếu Kiến trúc sư và chuyên gia Quy hoạch giỏi, họ cũng được đào tạo bài bản, họ đã hiểu rất sâu, nắm rất chắc về giá trị Văn hóa Và Lịch sử Thăng Long, cộng tác với họ cũng có một Kiến trúc sư Việt kiều danh tiếng là KTS Hồ Thiệu Trị, người được coi là một chuyên gia hàng đầu về Kiến trúc Pháp ở Thủ đô và đã về nước đóng góp cho nền Kiến trúc nước nhà và Hà Nội trong gần 20 năm nay. Nhưng tiếc rằng, trong Triển lãm tại Vân Hồ vừa qua, có ý kiến ra sức quảng bá cho một Đại lộ Champs Elysées của Paris tại Trục Tâm linh có tên Thăng Long mà không quan tâm đến ý kiến của KTS Hồ Thiệu Trị và vị am hiểu khác.
Thủ đô đang ở giai đoạn hoàn thiện nghiên cứu Quy hoạch chung, dù chất lượng làm việc của Liên danh tư vấn PPJ xuất sắc hoặc kém cỏi ra sao, thì bước nghiên cứu này phải được kết thúc sớm để chuyển sang bước tiếp theo. Theo thiển nghĩ của tôi, có hai vấn đề lớn mà trong tất cả các lần báo cáo vừa qua, Liên danh tư vấn PPJ và những người cộng sự chưa vươn tới được.
Một, với một chỉ giới hành chính rộng trên ba ngàn ba trăm hecta, Kinh đô Thăng Long 1000 năm sẽ phát triển trong 1000 năm tới ổn định, trường tồn ra sao? TRUNG TÂM ĐẦU NÃO QUỐC GIA SẼ Ở ĐÂU và giá trị của Sông Hồng, của Hồ Tây, của Tản Viên Sơn trong Thủ đô phát triển này?
Hai, theo các tư liệu địa chất thủy văn thì vùng đất Kinh đô Thăng Long và thành phố Hà Nội cũ đang có những biến động bất lợi do con người vì thiếu hiểu biết và thiếu tôn trọng giá trị Văn hóa - Lịch sử đã gây ra. Nay tiến hành Quy hoạch mở rộng, ta đề ra phương châm bảo tồn đô thị lõi thì ta phải làm gì? Sau 1000 năm Hoàng thành Thăng Long đã chìm sâu xuống 5m, không để cho nó tiếp tục chìm thì các giải pháp về Quy hoạch xây dựng và quản lý dân cư chính sách kinh tế phải đồng loạt thực hiện. So với cốt nền của Thành phố Thượng Hải mà KTS Ngô Viết Nam Sơn đã nghiên cứu, thì nơi đây ổn định hơn nhiều.
Tôi nghĩ, đã đến lúc không nên chia rẽ tản mạn nữa, mà những bộ não thông minh và nặng tình yêu đất nước nên cụm lại để đưa ra những phương án, những ý kiến hay thuyết phục các cấp có trách nhiệm.


Kiến trúc Việt đi về phía vô vọng?

Đăng ngày: 03-11-2010

 

Về kiến trúc, người ta đang kỳ vọng vào sự khai hóa của lực lượng kiến trúc từ những nước đã phát triển để mở mắt cho mình về chính truyền thống của mình. Điều đó tôi khẳng định, 100 lần cũng khẳng định giống nhau, là vô vọng.
LTS: Làm thế nào để có những công trình kiến trúc Việt Nam vừa hiện đại, vừa mang bản sắc dân tộc, là kỳ vọng của người dân Việt Nam, của những ai quan tâm đến kiến trúc Việt. Tuần Việt Nam có cuộc phỏng vấn Kiến trúc sư Nguyễn Văn Tất - Phó Chủ tịch Hội KTS Việt Nam về chủ đề này.

Hình tượng hóa một cách thô thiển
- Vài năm qua, đã có nhiều công trình kiến trúc quan trọng, mang tính biểu tượng được xây dựng ở Hà Nội, như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Bảo tàng Hà Nội, Nhà Quốc hội, và gần đây nhất là Nhà hát Thăng Long. Với những công trình ấy, yêu cầu đặt ra luôn là phải mang đặc trưng kiến trúc của Việt Nam, nhưng thiết kế được chọn đều của các KTS nước ngoài...
KTS Nguyễn Văn Tất: Nhà báo nhắc đến Nhà hát Thăng Long thì tôi phải nói thật. KTS Renzo Piano là một trong những KTS tôi cực kỳ yêu quý, nhưng tôi không thể chịu được bản thiết kế Nhà hát Thăng Long của ông (ít ra ngay từ những ấn tượng thị giác ban đầu) vì nó đụng chạm đến những vấn đề rất lớn về xúc cảm kiến trúc của mình.
Ở cái nhìn đầu tiên, những đường nét của công trình khá phổ biến với các công trình hiện đại, những đường cong nghếch lên, rất tự nhiên, táo bạo. Nhưng tất cả cái đó đi ngược lại với cảm giác về chất lượng không gian của người Việt. Ở mình thì hoặc chùng xuống, hoặc ngang, chứ không nghếch mũi lên trời để đón nắng chói, mưa tạt. Bản thân việc bị "chệch" cách cảm xúc kiến trúc bằng những thói quen tiện nghi của người Việt đã là điểm yếu.
Ở những nước xứ lạnh, dù nắng mùa hè chói chang nhưng người ta vẫn rất phóng khoáng, vẫn mở bung về phía mặt trời rất ngạo nghễ vì với họ đó là tiện nghi, là hạnh phúc. Nhưng ở mình thì lại cần tránh, cần che đậy nhiều nhất nếu có thể. Bạn đem niềm hạnh phúc ở chỗ khác tới để gợi niềm hạnh phúc ở đây là sai. Bản thân đường nét táo bạo đó đã sai với thói quen về cảm thụ sự an toàn về không gian, về khí hậu. Rồi một hình ảnh ngôi nhà trên hồ với những thanh chỏi như thế, nếu quy mô của một nhà sàn thì hợp, còn to như nhà hát thì có vẻ đánh đố về tỉ lệ cảm thụ.
Phối cảnh một trong hai phương án thiết kế nhà hát Thăng Long.
Những điều đó tôi không biết giãi bày với ông Renzo thế nào. Mình là KTS nhỏ, đứng ra phê phán một bậc thầy như thế có đúng không? Nhưng tôi cảm thấy rất bức xúc. Dường như ông tập hợp lực lượng tư vấn dữ dằn nhưng họ lại tư vấn sai, dẫn ông ấy đến những chuyện hình thức quá, không đi vào đúng bản chất của những giá trị Việt Nam.
- Như cách Nhà Quốc hội (đang được xây dựng) được gắn thêm cái cổng cách điệu từ cổng đình, hay Trung tâm Hội nghị Quốc gia được thuyết minh là "sóng Biển Đông"? Hay dịp Đại lễ vừa rồi, đi đâu ta cũng dễ dàng bắt gặp hình ảnh cách điệu của Khuê Văn Các?
Những người thiết kế các công trình nhà báo nhắc là những KTS lớn, lẫy lừng, nhưng tôi cảm nhận có một sự tư vấn, trong tư vấn đó lại có một sự thỏa hiệp để lấy được công trình. Họ gắng đi tìm một chi tiết nào đó để cố gợi lại cái gì đó cho có vẻ VN, nhưng lại mang tính chất hình thức.
Anh hình tượng hóa một cách thô thiển những thứ rất giá trị, nên đã làm mất đi giá trị thực sự. Trong kiến trúc ai cũng biết vấn đề tỷ lệ, khi nho nhỏ thì nó là mình, còn phóng lớn lại... không ra. Cho nên từ một nhà sàn, một ngôi đình sẽ rất khác với một công trình khổng lồ hàng chục ngàn mét vuông sàn. Nếu ta cố tình đẩy về phía nào đó thì kệch cỡm ngay.
Không thể lợi dụng, gượng ép
- Từ mong ước chính đáng là tạo ra những công trình kiến trúc hiện đại thật sự Việt Nam, nhưng thực tế lại khó khăn hơn nhiều?
Tôi có thể nói thế này, nếu mình mãi trông đợi những đầu bếp xứ khác mang đến những món ăn chế tác mới tinh tế truyền thống Việt, thì liệu ta có thể chờ đợi gì ở đó? Nhắc đến kiến trúc Việt Nam truyền thống là nhắc đến những kiến trúc gắn liền với tâm thức Việt mà ai cũng cảm được như mái đình, chiếc cổng làng, con đường làng, ao nước, cầu khỉ, bóng đa...
Những công trình cách điệu từ đó, còn tồn tại như Chùa Một Cột, đình Đình Bảng, đình Chu Quyến, chùa Keo... và lớn hơn nữa là những lăng tẩm, những thành phố như Huế hay Hà Nội thì ai cũng có thể cảm nhận, có thể tự hào là rất Việt Nam.
Khi ta làm một công trình mới và tuyên bố đã cách điệu từ những yếu tố đó thì người xem sẽ dễ ve vuốt vào mỹ cảm Việt, "trông Việt Nam đấy"!
Nhưng đó là bắt chước, lặp lại, hay giỏi hơn một bậc là vay mượn. Cuộc sống đương đại luôn đi về phía trước, tới phiên nó cũng phải tạo ra truyền thống cho cái tiếp theo. Nó có quyền tự do, có quyền sáng tạo, có quyền đưa ra những chuẩn mực mới.
- Nhưng bằng cách nào, thưa ông?
Việc đi tìm, khẳng định, thậm chí muốn trở thành mẫu mực là nhu cầu không chỉ của tự thân các nhà kiến trúc, mà là nhu cầu của cả cộng đồng. Nó cần một môi trường để được sinh ra, nuôi nấng và được khẳng định như những giá trị Việt mới. Cái đó có nhiều đường để đi, nhưng cách để nó ra đời thì chỉ có một: Anh phải hết sức có tâm trong công việc của anh, để rồi anh sẽ đạt tới một thành quả nào đó, không lợi dụng bất cứ phương tiện nào một cách cố tình, gượng ép để tỏ ra là mình là người tạo ra bản sắc mới.
Anh tạo ra, anh thấm nó, rồi đến một lúc nào đó, cũng giống như sự sáng tạo trong bất kỳ lĩnh vực nào khác, anh thành công. Khi người ta làm mà lại nghĩ đến sự nổi tiếng, sợ một quyền lực nào đó, bị vụ lợi vì một lợi ích nào đó quá lớn, thì con đường đến gần với thành công càng xa vời.
- Ông có tự tin mình đang đi đúng hướng?
Tôi không dám khẳng định điều đó, nhưng tôi luôn tự vấn mình, tự nhủ mình phải theo con đường đó. Mong mỏi định hình kiến trúc Việt đương đại là điều trăn trở của rất nhiều người có tâm, nhưng tôi cho rằng gượng ép cũng không được, vì đó là sự kết tinh. Nó sẽ xuất hiện khi có duyên, có cơ may. Nhưng tôi nhắc lại, mọi việc phải tuân thủ con đường hết sức tự nhiên, hợp quy luật, hợp với sự mong muốn, quyền lợi của cả một cộng đồng trong một thời đại sống với những điều kiện tự nhiên, xã hội, công nghệ... chứ không ép được.
Nhà khoa học còn cần có một Tổ quốc
- Đúng là ta không thể ép, không thể sốt ruột, không thể ra thời hạn kiểu "đến 1000 năm Thăng Long" phải đạt, nhưng làm sao để như ông đã từng nói, là đừng mắc những sai lầm khó sửa chữa. Cái cách Việt Nam đang dựa vào các KTS danh tiếng của nước ngoài, để tạo ra những công trình mang tính cách điệu kiến trúc Việt Nam có là cách làm đúng?
Đúng và không đúng! Đa phần đúng ở khía cạnh "dùng được", đa phần sai ở khía cạnh đi tìm sự "khai hóa" bản sắc Việt trong kiến trúc.
Khi mình chưa có đủ lực, đủ tài năng để làm điều gì đó thì mình nên đứng về xu thế đúng, để may ra có cơ may, còn đứng về xu thế không đúng thì coi như vô vọng. Rất tiếc, điều kiện chung của xã hội ta hiện thời đẩy kiến trúc và quy hoạch về phía thiếu cơ may.
Về kiến trúc thì người ta đang kỳ vọng vào sự khai hóa của lực lượng kiến trúc từ những nước đã phát triển, để mở mắt cho mình về chính điều thuộc về... truyền thống của mình. Điều đó tôi khẳng định, 100 lần cũng khẳng định giống nhau, là vô vọng.
Nếu anh cần làm cái gì đó để nhận diện nhanh chóng về tính hình thức của kiến trúc Việt Nam đối với người nước khác thì có thể được, nên lâu nay họ lầm lẫn. Bạn cũng thấy đấy, một nhiếp ảnh gia nước ngoài tài năng sẽ chọn được góc để chụp ngay được vẻ Việt Nam. Còn ta chụp cả tỷ tấm hình nhưng chọn vài tấm để giới thiệu VN ra nước ngoài thì có khi lại chọn sai. Bởi quá quen thuộc mọi thứ lại khó nhận ra đâu là sự khác biệt với người ngoài.
- Nghĩa là đang có sự nhầm lẫn giữa tính hình thức và bản sắc thật sự của kiến trúc Việt Nam hiện đại?
Chính sự nhầm lẫn đó đẩy đến việc được sự chấp thuận của nhà nước, của các bộ ngành trung ương, các chủ dự án đã mời các KTS nước ngoài vào ồ ạt, mong muốn tạo ra những vấn đề thuộc về bản sắc của mình, trong khi cơ chế hợp tác hợp lý với các nguồn tri thức quý giá trong nước đã và đang lỏng lẻo một cách đau xót. Đó là lý do tại sao khi đi sâu vào những vấn đề sâu sắc hơn, thì ngay cả những KTS rất đình đám, đáng kính như thế cũng lúng túng.
Trung tâm Hội nghị Quốc gia
Tôi rất thích câu nói của Lev Tolstoi "Ngay cả nhà khoa học còn cần một tổ quốc, huống chi...". Ta cứ nghĩ nhà khoa học chỉ làm khoa học, họ là công dân toàn cầu, nhưng rõ ràng trong thâm tâm họ cần một chỗ dựa, một điều lớn lao để họ dâng hiến, tạo động lực cho họ. Huống chi nhà văn, họa sĩ, KTS... dứt khoát phải có một Tổ quốc, một nơi chốn mà chỉ riêng trực giác đã có thể đánh thức cho họ bao điều. Đây là một lầm lẫn rất nghiêm trọng, nhưng lại đang diễn ra rất ồ ạt. Bạn có biết, hiện thời đã có hàng chục bệnh viện từ Bắc chí Nam được thiết kế bởi một KTS Hàn Quốc. Có KTS ở TPHCM đã thẳng thắn gọi ông này là "thợ vẽ bệnh viện", bởi các công trình rất giống nhau. Ngay khi tôi đi chấm 2 công trình bệnh viện ở Vũng Tàu, 1 cái 200 giường, 1 cái 600 thì cũng nhác nhác nhau.
Phải nói rõ là thiết kế bệnh viện rất phức tạp, bởi trong nó chứa hàng 500, 700 hạng mục nhỏ, nên một người chưa từng vẽ bệnh viện sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Còn ông này đã có sẵn một số chi tiết mẫu nên sẽ lắp ghép vào rất dễ dàng. Nhưng không thể hy vọng tạo dựng được phong cách kiến trúc Việt Nam đương đại từ cách làm "lười" như thế.
Tôi đành có lựa chọn của riêng mình, rằng những cuộc thi chỉ mời KTS nước ngoài như một định chế loại trừ về năng lực kiến trúc sư trong nước (trong đó chắc chắn là có cả tôi!) thì tôi từ chối lời mời tham gia chấm. Chủ tịch Hội KTSVN, KTS Nguyễn Tấn Vạn cũng đã có nhiều lần quyết định như vậy.
Đi về phía thiếu cơ may
- Nãy giờ chúng ta nói nhiều về KTS nước ngoài, và ông đã khẳng định không thể trông chờ vào họ để tạo ra giá trị mới cho kiến trúc Việt Nam. Còn KTS Việt Nam đang ở đâu trong hành trình này? Có một thực tế nhức nhối là suất đầu tư cho những công trình kiến trúc ở Việt Nam quá thấp?
Tôi xin được nhắc lại phạm vi trao đổi của chúng ta từ đầu. KTS nước ngoài, với nhiều kinh nghiệm và trải nghiệm quản lý, thiết kế, kỹ thuật ... là người đồng hành cần thiết lắm chứ. Cái đáng nói là hệ quả xấu. Xu hướng lệch, nguy hiểm nhất của ta là "sính ngoại", nhờ người rất ít biết về cái của mình đi khai hóa cho mình.
Còn lực lượng chủ thể, cảm rất tốt cái hồn của kiến trúc Việt Nam thì lại không có cơ hội, không được khuyến khích, không đủ kỹ năng để tổng hợp và chuyển nó thành giá trị mới. Cơ hội ngày càng teo tóp đi cho lực lượng lẽ ra phải là lò nung, là nồi hầm mang lại cơ hội nhất.
Nói về suất đầu tư, tôi buộc phải đưa ra sự so sánh thế này. Khi chúng ta xây dựng Trung tâm Hội nghị Quốc gia, suất đầu tư khoảng 3000 USD/m2 sàn, trong khi tất cả các công trình lớn của ta thời đó chỉ loanh quanh khoảng 4, 5 triệu đồng/m2 sàn. Một sự chênh lệch khủng khiếp. Với suất đầu tư teo tóp thế kia, bạn nghĩ KTS Việt Nam phải xoay sở thế nào để tạo ra những giá trị mới? Chưa kể, suất đầu tư từ Cà Mau đến Lạng Sơn là giống nhau. Nhà nước như thế nên tư nhân cũng nhìn vào nhà nước để ép KTS chúng tôi.
Có thể nói, một trong những cái dở của quản lý nhà nước ở ta là anh nghĩ anh tiết kiệm, anh chắt bóp, nhưng thực ra, anh tầm thường hóa những giá trị hạ tầng xã hội bằng cách đưa ra những giá đầu tư mang tính chất phá hoại. Anh chỉ đốt tiền để tạo thành những đống vật liệu không có giá trị. Nếu so với công cuộc trong mấy năm của Trung Quốc để chuẩn bị cho Olympic Bắc Kinh 2008 đã để lại những công trình để đời, còn ta trong mấy chục năm vừa qua tiêu tốn gấp nhiều lần để chỉ tạo vô số công trình xấu xí.
- Với những công trình thật sự hiện đại, không mang chút nào bản sắc Việt Nam, thì khả năng dung nạp vào một thành phố để không làm mất hồn cốt Việt là như thế nào?
Đại lễ vừa rồi, đi đâu ta cũng dễ dàng bắt gặp hình ảnh cách điệu của Khuê Văn Các
Cuộc sống đương đại đòi hỏi rất nhiều loại và đẳng cấp công trình khác nhau. Không phải lúc nào cũng tỉ tê một điệp khúc "bản sắc". Nhưng có một yêu cầu tối thiểu về văn hoá ứng xử là nếu chưa có gì để đóng góp về giá trị bản sắc mới thì ít nhất cũng không được tùy tiện gây phản cảm bằng những thứ dễ dãi, thô thiển, xa lạ với tập quán và mỹ cảm người Việt. Việc đó có thể điều tiết được bằng phối hợp và công nhận lẫn nhau trong công tác tư vấn giữa các quốc gia, mà lâu nay ở Việt Nam là một khoảng trống lớn đầy rủi ro (chưa có Luật Kiến trúc sư, chưa có Kiến trúc sư đoàn... như thông lệ các quốc gia khác). Cơ hội (và cả quy định) để tư vấn nước ngoài tìm cộng tác tin cậy trong nước rất thiếu ràng buộc.
Cơ hội và năng lực tài chính để tư vấn trong nước tìm cộng sự nước ngoài càng hiếm hoi hơn. Và như thế, cục diện này không còn là câu chuyện nghề nghiệp, câu chuyện quyền lợi hay đạo đức, văn hoá hay thực dụng mà đã trở thành câu chuyện thời cuộc, câu chuyện ứng xử đủ tầm của các chính sách quốc gia.
Tác giả: Khánh Linh
KTS Nguyễn Văn Tất tốt nghiệp Đại học Kiến trúc TP.HCM năm 1980 - Chứng chỉ KTS Chủ nhiệm đồ án hạng một năm 1994 - Chứng chỉ hành nghề thiết kế công trình số HCM 0209/TKCT-Q1, 2001-2006 - Chứng chỉ hành nghề Kiến trúc sư hoạt động xây dựng số KT.08-0280, 2006-2011.
Ông hiện là Phó chủ tịch Hội KTS Việt Nam khóa VIII, Phó chủ tịch Hội KTS TP.HCM, Ủy viên Hội đồng hành nghề kiến trúc Ủy ban Hành nghề Hiệp hội Kiến trúc Châu Á, Phó Tổng Biên tập - Tạp chí Kiến trúc Nhà Đẹp và giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên, KTS.Chủ nhiệm đồ án - Công ty TNHH Tư Vấn & Thiết kế TAD.
KTS Nguyễn Văn Tất bắt đầu tham gia hoạt động kiến trúc từ khi còn là sinh viên trường Đại học Kiến trúc TP.HCM. Sau gần 30 năm hoạt động trong lĩnh vực thiết kế kiến trúc, ông đã thiết kế trên 270 công trình, trong đó: Chủ trì thiết kế trên 200 công trình (trên 170 công trình thiết kế kiến trúc và trên 30 công trình thiết kế quy hoạch). Trong đó 1 công trình đạt giải nhất cuộc thi quốc tế “Archi’s 79 - Habitation Rural” do tổ chức ACCT của Liên Hiệp Quốc và Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) tổ chức tại Paris - Pháp, đề tài “Nhà ở vùng đất bồi ngập mặn Năm Căn - Cà Mau” - 1979, 1 công trình đạt giải nhất cuộc thi Đồ án kiến trúc Quốc gia (Khách sạn Quốc tế Unimex Hà Nội) - 1985, 1 công trình đạt giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi Đồ án kiến trúc Quốc gia (Nhà ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ) - 1998, 1 công trình đạt giải thưởng Văn học Nghệ thuật TP.HCM (Khu du lịch Bến Thành Non Nước) - 2004… Ngoài ra, 14 công trình của ông đạt Giải thưởng Kiến trúc quốc gia dành cho các công trình xuất sắc đã xây dựng do Hội Kiến trúc sư Việt Nam tổ chức 2 năm một lần.
Source: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-11-02-kien-truc-viet-di-ve-phia-vo-vong-
http://vn.360plus.yahoo.com/aly_thanh/article?mid=110



entries . bài viết mới nhất ... và những bài trước


.
.

.
Bình đồ tổng thể trường Đại Học Kiến Trúc Saigon thời điểm 1971, phối cảnh toàn diện. Site plan and 3d model of the School of Architecture, University of Saigon at 1971. By Tien Duong, AIA..
.
.
Đang sẵn học vẽ Sketchup, nhân tiện tôi dùng bình đồ trường Kiến Trúc ngày xưa, khoảng năm 1971, dựng luôn mô hình lên với những chi tiết từng khối nhà, dựa theo hình chụp và trí nhớ. Lưu trữ tại đây để làm tài liệu cho đời sau.
.
.
.
zsaigon-59-ktsg.jpg
.
Hình trên là họa đồ Saigon vào năm 1959 với những khối nhà tương đối, không đúng với sự thật nhiều. Trường Cao Đẳng Kiến Trúc nằm góc Pasteur và Phan đình Phùng, số trê bản đồ là 122. Đối diện với vườn hoa Vạn Xuân, một khoảng xanh của thành phố, nay không còn nữa vì dân VN thế hệ VC lớn lên không cần cây xanh ... chỉ cần bê tông nóng chẩy mồ hôi thôi ... không cần không khí trong lành để thở .. !!!
.

.

.
.


.
.
zdhkt-3d10.jpg
.

.
.
zdhkt-3d4-1.jpg
.
.
.
zdhkt-3d5-1.jpg
.
.
.
zdhkt-3d2-1.jpg
.
.
.
z-kt-maitruongxua-tmd-2.jpg
.
.
.
zkt-plan-71sg.jpg
.
 http://tmddesign.multiply.com/journal?&=&page_start=0





.
.
.
.

.
Đà Lạt những lần đến và đi ... Đại Học Kiến Trúc Saigon đến Đà Lạt... những ngày xa xưa. By duongtiden.
.
.
Lần đầu tiên tôi đến Đà Lạt bằng chiếc máy bay quân sự DC3, Dakota, hay C47. Tiếng bánh xe chạm vào phi đạo Cam Ly, rồi lại tưng lên bay tiếp... trong lòng tầu rung bần bật nhồi lên xuống, mũi nở bong bóng... Tôi mới 14 tuổi. Viên phi công Mỹ đi ra...  We go back to SG, I cannot land it !..... năm đó, hình như 1967. Tôi học sinh ngữ Anh là chính, nên nghe cũng đủ hiểu. Mấy chục đứa con nít, phần đông là con gái ngơ ngác nhìn ông phi công Mỹ, ông này giơ tay làm dấu hiệu đáp máy bay, rồi xua tay lắc đầu.
.
.

.
.

Lúc mới lên máy bay từ căn cứ quân sự trại Phi Long, thiệt là thỏa chí tò mò của tôi, tha hồ nhìn máy bay đủ loại, chạy trên sân phi đạo, được lại gần một hàng DC3, rờ máy bay thiệt là đã. Chúng tôi gồm mấy chục cô con nít nữ Hướng Đạo thiếu đoàn Âu Cơ, và chừng bẩy tám tên con giai, một đội nam Hướng Đạo, đội Ó của Thiếu Đoàn Lê văn Duyệt, đuợc đi cắm trại ké theo đoàn nữ HĐ này tại Đà Lạt nhờ quen biết, tên đội trưởng của tôi là em của chị Trưởng Thiếu Đoàn Nữ. Đi cắm trại bằng máy bay riêng thật là le lói. Xốc ba lô lên vai, tên con nít tôi háo hức bước lên cái thang nhôm chui vào lòng máy bay, toàn là nhôm, ghế ngồi là miếng nhôm hõm xuống, lạnh ngắt, phải lót áo lạnh xuống cho khỏi lạnh cái bàn tọa.
.
Phi hành đoàn bay bởi hai phi công Mỹ, hai người phụ trong máy bay là VN. Một người Mỹ nhắc bổng một cậu lên, bỏ xuống, rồi lại nhắc một cô nhỏ lên, bỏ xuống, coi chừng nặng cỡ bao nhiêu, rồi ông ta đi đếm một vòng bao nhiêu người, tính toán sơ sơ trọng tải của máy bay.
.
Tui thì thấy rất là vui thú, ngồi trong lòng máy bay với tên bạn, hai đứa ham sưu tầm máy bay kiểu nhỏ, mê máy bay lắm nên mở to mắt ra, quan sát đủ thứ, thôi thì khi lên cao, nhìn ra các lỗ hổng nhỏ trên thân tầu, trùi trụi chỉ có khung sắt nhôm, bọc nhôm mỏng, mấy đưá ăn kẹo cao su rồi tìm lỗ hổng đút dán vào, đút mạnh ra bên ngoài thì gió bên ngoài hút mạnh bật văng mất cục cao su luôn.
.
Gần tới Đà Lạt thì mây mù mưa rơi, ảm đạm, bay quá cao, chẳng thấy gì, lắc lư, ai nấy đều mệt nhoài, bánh xe máy bay hình như lại chạm đất rung chuyển rồi lại lắc lư, cứ thế mấy đứa nhỏ cũng tựa nhau ngủ vùi. Tới lúc mở mắt ra, phi cơ chạy vào cuối phi đạo trời sáng chang chang, khô ráo, có vẻ nóng, nhìn ra ngoài thì thấy ngay mấy cái cột sắt truyền tin cao ngệu, mấy đài ra đa, đúng là căn cứ Tân Sơn Nhất rồi. Máy bay đến Đà lại đáp xuống phi trường quân sự Cam Ly, ít ra hai lần, không được, phải quay về lại Saigon. Như vậy là ngày cắm trại đầu tiên là trên DC3, bay tới khi gần hết xăng thì đáp xuống lại ... tại chỗ cũ.
.
.
Thế là mấy đứa con trai được chở vào trường tiểu học trong trại Phi Long, cắm trại qua đêm, ngủ trong phòng học, sau khi ký giấy tờ rằng Không Quân sẽ không chịu trách nhiệm nếu có tai nạn gì xẩy ra trong căn cứ quân sự, cho dù chúng tôi chưa đứa nào trên 18 tuổi hết. Lúc này nhớ tới năm 1966, tôi cũng cắm trại HĐ tại sân vận động gần đó, có chiếc Skyraider biểu diễn nhào lộn, táp đầu cột đèn cách chỗ tôi đứng gần Nguyễn cao Kỳ, bà Mai, Lưu kim Cương không xa, sau đó lao vào khu gia cư gần trường học bốc cháy, khói và hơi nóng còn đủ gần tỏa vào mặt tôi, còn nhìn thấy xe chở những người bị cháy đi. Ông phi công hình như tên là Phan Khôi … Nên phải ký giấy không thưa kiện Không Quân vì máy bay có thể rơi, bị pháo kích có thể bị bắn hỏa tiễn từ bên ngoài vào đây.
.
Ngày hôm sau, nắng lên đẹp đẽ, ra phi đạo lên máy bay cũng C47 nhưng của không đoàn VN, hai ông phi công, không cao lắm vui vẻ đùa giỡn mấy đứa con nít chúng tôi khi được hỏi tại sao không kiểm soát đếm người tính trọng tải trước khi bay như phi công Mỹ làm ngày hôm qua. Ông ta chỉ cười, Mỹ làm rồi ngày hôm qua, mấy chú ngày hôm nay trông ốm hơn hôm qua vì say máy bay nên khỏi tính lại. Máy bay cứ thế tà tà bay dọc theo quốc lộ đường lên Đà Lạt, bay thấp chứ không bay cao an toàn như hai phi công Mỹ ngày hôm qua, tha hồ ngắm cảnh qua cửa sổ nhỏ, rồi đáp xuống phi trường Liên Khương, chứ không phải Cam Ly Đà Lạt, vì thời tiết ở đây luôn trong sáng hơn ĐL mây mù sương. Đây cũng là phi trường của Air Vietnam bay lên ĐL. Từ LK phải lấy xe đi vào thĩ xã ĐL cách đó vài chục cây số.
.
Lũ con trai mấy đứa tui đi trước, hình như qúa giang xe jeep mượn đươc của mấy ông không quân VN cũng vào ĐL chơi trước khi bay về lại SG. Bỏ chúng tôi trước chợ Hoà Bình ĐL. Sau khi liên lạc với anh Trưởng quen của Đạo Lâm Viên đã hẹn trước, chúng tôi được trao chìa khóa trụ sở Đạo Quán, Đạo Lâm Viên ngay bên bờ hồ Xuân Hương để ngủ ở đó trong suốt thời gian cắm trại ở ĐL. Nhà này bây giờ vẫn còn, đối diện với nhà Thủy Tạ bên bờ hồ bên kia. Trước Đạo Quán lúc đó là sân "cù" golf. Chỉ có mấy người thuê ngựa cho du khách cưỡi chơi trên đồi này. Tụi nhóc chúng tối ngủ trong nhà trống, ban ngày dấu đồ xuống dưới lỗ trống dưới sàn nhà rồi đi chơi lung tung trong ĐL.
.
Thế là tưởng le đi cắm trại ĐL bằng máy bay nhanh lắm, té ra chuyến đi lên, mất hai ngày mới tới, còn thua xe đò, tuy nhiên đuợc cắm trại trên máy bay và trong trại Phi Long cũng rất là thích thú thỏa mãn nhiều tò mò. Còn nguyên Thiếu Đoàn nữ Âu Cơ mà chúng tôi đuợc đi theo ké, thì hình như họ cắm trại ngủ trong trường Bùi thị Xuân. Mấy đứa con trai nhỏ chúng tôi tách riêng, tự lo lấy, không ai kiểm soát.
.

Chiếu về múc nước hồ nấu cơm, nấu nước uống, dơ thiệt, miễn nấu sôi là được. Còn thì đa số đi lên chợ ăn tiệm, lúc đó tiền bạc mang theo khá dồi dào nên thích đi ăn tiệm dọc theo mấy kios đường lên dốc từ cấu lên đến đĩnh trung tâm thành phố. Có quen mấy bạn Thiếu, Hướng Đạo cùng tuổi tại ĐL (còn nhớ tên một bạn hình như tên Tuấn, nhà là tiệm may Đoàn Mừng trên đường Phan đình Phùng) nên có đi chơi chung, làm hướng dẫn viên cho chúng tôi, chỉ đường đi xe lam trong thành phố. Tuy nhiên mỗi ngày trở về Đạo Quán lại thấy mất vài món đồ nhỏ, trong ba lô, chúng tôi biết bị lục đồ ăn cắp nên mỗi khi rời nhà đều mang đồ có giá trị đi theo. Nhà Đạo Quán này còn có được xử dụng bới mấy người nài ngựa cho thuê ngựa, họ cũng để đồ tại đây, chỉ có không ngủ lại buổi tối. Thế là chúng  tôi có chương trình đối đầu với mấy tên nài ngựa ăn cắp đồ này.

.
.
Khi đến Trại Hầm, gặp mấy người Cảnh Sát Dã Chiến đi ngoài đường, một ông đến hỏi thăm, đeo lon sĩ quan, cho biết là có đi Hướng Đạo ngày xưa, đưa ru lô cho chúng tôi hỏi có thích bắn súng không? chúng tôi trả lời không, anh này móc súng ra nhắm bắn mấy bóng đèn đường. Tôi hỏi, anh đi Hướng Đạo rồi tại sao bắn phá bóng đèn đường là của chung được. Anh này trả lời, cột đèn dây điện đứt hết trơn rồi, bóng dèn cũng hư, nên bắn chơi. Thật là hết ý kiến. Anh ta thân mật làm quen, còn rủ mấy đứa uống nước, và dò hỏi chúng tôi chắc là con ông cháu cha vì được đi cắm trại bằng máy bay lận. Trả lời là đi ké với mấy cô nữ HĐ vì máy bay còn trống nhiều chỗ, có thể mấy cô nữ HĐ là con ông cháu cha thiệt.
.
.
Tự dưng nẩy ý nhờ anh sĩ quan CSDC này dậy cho mấy tên nài ngựa một bài học, nên nói nhờ anh đến dậy cho mấy người nài ngựa ăn cắp đồ của chúng tôi bài học. Vậy là qua ngày hôm sau, trưa chúng tôi sẽ rời ĐL ra Liên Khương, sẽ đi thăm thác U GHA và chờ máy bay lên ngày hôm sau đón về SG. Trưa đó anh sĩ quan tự xưng là cựu HĐ này dẫn hai ba đệ tử ra gặp chúng tôi trước sân Cù nơi mấy nài ngựa to lớn đang cho thuê ngựa. mấy anh CSDC, lùa hết mấy tay du đãng nài ngựa lại hỏi tại sao ăn cắp đồ của mấy đứa nhỏ chúng tôi, anh này móc súng ru lô ra làm mấy nài ngựa sợ quá chừng, bạt tai đánh mấy nài ngựa, lột áo lạnh bluson , lột nón làm chiến lợi phẩm, anh ta bắt mấy người này xin lỗi chúng tôi, rồi đuổi đi, còn nói, lần sau đừng để tao thấy mặt, bắn chết hết à nha. Rồi cùng mấy đưá nhỏ đòi đeo ba lô dùm, đi bộ ra bến xe ĐL sau chợ, từ gĩa chúng tôi lên xe ra phi trường Liên Khương, còn mua ít qùa bánh cho mang theo nữa. Thiệt là ưu ái. Không hiểu vì sao anh ta thích bọn nhỏ chúng tôi đến như vậy. Chỉ không thích khi anh này móc ru lô ra bắn bóng đèn đường ở trại hầm biểu diễn, không đúng tư cách HĐ một chút nào, theo cảm nghĩ của chúng tôi lúc đó, nhưng sau này thấy những cái bẩn thỉu của Trưởng HĐ khác, thì thấy anh ta bắn bóng đèn đường hư rồi là chuyện hổng có gì !!! .
.
.

.
Phi đạo Tân sơn Nhất, 1966.

.
.
Tà tà ra Liên Khương, mấy người lính đóng ở phi trường còn nhớ mặt lúc đáp máy bay xuống mấy ngày trước. Xin vô cắm trại trong phi trường, rồi mấy đứa kéo nhau tìm đường đi ra thác Gougha, không nhớ tên cách viết ra sau nữa ..
.
Đi hỏi ông Trung đội trưởng Nghĩa quân là ra thác cắm trại gần đó có gì mất an ninh hay nguy hiễm không? . Ông ta dẫn cả lũ ra chỗ thác chơi, chỉ nơi cắm trại được, chỉ qua mái nhà gần đó, nói đừng có lạng quạng vào đó nhe. Tụi tui hỏi sau vậy, ông ta cười: mấy cái nhà đó là động chơi bời, mấy chú còn nhỏ quá chưa được vào. sau này đọc hồi ký mấy ông bạn của Trịnh công Sơn, dậy học ở Bảo Lộc, Blao, hay lên chỗ đó chơi bời cùng với TCS, cũng khoảng năm đó 1967.
.
Ông sĩ quan này còn hẹn, nếu muốn, tối nay theo mấy ông đó đi săn, ông ta sẽ đến vào buổi tối. Đến tối, mang đèn đeo trên trán và súng carbine, dẫn mẫy đứa đi săn, chỉ cách đeo đèn, rọi coi mắt thú, mắt bò, trâu là mầu xanh, đừng bắn bậy, mắt thú rừng là mầu đỏ, coi phản chiếu lại, nhắm vào gìữa hai đốm đỏ của mắt mà bắn. Đi lung tung cả tiếng, chẳng thấy cặp mắt đỏ nào, nên tụi tui bỏ về đi ngủ, mặc cho mấy ông lính đi săn tiếp.
.
Sáng ngày ra, lội bộ vào phi trường, chơi đá banh trên phi đạo, cho tới khi bị lính ra biểu thôi vì máy bay sắp đáp xuống. Thiếu đoàn nữ Âu Cơ cũng đi xe đò từ Đà lạt xuống buổi sáng. Chiếc C47 hay Dakota, bay lên đón, nhưng mấy ông phi công VN muốn vô Đà lạt chơi vài tiếng, nên tụi tui lại tà tà cắm trại trong phi trường tiếp cho qua trưa thì bay về Saigon. Xuống phi trường căn cứ trại Phi Long .. nơi đến và đi của bao nhiêu người trong cuộc chiến tranh VN, có tên Hướng Đạo con quẩy ba lô đi ra cổng trại Phi Long, ngay Lăng Cha Cả, đón xe lam đi về nhà .. nay chỗ cổng trại không còn nữa, chỉ còn trong kỷ niệm một thời dĩ vãng nào đó.
.

.
.

zkt-yersin-1971-2.jpg
.
.
Những năm sau có lên Đà Lạt vài lần, có lần làm negre construction 5, cồng Xanh cho anh Đinh tấn Đệ KT65, đãi negre, vợ chồng anh cũng dẫn tôi lên ĐL chơi.
.
Qua năm 71, hình như gần cuối năm, sau khi vừa nộp bài cấp hai đầu tiên xong, là ngày sáng hôm sau qua Viện Đại Học SG, chờ xe đi lên họp mặt Sinh Viên Liên Viện Đại Học ở Đà Lạt. Lúc đó hãy còn buồn ngủ, vì tối qua ngủ chưa đủ, gật gù chờ xe. Mấy trường phân khoa khác dành chỗ chen lấn lên xe trước, vẫn không đủ xe. SV KT cứ tà tà chờ đợi không thèm chen lấn, ban tổ chức không thể bỏ chúng tôi lại vì không lo đủ xe, như vậy là tổ chức qúa dở vì đã ghi tên tham dự từ trước, tụi tui mà ở lại SG vì thiếu xe là btc sẽ bị chửi. Họ phải kêu thêm xe mới, cuối cùng thì chúng tôi lên chuyến xe chót, lại rộng rãi vì dư chỗ ngồi, tha hồ ngủ gà ngủ gật.
.
.
Đến Đà Lạt thì cuối buổi chiếu rồi, tới bữa ăn tối, ban tổ chức tại trường Yersin lại lúng túng nấu ăn không kịp, không đủ đồ ăn, các phân khoa khác lại tranh dành chen lấn đòi ăn trước, btc phải chia bớt đồ ăn ra. Còn trường KT cứ tà tà ngồi vòng ngoài không thèm chen lấn vô ăn, nếu họ không còn đồ ăn, thì chúng tôi sẽ đi ăn chỗ khác, hay đi mua đồ ăn về, trong đoàn, có anh Lê minh Châu KT71, con thầy Lắm, lái xe La Dalat riêng từ SG lên, nên chúng tôi coi như có xe riêng. Sẽ làm mất mặt btc. Cuối cùng ban tổ chức không thể bỏ đói chúng tôi, họ đi mua thêm đồ ăn về nấu tiếp, lại dư đồ ăn, mỗi người được nửa con gà, thay vì tranh dành nhau, chỉ được vài miếng thịt gà như các phân khoa khác. Chỉ có điều phải ăn trễ thôi. Tuy nhiên vì còn ít người nên lại được lo cho ăn chu đáo hơn vì rộng chỗ, và được cảm tình mấy người lo chuyện nấu ăn vì chúng tôi không hề than phiền hay chen lấn.
.

.

.
zkt-dalat71.jpg
.
Trong hai hình, kể tên ra, không theo thứ tự và sẽ không nhớ hết tên mọi người: Lý bửu Lâm, Trần nguyên Đôn, Nguyễn thanh Cần, Dương minh Mẫn, Dương mạnh Tiến, Vương thị hoàng Oanh, Nguyễn thị Năng, Nguyễn thị Hải, Diệp ngọc Tiếp, Nguyễn ngọc Thắng, Nguyễn văn Thảo, Trần anh Tuấn, Phan Liêu, Trần ngọc Lâm, Nguyễn thanh Sơn, Mai thế Sơn, Nguyễn chí Thành, Mai, Trần văn Tiếu, Lê minh Châu ...
.
.
Cuộc họp mặt cũng vui và thích thú, được đi thăm trường Võ Bị Quốc Gia Đa Lat, thăm phòng thí nghiệm khoa học mới xây với sân patio trải đá to trắng. Có đòan SV đâu từ Huế vô, lúc đó có hai vợ chồng ông Tướng ở vùng 2 bị rớt trực thăng tử nạn, có một anh SV vùng này, say sưa, hay gỉa bộ say gì đó lên cơn đập bể cái đàn guitar của Phan Liêu KT. Sau thì PL cho biết đã gặp họ sau và đòi được tiền bổi thường cho cái đàn ngắn số này.
.
Ngòai ra, không hiểu sau bây giờ tôi vẫn còn nhớ chuyện anh Lý bửu Lâm KT64, anh ta ngủ gần tôi. Tôi đóng hộp carton nhỏ, trong đó có mận và dâu mua về làm qùa cho gia đình, anh Lâm thấy cái hộp gọn gàng, tối ngủ, anh lấy thùng giấy đó của tôi ra gối đầu ngủ, làm dập mận và dâu bên trong thùng.
.
.
Lần đó là như vậy, Kiến Trúc đi thu nhặt những vật ngòai đường phần đông là vật thải vứt bỏ, thu nhặt cây cối chung quanh, trải poncho ra, cột chặt, đổ nước pha mầu vào làm patio triển lãm với hồ nước trong xanh đó, lạ lùng và không giống phần triển lãm của các phân khoa, Viện Đại Học khác..
.
.
Giờ thì hình còn đó, nhưng cũng tới ba anh chị đã đi xa lắm, qua bên kia đời rồi.
.
.
.

z-yersin-dalat.jpg
.
Trường Yersin và toản cảnh Đà lạt nhìn từ trên cao vào năm 1968. Lúc họp Liên Viện Sinh Viên ở tại đây 1971, thì Nguyễn hồng Phúc KT72, Nguyễn ngọc Trai KT72 đang học nội trú  trung học Yersin tại đây, Trần công Hòa (Hòa đen)  KT73, cũng lớn lên học ở ĐL, và bây giờ cũng đang làm việc và cư ngụ tại đây.
.
.
.

.
.
Năm 2007, tôi trở lại ĐL, đi bộ một vòng hồ Xuân Hương, đi qua Đạo Quán HD Lâm Viên vẫn còn đó, ngước nhìn tháp cao của trường Yersin rọi bóng xuống hồ. Đà Lạt bây giờ không đẹp như ngày xưa, có cái gì hỗn độn ngập kín trong đó.
.
.
Võ thành Lân KT70, có một trang trại dưới Bảo Lộc 20 cây số, Tôi làm người rừng ở đây ít tuần, thong thả vác rựa đi chặt cây bên giòng suối Lu Đu, tính yêu nhau giữa đám rong rêu bên giòng nước cuốn lêu bêu như lời nhạc của Lê Uyên-Phương, nhưng thấy nước có vẻ bị ô nhiễm, nhiếu chất dơ trong đó, nên thôi... chỉ yêu nhau gần đó thôi.
.
Những ngày dài nghỉ ngơi thanh thản, đưa tôi vào rừng, chui vào hang, thấy rắn ... đầu óc thanh thản, đi lần lại những kỷ niệm xưa, ghi lại bằng cảm nghĩ và nét vẽ, có những gì của Đà Lạt và núi rừng trong đó ... .
.
.
z-td-dalat-pcenter.jpg
.
.
Đà lạt, qua hơn 50 năm rồi, những lần đến ... rồi đi ... ghi lại xúc động bằng những nét vẽ kiến trúc.
.

.
.
.

.
.
Một mai ta về làm tên tiều phu già bên rặng núi ... nhưng già rồi chắc vung tay rìu lên không nổi nữa ... cành củi khô nhe răng ra chê cuời thôi, thành ra, ta sẽ mở một quán rừng, bán thịt ... thịt khỉ ... ôi từ ngày khỉ rừng về thành phố ...
.
.

.
.
zkt-vtlankt70.jpg

Xem triển lãm tranh KTS. Cổ Văn Hậu – không thể bỏ qua !!!

16.04.2010 — Minh Bò
 



Các bạn thân mến!
Sự tương thân tương ái, tinh thần đoàn kết trong toàn xã hội là những điều kiện cần thiết để đất nước chúng ta ngày càng phát triển. Nay tại Tp. HCM, KTS. Thầy Cổ Văn Hậu đã lập nên Quỹ từ thiện (giúp trẻ em nghèo cơ nhỡ và trẻ em bị nhũn não), và Quỹ tương trợ Kiến trúc … thông qua cuộc triển lãm tranh do Hội KTS.TP bảo trợ, từ số tiền bán 77 bức tranh do chính thầy thực hiện nhân Sinh nhật lần thứ 77 của mình.
(Xem tranh tại đây!)
Xin gởi đến mọi người “Thư Ngỏ” của BTC triển lãm tranh của thầy Cổ Văn Hậu do anh Minh Bò đại diện, và chương trình “Profile về thầy Hậu bằng hình ảnh” của CLB Nhiếp ảnh Hội KTS Tp. HCM …
T H Ư N G Ỏ
Thân gửi các anh chị em Kiến gần và Kiến xa, Kiến bạn bè và bạn bè Kiến,
Chúng ta, những người đã có những năm tháng học tập nhiều kỷ niệm tại trường Đại Học Kiến Trúc Saigon (nay là ĐH Kiến Trúc TPHCM), hầu hết đều không xa lạ KTS Cổ Văn Hậu, người giáo sư có thời gian giảng dạy lâu nhất tại trường kiến trúc – 42 năm – người thầy của nhiều thế hệ KTS. Ngoài chuyên môn kiến trúc, anh Hậu còn đam mê ở nhiều lĩnh vực khác như nhiếp ảnh, máy bay điều khiển từ xa, đàn piano và guitar, tennis và đặc biệt là hội họa với nhiều tác phẩm đẹp, rất Kiến…
Năm nay anh Hậu đã hơn cái tuổi thất thập cổ lai hy, có mong ước là được một lần trong đời triển lãm các tác phẩm hội họa của mình. Tranh bán được sẽ dành cho quỹ từ thiện.
Anh Hậu có ý định sẽ chia quỹ làm 4 phần: Một phần giúp các bệnh nhân nghèo trong bệnh viện, một phần giúp các trẻ em nghèo bị nhũn não, một phần trao cho hiền thê giúp những người cơ nhỡ, và phần còn lại dành cho Quỹ Tương Trợ Kiến Trúc.
Ước nguyện quá hay nhưng điều kiện thực hiện của anh Hậu có hạn nên chúng tôi, nhóm Kiến Trúc Sư nhiều thế hệ, gồm có KT đồng môn, KT đàn em, và KT học trò, đã đồng lòng kêu gọi tất cả anh chị em Kiến cùng chung tay đóng góp giúp anh Hậu thực hiện ý nguyện này. Sau khi được sự chấp thuận của anh Hậu, chúng tôi quyết định thành lập Ban Tổ Chức Triển Lãm Tranh của KTS Cổ Văn Hậu. Dự kiến cuộc triển lãm sẽ được tổ chức tại Sài Gòn vào tháng 6/2010.

Thành phần BAN TỔ CHỨC:
KTS Trần Quang Minh (Minh Bò)-K65
KTS Nguyễn Tiên Quang – K66
KTS Dương Hồng Hiến – K76
KTS Trần Minh Tâm – K78
KTS Lê Cẩm Thùy – K79
KTS Trần Khánh Trung – K80
KTS Nguyễn Phước Thiện – K82
KTS Nguyễn Xuân Thao – K90
Cùng một số KTS khác…
Có lẽ đây là lần đầu tiên chúng ta có dịp chung tay giúp anh Hậu thực hiện ý nguyện của mình. Cũng là dịp chúng ta có thể đền đáp một phần nhỏ công ơn của thầy Hậu đã dày công truyền nghề cho các thế hệ KTS bao năm qua. Những đóng góp của các anh chị em, của các bạn Kiến sẽ là những viên gạch xây nên tình nghĩa đồng môn Kiến Trúc thắm thiết, tình thầy trò sâu đậm, góp phần củng cố truyền thống gắn kết các thế hệ trước và sau của Kiến (Nègre – Patron).
Thay mặt Ban Tổ Chức.
KTS. TRẦN QUANG MINH K65

Lưu ý: các anh chị em và các bạn có ý định giúp thầy Hậu có thể chuyển đóng góp của mình đến một trong các địa chỉ dưới đây trước ngày 30/5/2010 theo nhiều cách: chuyển khoản qua ngân hàng hoặc gởi đến địa chỉ người nhận. Nếu trong phạm vi nội thành TPHCM có thể điện thoại hoặc email, sẽ có người đến tận nơi nhận.
KTS. LÊ CẨM THÙY K79
CMND: 020774671
Địa chỉ: 233/25 cx Lữ Gia, Lý Thường Kiệt, Q11, TPHCM
DTDD: (84) 903 721 731
Email: camthuy6@gmail.com
Tài khoản ngân hàng BIDV: 1400000058595
(Ngân hàng Đầu Tư Phát Triển – chi nhánh Phú Lâm)
KTS. TRẦN KHÁNH TRUNG K80
CMND: 020466468
Địa chỉ: 36 Lý Tự Trọng Q1 TPHCM
DTDD: (84) 903 706 406
Email: trung@tttcomapny.com
Tài khoản ngân hàng HSBC: 001-584424-041
Các anh chị em ở Mỹ có thể gởi check cho bạn Cao Anh Thư K80
theo địa chỉ bên dưới (bạn Thư sẽ nhận và chuyển lại cho BTC)
KTS. THU CAO
Add: 12230 Branston Drive, Austin, TX 78753
Phone: 512 – 833 5062,
Email: thucao40@yahoo.com





Cac Ban Hoi vien CLB Nhiep anh & rộng rãi các bạn KTS đang cầm máy ảnh :
Trong tháng 6/2010 Hội sẽ bảo trợ một cuộc triển lãm Tranh của Kiến Thầy, Kiến Đàn – anh Cổ Văn Hậu, 1 KTS đa tài, rất gần gũi học-trò-đàn-em, nhân dịp sinh nhật lần thứ 77 của anh. Sự kiện này là 1 ý nguyện của anh, muốn sẽ giới thiệu 77 bức tranh của anh sáng tác trong những năm gần đây, chào bán lấy tòan bộ tiền làm từ thiện. Trong dịp này CLB Nh/Anh sẽ kết hợp với BTC sự kiện này, làm 1 profile về A.Hậu bằng hình ảnh
Profile ảnh này tất nhiên sẽ trưng bày trong triển lãm của A.Hậu.
Mời tất cả Các Bạn tham gia 1 buổi săn ảnh A.Hậu :
- địa điểm: nhà A.Hậu, 64/19 Lê Quang Định, Bình Thạnh (gần chợ Bà Chiểu)
- chương trình : từ 9:00 đến 17:00 ngày Chủ nhật 18/4/2010, buổi trưa offline ở Quán Cò Lả gần đó, chi phí chia đều.
- bình ảnh, chọn ảnh : trong sinh họat “CLB Nh/Ảnh sáng thứ 7″, 9:00 AM, 25/4/2010, tại VP Hội.
Lưu ý : 
- cái nhà A. Hậu chắc chỉ chứa nổi max # 15 tay “súng” đến quậy săn hình, cho nên đề nghị các bạn đăng ký trước (mail về: quangnt17@yahoo.com), ưu tiên cho người đăng ký trước.
- cái hẻm & trước nhà chắc chỉ chứa nổi max #10 cái xe gắn máy, cho nên chỉ ưu tiên cho bạn nào tới trước, những bạn đến sau, tha hồ gởi xe ở Chợ Bà Chiểu rồi lội bộ lại (gần thôi mà !, # < 100m)
- thức uống trong khi hành nghề: ai ủng hộ cái gì hoan nghênh cái đó (đồ uống càng xịn, càng cay càng tốt) (tất nhiên nhà A.Hậu có tủ lạnh, nên sẽ có nước đá).
Đặc biệt: BTC kêu gọi Các Bạn ai có hình ảnh, tư liệu gì về A.Hậu xin cho BTC mượn. Rất hậu tạ.
(Xem tranh trong bộ sưu tập tại đây!)

Nhận xét

Đăng nhận xét