Chuyển đến nội dung chính

Lăng tẩm triều Nguyễn

 http://www.vietcaravan.com/forum/showthread.php?5593-K%E1%BB%B3-%C4%90%C3%A0i
143 NĂM VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN (1802-1945)
(13 đời Vua của Việt Nam)

Triều Nguyễn - triều đại Phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt hơn 143 năm (1802-1845) với 13 đời vua Nguyễn. Thông thường các vua Nguyễn sau khi mất, bài vị được đưa vào thờ tại Thế Miếu, có Miếu hiệu ứng với tên của các đỉnh đồng đúc dưới thời Minh Mạng (1835), trừ các vua bị phế truất và các vua bị Pháp đày ra khỏi nước. Riêng vua Dục Đức (phế đế) có Miếu hiệu Cung Tôn Huệ Hoàng đế là do con trai là vua Thành Thái truy phong, nhưng bài vị không được đưa vào thờ tại Thế Miếu. Các vị vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân vào năm 1959 đã được Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc làm lễ và đưa bài vị vào thờ tại Thế Miếu.
Dưới đây là những ghi chép vắn tắt về 13 vua Nguyễn:

1.Vua Gia Long (1802-1819)*


Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh (Anh), ngoài ra còn có tên là Chủng và Noãn, con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và bà Nguyễn Thị Hoàn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (8-2-1762).
Năm 1775, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân khiến Nguyễn Phúc Ánh phải trốn vào Nam. Từ đó ông bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực lượng để giành lại vương quyền cho họ Nguyễn.
Năm 1792, vua Quang Trung mất, quân Tây Sơn ngày càng yếu và quân Nguyễn ngày càng lớn mạnh. Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận Hóa.
Ngày 1-2-1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam .
Gia Long làm vua được 18 năm (1802-1819), mất vào ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Gia Long được đưa vào thờ ở Thế Miếu và có Miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng đế.
Vua Gia Long có 31 người con (13 con trai và 18 con gái)

2. Vua Minh Mạng (1820-1840)


Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên là Kiểu, con thứ 4 của vua Gia Long và bà Nguyễn Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu). Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi (25-5-1871) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định.
Vua Minh Mạng lên ngôi vào tháng Giêng năm Canh Thìn (1820), làm vua được 21 năm (1820-1840). Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã có nhiều cải cách quan trọng: cho bỏ các dinh và trấn mà thành lập các tỉnh (cả nước được chia làm 31 tỉnh); định lại quan chế, đặt mức lương bổng của các quan tùy theo ngạch trật; thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục; khuyến khích dân khai hoang lập ấp, sửa sang hệ thống giao thông, lập nhà Dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật, già cả không nơi nương tựa...
Đề cao Nho học và khuyến khích nhân tài ra giúp nước là một trong những việc rất được vua Minh Mạng chú trọng. Nhà vua cho lập Quốc Tử Giám, mở thêm kỳ thi Hội và thi Đình (thời Gia Long chỉ có thi Hương).
Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy vào năm 1838, vua Minh Mạng cho đổi tên nước ta là Đại Nam.
Vua Minh Mạng mất ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (20-1-1841), hưởng thọ được 50 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Minh Mạng được đưa vào thờ ở Thế Miếu với Miếu hiệu Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.
Vua Minh Mạng có 142 người con (74 con trai, 68 con gái)

3. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
Vua Thiệu Trị có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hoa (Tá Thiên Nhân Hoàng hậu), sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16-6-1807) tại ấp Xuân Lộc, phía Đông Kinh Thành Huế.
Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11-2-1841), làm vua được 7 năm (1841-1847), mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (4-10-1847), hưởng thọ 41 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Hiến Tổ Chương Hoàng đế.
Vua Thiệu Trị có 64 người con (29 trai, 35 gái).

4. Vua Tự Đức (1848-1883)

Vua Tự Đức có tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, ngoài ra còn có tên là Thì. Ông là con thứ 2 của vua Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng (Hoàng hậu Từ Dũ), sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (22-9-1829).
Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), làm vua được 36 năm (1847-1883), mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (19-7-1883), hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Dực Tông Anh Hoàng đế.
Vua Tự Đức không con, ông nhận 3 người cháu gọi bằng chú làm con nuôi là: Nguyễn Phúc Ưng Chân (sau này là vua Dục Đức); Nguyễn Phúc Ưng Đường (sau này là vua Đồng Khánh); Nguyễn Phúc Ưng Đăng (sau này là vua Kiến Phúc).

5. Vua Dục Đức (1883, 3 ngày)
Vua Dục Đức tên là Nguyễn Phúc Ưng Ái, là con thứ 2 của Thụy Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (11-2-1853). Năm 1869, lúc 17 tuổi được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và đổi tên là Ưng Chân, cho xây Dục Đức Đường để ở và giao cho Hoàng Quý Phi Vũ Thị Duyên (sau này là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu) trông coi, dạy bảo.
Vua Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, nhưng trong di chiếu có đoạn viết: “... Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây.”
Lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt đoạn này nên 3 ngày sau hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã phế bỏ Dục Đức theo lệnh của Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu (mẹ vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (vợ vua Tự Đức).
Làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu (Dục Đức chỉ là tên gọi nơi ở) thì Ưng Chân đã bị phế bỏ và giam vào ngục cho đến khi mất. Ông mất ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (24-10-1884), thọ 32 tuổi.
Đến thời vua Thành Thái (con vua Dục Đức) vào năm 1892 đã truy tôn cha mình là Cung Tôn Huệ Hoàng đế.
Vua Dục Đức có 19 con (11 con trai và 8 con gái).

6. Vua Hiệp Hòa (1883, 4 tháng).
Vua Hiệp Hòa tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Thăng, con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận, sinh ngày 24 tháng 9 năm Đinh Mùi (1-1-1847).
Vua Dục Đức bị phế bỏ, Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7 năm 1883, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
Do có ý thân Pháp, vua Hiệp Hòa lên ngôi chưa được bao lâu thì bị triều đình Huế phế bỏ và buộc uống thuốc độc tự vẫn vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29-11-1883).
Dưới thời Thành Thái vào năm 1891, ông được truy phong là Văn Lãng Quận vương.
Vua Hiệp Hòa có 17 người con (11 trai, 6 gái).

7. Vua Kiến Phúc (1883-1884)
Vua Kiến Phúc tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con thứ 3 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Ưng Đăng sinh ngày 2 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12-2-1869). Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo.
Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2-12-1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-1884) lúc mới 16 tuổi.
Sau khi mất, bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng đế.

8. Vua Hàm Nghi (1884-1885)*

Vua Hàm Nghi tên là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Minh. Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (3-8-1871).
Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân (2-8-1884) Ưng Lịch được đưa lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi lúc mới 14 tuổi.
Binh biến năm Ất Dậu (5-7-1885) xảy ra, vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở, phát hịch Cần Vương, phát động phong trào kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi nhà vua quay về nhưng thất bại. Ngày 30 tháng 10 năm 1888, tên Trương Quang Ngọc (người hầu của vua) bị Pháp mua chuộc nên đem người bắt vua Hàm Nghi dâng cho Pháp.
Vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt đi đày ở Algérie vào ngày 13 tháng 1 năm 1889. Nhà vua sống ở đó cho đến lúc mất (4-1-1943), thọ 72 tuổi.
Vua Hàm Nghi có 3 người con (1 trai, 2 gái).

9. Vua Đồng Khánh (1886-1888)

Vua Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Thị, còn có tên là Đường và Biện. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, sinh ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (19-2-1864). Năm 1865 lúc được 2 tuổi, Ưng Thị được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.
Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân Sở, triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Ở ngôi được 3 năm, vua Đồng Khánh bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889) lúc được 25 tuổi.
Sau khi mất, bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế.
Vua Đồng Khánh có 10 người con (6 trai, 4 gái).

10.Vua Thành Thái (1889-1907)

Vua Thành Thái tên là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Chiêu, con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu), sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão (14-3-1879).
Vua Đồng Khánh mất, triều đình Huế được sự đồng ý của Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm 1889 với niên hiệu là Thành Thái, lúc mới 10 tuổi.
Vua Thành Thái là người có tư tưởng tiến bộ (cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có tư tưởng chống Pháp. Vì vậy, sau 19 năm ở ngôi, dưới áp lực của Pháp, triều đình Huế lấy cớ nhà vua mắc bệnh tâm thần và buộc phải thoái vị. Sau đó, ông bị Pháp đưa đi an trí ở Vũng Tàu. Năm 1916, ông bị Pháp đem đi đày ở đảo Réunion (Châu Phi).
Năm 1947, ông được trở về sống ở Sài Gòn cho đến khi mất. Ông mất ngày 9 tháng 3 năm 1955, thọ 77 tuổi.
Vua Thành Thái có 45 người con (19 trai, 26 gái).

11. Vua Duy Tân (1907-1916)

Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San, còn có tên là Hoảng, con thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định, sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19-9-1900).
Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị, triều đình Huế đưa Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới được 8 tuổi.
Vua Duy Tân là vị vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong 13 vua Nguyễn. Tuy nhiên nhà vua lại là người chững chạc, có khí phách của một bậc đế vương. Cũng như cha mình, vua Duy Tân là người có tư tưởng chống Pháp. Nhà vua đã cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân... vạch định cuộc nổi dậy chống Pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Nhưng âm mưu bại lộ, nhà vua cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân trốn ra khỏi Kinh Thành. 3 ngày sau, vua Duy Tân bị Pháp bắt và bị kết tội rồi đày sang đảo Réunion.
Nhà vua mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (25-12-1945) trong một tai nạn máy bay khi được 46 tuổi. Nhà vua được an táng tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo M’Baiki, thuộc Cộng Hòa Trung Phi. Ngày 6 tháng 4 năm 1987, nhà vua được cải táng trong khuôn viên của An Lăng (Lăng Dục Đức).
Vua Duy Tân có 5 người con (3 trai, 2 gái)

12. Vua Khải Định (1916-1925)

Vua Khải Định tên là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục (Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu), sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu (8-10-1885).
Vua Đồng Khánh mất, Hoàng tử Bửu Đảo còn ít tuổi (4 tuổi) nên không được chọn làm vua. Đến năm 1916, sau khi vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở Réunion, triều đình Huế và người Pháp mới lập Bửu Đảo lên ngôi vua vào ngày 18-5-1916, lấy niên hiệu là Khải Định.
Vua Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu (6-11-1925), thọ 41 tuổi.
Sau khi chết, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế.
Vua Khải Định chỉ có một con trai là Hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại).

13. Vua Bảo Đại (1926-1945)

Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, ngoài ra còn có tên là Thiển. Ông là con độc nhất của vua Khải Định và bà Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung), sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu (22-10-1913).
Hoàng tử Vĩnh Thụy được đưa sang Pháp học lúc mới 10 tuổi, đến khi vua Khải Định qua đời, ông về Huế lên ngôi vua vào ngày 8 tháng 1 năm 1926, lấy niên hiệu Bảo Đại, đây là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Sau đó, ông lại tiếp tục sang Pháp học cho đến 8-9-1932 mới trở về Huế.
Vua Bảo Đại ở ngôi cho đến 30 tháng 8 năm 1945 thì làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn, giao chính quyền lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Chế độ phong kiến chấm dứt, Bảo Đại sang Pháp và sống hết cuộc đời của vị vua lưu vong ở đó. Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại Pháp.
Vua Bảo Đại có 5 người con (2 trai, 3 gái).Còn tiếp
Thời phong kiến , dân thường ai lỡ thấy mặt vua là cũng có thể mất đầu như chơi , nhưng người Pháp rất thích các bưu thiếp hình vua chúa AnNam , các ông vua thời đó cũng nỗi tiếng không kém các diễn viên điện ảnh cùng thời của Pháp .
Chính vì thế nên hôm nay chúng ta mới có cơ hội nhìn mặt vua mà không sợ bị mất đầu .


1. Gia Long ( 1762 - 1820 )
Giai đoạn trị vì : 1802 - 1820

Vua Gia Long người thành lập triều đại nhà Nguyễn .

2. Minh Mạng ( 1791 -1840 )
Giai đoạn trị vì : 1820 -1840

Vua Minh Mạng với thương hiệu nỗi tiếng Minh Mạng Thang

Ấn rồng của triều đình .


Tổng thể lăng Minh mạng .

3.Thiệu Trị ( 1807 - 1847 )
giai đoạn trị vì : 1841 -1847
(chưa tìm ra ảnh)

4. Tự Đức ( 1829 - 1883 )
Giai đoạn trị vì : 1847 - 1883


Vua Tự Đức si tình : Đập cổ kính ra tìm lấy bóng , xếp tàn y lại để dành hơi .

5. Dục Đức ( 1853-1883)
Giai đoạn trị vì : 1883, làm vua được 3 ngày
( chưa tìm ra ảnh )
6. Hiệp Hòa ( 1847-1883)
Giai đoạn trị vì : 1883 ,làm vua 4 tháng
( chưa tìm ra ảnh )
7. Kiến Phúc ( 1869 - 1884)
giai đoạn trị vì : 1884 , làm vua được 6 tháng .
(chưa tìm ra ảnh )

8. Hàm nghi ( 1871 -1943 )
Giai đoạn trị vì : 1844 - 1845

Năm 1889 lúc vừa tròn 18 tuổi Vua Hàm Nghi bị đày qua ALgerie

Làm lại cuộc đời bằng đám cưới với 1 bà đầm người Pháp .


Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)


Dân chúng chờ đợi xe đám cưới




9. Đồng Khánh ( 1864 - 1889 )
giai đoạn trị vì : 1885 - 1889

10. Thành Thái ( 1879 - 1954)
Gia đoạn trị vì : 1889 - 1907

Vua Thành Thái mặc triều phục .



Hoàng hậu Từ Minh, thân mẫu cựu hoàng Thành Thái


Bà Ðoàn Thị Châu, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái


Từ trái sang phải, 3 hoàng tử: Bửu Lũy, Bửu Trang và Bửu Liêm. Các em của Vua Thành Thái (1891)


Các anh em của vua Thành Thái và các ông thầy (phụ đạo)


2 thứ phi của vua Thành Thái


cựu hoàng Thành Thái về thăm Huế lần cuối , năm 1953


Bảo Đại đến thăm cựu hoàng Thành Thái tại Sài Gòn năm 1953

11. Duy Tân ( 1900-1945)
Giai đoạn trị vì : 1907 - 1916

lên ngôi năm 7 tuổi


Bà Nguyễn Thị Ðịnh, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái, mẹ của vua Duy Tân


Bà vương phi Mai Thị Vàng, một trong những thứ phi của vua Duy Tân (năm 72 tuổi




Vua Duy Tân cùng các anh chị em .


Vua duy tân năm 30 tuổi .

12. Khải Định ( 1885 - 19330
Giai đoạn trị vì ; 1916 - 1925

Đây là ông vua diêm dúa nhất trong lịch sử , và ngay trong cách xây dựng lăng Khải Định cũng y như cách ăn mặc nửa tây nửa ta này .





Vua Khải Định và thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo đại sau này ) tại Paris năm 1922



Bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, vợ của vua Khải Định (theo ông Nguyễn Duy Chính ở VN)

13. Bảo Đại ( 1913 - 1997 )
Giai đoạn trị vì : 1925 - 1945

Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Ðại trong tương lai)


Thái tử Vĩnh Thụy (1925)

Vua Bảo Ðại







Chiếc ấn Hoàng Đế Chi Bửu .





Hoàng hậu Nam Phương đẹp nghiêng nước nghiêng thành .


cùng hoàng hậu Nam Phương trong âu phục .


Hoàng tử Bảo Long con Bảo Đại .


Bảo Đại tại Pháp năm 1995 .



Những hình ảnh này được thu thập qua các bưu ảnh xưa và tài liệu lưu trữ mà phần lớn là từ các thư viện dữ liệu thuộc địa của Pháp . Những tấm ảnh này như 1 cỗ máy thời gian đưa chúng ta ngược dòng lịch sử , nó không có bản quyền tức không thuộc về 1 cá nhân nào , nó thuộc về tất cả các bạn , về lịch sử loài người . (còn tiếp)
Lăng Gia Long - còn gọi là Thiên Thọ Lăng , Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này.Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Từ bờ sông Hương đi vào lăng có con đường rộng hai bên trồng thông và sầu đông cao vút, xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm ở ngoài cùng báo hiệu khu vực lăng.



Với chu vi lên đến 11.234,40 m; Thiên Thọ Lăng gồm những lăng sau:
  • Lăng Quang Hưng của bà Thái Tông Hiếu Triết Hoàng hậu, vợ thứ hai của Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620-1687).
  • Lăng Vĩnh Mậu của bà Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng hậu, vợ Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (1650-1725).
  • Lăng Trường Phong của Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chú (1697-1738).
  • Lăng Thoại Thánh của bà Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng hậu (1738-1811), vợ thứ hai của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và là thân mẫu của vua Gia Long.
  • Lăng Hoàng Cô của Thái Trưởng Công chúa Long Thành, chị ruột vua Gia Long.
  • Lăng Thiên Thọ của vua Gia Long và vợ ông.
  • Lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ vua Minh Mạng.
  • Toàn bộ khu lăng là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Ðại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất. Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Ðại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm, bên trái và bên phải có 14 ngọn núi là tả thanh long và hữu bạch hổ. Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:
  • Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi.
  • Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất
  • Bên trái khu lăng là Bi Ðình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia Thánh đức thần công của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
  • Lăng Gia Long là một bức tranh tuyệt tác về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc. Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn yên nghỉ trong một không gian tĩnh lặng và đầy chất thơ.
  • Khu Lăng Tẩm
  • Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14 ngọn núi là “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”. Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:
  • Khu Lăng Mộ
  • Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi. Bên trong Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” - một hình ảnh đẹp của hạnh phúc và thủy chung.
  • Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành là trung tâm. Điện Minh Thành được dùng để thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Minh Thành nghĩa là “sự hoàn thiện rực rỡ”. Cũng có một cách giải thích khác là “hoàn thành vào ngày mai”, bởi người ta cho rằng: “Sườn của điện này chưa có sơn son thếp vàng và chạm khắc còn đơn giản” (theo L. Cadière). Bên trong điện Minh Thành, ngày trước có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của vua Gia Long như cân đai, mũ, yên ngựa.
  • Khu Bi Đình
  • Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia “Thánh đức thần công” của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
  • Lăng lận cận
  • Men theo các lối đi giữa những đám cỏ và hoa rừng, du khách thả bước dưới bóng thông tươi mát để sang thăm các lăng phụ cận. Đáng lưu ý nhất là lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, nằm trong một vị thế u tịch mà sâu lắng. Điện Gia Thành ở đó cũng là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức của điện Minh Thành, dùng để thờ người phụ nữ đã sinh ra vị vua có tài nhất của triều Nguyễn - vua Minh Mạng.
  • Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Đại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và được dùng để gọi tên chung cho cả quần sơn này: Thiên Thọ Sơn. Tất cả đều được quy hoạch trong khu vực quan phòng rộng hơn 28 km2, tạo thành một cảnh quan hùng tráng chạy dài từ chân dãy Trường Sơn đến bờ Tả Trạch - một hợp lưu của Hương Giang. Đích thân vua Gia Long đã thám sát, duyệt định vị trí, quy hoạch và chỉ đạo công tác thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công. Sử cũ cho hay, thầy Địa lý Lê Duy Thanh (con trai nhà bác học Lê Quý Đôn) là người tìm được thế đất này, nơi mà theo ông “đã tập trung được mọi ảnh hưởng tốt lành tỏa ra từ nhiều núi đồi bao quanh”, nơi mà “ảnh hưởng tốt lành sẽ còn mãi mãi trong suốt 10 ngàn năm” (theo L. Cadière).
  • Cũng vì quá sâu sắc với công trình xây cất “ngôi nhà vĩnh cửu” của mình mà có lần suýt nữa, Gia Long đã thiệt mạng trong một tai nạn ở công trường. Một trận gió làm sập ngôi nhà mà vua đang trú ngụ, vua Gia Long tuy đã ẩn trong một cái hố nhưng vẫn bị thương ở trán, mí mắt và bị dập chân do một thanh xà rơi trúng. Hai hoàng tử thứ bảy và thứ tám là Tấn và Phổ bị trọng thương, nhiều người khác bị chết. Gia Long không trừng phạt các quan lại thi công, ngược lại đã cấp thuốc men để chạy chữa cho họ, cấp phát 500 quan tiền và 500 tiêu chuẩn gạo cho dân làng Định Môn, gần nơi xây dựng lăng.
  • Đến thăm lăng Gia Long,quý khách có thể tham quan theo hai đường: đường thủy và đường bộ.
  • Đường thủy
  • Từ sông Hương khoảng 18km sẽ đến Lăng.
  • Đường bộ
  • Đi đường bộ chừng 16km rồi qua bến đò Kim Ngọc, đi thêm vài cây số đường rừng thì bắt gặp hai Trụ biểu uy nghi nằm ngoài cùng. Trước đây, đó là những cột báo hiệu, nhắc nhở mọi người phải kính cẩn khi đi qua khu vực này và có đến 85 cột như vậy trong quần thể lăng Gia Long. Năm 1859 còn 42 cột và hiện nay du khách chỉ trông thấy 2 cột. Và du khách dường như rút ra được một điều : lăng nào có bán vé thì lăng đó được trùng tu bảo vệ, lăng nào không bán vé thì sức tàn phá ghê rợn, chẳng ai chăm sóc, chẳng ai quan tâm. Ngày nay, chỉ còn rừng thông xanh làm đường biên cho khu lăng, bởi quanh lăng không có La thành. Nguyên nhân này cũng là nguyên nhân gây chi tình trạng xuống cấp của khu di tích.
  • Theo gợi ý của L. Cadière từ hơn 60 năm trước đây, du khách nên viếng lăng Gia Long vào buổi chiều. Đó là thời khắc có thể ngắm cảnh hoàng hôn đang đến từ phía bên kia các hồ nước. Sự phối hợp giữa hồ nước cùng cảnh vật xung quanh, rừng thông sẽ tạo cho người tham quan một cảm giác khó tả. Chính lúc ấy, du khách mới cảm nhận hết vẻ đẹp hùng tráng và kỳ vĩ của khu lăng này. Phong cảnh xinh tươi hòa với nét uy nghi của đồi núi xa xa. Sự khắc khổ tĩnh lặng của cái chết hòa với sự sinh động, nét tuyệt mỹ của thiên nhiên chung quanh. Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn yên nghỉ trong sự tĩnh lặng .Cái cảm giác buồn của cảnh , cái ghê rợn của sự chết chóc và sự đổ nát, sự xuống cấp cùng với sự thờ ơ của du khách với di tích làm cho di tích thêm phần huyền bí.
  • Lăng Gia Long là một bức tranh trác tuyệt về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc, trong đó, thiên nhiên là yếu tố chính tạo nên nét hùng vĩ của cảnh quan. Đến thăm lăng, du khách được thả mình trong một không gian tĩnh lặng nhưng đầy chất thơ để suy ngẫm về những thành bại của cuộc đời mình cũng như vinh nhục của vị vua đầu tiên của triều Nguyễn. Dù hết sức cố gắng của trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế nhưng xem ra di tích không mấy thu hút khách tham qua, một phần do điều kiện xa xôi, một phần giá trị về mặt kiến trúc còn thua kém các lăng Tự Đức và Lăng Khải Định và lăng Minh Mạng nên thật sự chưa thu hút du khách.
  • Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã khởi công công trình bảo tồn và tu bổ di tích Thiên Thọ cung - khu vực lăng và tẩm chính của quần thể lăng vua Gia Long, tại xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế vào cuối năm 2007 để đưa vào phục vụ du khách và bảo tồn các giá trị ban đầu .
  • Các hạng mục sẽ tu bổ là: hệ thống mộ, quách, sân chầu ở khu vực lăng vua và Thuận Thiên cao hoàng hậu; hệ thống tẩm gồm nhà đông - Tây phối điện, Tiền - Hậu cổng, cổng Hữu của Minh Thành điện; nhà Bi Đình cùng hệ thống sân, lan can, tường, kè hồ... với tổng kinh phí 13,7 tỉ đồng.
  • Công trình này do Công ty Tu bổ di tích và thiết bị văn hóa trung ương (Bộ Văn hóa - Thông tin ) đảm nhận. Với sự trùng tu này, một tín hiệu lạc quan cho các công trình Lăng Tẩm thuộc quần thể di tích cố đô Huế một lần nữa được quan tâm đúng mức.



Khu vực Bái Đình lăng vua Gia Long
  • Mộ Vua gia long
CÁC BÀ PHI CỦA VUA GIA LONG
Gia Long có hai bà phi được phong làm Hoàng hậu là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu (mẹ của hoàng tử Cảnh) và Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (mẹ Minh Mạng); nhà vua còn sách phong cho bà Lê Thị Ngọc Bình (con vua Lê Hiển Tông, em Ngọc Hân công chúa) làm Đệ tam cung. Bà này sinh được hai hoàng tử là Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương.

Thừa Thiên Cao Hoàng hậu họ Tống. Năm lên 18 tuổi, Nguyễn Ánh cưới bà với đầy đủ nghi lễ truyền thống và tấn phong làm Nguyên phi. Bởi tính tình cẩn trọng, cử chỉ đoan trang nên bà được Nguyễn Ánh rất quý trọng.

Mùa xuân năm Quý Mão (1873) Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh, phải chạy ra đảo Phú Quốc, sau đó thấy tình hình nguy ngập, Nguyễn Ánh gửi hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc qua Pháp xin cầu viện. Lúc ấy, hoàng tử Cảnh mới 4 tuổi. Bá Đa Lộc lạy xin thọ mạng. Nguyễn Ánh và bà Nguyên phi lau nước mắt đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp. Sau khi hoàng tử Cảnh đi rồi, Nguyễn Ánh lấy một thoi vàng chặt đôi (một thoi là 20 lượng) trao cho bà một nửa và dặn: "Con ta đi rồi, ta cũng sẽ đi sang Xiêm. Vậy Phi phải ở lại đây (Phú Quốc) để cung phụng Quốc mẫu (tức bà Thiếu Khương, vợ của Nguyễn Phúc Luân) chưa biết gặp nhau khi nào và ở chỗ nào, vậy lấy vàng này làm tin".

Trong những ngày Nguyễn Ánh bôn ba, khi ở Xiêm, lúc ở Việt, bà vẫn một mình hầu hạ mẹ chồng. Ngoài việc hầu hạ mẹ chồng, bà con thân hành may dệt nhung phục cho quân lính. Một lần, quân Nguyễn giao chiến với quân Tây Sơn, đến hồi quyết liệt, quân Nguyễn núng thế, muốn rút lui, bà tự tay nổi trống thúc quân, quân Nguyễn hăng hái trở lại, xông lên và cuối cùng thắng lợi.

Sau ngày thu phục đất nước, Gia Long hỏi bà nửa thoi vàng năm xưa, bà đem vàng ra trình, Gia Long vô cùng cảm động, cầm lấy nửa thoi vàng và bảo rằng:

- Vàng này mà còn giữ được, đó thật là ân trời đã giúp cho trong lúc gian nan, chẳng nên quên lãng. Vậy phải để giành về sau cho con cháu biết.

Dứt lời, Gia Long lấy nửa thoi vàng của mình ráp với nửa thoi vàng của bà Nguyên phi, rồi trao hết cho bà.

Cuộc tình duyên của bà Tam cung Lê Thị Ngọc Bình với Gia Long cũng khá lạ kỳ. Sau khi thắng trận trở lại Phú Xuân, Nguyễn Ánh gặp bà vợ trẻ của Quang Toản là công chúa Ngọc Bình đang còn ở lại trong cung, không kịp chạy theo vua Tây Sơn. Say mê trước sắc đẹp của bà, Nguyễn Ánh quyết định lấy bà, sau đó đã phong làm Đệ tam cung.

Ngọc Bình lấy hai đời chồng đều làm vua (Cảnh Thịnh và Gia Long) nên dân gian có câu ca dao:

Số đâu có số lạ lùng!
Con vua mà lấy hai chồng làm vua

Cũng là một sự trớ trêu! Nguyễn Huệ Quang Trung chồng bà Ngọc Hân công chúa; Nguyễn Ánh Gia Long chồng bà Ngọc Bình, em Ngọc Hân; hai kẻ kình địch không đội trời chung ấy lại trở thành anh em "cột chèo"!

Đó là những bà phi đặc biệt và nổi tiếng. Còn các bà phi khác trong Hoàng cung, những gần một trăm bà, lại xảy ra bao chuyện rắc rối. Bài báo của Michel Đức chaigneau đăng trong tờ Le moniteur de la Flotte xuất bản năm 1858 tường thuật như sau:

... "Khanh sẽ không ngờ rằng cái gì đợi trẫm ở đây kia (ngài chỉ vào hậu cung của ngài) khi trẫm rời khỏi nơi đây, ở đây trẫm được hài lòng vì trẫm được nói chuyện với những người xứng đáng, họ lắng nghe trẫm, họ hiểu biết trẫm và khi cần họ vâng lời trẫm răm rắp, còn ở đằng kia trẫm gặp phải một lũ quỷ sứ thật sự. Chúng cãi vã nhau, ngược đãi nhau, phỉ báng nhau và sau đó tất cả cùng chạy đến xin trẫm phân xử. Nếu làm đúng thì trẫm luôn luôn khiển trách tất cả. Vì trẫm không biết ai sẽ nhường nhịn ai trong cơn giận dữ".

Sau một lúc im lặng, ngài tiếp "Chốc nữa trẫm sẽ ở giữa một đám yêu phụ làm trẫm điếc tai, nhức óc" (vừa giả giọng và điệu bộ của một người đàn bà trong cơn giận dữ, ngài vừa thét): "Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ phân xử, bà đã xỉ nhục thần thiếp, thần thiếp xin phân xử”, chừng mười hai bà khác lại bổ đến, sau khi đã tâu với trẫm chát cả tai: "Muôn tâu bệ hạ, Hoàng hậu ghét bỏ thần thiếp... Bà ta đã làm vui lòng bệ hạ ... đến lượt thần thiếp xin phân xử".

Nhà vui phì cười, rồi nhìn vị đối thoại của ngài như để gợi ý. Vị quan Pháp cũng cười ngất, nhất là bản kịch câm của nhà vua và những tiếng la hét của ngài để bắt chước sự giận dữ của các cung phi. Ông tâu: "Việc đó rất dễ, Hoàng thượng có thể giảm bớt mối sầu khổ của họ bằng cách hạn chế số cung phi".

Nhà vua ngắt lời:

- Suỵt! Hãy nói khẽ! Nói khẽ!

Ngài cho những lính lệ và những hộ vệ quân đã theo ngài khắp nơi được phép lui ra và nói tiếp: "Ồ! Ông C.. nếu các quan đồng liêu của khanh nghe được điều khanh vừa nói ra đó, họ sẽ trở thành những kẻ thù vĩnh viễn của khanh, khanh không biết các cung phi hầu hết đều là con gái của các quan ư? Này, mặc dù số tuổi của trẫm đã đáng kể, nhưng không bao lâu nữa, một vị quan sẽ dâng hiến cho trẫm con gái của ông ta. Trẫm không thể từ chối được, vì như thế, trẫm sẽ chọc tức ông ta vô cùng đau đớn. Ở đây chính là một vinh dự và một sự đắc ý đối với một ông quan có con gái được vào Hoàng cung, đối với trẫm, đó là sự đảm bảo chắc chắc về lòng trung thành của ông ta. Trẫm muốn sửa đổi lại cả Thế giới, nhất là đàn bà vì họ đều đáng ghê sợ hơn đàn ông. Nếu trẫm ghét bỏ một trong các cung phi của trẫm, thì nó sẽ than phiền với thân phụ nó ngay; và nếu không sỉ nhục to tiếng trước tuổi già nua của trẫm, thì ông ta cũng khéo léo gieo rắc giữa các quan những tin đồn đại vặt vãnh, sẽ làm cho trẫm mang đầy sự lố bịch trước đôi mắt của thần dân".

Hẳn đó là lời bộc bạch chân tình của một ông vua trước một người nước ngoài. Câu đánh giá của Gia Long về phụ nữ ở thế kỷ XIX thật thú vị: "Trẫm muốn sửa đổi lại cả Thế giới, nhất là đàn bà, vì họ đều đang ghê sợ hơn đàn ông". Đó là câu đánh giá của một ông vua thời phong kiến, theo chế độ đa thê. Còn bây giờ, ở những nước theo chế độ độc thê, không hiểu câu đó có còn đúng không?
  • Minh Mạng, vị vua thứ nhì của triều Nguyễn
  • Tháng 2 năm 1820, vua Gia Long qua đời hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm được đưa lên ngai vàng, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nhưng phải ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc. Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1 năm 1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm, vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắc bởi giá trị tư tưởng.
  • Lăng (tòa Minh Lâu) nhìn từ phía sau (từ phía Trung Đạo Kiều)



  • Lăng Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng). Lăng có diện tích 18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của vua nhập lăng. Hai bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá "phổi xanh", bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm). Ở giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua (Bửu thành). Bửu thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng. Phía sau Bửu thành là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch. Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư, gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài ... làm cho toàn bộ quần thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ.
  • Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750 m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.


  • Toàn cảnh lăng vua Minh Mạng


  • Cổng vào lăng Minh Mạng

  • Toàn cảnh lăng nhìn từ trên không, hình chụp vào đầu thế kỷ 20
  • Từ ngoài vào trong, các công trình được phân bố trên ba trục song song với nhau mà Thần đạo là trục trung tâm. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát hương sen và những quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa ngoạn mục. Mở đầu Thần đạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn 9 m, rộng 12 m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu. Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Một khoảng sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.
  • Hiển Đức Môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đất vuông). Điện Sùng Ân nằm ở giữa được coi là trung tâm, chung quanh có Tả, Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh chung quanh. Trong điện thờ bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu. Hoằng Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra một không gian của hoa lá và mây nước phía sau. Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô biên. 17 bậc thềm đá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh mát bóng cây và ngát thơm mùi hoa dại. Ba chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh như dải lụa xanh, đưa du khách đến Minh Lâu - một công trình như đột khởi từ quả đồi có tên là Tam Tài Sơn. Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát, là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu hạn; là “bộ ngực kiêu hãnh” của “con người” được ví bởi hình dáng của khu lăng. Minh Lâu là sự thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông. Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.
  • Một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành. Đây là hình ảnh của thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.
  • Cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33 bậc tầng cấp đẫn vào nơi yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng trái đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố.
  • Hai bên trục chính của lăng có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một. Hiện nay, các công trình như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn; Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn; Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn; Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn Thủy đều không còn tồn tại.
  • Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.
  • Kiến trúc Lăng có phần đổ nát nhưng mức độ nhẹ hơn so với số phận của những Lăng khác , một phần nhờ vào việc Lăng có giá trị về nhiều mặt . Những cây sứ nhiều năm tuổi công với vẻ hoang toàn mặc cho rêu phong theo chủ ý của Ban bảo vệ di tích cố đô Huế và quy tắc bắt buộc của UNESCO nhằm không trùng tu các di sản cố ý để tạo nét nguyên sơ làm cho di tích càng có giá trị. Hiện nay Lăng thu hút du khách đông nhất sau Lăng Tự Đức.(còn tiếp)
Vua Minh Mạng

Minh Mạng đăng quang
Trước khi mất, vua Gia Long đã di chiếu cho Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm nối ngôi. Ngày mồng một tháng giêng năm Canh Thìn (14.2.1820) Hoàng tử Đảm đã đăng quang , đặt niên hiệu là Minh Mạng.

Trước đó các quan đã cáo với trời đất ở đàn Nam Giao, Xã Tắc và các miếu. Riêng Hoàng tử Đảm đã cáo trước án thờ bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu (mẹ Hoàng tử Cảnh, xem Hoàng tử Đảm như con ruột, đã mất trước vua Gia Long 5 năm ) rồi vào trình với Đức Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (mẹ Hoàng tử Đảm).
Sáng mồng một tết Nguyên Đán, lễ đăng quang chính thức tổ chức ở điện Thái Hòa. Ở đây thiết đại triều, oai nghi, long trọng. Các Hoàng thân, đại thần, lễ phục chỉnh tề, cờ xí, tàng lọng đủ loại rợp trời. Chung quanh điện Thái Hoà trang hoàng lộng lẫy.

Đầu canh năm, sau 3 hồi trống, trên kỳ đài kéo lên lá cờ vàng rất lớn. Vua Minh Mạng lên kiệu từ điện Cần Chánh ra điện Thái Hoà. Sau lưng là võ quan, quân lính hộ tùng rầm rộ. Trong tiếng chuông trống rền vang ở hai nhà Tả, Hữu Đại Cung môn, 9 tiếng súng lệnh vang lên, vua Minh Mạng ngự trên ngai vàng đặt chính giữa điện. Hương trầm ngào ngạt. Các quan lớn nhỏ, quỳ lạy 5 lạy rồi nghe đọc kim sách, hạ biểu chúc mừng. Một vị quan tâu vua dùng ấn ngọc truyền quốc - tượng trưng cho uy quyền và truyền chiếu chỉ. Chiếu chỉ được một vị quan khác đọc lên và sau đó công bố để thần dân biết về lễ đăng quang. Bản chiếu văn sẽ được niêm yết ở Phu Văn Lâu và gửi đi các tỉnh.

Cuối cùng, 9 phát đại bác chào mừng, vua lên xe giá trở về điện Cần Chánh , các quan sắp xếp hai hàng quỳ lạy 5 lạy chúc tụng.

Chiếu theo lệ cũ, sau khi công bố lễ đăng quang, vua Minh Mạng ra chiếu ban ân gồm 10 điều. Trong đó có các điều khoản quan trọng là : Phong chức tước cho các hoàng thân, quan lại ; giảm sưu thuế cho dân, giảm tội cho phạm nhân ; tăng học bổng cho sinh viên ; mở rộng hoạt động của trường Quốc Tử Giám.

Minh Mạng với chùm thơ "cha truyền con nối"
Để phân biệt dòng chính, dòng thứ, giữ kỷ cương trong hoàng tộc và bảo đảm trật tự trong hoàng gia, vua Minh Mạng sau vài năm lên ngôi, đã sáng tác chùm thơ "Đế hệ thi" (1 bài) và "Phiên hệ thi" (10 bài). Mỗi bài có hai mươi chữ (ngũ ngôn).

Đế hệ thi là bài thơ gồm những chữ đầu sẽ đặt tên cho con, cháu, chắt... thuộc dòng chính... (trực hệ của Minh Mạng) :

Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh
Bảo, Quý, Định, Long, Trường
Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật
Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương

Như thế, các con trai của vua Minh Mạng đều có tên bắt đầu bằng chữ Miên : Miên Thẩm, Miên Trinh...

Các cháu nội trai của vua Minh Mạng đều có tên bắt đầu bằng chữ Hồng : Hồng Bảo, Hồng Nhậm...

Các chắt nội trai đều bắt đầu bằng chữ Ưng : Ưng Lịch, Ưng Đăng...

Cứ thế mà tiếp tục cho đến chữ thứ 20.

Phiên hệ thi là 10 bài thơ do vua Minh Mạng dành tặng cho những anh em ruột của mình (cùng con vua Gia Long). Chẳng hạn bài Phiên hệ thi do vua Minh Mạng tặng cho Định Viễn quận vương (con thứ sáu của vua Gia Long) :

Tịnh, Hoài, Chiêm, Viễn, Ái.
Cảnh, Ngưỡng, Mẫu, Thanh, Kha
Nghiễm, Khác, Do, Trung, Đạt
Liêu, Trung, Tập, Cát, Đa.

Từng thế hệ của con cháu Định Viễn quận vương cũng theo đó mà đặt tên cho mình. Mỗi chữ, mỗi câu trong các bài thơ đều có ý nghĩa tốt đẹp mà vua Minh Mạng chọn lọc.

Sáng tạo nên chùm thơ này, vua Minh Mạng có ước vọng, khao khát ngai vàng được bảo đảm "Truyền tử lưu tôn" ít nhất 20 đời. Thế nhưng mới đến năm 1945, đời thứ năm là Vĩnh Thuỵ (vua Bảo Đại) thì sự nghiệp cha truyền con nối đã chấm dứt bằng cuộc cách mạng tháng Tám. Kể ra giấc mơ của vua Minh Mạng cũng đã khá dài :hơn một thế kỷ !

Minh Mạng với giai thoại văn chương
Minh Mạng cũng là một vị vua sính thơ. Có một số giai thoại văn chương khá thú vị trong cuộc đời nhà vua.

* Minh Mạng và Cao Bá Quát
Cao Bá Quát lúc còn là một cậu bé đã rất thông minh và tinh nghịch. Một hôm nghe tin vua Ming Mạng ngự giá thăm thắng cảnh Hà Nội. Cao Bá Quát chờ đúng lúc kiệu vua đi qua hồ Tây, liền xăm xăm nhảy xuống hồ để tắm. Quan quân hốt hoảng, bắt Cao Bá Quát trói lại. Quát giây dụa la lối om sòm. Vua Minh Mạng truyền lệnh dẫn Quát đến hỏi. Quát khai là học trò nhà quê mới lên tỉnh chẳng biết phép tắc ất giáp gì cả. Nghe khai là học trò, vua Minh Mạng bèn ra câu đối bắt Quát phải đối lại. Nếu đối được thì tha, bằng không thì bị đòn. Quát ưng chịu.

Vua Minh Mạng nhìn xuống hồ nước trong veo, cá từng đàn tung tăng đuổi nhau , liền ra vế đối :"Nước trong leo lẻo, cá đớp cá". Cao Bá Quát đang bị trói giữa trời nắng gay gắt liền đối lại :"Trời nắng chang chang, người trói người". Minh Mạng dù phật lòng vì ý nghĩa câu đối xỏ xiên của Cao Bá Quát nhưng cũng rất phục tài ứng đối nhặm lẹ, nên truyền cởi trói tha cho họ Cao.

* Minh Mạng và Bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan nổi tiếng có tài thơ nôm nên được vua Minh Mạng triệu vào Huế làm Cung trung giáo tập, dạy cho các cung phi mỹ nữ. Một hôm nhân dịp chúc mừng một vị quan lớn của triều đình vua Minh Mạng ban ơn bằng cách viết tặng hai chữ đại tự theo nghệ thuật thủ hoạ. Viết xong, đưa cho Bà Huyện Thanh Quan xem rồi hỏi :"Được không?". Ngắm nét chữ "rồng bay phượng múa" của nhà vua. Bà Huyện Thanh Quan trả lời :

_ Tâu bệ hạ, phúc tối hậu, thọ tối trường (Phúc rất dày, thọ rất dài).

Chợt nghe, vua Minh Mạng chưa hiểu ý bà, nhưng nhìn kỹ lại chữ của mình. Vua mỉm cười gật đầu. Té ra nhà vua đã viết chữ Phúc béo tròn và chữ Thọ dài ngoẵng !

Bà Huyện Thanh Quan vốn rất đoan trang, đôn hậu, nhưng "phê" nhà vua rất khéo, hóm hĩnh làm vua Minh Mạng cảm thấy thú vị, không giận được.

* Minh Mạng và việc cấm quần không đáy
Năm 1822, nhân dịp ra Hà thành nhận lễ thọ phong của Thiên triều (Trung Quôc), vua Minh Mạng khó chịu khi thấy phụ nữ miền Bắc mặc quần một ống, trông chướng mắt. Nhà vua bèn ra lệnh cấm các cô, các bà Bắc hà không được mặc quần như thế nữa. Quan quân địa phương đốc thúc lính tráng bắt ép phụ nữ phải thực hiện nghiêm lệnh chiếu chỉ của nhà vua. Các ngã đường, chợ búa đều có lính canh phòng quan sát kỹ... Ai đi chợ còn mặc váy thì bị đuổi về. Nhân dân Hà thành không chịu nổi cảnh oái oăm đó nên đã phản kháng một cách hài hước, bằng bài ca dao :

Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang
Có quần ra đứng bán hàng
Không quần ra đứng đầu làng trông quan

Minh Mạng thang
Trong cuộc sống chăn gối đời thường, vua Minh Mạng nổi tiếng là vị vua có sức khoẻ dẻo dai, bền bỉ "bất tri lao". Có lẽ nhà vua nhờ vào toa thuốc đặc chế tên gọi là "Minh Mạng thang" chăng ?
Hưởng dương 51 tuổi, nhưng vua Minh Mạng có đến 142 người con (78 hoàng nam và 64 công chúa)
Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà vợ hầu hạ : một là vấn thuốc têm trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai vặt. Mỗi đêm vua Minh Mạng cho Thái giám gọi 5 bà vào hầu. Mỗi bà một canh. Hết 5 canh thì danh sách các bà được chuyển giao cho Tôn Nhơn Phủ giữ để tiện theo dõi việc khai hoa nở nhuỵ của các bà sau này. Hiệu quả "Minh Mạng thang" là "chất dạ ngũ giao sinh tứ tử quả danh bất hư truyền" !
Số vợ của Minh Mạng thì không đếm xuể. Có ít nhất 5, 6 trăm bà . Sách "Minh Mạng chính yếu" có chép rằng : "Năm Minh Mạng thứ 6 (1826) trong tiết xuân tháng giêng, ở kinh kỳ ít mưa, vua thấy hạn lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng bảo khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng :"Hai, ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ từ đâu mà đến thế, nhưng cung nữ nhiều nên âm khí uất tắc mà ra vậy ư ? Nay bớt đi cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy ".
Năm, bảy trăm bà vợ thì thật quá kinh khủng. Nhưng so với Tần Thuỷ Hoàng, có 3.000 cung phi, mỹ nữ thì số vợ của vua Minh Mạng có là bao !

Đứng đầu các bà là Tá Thiên nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa. Thứ nhì là Hiền phi Ngô Thị Chính, thứ ba là Lệ tân Nguyễn Gia Thị. Số còn lại sắp theo thứ tự các bậc là tứ giai tân, ngũ giai tiệp dư, lục giai tiệp dư, thất giai quý nhân, bát giai mỹ nhân, cửu giai tài nhân và tài nhân vị nhập giai (những cô chờ được làm tài nhân) . Dưới nữa là cung nga, thể nữ đồng hạng.

Nhiều cung nữ suốt đời không hề được kề cận vua hưởng ơn "mưa móc", dù chỉ một lần. Có một nàng xinh đẹp đã bị chém đầu vì một nụ hôn trộm trên trán vua lúc ngài đang nghỉ trưa thiu thiu...

Vua Minh Mạng thư giãn cũng có 5 bà hầu hạ với 5 nhiệm vụ riêng: người quạt, người đấm bóp, người têm trầu, vấn thuốc, người hát ru và người đợi sai vặt. Ông vua ưa sắc dục này cũng nổi tiếng hay chữ, thích đọc sách, ham làm thơ, viết văn.

Minh Mạng với Lễ tứ tuần Đại khánh
Năm 40 tuổi, vua Minh Mạng cho tổ chức lễ Tứ tuần đại khánh một cách rầm rộ, long trọng. Đây là một lễ chúc thọ sinh nhật lớn nhất trong các đời vua triều Nguyễn. Thời gian lễ là 9 ngày (từ ngày 13.4 đến ngày 22.4.1830).

Trước ngày lễ, Viện Hàn lâm lo soạn chiếu báo cáo cho trăm họ biết. Còn bộ Lễ thì tập trung lo phần lễ nghi và tuyển lựa các đoàn tuồng, múa rối, ca nhạc và các trò chơi giải trí khác. Các sứ thần của vương quốc Chân Lạp, Nam Chưởng, các thổ ty ở nhiều địa phương đều được mời đến dự. Trong và ngoài hoàng thành trang hoàng lộng lẫy, cờ xí rợp trời. Các nhà quan và thường dân đều treo đèn, kết hoa dựng cổng tam quan. Ban đêm trên dòng sông Hương đều có phóng đăng (thả đèn). Công sở, trại lính đều được nghỉ 3 ngày để vui chơi. Các chợ búa 3 ngày không được sát sinh. Các tỉnh đình chỉ xử án trong 4 ngày.

Vào lúc canh 5 ngày lễ chính, trống nghiêm đồ ba hồi. Điện Thái Hoà rực sáng đèn đuốc. Tờ mờ sáng, chuông trống trên lầu Ngọ Môn vang rền. Đội Đại nhạc trỗi lên. Trên thành phát 9 tiếng súng lệnh lúc vua Minh Mạng ngự ra điện Thái Hoà trong khói trầm hương lan toả.

Tất cả bá quan văn võ lạy 5 lạy rồi quỳ xuống nghe đọc ân chiếu rồi dâng biểu và phương vật chúc mừng. Trên 5 cửa thành bắn 45 phát đại bác (mỗi cửa 9 phát) chúc thọ nhà vua. Khi "Lễ thành", vua vào cung điện thay áo rồi ngự ra điện Cần Chánh nhận lễ chúc thọ của các Hoàng tử. Sau đó, vua ban yến, phẩm vật cho các Hoàng tử, Hoàng thân, Đại thần... Hôm sau vua Minh Mạng tiếp tục ban thưởng cho các đoàn tuồng, nghệ nhân và các quan lại từ tứ phẩm trở xuống.

Suốt các ngày lễ Đại khánh, ban ngày có đủ các trò chơi giải trí vui nhộn, hào hứng như hát tuồng, xem tấu nhạc, múa rối , leo dây... ban đêm thì đốt pháo bông, múa hoa đăng cho tất cả quan quân và dân chúng xem. Nhà vua còn bảo các Hoàng tử, các quan lại bộ lễ đi mời các vị bô lão các nơi về dự đại yến trong ba ngày. Tuỳ theo tuổi thọ các bậc kỳ lão, tất cả các vị từ 70 tuổi đến 100 tuổi đều được ban thưởng vải, lụa, bạc, nhân sâm... Ai nấy đều hể hả chúc mừng Tứ tuần Đại khánh.(còn tiếp)
  • Hoàng đế Minh Mạng hay Minh Mệnh ( 1791 – 1841), tức Nguyễn Thánh Tổ Nhân Hoàng đế là vị hoàng đế thứ hai (ở ngôi từ 1820 đến 1841) của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Đảm , còn có tên Nguyễn Phúc Kiểu .
  • Được xem là một vị vua năng động và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao. Ông cho lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở kinh đô Huế, bãi bỏ chức tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi. Dưới thời ông, quân đội nhà Nguyễn được tổ chức lại, chia thành bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ binh. Minh Mạng còn cử quan ra chỉ đạo khai hoang ở ven biển Bắc kỳ và Nam kỳ.
  • Là người tinh thông Nho học và sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến việc học tập và củng cố thi cử, năm 1822 ông mở lại các kì thi Hội, thi Đình ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài.
  • Dươi triều Minh Mạng có nhiều cuộc nổi dậy diễn ra: Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Nông Văn Vân v.v... ở miền Bắc và Lê Văn Khôi ở miền Nam. Nhà vua đã phải đối phó vất vả với những cuộc nổi dậy ấy.
  • Ngoài việc trừ nội loạn, Minh Mạng còn chủ trương mở mang thế lực ra nước ngoài. Ông đổi tên Việt Nam thành Đại Nam, và muốn cho đất nước trở thành một đế quốc hùng mạnh. Nhà vua lập các phủ Trấn Ninh, Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống chế Ai Lao; và thực sự kiểm soát Chân Lạp, đổi Nam Vang (Phnôm Pênh ngày nay) thành Trấn Tây thành; kết quả là Đại Nam có lãnh thổ rộng hơn cả. Quan lại Đại Nam đã được cử sang các vùng đó làm quan cai trị, và đã gây nhiều bất bình với dân chúng ở đó khiến cho tình hình rối loạn cứ liên tiếp xảy ra.
  • Do không có thiện cảm với phương Tây, Minh Mạng đã khước từ mọi tiếp xúc với họ. Ngoài ra, vì Minh Mạng không thích đạo Cơ Đốc của phương Tây, nên ông đã ra chiếu cấm đạo và tàn sát hàng loạt tín đồ Cơ Đốc giáo.
  • Thụy hiệu do vua con Thiệu Trị đặt cho ông là Thể thiên Xương vận Chí hiếu Thuần đức Văn vũ Minh đoán Sáng thuật Đại thành Hậu trạch Phong công Nhân Hoàng đế
  • Minh Mạng
  • Nguyễn Thánh Tổ Nhân hoàng đế
  • Chân dung Vua nhà NguyễnTrị vì1820 – 1841
  • Tiền nhiệm Gia Long
  • Kế nhiệm Thiệu Trị
  • Vợ Hồ Thị Hoa (Tả Thiên Nhân Hoàng hậu)
  • Các vợ khác
  • Ngô Thị Chính
  • Phạm Thị Tuyết
  • Trần Thị Tuyến
  • Nguyễn Thị Bảo
  • Trần Thị Huân
  • Hồ Thị Tùy
  • Nguyễn Thị Khuê
  • Nguyễn Thị Thuý Trúc
  • Lê Thị Ái
  • Nguyễn Thị Viên
  • Lương Thị Nguyện
  • Cái Thị Trinh
  • Nguyễn Thị Trường
  • và nhiều người khác
  • Hậu duệ
  • 142 con,bao gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa
  • Tên húy
  • Nguyễn Phúc Đảm
  • Nguyễn Phúc Kiểu
  • Niên hiệu
  • Minh Mạng: 1820 - 1841
  • Thụy hiệu
  • Nhân Hoàng đế
  • Miếu hiệu
  • Thánh Tổ Triều đại Nhà Nguyễn
  • Hoàng gia ca Đăng đàn cung
  • Thân phụ Gia Long
  • Thân mẫuTrần Thị Đang
  • Sinh25 tháng 5, 1791
  • Gần Sài Gòn, Việt Nam
  • Mất 20 tháng 1, 1841
  • Huế, Việt Nam
  • An táng Hiếu Lăng, Huế, Việt Nam
  • Tôn giáo Nho giáo


Ấn vua Minh Mạng



Nguyễn Phúc Đảm là con trai thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao hoàng hậu Trần Thị Đang. Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi, tức 25 tháng 5, 1791 tại làng Tân Lộc, gần Sài Gòn, giữa cuộc Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1787-1802).
  • Con thứ hai của Gia Long là hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh mất sớm năm 1801. Do thái tử Cảnh và người con chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Cơ Đốc từ Pháp nên sau khi hoàng tử Cảnh qua đời, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn của mình (con Cảnh) làm người người kế vì sợ những ảnh hưởng của Pháp tới triều đình.
  • Mặc dù có nhiều đình thần phản đối nhưng vua Gia Long vẫn quyết chọn Nguyễn Phúc Đảm làm người kế vị. Hoàng tử Đảm vốn là người hay bài xích đạo Cơ Đốc và không có cảm tình với người Pháp – tư tưởng này giống với Gia Long. Năm 1815, Nguyễn Phúc Đảm được phong Hoàng thái tử và từ đó sống ở điện Thanh Hoà để quen với việc trị nước.
  • Tháng 12 năm Kỷ Mão (đầu năm 1820), vua Gia Long qua đời. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820), Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mạng. Bấy giờ ông đã 30 tuổi nên rất am hiểu việc triều chính. Nhiều lần sau buổi chầu, ông cùng một vài quan đại thần ở lại để bàn việc, hoặc hỏi về các sự tích xưa, hoặc hỏi về những nhân vật cùng phong tục các nước khác.
  • Minh Mạng là một vị hoàng đế siêng năng, luôn thức khuya dậy sớm để xem xét công việc, có khi thắp đèn đọc sớ chương ở các nơi gởi về đến trống canh ba mới nghỉ.Ông thường bảo với các quan:
  • Lòng người, ai chả muốn yên hay vì chuyện sinh sự để thay đổi luôn, lúc trẻ tuổi còn khoẻ mạnh mà không biết sửa sang mọi việc, đến lúc già yếu thì còn mong làm gi được nữa. Bởi thế trẫm không dám lười biếng bất kỳ lúc nào.


  • Thật vậy, trong suốt thời gian trị vì của mình, vua Minh Mạng đã thay đổi rất nhiều việc, từ nội trị, ngoại giao cho đến những cải cách xã hội cùng những việc trong dòng họ.
  • Quốc hiệu Đại Nam
  • Minh Mạng đã xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên triều đình nhà Thanh không chính thức chấp thuận. Đến ngày 15 tháng 2 năm 1839, thấy nhà Thanh suy yếu, Minh Mạng đã chính thức công bố quốc hiệu Đại Nam. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
  • Bản thân vua Minh Mạng cũng là một học giả, đã từng làm thơ, soạn sách văn học, khuyến khích biên soạn các loại sách sử, nhất là các sách sử, địa. Nhiều người soạn sách mới, dâng sách cũ đều được nhà vua ban thưởng và khuyến khích. Các bộ sách quý như: Gia Định thành thông chí, Lịch Triều Hiến Chương loại chí v.v... đều ra đời dưới thời Minh Mạng. Các con của ông, điển hình như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên Trinh và Tương An Quận Vương Miên Bửu v.v..., đều là những nhà văn, nhà thơ xuất sắc, và đều nổi tiếng dưới các triều vua Thiệu Trị, Tự Đức v.v... sau này.
  • Năm 1821, Minh Mạng thành lập Quốc tử giám ở kinh thành Huế.
  • Năm 1826, ông chính thức thành lập Nhà hát tuồng Quốc gia trong Đại Nội, được gọi là Duyệt Thị Đường.
  • Năm 1832, ông hoàn tất việc xây dựng kinh thành Huế theo kiến trúc của phương Tây kết hợp với kiến trúc thành quách của phương Đông.
  • Để xã hội có qui củ cùng nề nếp, nhà vua cho thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục. Năm Bính thân (1836) phủ huyện được cấp các cân mẫu, rồi năm Kỷ hợi (1839) được cấp các loại thước mộc, thước may, thước đo ruộng. Về y phục ông từng bảo: Ngày nay nước nhà cương thổ đã hiệp nhất thì chính trị, phong tục lẽ nào khác biệt”.Bởi thế, nên nhiều đạo dụ được ban bố để y phục ở miền Bắc và miền Nam giống nhau.
  • Là người tinh thông Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến nền khoa cử, học vấn. Nhà vua thường nói:
  • Đạo trị nước phải gây dựng nhân tài.
  • Năm 1821, ông đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp, năm 1822 mở lại thi Hội, thi Đình.Ông còn cho đặt đốc học ở thành Gia Định, ông giao trọng trách cho nhà giáo Nguyễn Trọng Vũ người Nghệ An, giữ chức Phó Đốc học chăm lo việc học hành ở Nam Bộ. Bấy giờ, ở Gia Định có Trịnh Hoài Đức là người có học vấn cao nên được nhà vua tin dùng, phong làm Hiệp Biện Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lại kiêm Thượng thư Bộ Binh.
  • Minh Mạng còn đặt ra lệ rằng ai được thăng quan, bổ nhiệm đều phải lên kinh gặp vua trước khi nhậm chức. Đây là cơ sơ để nhà vua kiểm tra đức độ, năng lực và khuyên bảo điều hay lẽ phải, cốt sao cho lợi ích nước nhà.
  • Năm 1836, ông cho thành lập “Tứ dịch quán” để dạy ngoại ngữ (tiếng Pháp, Xiêm).
  • Vua Minh Mạng muốn canh tân việc học hành thi cử nhưng lại không biết tiến hành ra sao bởi triều thần của ông chỉ toàn là những hủ nho lạc hậu, không giúp đỡ được nhà vua trong một kế hoạch nào làm cho quốc phú, dân cường. Ông đã nói rằng:
  • Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau dần dần đổi lại.
  • Năm 1841, Minh Mạng lâm bệnh nặng. Lúc lâm chung, ông gọi quan đại thần Trương Đăng Quế đến bên giường dụ rằng:
  • “Hoàng tử Trường Khánh công lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng giúp sức rập, hễ việc gì chưa hợp lẽ, ngươi nên lấy lời nói của ta mà can gián. Ngươi trông mặt ta, nên ghi nhớ lấy.


  • Sau đó, ông cầm tay con trưởng là Trường Khánh Công Nguyễn Phúc Miên Tông trối trăng:
  • Trương Đăng Quế thờ ta đến 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là một người công thần kỳ cựu của triều đình. Ngươi nên đãi ngộ một cách ưu hậu, hễ nói thì phải nghe, bày mưu kế gì thì phải theo, ngày sau có thể được thờ vào nhà thế thất.


  • Vua Minh Mạng qua đời ngày 28 tháng 12 năm Canh Tý, tức ngày 20 tháng 1 năm 1841 tại điện Quang Minh,hưởng thọ 50 tuổi, ở ngôi 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ, thụy hiệu Nhân Hoàng đế. Lăng của ông là Hiếu Lăng, tại làng An Bằng, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Ông được thờ ở Tả Nhất Án Thế Miếu trong Đại Nội kinh thành Huế
  • Năm 1823, Minh Mạng đã làm bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu các thế hệ sau. Bài Đế Hệ Thi gồm 20 chữ, dùng làm chữ lót tên cho mỗi thế hệ từ vua Minh Mạng trở về sau.
  • MIÊN HỒNG ƯNG BỬU VĨNH
  • BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG
  • HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT
  • THẾ THỤY QUỐC GIA XƯƠNG
  • MIÊN: Trường cửu phước duyên trên hết
  • HỒNG: Oai hùng đúc kết thế gia
  • ƯNG: Nên danh xây dựng sơn hà
  • BỬU: Bối báu lợi tha quần chúng
  • VĨNH: Bền chí hùng anh ca tụng
  • BẢO: Ôm lòng khí dũng bình sanh
  • QUÝ: Cao sanh vinh hạnh công thành
  • ĐỊNH: Tiên quyết thi hành oanh liệt
  • LONG: Vương tướng rồng tiên nối nghiệp
  • TRƯỜNG: Vĩnh cửu nối tiếp giống nòi
  • HIỀN: Tài đức phúc ấm sáng soi
  • NĂNG: Gương nơi khuôn phép bờ cõi
  • KHAM: Đảm đương mọi cơ cấu giỏi
  • KẾ: Hoạch sách mây khói cân phân
  • THUẬT: Biên chép lời đúng ý dân
  • THẾ: Mãi thọ cận thân gia tộc
  • THỤY: Ngọc quý tha hồ phước lộc
  • QUỐC: Dân phục nằm gốc giang san
  • GIA: Muôn nhà Nguyễn vẫn huy hoàng
  • XƯƠNG: Phồn thịnh bình an thiên hạ
  • Bài Đế hệ thi được khắc trong một cuốn sách bằng vàng (kim sách), cất trong hòm vàng (kim quỹ) để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các bài Phiên hệ thi cũng được khắc trong các cuốn sách bằng bạc.
  • Tuy nhiên, chưa dừng lại đó, đi kèm với mỗi chữ trong bài Đế hệ thi là một bộ
  • Miên (miên) Hồng (nhân) Ưng (thị) Bửu (sơn) Vĩnh (ngọc)
  • Bảo (phụ) Quý (nhân) Định (ngôn) Long (thủ) Trường (hòa)
  • Hiền (bối) Năng (lực) Kham (thủ) Kế (ngôn) Thuật (tâm)
  • Thế (ngọc) Thoại (thạch) Quốc (đại) Gia (hòa) Xương (tiểu)
  • Tên đặt cho các hoàng tử lúc chưa làm vua bắt buộc phải dùng một chữ có bộ đó, ví dụ:
  • Vua Thiệu Trị, có chữ lót là Miên, và tên là Tông (thuộc bộ miên), và tất cả các anh em của vua Thiệu Trị cũng đều phải có tên có chữ bộ Miên cả (tuy nhiên con của các vị hoàng tử này phải đặt tên không được có bộ nhân, trừ con vua Thiệu Trị)
  • Vua Tự Đức có chữ lót là Hồng, và tên là Nhậm (thuộc bộ nhân)
  • Vua Tự Đức không có con, nên lấy cháu lên làm vua, người cháu này tên là Nguyễn Phúc Ưng Ái, chữ lót thì đúng, nhưng tên không có bộ thị, không phải dòng họ chính của vua, nên để được làm thái tử, ông được đổi tên thành Ưng Chân, chữ Chân này có bộ thị.
  • Minh Mạng mong muốn dòng họ Nguyễn Phúc sẽ truyền nối 20 đời, nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở chữ Vĩnh - đời thứ 5. Từ Phúc Đảm tới Hồng Nhậm, sau đó các vua nối tiếp lại thuộc chi khác, thế hệ trước, nên 13 vua nhà Nguyễn vẫn chỉ thuộc 5 đời. Hai vua thuộc thế hệ thứ 5 là vua thứ 11 Vĩnh San (Duy Tân) và vua thứ 13 Vĩnh Thụy (Bảo Đại).
  • Vợ
  • Trong đời sống riêng tư, người ta cũng phải ngạc nhiên về sức cường tráng của ông. Không có tài liệu cho biết chân dung và thể lực của ông như thế nào, chỉ biết ông có nhiều vợ và rất đông các phi tần. Có một bài thuốc bổ dương mang tên Minh Mạng thang được quan Thái y căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của ông để lập ra thang thuốc rượu.
  • Ông không đặt hoàng hậu, mà chỉ cao nhất là hoàng phi. Tả Thiên Nhân hoàng hậu (tước vị được phong sau khi mất) húy Hồ Thị Hoa, còn có tên là Thật, sinh 1791. Bà qua đời năm 1807, 13 ngày sau khi sinh hạ Hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị sau này). Lăng của bà hiệu là Hiếu Đông Lăng, phía tả lăng Thiệu Trị, tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
  • Sách Minh Mạng chính yếu chép: Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng:
  • Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ tự đâu đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặc là trong thâm cung cung nữ nhiều âm khi uất tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy.
  • Con cái
  • Minh Mạng đã có tới 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa.
  • Hoàng tử

    • 01. Đức Hiến Tổ Chương Hoàng đế (vua Thiệu Trị)
    • 02. Hoàng tử Chánh
    • 03. Thọ Xuân Vương
    • 04. Ninh Thuận Quận Vương
    • 05. Vĩnh Tường Quận Vương
    • 06. Phú Bình Quận Vương
    • 07. Nghi Hòa Quận Vương
    • 08. Phú Mỹ Quận Vương
    • 09. Hàm Thuận Quận Vương
    • 10. Tùng Thiện Vương
    • 11. Tuy Lý Vương
    • 12. Tương An Quận Vương
    • 13. Tuân Quốc Công
    • 14. Hoàng tử Hưu
    • 15. Lạc Hóa Quận Vương
    • 16. Hà Thành Quận Công
    • 17. Hoàng tử Thành
    • 18. Nghĩa Quốc Công
    • 19. Tảo thương
    • 20. Tảo thương
    • 21. Hoàng tử Nghi
    • 22. Hoàng tử Long
    • 23. Trấn Mang Quận Công
    • 24. Tảo thương
    • 25. Tảo thương
    • 26. Sơn Định Quận Công

    • 27. Tân Bình Quận Công
    • 28. Hoàng tử Trạch
    • 29. Quý Châu Quận Công
    • 30. Quản Ninh Quận Công
    • 31. Sơn Tịnh Quận Công
    • 32. Quản Biên Quận Công
    • 33. Lạc Biên Quận Công
    • 34. Hoàng tử Hoan
    • 35. Ba Xuyên Quận Công
    • 36. Kiến Tường Công
    • 37. Hòa Thạnh Vương
    • 38. Tảo thương
    • 39. Tảo thương
    • 40. Hòa Quốc Công
    • 41. Tuy An Quận Công
    • 42. Hải Quốc Công
    • 43. Hoàng tử Tịnh
    • 44. Tây Ninh Quận Công
    • 45. Trấn Tịnh Quận Công
    • 46. Tảo thương
    • 47. Quảng Trạch Quận Công
    • 48. An Quốc Công
    • 49. Tịnh Gia Công
    • 50. Tảo thương
    • 51. Trấn Biên Quận Công
    • 52. Điện Quốc Công

    • 53. Tuy Biên Quận Công
    • 54. Quế Sơn Quận Công
    • 55. Phong Quốc Công
    • 56. Trấn Định Quận Công
    • 57. Hoài Đức Quận Vương
    • 58. Duy Xuyên Quận Công
    • 59. Cẩm Giang Quận Công
    • 60. Quản Hóa Quận Công
    • 61. Nam Sách Quận Công
    • 62. Hoàng tử Tru
    • 63. Hoàng tử Khê
    • 64. Hoàng tử Ngử
    • 65. Trấn Quốc Công
    • 66. Hoàng Hóa Quận Công
    • 67. Hoàng tử Thất
    • 68. Tân An Quận Công
    • 69. Bảo An Quận Công
    • 70. Hậu Lộc Quận Công
    • 71. Kiến Hòa Quận Công
    • 72. Kiến Phong Quận Công
    • 73. Vĩnh Lộc Quận Công
    • 74. Phù Cát Quận Công
    • 75. Cẩm Xuyên Quận Công
    • 76. An Xuyên Vương
    • 77. Hoàng tử Sách
    • 78. An Thành Vương
  • Minh Mạng thường dặn các con:
  • Phàm con nhà giàu sang ăn ngon mặc đẹp không quen vất vả thì đến lúc làm việc làm chẳng nổi. Trẫm từ ngày lên ngôi coi chầu xét việc đến khi xế bóng mới nghỉ, dầu ở cung cũng xem xét các sớ chương ở các nơi gởi về. Trẫm nghĩ có siêng năng thì việc mới thành nên chẳng dám nhàn rỗi. Các con còn trẻ có sức mạnh nên tập làm việc chớ ham chơi bời, biếng nhác.
  • Khoa Kỹ Mão năm Gia Long thứ 18 ( 1819 ), Minh Mạng, lúc ấy còn là Đông Cung Thái Tử, ra hồ Tĩnh Tâm chơi, tinh thần mệt mỏi, Thái Tử bèn nằm trên võng thiu thiu ngủ.



    Bỗng một người học trò, tự xưng là học giả Lam Sơn đến hầu. Thái Tử thấy người học trò, đầu đội mũ cỏ, tay cầm câi gậy nhọn xiên qua bên mặt trời; tự nhiên mặt trời đùn đùn lên một đám mây đen sì, rồi tối sằm lại. Người học trò giơ gậy lên vẫy thì đám mây đen tan ngay, trời sáng bừng lên.

  • Thái Tử về cung đưa chuyện nằm mộng hỏi thị thần.
    Quan Thái bộc đoán :
    " Người học giả đầu đội nón cỏ là học trò, tên y có chử giả, thêm thảo dầu ( mũ cỏ ), là chữ Trứ. Chữ Trứ có nét phẩy cái sát qua chữ nhật, tức là cái gậy xiên qua mặt trời. Từ Lam Sơn lại, người ấy tất quê ở Nghệ An, Hà Tỉnh. Đám mây đen đùn lên ở mặt trời là điểm sau này biên thùy có lọan. Người ấy cầm gậy vẩy, mà đám mây đen tan, là điềm người ấy sau này sẻ dẹp tan giặc. Vậy xin Điện Hạ nghiệm xem khoa này có ai tên là Trứ ở vùng Nghệ An, Hà Tỉnh thi đổ không?
    Thái Tử nghe lời. Đến khi quan trường chấm xong đệ danh sách vào Bộ Duyệt, thấy tên Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ Khoa, Thái Tử Đảm mừng là ứng vào điềm mộng, quốc gia để tuyển được nhân tài chân chính. Thế là khoa ấy các quan chấm trường đều được thuởng một cấp
  • Minh Mạng Với Việc Học Hành Của Các Hoàng Tử
  • Một buổi nọ, Minh Mạng cho vời quan phụ đạo các Hoàng Tử Trương Đăng q Quế vào lạy ra mắt. Ông truyền rằng:




    - Bấy nay ngươi phụ các Hoàng tử trưởng thành cho nên sai ngươi theo việc chính trị .

    Rồi Minh Mạng hỏi luôn:

    - Thiên tư học vấn của các Hoàng Tử thế nào? Những người chung quanh ngươi có ngăn cấm được không?

    Quế đáp rằng :

    - Phép nhà Hoàng Thượng vốn nghiêm, các Hoàng Tử gắng sức học tập không dám trễ nãi. Lại thêm sẵn tính ham học, thông minh, người thường không so được, không dám dẫn đến chỗ bất chính.

    Minh Mạng nói:

    - Dòng dõi đế vương thông minh cũng có, còn bảo là ham học thì ta chưa tin được. Ta lúc trước ở tiềm để ( 1 ) chỉ có việc coi hầu bữa ăn và thăm sức khỏe hoàng khảo mà thôi, đến như học vấn thì chưa biết để tâm nghiên cứu, bây giờ còn hối nữa, huống chi các Hoàng Tử .

    Thế là ông liền sắc rằng, từ nay các viên Tán Thiện, Bạn độc ở Tập Thiện Đường đều cho kiêm công việc các dực phủ thuộc.

    --------------------------
    Tiếng Trống Chầu Trong Đại Nội.
    Vua minh Mạng khi đang làm việc hoặc đọc sách phải tuyệt đối im lặng để tập trung tư tưởng. Buổi đó, nhà vua đang đọc sách ở Thái Bình Lâu, trong đêm khuya, bỗng nghe có tiếng trống chầu vang dội. Không biết lý do gì, ông liền sắc hỏi. Thì ra đó là tiếng trống phát ra từ địa điểm các Hoàng Tử Miên Thẩm, Miên trinh đang ở. Các Hoàng Tử này họp nhau lại tổ chức diễn tuồng trong đêm mà không xin phép trước.
    Sáng hôm sau, Phủ Tôn Nhơn dâng phiến, Minh Mạng phê:
    - Khởi cổ ở trong thành mà không xin phép. Miên Thẩm phải phạt bổng hai năm, và phải đóng cửa 3 tháng luôn, không được dự triều hạ.
    Từ ngày đó, Miên Thẩm ( tức Tùng Thiện Vương sau này) không dám diễn tuồng nữa. Các bản tuồng sáng tác đều đem ra đốt hết. May mắn cho Miên Trinh, dù có tham dự trong tay trống chầu, nhưng khỏi bị phạt, vì trưởng ban tổ chức là Miên Thẩm .

  • -----------------------------
  • Nhà Vua Với Các Vương Phi
  • Trong đời sống thường nhật, có lẽ vua Minh Mạng là người được hưởng nhiều vui thú nhất trong các vua Nguyễn ở chốn phòng the. Số phi tần trong cung vua chưa rõ bao nhiêu, chắc phải đến năm , sáu trăm người. Sách Minh Mạng chính yếu



    chép:
  • " Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thuợng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng:

    - Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghỉ tự đâu mà đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặ là trong thâm cung, cung nữ nhiều âm khí uất tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy "

    Vua có nhiều vợ, phần lớn là nguời miền Nam. Như bà Hồ Thị Hoa ( Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu ) là người Biên Hoà, con của Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi. Hai Vương phi sủng ái nhất là bà Hiền Phi Ngô Thị Chính, con của Chưởng Cơ Ngô Văn Sở và bà Lệ Tân Nguyễn Gia Thị, con của Phó Vệ Úy Nguyễn Gia Quý. Hiền phi sinh được bốn Hoàng Tử và hai Công Chúa. Nguyễn Gia Thị sinh được bảy Hoàng Tử và ba Công Chúa . Hai bà này thường hay xung đột nhau, bà Ngô Thị Chính cậy mình được vua yêu mến thường đánh ghen các bà khác làm vua Minh mâng nhiều lúc cũng lâm vào tình trạng khó xử.
    Tương truyền bà Hiền Phi thường nói với những người thân cận rằng :
    - Dù vua có yêu thương tôi bao nhiêu đi nữa thì khi từ biệt cõi trần, tôi cũng ta đi hai tay không mà thôỉ.


    Minh mạng nghe được, đến khi bà mất đã thân hành đến tận chỗ bà nằm, đem theo hai nén vàng, bảo kẻ phục dịch mở hai bàn tay ra, nhà vua để hai nén vàng rồi ngặm ngùi nói :


    - Đây Trẫm cho Phi cái này để cho khỏi ra đi hai bàn tay không .



  • Chê Khéo Nhà Vua

    Câu Thơ Hoàng Bào

    Đối Đáp Giữa Minh Mạng Và Cao Bá Quát

  • Trong thời kỳ làm Cung Trung Giáo tập, bà Thanh Quan do tài làm thơ và đức độ dạy học, được Minh Mạng tin dùng, quí mến. Bà thường được nhà vua đàm luận thơ văn.
    Một lần có bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang, chén vẽ sơn thủy Việt Nam và có đề thơ nôm cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó, Minh Mạng đưa khoe với những người chung quanh. Mọi người yêu cầu bà Huyện Thanh Quan làm một bài thơ chữ Nôm. Bà làm ngay hai câu thơ rằng:
    - Như in thảo mộc trời Nam lại.
    Đem cả sơn hà đất Bắc sang.
    Vua Minh Mạng rất thích thú.
    Cùng hôm đó, nhà vua viết hai chữ Phúc Thọ rất lớn để " ban ơn " chúc mừng một đại thần nào đó. Ông hỏi bà Thanh Quan chữ viết như thế nào, bà khen:
    - Phúc tối hậu,
    Thọ tối trường
    Nghĩa là
    Phúc rất dày,
    Thọ rất dài
    Ban đầu Minh Mạng hơi ngơ ngác, sau nhìn kỹ lại ông mới hiểu ý, bèn mỉm cười và gật đầu. Thì ra Minh Mạng đã viết chữ Phúc béo phục phịch và chữ Thọ dài lêu đêu.
    Bà Huyện Thanh Quan tuy ngầm chê chữ viết của Minh Mạng, nhưng lời chê thật khéo léo và văn vẻ.

  • Lăng Thiệu Trị có tên chữ là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11 tháng 12 năm 1993.
  • Lăng Thiệu Trị nằm dựa lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành Huế chừng 8 km So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Cách lăng 8 km về phía trước, ngọn núi Chằm sừng sững được chọn làm tiền án. Dòng sông Hương chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường. Ngay cách chọn “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ” cũng có những nét khác thường: đồi Vọng Cảnh ở bên này sông được chọn làm “rồng chầu”, nhưng “hổ phục” lại là ngọn Ngọc Trản ở bên kia sông. Đằng sau, núi Kim Ngọc xa mờ trong mây được chọn làm hậu chẩm; đồng thời, những người kiến trúc lăng còn đắp thêm một mô đất cao lớn ở ngay sau lăng để làm hậu chẩm thứ hai. Một nét riêng khác là lăng không có la thành bao quanh. Nếu ở lăng Gia Long, la thành bằng gạch được thay thế bởi vô số núi đồi bao quanh như một vành đai tự nhiên, hùng tráng bảo vệ giấc ngủ cho vị tiên đế triều Nguyễn thì ở lăng Thiệu Trị, những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh rờn ở chung quanh được xem là La thành. Chính vòng La thành thiên nhiên đó tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình.
  • Sau khi ở trên ngai vàng được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh qua đời ngày 4 tháng 11 năm 1847, giữa lúc mới 41 tuổi. Trong khi hấp hối, nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”.
  • Vua Tự Đức lên nối ngôi đã lệnh cho các thầy địa lý tìm đất để xây lăng cho vua cha. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành không xa như hai lăng vua tiền nhiệm. Sau đó núi ấy được đặt là núi Thuận Đạo còn lăng được gọi là Xương Lăng.
  • Vào ngày 11 tháng 2 năm 1848, vua Tự Đức sai đại thần Vũ Văn Giai, sung chức Đổng lý, đứng ra trông coi công việc xây dựng lăng. Nhà vua dặn cứ 10 ngày một lần phải báo cáo cho vua biết tiến độ xây dựng lăng.
  • Theo lời dặn của vua cha, vua Tự Đức căn dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm “toại đạo” giống như trên lăng Minh Mạng, công việc xây dựng các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như điện, đình, các, viện... thì phải bắt chước theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm. Toại đạo, tức là đường hầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ, được xây vào ngày 24 tháng 3 năm 1848.
  • Quá trình xây cất Xương Lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút, nên chỉ sau ba tháng thi công, các công trình chủ yếu đã hoàn thành. Ngày 14 tháng 6 năm 1848, vua Tự Đức thân hành lên Xương Lăng kiểm tra lần cuối. Mười ngày sau, thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào an táng trong lăng sau 8 tháng quàn tại điện Long An ở cung Bảo Định. Vua Tự Đức viết bài văn bia dài trên 2.500 chữ, cho khắc lên tấm bia “Thánh đức thần công”, dựng vào ngày 19 tháng 11 năm 1848 để ca ngợi công đức của vua cha.
  • Trong một bài dụ của vua Tự Đức viết vào tháng 5 năm 1848, có đoạn nói: “Nay mọi việc đã đâu vào đấy, sớm báo cáo hoàn thành”. Ngày 14 tháng 6 năm 1848, tức là 10 ngày trước khi làm lễ an táng vua cha, vua Tự Đức thân hành lên lăng để kiểm tra công việc một lần cuối. Mặc dù vua Thiệu Trị đã căn dặn là phải làm lăng như thế nào cho "kiệm ước", không nên quá tốn kém tiền của và sức dân, sức binh. Và trong bài văn bia ở Xương Lăng, vua Tự Đức đã nhắc lại điều đó và nói thêm rằng: “ Lời vàng ngọc văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí”; nhưng hôm ấy khi lên xem công trình lăng, thấy “công trình có phần phiền phức to lớn”, nhà vua vẫn tỏ ra thỏa mãn.
  • Riêng tấm bia “Thánh đức thần công” với bài bi ký dài hơn 2.500 chữ do vua Tự Đức viết, thì mãi đến 5 tháng sau, tức là ngày 19 tháng 11 năm 1848 mới dựng được.
  • Như vậy, tính từ ngày bắt đầu xây dựng (11 tháng 2 năm 1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng.
  • Ngoài ra, ở gần lăng Thiệu Trị còn có 3 ngôi lăng mộ khác của những người trong gia đình vua. Nằm chếch phía trước là Llăng Hiếu Đông của mẹ vua - bà Hồ Thị Hoa; gần phía sau bên trái là Lăng Xương Thọ của vợ vua - bà Từ Dũ; phía trước bên trái là khu lăng “Tảo thương” là những ngôi mộ của con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ.
  • Vua Tự Đức đã cho xây dựng lăng vua Thiệu Trị theo mô thức kiến trúc và phần lớn ý đồ do vua cha để lại. Trước thời điểm khởi công xây dựng lăng này, ở Huế chỉ mới có hai lăng là lăng Gia Long và Minh Mạng. Khi còn sống vua Thiệu Trị đã tham khảo nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm của hai vua tiền nhiệm để đưa ra đồ án xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu, nơi mình sẽ an giấc ngàn thu.
  • So với hai lăng Gia Long và Minh Mạng, lăng vua Thiệu Trị gần Kinh thành hơn, là sự dung hòa hai mô thức kiến trúc của hai lăng vua tiền nhiệm bằng cách thiết kế thành hai trục: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm - khu vực điện thờ nằm bên trái. Hai trục cách nhau khoảng 100 mét. Nói cách khác, các nhà kiến trúc lăng Thiệu Trị đã cắt phần giữ của lăng Minh Mạng - điện thờ đặt riêng ra một bên và nối hai phần trước và sau của lăng ấy lại với nhau làm một. Dĩ nhiên, về các đơn vị công trình kiến trúc riêng lẻ thì có thêm bớt, đổi thay đôi chút, nhưng cách xây Bửu thành, Toại đạo, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng và các hồ bán nguyệt thì giống lăng Minh Mạng.
  • Lăng Thiệu Trị khác lăng Minh Mạng là không xây La thành, nhưng giống lăng Gia Long là lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm nên một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Trong vòng La thành hùng vĩ đó, lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo, gần trước mặt lăng là một vùng đất bằng phẳng cỏ cây xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim. Xét về phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “sơn chỉ thủy giao”. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng khoảng 1 km có đồi Vọng Cảnh, bên trái có núi Ngọc Trản chầu về trước lăng theo vị thế “tả long hữu hổ”. Ngọn núi Chằm cách đó khoảng 8 km đứng làm “tiền án” cho khu vực lăng, động Bàu Hồ ở gần hơn làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi Kim Ngọc ở xa, người xưa đã đắp một mô đất cao lớn làm “hậu chẩm” cho lăng. Trong phạm vi lăng có ba hồ bán nguyệt là Hồ Điện, hồ Nhuận Trạch, và hồ Ngưng Thúy cùng dòng khe từ hồ Thủy Tiên chay ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây ngầm dưới các lối đi.
  • Tổng thể kiến trúc của lăng Thiệu Trị là sự kết hợp và chọn lọc từ mô thức kiến trúc của lăng Gia Long và lăng Minh Mạng. Xương Lăng giống với Thiên Thọ Lăng ở chỗ đều không có La thành, khu vực lăng mộ và tẩm điện biệt lập, song song với nhau. Xương Lăng lại giống Hiếu Lăng ở cách thức mai táng và xây dựng toại đạo, Bửu Thành hình tròn với hồ Ngưng Thúy hình bán nguyệt bao bọc ở phía trước. Lăng gồm hai khu vực: lăng và tẩm. Phần lăng nằm ở bên phải, phía trước có hồ Nhuận Trạch thông với hồ Điện ở trước khu tẩm qua một hệ thống cống ngầm và nối với hồ Ngưng Thúy ở trước Bửu Thành, tạo thế “chi huyền thủy” chảy quanh co trong lăng. Ngay sau hồ Nhuận Trạch là nghi môn bằng đồng đúc theo kiểu “long vân đồng trụ” dẫn vào Bái Đình rộng lớn. Hai hàng tượng đá ở hai bên tả, hữu của sân là tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng đầu thế kỷ XIX ở Huế. Tiếp theo Bi Đình dạng phương đình là lầu Đức Hinh ngự trên một quả đồi thấp hình mai rùa. Các nhà thiết kế lăng Thiệu Trị đã tách riêng khu vực tẩm điện trong lăng Minh Mạng rồi cải tiến, sửa đổi cho phù hợp với cảnh quan của Xương Lăng để tạo ra đồ án thiết kế lăng này. Chính vì thế mà Bi Đình và lầu Đức Hinh ở Xương Lăng mang dáng vóc của Bi Đình và Minh Lâu ở lăng Minh Mạng. Đứng trên lầu Đức Hinh, phóng tầm mắt ra phía sau sẽ thấy một cảnh quan trác tuyệt. Hồ Ngưng Thúy như vầng trăng xẻ nửa án ngữ trước Bửu Thành. Bên trên hồ có 3 chiếc cầu: Đông Hòa (phải), Chánh Trung (giữa) và Tây Định (trái), dẫn đến bậc tam cấp vào Bửu Thành - nơi đặt thi hài của nhà vua. Xa hơn về phía phải của lăng có gác Hiển Quang - nơi nghỉ ngơi, suy tưởng của nhà vua ở cả cõi âm lẫn cõi dương.
  • Có lẽ do yếu tố địa lý không cho phép kiến tạo Xương Lăng theo một trục dọc như Hiếu Lăng nên khu vực điện thờ được xây dựng riêng, cách lầu Đức Hinh 100m về phía trái. Ngay sau hồ Điện có một nghi môn bằng đá cẩm thạch, bên trên là những liên ba và một bầu Thái cực hình nậm rượu bằng pháp lam, trang trí hoa lá vui mắt và sinh động. Bức hoành phi nằm giữa những hoa văn trang trí với 4 chữ Hán: “Minh đức viễn hỷ” (Đức sáng cao xa vậy!) như muốn ghi mãi vào không trung tài đức của nhà vua. Bước lên tam cấp dẫn vào khu vực điện Biểu Đức, sẽ đi qua Hồng Trạch Môn nhìn về phía Bắc, một dạng vọng lâu như Hiển Đức Môn (ở lăng Minh Mạng) và Khiêm Cung Môn (ở lăng Tự Đức sau này). Chính giữa là điện Biểu Đức, nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu Từ Dũ. Trong chính điện, trên những cổ diêm ở bộ mái và ở cửa Hồng Trạch, có hơn 450 ô chữ chạm khắc các bài thơ có giá trị về văn học và giáo dục. Các công trình phụ thuộc như Tả, Hữu Phối Điện (trước), Tả, Hữu Tùng Viện (sau) quây quần chung quanh điện Biểu Đức càng tôn thêm vẻ cao quý của chính điện. Bên kia hồ Điện, hòn Bàu Hồ làm bình phong cho khu vực điện thờ, rừng thông xanh mướt làm La Thành cho khu vực Lăng .
  • Lăng vua Thiệu Trị nằm gần với cùng với lăng mộ của dòng họ, chếch về phía trước lăng là lăng Hiếu Đông của bà Hồ Thị Hoa (mẹ vua). Bên trái phía sau là Xương Thọ Lăng của bà Từ Dũ (vợ vua) và không xa phía trước là khu mộ “tảo thương” -nơi có nhiều ngôi mộ của các ông hoàng, bà chúa nhỏ bé, con vua Thiệu Trị.
  • Trong quá trình thám sát mở rộng xung quanh quần thể lăng Thiệu Trị, đoàn khảo sát các công trình di tích cố đô Huế đã phát hiện một cụm di tích quan trọng liên quan đến lăng thuộc thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
  • Cụm di tích gồm 2 khu mộ Tảo Thương - mộ những người con của vua Thiệu Trị, Bến Ngự (nằm bên bờ sông Hương), các trụ biểu, Hành Cung Cư Chánh, Trại Bảy (nơi ở của lính bảo vệ lăng Hiếu Đông), đặc biệt là con "đường ngự" dẫn vào lăng vua Thiệu Trị, xuất phát từ bờ sông Hương. Đường ngự ngày xưa là con đường dùng để đưa thi hài vua Thiệu Trị vào an táng trong lăng, sau đó các vua đời sau dùng để đi vào lăng trong các dịp tế lễ hằng năm.
  • Hoàng đế Thiệu Trị 1807 – 1847, Nguyễn Hiến Tổ Chương Hoàng đế là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847. Thụy hiệu của ông là Thiệu thiên Long vận Chí thiện Thuần hiếu Khoan minh Duệ đoán Văn trị Vũ công Thánh triết Chương Hoàng đế
  • Thiệu Trị
  • Hoàng đế Việt Nam


“Thiệu Trị thần hàn”


Bài vị của vua Thiệu Trị


Ngọc khánh khắc dòng chữ Thiệu Trị trân bửu

Chỉ Của Vua Thiệu Trị

  • Vua nhà NguyễnTrị vì1841 - 1847
  • Tiền nhiệm Minh Mạng
  • Kế nhiệmTự Đức
  • Vợ Phạm Thị Hằng
  • Hậu duệ
  • 64 người, gồm 29 hoàng tử và 35 công chúa
  • Tên húy
  • Nguyễn Phúc Miên Tông
  • Niên hiệu
  • Thiệu Trị (1841 - 1847)
  • Thụy hiệu
  • Chương Hoàng đế
  • Miếu hiệu
  • Hiến Tổ
  • Triều đại
  • Nhà Nguyễn
  • Hoàng gia ca
  • Đăng đàn cung
  • Thân phụ
  • Minh Mạng
  • Thân mẫu
  • Tá Thiên Nhân hoàng hậu
  • Hồ Thị Hoa Sinh:1807
  • Mất1847
  • Việt Nam
  • An táng
  • Xương Lăng
  • Tôn giáo
  • Nho giáo
  • Thiệu Trị tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông , ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc TuyềnDung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa, sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão, tức 16 tháng 6 năm 1807, tại ấp Xuân Lộc, phía Đông kinh thành Huế. 13 sau khi sinh hạ Miên Tông, thân mẫu của ông mất.
  • Khi vua Minh Mạng qua đời, Nguyễn Phúc Miên Tông được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng giêng năm Tân Sửu tức 11 tháng 2 năm 1841 ở điện Thái Hòa, vừa đúng 34 tuổi.
  • Sử sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua cha. Vả chăng, mọi định chế pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa và binh bị đều được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị chỉ áp dụng theo các định lệ của tiên quân, không có sự cải cách, thay đổi gì mới. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp ra sức giúp rập.
  • Thiệu Trị cũng nổi tiếng là một vị vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là 2 bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (Cảnh trong mưa)Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Cả 2 bài không trình bày theo lối thường mà viết thành 5 vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có 1 số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một “trận đồ bát quái”, vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai tìm ra được.
  • Dưới thời vua Thiệu Trị, đất Nam Kỳ có nhiều giặc giã, dân Chân Lạp nổi loạn và quân Xiêm La sang đánh phá. Nhà vua phải dùng binh đánh dẹp, tới năm Thiệu Trị thứ bảy 1847 mới yên được.
  • Từ khi Thiệu Thị lên ngôi thì việc cấm đạo Thiên Chúa bớt đi, nhưng triều đình vẫn không có cảm tình với Thiên Chúa giáo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế. Có người báo tin đó cho trung tá Pháp là Favin Lévêque coi tàu Héroïne. Trung tá Favin Lévêqueông đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ 5 – Ất Tỵ 1845, có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Đà Nẵng đón giám mục ra.
  • Năm Đinh Vị 1847, khi người Pháp biết rằng ở Huế không còn giáo sĩ bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.
  • Khi hai bên còn đang thương nghị về việc này thì quan nước Pháp thấy thuyền của Đại Nam đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân đắp đồn lũy, nghĩ rằng có âm mưu bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ chạy ra biển. Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận, có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Những sự kiện này mở đầu “đường lối ngoại giao pháo hạm” của thực dân Pháp, báo hiệu trước những hành động xâm lược về sau này.
  • Một vài tháng sau Thiệu Trị lâm bệnh nặng. Theo sử nhà Nguyễn, con trai trưởng của ông là Nguyễn Phúc Hồng Bảo, một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành. Vì vậy khi gọi các quan Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào trăn trối, Thiệu Trị để di chiếu truyền ngôi cho con thứ là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. Hồng Bảo được tin đem binh vào, nhưng bị quan Phạm Thế Lịch giữ lại. Một mình Hồng Bảo vào lạy lục vua cha Thiệu Trị, nhưng vua quay mặt đi không trả lời. Hồng Bảo bị Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa vào hậu cung và giữ ở đó.
  • Thiệu Trị qua đời ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, tức 4 tháng 10 năm 1847, hưởng thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến Tổ. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu. Lăng của ông là Xương Lăng, tọa lạc tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
  • Gia quyến của nhà vua
  • Vua Thiệu Trị có rất nhiều vợ. Hoàng hậu của ông là Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu Phạm Thị Hằng ,con ngài Lễ bộ thương thư Phạm Đăng Hưng. Lăng của Thái hoàng thái hậu phía trái điện Xương Lăng. Hoàng hậu được tôn thờ tại Hữu Nhất Án tại Thái Miếu trong Đại nội của Kinh thành Huế.
  • Vua Thiệu Trị có 64 người con, gồm 29 hoàng tử và 35 công chúa.
  • Hoàng tử
  • 1. Hồng Bảo, An Phong Quận Vương
  • 2. Hồng Nhậm con bà Phạm Thị Hằng
  • 3. Hồng Phố, Thái Thạnh Quận Vương
  • 4. Hồng Y, Thoại Thái Vương
  • 5. Hồng Kiệm
  • 6. Hồng Tố, Hoằng Trị Vương
  • 7. Hồng Truyền, Vĩnh Quận Công
  • 8. Hồng Hưu, Gia Hưng Vương
  • 9. Hồng Kháng, Phong Lộc Quận Công
  • 10. Hồng Kiện, An Phước Quận Vương
  • 11. Hồng Thiệu
  • 12. Hồng Phò, Tuy Hoà Quận Vương
  • 13. Hồng Bàng
  • 14. Hồng Sâm
  • 15. Hồng Trước
  • 16. Hồng Nghi, Hương Sơn Quận Công
  • 17. Hồng Thi
  • 18. Hồng Tiệp, Mỹ Lộc Quận Công
  • 19. Tảo thương
  • 20. Hồng Hy
  • 21. Hồng Cơ
  • 22. Hồng Trù
  • 23. Hồng Đình, Kỳ Phong Quận Công
  • 24. Tảo thương
  • 25. Hồng Diêu, Phú Lương Quận Công
  • 26. Hồng Cai, Thuần Nghị Kiến Thái Vương
  • 27. Tảo thương
  • 28. Hồng Nghê
  • 29. Hồng Dật
 Lăng Tự Đức
lăng vua Tự Đức. Đây là một trong những lăng mộ đẹp nhất của các vua triều Nguyễn. Lăng này được xây dựng từ năm 1864 đến năm 1867. 
 

  • Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.
  • Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
  • Tự Đức đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh.
  • Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn nhẫn , là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.
  • Tương truyền, dân chúng ta thán:
  • Vạn Niên là Vạn Niên nào
  • Thành xây xương lính, hào đào máu dân
  • Ngày 8-9 âm lịch năm Bính Dần (1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm võ khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại. Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.
  • Tuy nhiên, do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời.
  • Khiêm Lăng
  • Lăng Tự Đức
  • Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Lối đi lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.
  • Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường - nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.
  • Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của Tự Đức trước lịch sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội(còntiếp)

















Lăng Tự Đức: Bức tranh sơn thủy hữu tình
  • Trong số 13 vua Nguyễn, vua Tự Đức là người uyên thâm nhất về nền học vấn Đông phương, nhất là nho học. Vua giỏi cả về sử học, triết học, văn hóa nghệ thuật và đặc biệt là thơ văn. Vua đã để lại 600 bài văn và 4000 bài thơ chữ Hán và khoảng 100 bài thơ chữ Nôm. Tư chất ấy cũng được biểu lộ rõ trên nghệ thuật kiến trúc của lăng vua.
  • Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn, hòa nhập với thiên nhiên. Không có đường nét thẳng tắp, góc cạnh, mà thay vào đó là sự hài hòa, uốn lượn như chìm hẳn vào thiên nhiên, dù cho công trình là hoàn toàn do tay con người kiến tạo. Nhìn chung, tổng thể kiến trúc này đầy trang trọng và mỹ thuật cao được cấu tạo hài hòa giữa đồi núi nhấp nhô, cây cỏ tốt tươi, rừng thông xanh biếc, khe hồ nước chảy du dương thành một khung cảnh êm đềm thơ mộng và hết sức tươi đẹp, phảng phất nét u trầm thanh nhã như tâm hồn mẫn cảm, yêu thích thiên nhiên và nghệ thuật của vị vua hiền đức hiếu thảo, được người đời mệnh danh là "ông vua thi sĩ"
  • Đường vào lăng Tự Đức
  • Trong vòng La thành rộng khoảng 12ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng, các hệ thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch Bát Tràng đã nối tất cả các công trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.
  • Qua khỏi Khiêm Cung Môn, cửa tam quan hai tầng dựng trên một thế đất cao, người ta bước vào một hệ thống cung điện gồm vài chục tòa nhà lớn nhỏ và các công trình kiến trúc phụ thuộc. Tòa ngang dãy dọc nơi đây đã được dành cho vua và đoàn cung nữ tùy tùng thỉnh thoảng lên ở lại vui chơi. Minh Khiêm Ðường - nhà hát cổ xưa và mang giá trị nghệ thuật kiến trúc trang trí. Ðiện Hòa Khiêm - nơi thờ đế và hậu, hiện còn chứa nhiều đồ ngự dụng và các tác phẩm mỹ thuật đương thời.
  • Ba dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu.
  • Nếu nhà cửa ở Khiêm Cung đều làm bằng gỗ thì tất cả các công trình kiến trúc ở khu vực lăng mộ bên kia đều được xây bằng gạch, đá. Ðáng để ý nhất là tấm bia lớn nhất Việt Nam cao chừng 5m, được bảo vệ bằng một tòa nhà đồ sộ kiên cố với cột to, vách dày và xây cửa cuốn. Các nhà kiến trúc đã cho xây Bi đình bằng vật liệu và kiểu thức như vậy là dùng để chống chọi với thời gian. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành xây bằng gạch và chính giữa có ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi vua yên nghỉ. Bửu thành được bao phủ bởi một rừng thông xanh ngắt, reo vi vu suốt bốn mùa.
  • Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh nặng 20 tấn có khắc bài "Khiêm Cung Ký" do nhà vua soạn thảo. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia "Thánh đức thần công" trong các lăng khác.
  • Ngoài ra, hệ thống tháo thoát trong toàn lăng tẩm đã được thiết kế, xây dựng một trình độ cao, và lưu thông rất tốt. Nhìn chung, mỗi công trình kiến trúc trong lăng Tự Ðức đều mang một đường nét khác nhau về nghệ thuật tạo hình: không trùng lặp và rất sinh động. Cách phân bố các khu vực và bố cục các công trình kiến trúc trong từng khu vực ở lăng Tự Ðức đã phá bỏ hệ thông lệ giữ gìn sự đối xứng từng cổ điển ở một số lăng khác.
  • Những công trình kiến trúc đá cổ xưa trong khu mộ
  • Vua Tự Đức đã nằm xuống giữa một không gian của thơ và nhạc, của sự yên bình trong tổng thể kiến trúc trác tuyệt về nghệ thuật xây dựng lăng tẩm thời Nguyễn. Người đời sau mỗi khi đứng trước khung cảnh thơ mộng này, ai cũng nghĩ đến một câu thơ đề tặng "ngôi nhà vĩnh cửu" của vua Tự Đức với sự tâm đắc, ngưỡng mộ:
  • "Tứ bề núi phủ mây phong, Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên".





Lăng Tự Đức là một trong những kiến trúc lịch sử ở Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.

Chí Khiêm Đường nơi thờ các bà vợ vua.








Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm.









Vua Tự Đức cai trị từ năm 1848 đến năm 1883. Lúc đó nước nhà đang gặp nhiều khó khăn, nên Vua đã xây lăng này như một hoàng cung thứ hai. Vua thường đến đây tiêu khiển giải sầu.

Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách.





Vua Tự Đức là một nhà thơ có tâm hồn nghệ sĩ nên kiến trúc của lăng mộ này vì thế rất đẹp và thơ mộng. Bài chi tiết tôi sẽ viết sau. (Sẽ bổ túc sau).

Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu.











Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức.











Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ.











Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn.








Khu lăng mộ.



























"Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.

Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.

Tự Đức đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh.

Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn nhẫn, là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.

Tương truyền, dân chúng ta thán:

Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân

Ngày 8-9 âm lịch năm Bính Dần (1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm võ khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại. Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.

Tuy nhiên, do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời.

Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Lối đi lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.

Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường - nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.

Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của Tự Đức trước lịch sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội."

 http://static.panoramio.com/photos/original/8328485.jpg

 http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/d/d7/Nh%C3%A0_h%C3%A1t_Minh_Khi%C3%AAm_(L%C4%83ng_T%E1%BB%B1_%C4%90%E1%BB%A9c).JPG
 https://lh4.googleusercontent.com/-HGx-yNVuqsg/TyK3ka24HOI/AAAAAAACHPA/SE3g-VJxif8/s800/DSC_0797-1.JPG
 Nhà_bia
 http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/c/cd/Nh%C3%A0_bia_L%C4%83ng_T%E1%BB%B1_%C4%90%E1%BB%A9c.JPG
 Xung_Khiêm_Tạ,_Lăng_Tự_Đức
 http://statics.datphonghangngay.com/V2/locations/pictures/37701683.jpg

 http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/0/05/Xung_Khi%C3%AAm_T%E1%BA%A1,_L%C4%83ng_T%E1%BB%B1_%C4%90%E1%BB%A9c.JPG


Lăng Đồng Khánh (Tư lăng)

 Vua Đồng Khánh ( 1864 – 1889), miếu hiệu Nguyễn Cảnh Tông, là vị vua thứ 9 của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889. Thụy hiệu của ông là Hoằng Liệt Thống Thiết Mẫn Huệ Thuần Hoàng Đế.


Hoàng đế Việt Nam

Vua nhà NguyễnTrị vì 1885 - 1889

Tiền nhiệm Hàm Nghi
Kế nhiệm Thành Thái
Vợ Nguyễn Hữu Thị
Dương Thị Thục

Hậu duệ
6 hoàng tử và 3 công chúa
Tên húy
Nguyễn Phúc Ưng Kỷ
Niên hiệu
Đồng Khánh (1885 - 1889)
Thụy hiệu Hoằng Liệt Thống Thiết Mẫn Huệ Thuần Hoàng Đế
Miếu hiệuCảnh Tông
Triều đại Nhà NguyễnHoàng gia ca
Đăng đàn cung
Thân phụ Nguyễn Phúc Hồng Cai
Thân mẫuBùi Thị ThanhSinh1864
Mất1889
Việt Nam
An táng Tư Lăng

Đồng Khánh sinh ngày 12 tháng giêng năm Giáp Tý, tức ngày 19 tháng 2 năm 1864. Tên húy của Đồng Khánh các tài liệu ghi rất mâu thuẫn, có nhắc tới những tên Nguyễn Phúc Ưng Kỷ ,Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện , Nguyễn Phúc Chánh Mông, ngoài ra còn có tên Nguyễn Phúc Đường.
Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Năm 1865 Ưng Kỷ được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.
Khi đó vua em Hàm Nghi đã thoát ly triều đình kéo cờ khởi nghĩa chống Pháp, Thống tướng de Courcy sai ông de Champeaux lên yết kiến Hoàng thái hậu Từ Dũ, mẹ đẻ của vua Tự Đức, để xin lập Ưng Kỷ lên làm vua. Ngày 6 tháng 8 năm Ất Dậu, tức ngày 19 tháng 9 năm 1885, Nguyễn Phúc Ưng Kỷ phải thân hành sang bên Khâm sứ Pháp làm lễ thụ phong, được tôn làm vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh.
Đồng Khánh là ông vua không chống Pháp. Sách của Trần Trọng Kim viết: "Vua Đồng Khánh tính tình hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người Pháp."
Khi đó vua Hàm Nghi đang ở vùng Quảng Bình, quân Pháp đang tấn công về vùng đó. Vua Đồng Khánh đích thân ra tận Quảng Bình để dụ vua Hàm Nghi và các quan tùy tùng về hàng, hứa là sẽ cho cai trị 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhưng không thành công. Sau đó vua Hàm Nghi bị một thuộc hạ là Trương Quang Ngọc làm phản. Hàm Nghi bị người Pháp bắt rồi bị đưa đi đầy ở Algérie.
Vua Đồng Khánh ở ngôi đươc ba năm thì bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý, tức ngày 28 tháng 1 năm 1889. Khi đó ông 25 tuổi.
Lăng của vua Đồng Khánh là Tư Lăng tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Ông được thờ tại Tả Tam Án ở Thế Miếu và Tả Tam Án điện Phụng Tiên trong Đại Nội kinh thành Huế.





Hoàng hậu của vua Đồng Khánh:
  • Thánh Cung Hoàng Hậu, huý Nguyễn Hữu Thị, con Vĩnh Lai Quận Công, Cơ Mật viện Đại thần Nguyễn Hữu Độ. Hoàng hậu được an táng ở Tư Minh lăng, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
  • Tiên Cung Hoàng Hậu Dương Thị Thục, mẹ của vua Khải Định.
Vua Đồng Khánh có 6 hoàng tử và 3 công chúa:
  • Hoàng tử
    • Bửu Đảo, tức vua Khải Định
    • Bửu Tung, An Hoá Quận Vương
    • Tảo thương
    • Bửu Nga
    • Bửu Cát
    • Bửu Quyên
  • Công chúa
    • Ngọc Lâm
    • Ngọc Sơn
    • Công chúa thứ 3 không rõ tên
    • ---------------------------
  • Bài đọc thêm
  • Sinh hoạt của vua Đồng Khánh
  • Sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn chống Pháp, triều đình Huế rối beng vì không có vua. Thống tướng De Coucey đày Nguyễm Văn Tường, Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính ra đảo Haiti; sai ông De Champeaux lên Khiêm Lăng yết kiến đức Từ Dũ, xin lập ông Chánh Mông là Kiến Giang Quận Công lên làm vua.
    Ngày mồng 6 tháng 8, ông Chánh Mông phải thân hành sang bên tòa Khâm Sứ làm lễ thụ phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
    Tương truyền khi còn là Hoàng Tử , muốn biết thời điểm nào lên ngôi và làm vua được bao lâu, hoàng tử đã khẩn cầu nữ thần Thiên Y Na ở điện Hòn Chén cho biết. Nữ thần đã đóan đúng ngày Hoàng Tử lên ngôi vua. Sau đó, Đồng Khánh đã xây cất lại ngôi đền này, đặt tên là Huệ Nam Điện.
    Đồng Khánh là ông vua đầu tiên của triều Nguyễn thừa nhận nền bảo hộ của Pháp, tiếp xúc với nền văn minh Tây phương, mang huy chương Bắc Đẩu bội tinh, là người đầu tiên gửi mua hàng hóa của Pháp qua trung gian của một thương gia người Pháp ở Huế.
    Ông cũng thích mua các đồ chơi do người Pháp chế tạo. Mội lần hàng về, Đồng Khánh ban một phần cho các hoàng thân, các đại thần, cung phi mỹ nữ cùng các thái giám hầu cận.
    Trong sinh hoạt thường nhật, nhà vua hay chú ý đến ngoại diện, thường chăm sóc trang điểm. F . Baille kể lại trong bài " Les Annamite " như sau.
    - " Hằng ngày một toán cung nữ được chọn trong tất cả đẳng cấp phục dịch Đức vua. Ba mươi người chia nhau canh gác hậu cung của Ngài, năm nàng luôn ở cạnh Ngài, luân phiên săn sóc, trang điểm cho Ngài. Các nàng thay quần áo cho Ngài, chải chuốt bộ móng tay cho dài hơn ngón tay, thoa dầu thơm, vấn khăn lụa chung quanh đầu Ngài. Sau cùng, chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt quanh Ngài sao cho thật hoàn hảo; năm cung nữ này cũng kiêm lo hầu cơm nước Đức vua.
    Thường nhật Ngài dùng ba lần: sáu giờ sáng, mười một giờ trưa và ba giờ chiều. Mội bữa ăn có 50 món khác nhau, do 50 đầu bếp nấu nướng cho hoàng cung. Một người lo nấu một món riêng của mình và khi chuông đổ thì trao cho đám thị vệ đưa qua đoàn thái giám. Các ông này chuyển đến năm cung nữ và chỉ có mấy nàng mới được hân hạnh quỳ gối hầu cơm Đức vua. Ngài nhấm nháp vài món ăn và uống một thứ rượu mạnh đặc biệt chế bằng hột sen và các loại cây có mùi thơm. Đức vua Đồng Khánh còn dùng rượu chát Bordeaux theo lời khuyên của các y sĩ để giúp cho tạng phủ hơi yếu.
    Gạo đức vua dùng phải thật trắng và chọn lựa từng hạt, nấu trong nồi đất, mỗi lần nấu xong thì đập bỏ. Đũa vua dùng vót bằng tre vừa mới trổ đủ lá và thay đổ hằng ngày. Loại đủa ngà không tiện dụng vì hơi nặng với tay nhà vua. Số lượng gạo phải được xem kỷ và nấu thật đúng , không bao giờ nhiều hay ít hơn, nếu Đức vua không ăn như ngày thường, nếu ngày thấy không ngon miệng thì Ngài gọi các viên Ngự Y đến xem mạch bốc thuốc. Ngài bắt các y sĩ uống thuốc trước mặt Ngài ".
  • Vị nữ thần đền Ngọc Trản đã tiên đoán đúng ngày Đồng Khánh lên ngôi, nên nhà vua rất lo sợ khi nghỉ đến lời của thần báo cho biết mình chỉ làm vua được 3 năm.
    Hẳn nhà vua muốn kéo dài tuổi thọ, thay đổi cơ trời nên rất thích đọc các sách về Kinh Dịch, bói toán, tìm hiểu những điều huyền bí. Với một ông vua còn trai trẻ như vậy ( 22 tuổi) cũng là một điều hiếm!
    Nhà vua thường lên đền Ngọc Trản ( điện Hòn Chén ) cầu bái, lại sắc cho bộ Lễ, mỗi năm hai kỳ ( mùa Xuân và mùa Thu) phải cử một vị quan đại diện triều đình đến nơi để dâng đồ lễ.
    Những bức hoành, bức liễn, những bài thơ treo trong đền thờ, một phần lớn do Đồng Khánh sáng tác để ca tụng công đức Nữ Thần che chở cho ngai vàng và bảo vệ dân chúng; tên Huệ Nam Điện do ông đặt cũng phát sinh từ ý đồ ấy.
    Tuy vua rất sợ ngày kết cục cuộc sống đời mình, nhưng rồi ngày ấy cũng vẫn đến. Nữ thần đã đoán đúng. Sau 3 năm trị vì, Đồng Khánh nhuốm bệnh nặng, không ăn được thứ gì cả. Thỉnh thoảng cơn sốt nổi lên, đầu nhà vua nhức như búa bổ. Quan Ngự Y người Việt không chữa được, kẻ bị quở trách, kẻ bị giam cầm. Vua nhờ bác sĩ Pháp. Ông Cotte được cử sang chữa trị, nhưng không được ở lại trong cung, chỉ dặn dò các viên thái giám cách pha chế thuốc rồi phải ra về. Sau nửa tháng nhuốm bệnh, ông qua đời vào lúc 8 giờ tối ngày 28 tháng Giêng năm 1889. Theo nhiều người thuật lại, nhà vua bị ám ảnh bởi cái chết của Phan Đình Bình, vị đại thần có ý tôn Bửu Lân lên sau khi Hàm Nghi rời bỏ ngai vàng, nên trong khi nhuốm bệnh, thường la hét vì ác mộng.
    Đồng Khánh qua đời, để lại hơn 10 bà phi, nhưng chỉ có 6 hoàng tử và 3 công chúa, thọ 25 tuổi.

  • ĐỒNG KHÁNH XEM DIỄN TUỒNG
    Cuộc vui trong Hoàng Cung thường là diễn tuồng ở Duyệt Thị Đường. Từ vua Tự Đức trở về trước, nhà vua chỉ xem diễn tuồng với các đại thần hoặc cung phi; đến khi vua Đồng Khánh lên ngôi , có thêm các quan Pháp, cũng được mời xem. Đây là quang cảnh một buổi diễn tuồng dưới triều Đồng Khánh do F. Baille kể lại:
    - " Cuộc vui được chọn diễn trong diễn Hoàng Cung để hầu Đức Vua thường là hát bội . Người ta trang hoàng một gian phòng thật rộng hình vuông, ba phía bỏ trống giữa có nhiều bàn dài trải vải đỏ để tiếp khách; trên có trái cây và bánh gói giấy đủ màu, hình dáng kỳ lạ, ly tách để các thị vệ rót rượu bia, nước trà. Đức vua ngồi trên ngai b vàng riêng biệt đặt trên cái bục khá cao trước mặt có một cái bàn để tách và hộp đựng đường làm bằng ngọc thạch, một cái mâm nhỏ có vành cao tuyệt khéo đựng những món đồ dùng của Ngài mà đi đâu Ngài đem theo. Một túi vải nhỏ đựng đầy thuốc điếu dài và nhỏ, một đồng hồ báo thức bằng vàng, vài món nữ trang, dầu thơm, bình xịt dầu, một cái gương nhỏ...tất cả đồ lễ của một ông vua ở Á Đông mới quen với nền văn minh của chúng ta.
    Bên mặt và bên trái của Ngài, ông Thống Sứ và Tướng chỉ huy quân đội ngồi trên ghế riêng rẽ. Phía sau có treo một bức sáo đan thưa, người đứng có thể nhìn qua kẽ hở. Chúng tôi nghe được cả tiếng nói thì thầm của mấy nàng cung nữ hầu vua ( ....)
    Đức vua vừa ngự trên long ỷ thì dàn nhạc giáo đầu gồm lối hai mươi nhạc sĩ ngồi xổm đánh trống, gảy đàn, thổi kèn tạo thành một giai điệu triền miên và ỉnh tai. Trước mặt n họ có một cái trống lớn, đúng ra là một cái thùng to. Một vị quan lớn ngồi sau trống. Chúng tôi nhận thấylà nhạc phụ của Đức Vua , quan kinh lược ở Bắc kỳ. Mỗi khi nghệ sỹ khéo trình diễn, thì ông đánh hai hay ba tiếng trống, mỗi tiếng tiêu biểu một số tiền biếu tặng diễn viên.
    Các đào kép trong vở tuồng ăn mặc chững chạc ra sân khấu lạy chào Đức vua, đoạn đưa ra nhiều mảnh vải thêu những chữ nho lớn tỏ lòng tôn kính và chúc Đức vua sống lâu. Một diễn viên khác lược thuật vỡ tuồng với giọng chát chúa, tiếp đến là bắt đầu xuất hát mà người ta không biết chắc chừng nào chấm dứt .... "
    Vì thích xem hát bội, vua Đồng Khánh đặt tên cho những cung nữ của mình theo tên các nhân vật trong vở Vạn Bửu Trình Tường, như Đại Hoàng , Nhân Sâm, Cam Thảo..v..v..
    Đây là vở ông đặc biệt yêu thích, các nhân vật lấy tên các vị thuốc mà đặt.

  • MỘT CẢNH TIẾP ĐÓN PHÁI ĐÒAN PHÁP
    Khác với các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cố tìm cách xa lánh người Pháp, vua Đồng Khánh lại cố thắt chặt tình thân hữu. Thỉnh thoảng ông mời các vị đại diện Pháp vào Đại Nội dự yến hay xem hát tuồng.
    Một sự thay đổi về cung cách tiếp đón phái đoàn ngoại giao Pháp dưới triều Đồng Khánh là phái đoàn được đi cửa giữa Ngọ Môn, kể cả viên Khâm Sứ lẫn đoàn tùy tùng. Đây là một sự kiện chưa bao giờ có từ triều Tự Đức trở về trước. Các quan Pháp, dù lớn đến bực nào, hễ vào đại Nội, là phải đi cửa bên, vì chỉ có vua mới đi cửa giữa. Lúc phái đoàn ngoại quốc vào điện, vua vẫn chễm chệ ngồi trên ngai vàng, việc đón tiếp đã có hoàng thân, bá quan văn võ đảm trách. Qua triều Đồng Khánh, có sự thay đổi khác biệt. Lúc quan khách ngoại quốc đến cửa Ngọ Môn, các hoàng thân, các viên Đại thần mặc áo đại triều, mang hia, đội mũ đứng chực sẵn để tiếp đón. Các hoàng thân, các vị đại thần đều đứng trong điện Thái Hòa, còn bá quan theo phẩm trật nhỏ không được tham dự.
    Từ cửa Ngọ Môn, phái đoàn tiếp tân đưa viên Khâm Sứ và đoàn tùy tùng vào trong điện. Vua Đồng Khánh ngồi trên ngai đặt tận trong cùng sau lưng có mấy thị vệ phe phẩy quạt hầu.
    Ông bước xuống ngai, nói mấy câu hàn huyên và nghe mấy câu chúc từ của đại diện Pháp rồi trả lời lại, tiếng nói rất nhỏ ( vì theo đúng nghi thức tiếng nói của bậc Đế Vương bao giờ cũng nhỏ). Một viên quan ngự tiền dịch ra tiếng Pháp.
    Vua Đồng Khánh mời quan khách qua điện Càn Thành để dùng trà. Nhà vua mặc áo hoàng bào thêu rồng chạy chỉ vàng đính châu ngọc. Chiếc áo khá nặng nên đi mỗi bước phải có thái giám chạy theo nâng vạt áo trước lên ( cũng nên biết thêm là những lúc đáp thăm tại tòa Khâm Sứ, trên hai bên vai áo vua còn cài thêm hai cái ngủ đúc thành hình con rồng bằng vàng đặc). Tiếp theo vua là quan Khâm Sứ, đoàn tùy tùng và quan lại. Sau đó là một ban nhạc, vừa đi vừa cử nhạc...

Lăng Ðồng Khánh

Lăng Ðồng Khánh hay Tư Lăng là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng vua Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, xã Thủy Xuân, thành phố Huế).


Tư Lăng


Ông vua vắn số này yên nghỉ giữa một vị thế nồng ấm tình cảm gia đình. Chung quanh ông là lăng mộ của bà con quyến thuộc: lăng Tự Ðức (bác ruột và là cha nuôi), lăng Kiên Thái Vương (cha ruột), lăng bà Từ Cung (con dâu), lăng bà Thánh Cung (vợ). Xa hơn là lăng Tá Thiên Nhân Hoàng hậu (bà cố nội), lăng Thiệu Trị (ông nội)... Âu đó cũng là sự bù đắp cho vị vua kém may mắn này.


Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Ðường, con trai cả của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876), người sinh thành 3 vị vua: Kiến Phúc (1883-1884), Hàm Nghi (1884-1885) và Ðồng Khánh (1886-1888). Ca dao Huế từng nói về vương nghiệp của ba ông vua này:
Một nhà sinh đặng ba vua Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài. Ðồng Khánh là anh cả nhưng lại được đưa lên ngai vàng sau cùng. Bấy giờ, khi vua Hiệp Hòa bị giết (1883), Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lập Hoàng tử Ưng Ðăng (con nuôi vua Tự Ðức, em thứ hai của Ưng Ðường) lên làm vua, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Ở ngôi được 8 tháng thì Kiến Phúc qua đời, em trai là Ưng Lịch được kế vị, đặt niên hiệu Hàm Nghi. Hàm Nghi trị vì được một năm thì kinh đô thất thủ (5-7-1885), phải rời ngai vàng theo Tôn Thất Thuyết ra Sơn phòng Tân Sở, phát chiếu Cần Vương kháng Pháp. Triều thần và chính phủ bảo hộ đưa anh trai Hàm Nghi vào ngai vàng đang để trống, đó là Ðồng Khánh. Ðồng Khánh làm vua được 3 năm thì qua đời vào giữa tuổi 25. Nhà vua không ngờ mình chết sớm như vậy nên chưa hề lo nghĩ đến sinh phần mai sau của mình. Lăng Ðồng Khánh hiện hữu, thực chất là nơi vua Ðồng Khánh tá túc vĩnh viễn trong điện thờ thân phụ của ông. Sự ra đời của khu lăng tẩm này khá nhiều trắc trở.
Sau khi lên ngôi, Ðồng Khánh thấy lăng mộ của cha mình ở Cư Sĩ chưa có điện thờ nên sai Bộ Công dựng điện Truy Tư cạnh đó để thờ cha. Ðiện Truy Tư khởi công vào tháng 2 năm 1888, đến tháng 10 năm đó hoàn tất về căn bản. Ðồng Khánh rước bài vị của Kiên Thái Vương về thờ trong điện, đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh công trình. Thế nhưng, trong khi công việc kiến trúc đang tiếp tục thì Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Ðồng Khánh. Thi hài nhà vua cũng được an táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn, cách điện Ngưng Hy 30m về phía Tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi tên là Tư Lăng.
Tháng 8 năm 1916, sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Ðịnh (1916-1925), con trai vua Ðồng Khánh đã tu sửa điện thờ và xây cất lăng mộ cho cha mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ Bái Ðình, Bi Ðình đến Bửu Thành và Huyền Cung đều được kiến thiết dưới thời Khải Ðịnh, đến tháng 7-1917 mới hoàn thành. Riêng điện Ngưng Hy cùng Tả Hữu Tùng Viện; Tả Hữu Tùng Tự tiếp tục được tu sửa cho đến năm 1923.
Ra đời trong quá trình dài như thế, lăng Ðồng Khánh mang dấu ấn hai trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau. Nếu phong cách cổ truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc lăng Tự Ðức và phong cách hiện đại được thể hiện rõ nét trong kiến trúc lăng Khải Ðịnh sau này thì lăng Ðồng Khánh là một bước trung chuyển. Sự tồn tại khá biệt lập của hai khu vực lăng và tẩm càng làm rõ thêm điều này. Ở khu vực tẩm điện, nhìn tổng thể, các công trình vẫn mang dáng xưa: lối kiến trúc trùng thiềm điệp ốc ở chính điện và các nhà cửa phụ thuộc, vẫn những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy với đồ án trang trí tứ linh, tứ quý... quen thuộc. Ðáng chú ý là điện Ngưng Hy, một công trình vốn được coi là nơi bảo lưu bậc nhất nghệ thuật sơn son thếp vàng, nghệ thuật sơn mài nổi tiếng của Việt Nam. Trên các đố bản ở nội thất là hàng loạt các ô hộc trang trí các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước... bằng sơn mài, ghép khảm và chạm nổi. Ðặc biệt trong chính điện còn có 24 đố bản vẽ các bức tranh trong điển tích Nhị thập tứ hiếu kể về những tấm gương hiếu thảo ở Trung Hoa.
Công việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối đời vua (1888: khu vực điên Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm thêm từ năm đầu thời Thành Thái (1889: khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915,1917,1921,1923).
Trên thực tế, công việc kiến trúc lăng Đồng Khánh đã diễn ra nhiều đợt trong một giai đoạn lịch sử dài ngót 35 năm (1888-1923) qua 4 thời vua Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân và Khải Định.
Về mô thức kiến trúc, lăng Đồng Khánh có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông nam, ngay trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yấu tố “minh đường” và ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 kim được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về hướng đông-đông nam, tiền án của nó là núi Thiên Thai...Nếu tượng các quan viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng voi gạch với dáng cao ngưng gầy
Công trình kiến trúc nổi bật về mặt mỹ thuật ở lăng Đồng Khánh là điện Ngưng Hy, là một toà nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế, nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một toà nhà thứ ba nữa (nhà hậu). Thành ra ở đây có đến 3 hệ thống vì kéo được ghép lại với nhau theo hình chữ “tam” với hai hệ thống máng xối ở giữa. Mặt bằng thực tế của toà nhà rất rộng, nhưng trông vẫn gọn gàng xinh xắn, có lẽ nhờ cách trang trí ở nội ngoài thất.
Vật liệu trang trí trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm, đầu hồi, đều làm bằng pháp lam ngũ sắc hoặc đất nung tráng men màu. Được phân khoản trong từng ô hộc, hàng trăm hình ảnh và câu thơ xen kẽ nhau chạy quanh trên cả toà nhà. Ở đó người xưa đã diễn tả rất nhiều sinh hoạt cổ truyền và cảnh vật dân gian như ngư tiều canh mục, cầm kỳ thi tửu, ngư ông đắc lợi...con gà, con rắn, cắc kè, voi, ngựa, các thứ động vật và cây cỏ thông thường khác. Có giá trị đặc biệt nhất ở đây là loại đất nung tráng men màu. Loại này được phát triển mạnh ở điện Ngưng Hy để sau đó ít thấy dùng trong trang trí cung điện và lăng tẩm. Đây là một loại hình tạo tác thủ công mỹ nghệ đặc sắc và quý hiếm của địa phương.
Bên trong điện, các nghệ nhân đầu thế kỷ đã tạo ra được một không gian nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc viết vẽ lên các panô và hệ thống kiên ba đồ bản. Hệ thống cột kèo tiền điện cũng sơn son thép vàng. Màu sắc mọi hình ảnh trang trí đều còn đậm đà, chói lọi. Một loại hình ảnh trang trí độc đáo ở nôi thất Ngưng Hy là vẻ cảnh sinh hoạt của 24 câu chuyện trong “Nhị thập tứ hiếu”.
Lăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử Việt Nam nên kiếm trúc lăng đan xem giữa kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, kiến trúc lăng đã thành công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.


Nhà bia và khu mộ vua Đồng Khánh


Tượng voi ngựa và quan viên



Một đoạn tường ngoài lăng Đồng Khánh xuống cấp, mới chỉ gia cố tạm. Nơi đây và toàn lăng hạn chế tham quan



Lăng Đồng Khánh, nhìn từ mặt chính

bài đọc thêm

Cung môn, cổng chính vào khu tẩm điện lăng vua Đồng Khánh đã xuống cấp, phải chống đỡ như thế này

- Dự án đầu tu bảo tồn, tu bổ tổng thể khu di tích lăng vua Đồng Khánh (giai đoạn 1) vừa được UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế phê duyệt. Tổng mức đầu tư là 76,343 tỉ đồng từ ngân sách và các nguồn huy động khác, thực hiện dự kiến trong bốn năm kể từ năm 2008.
Khu vực lăng vua Đồng Khánh tọa lạc tại thôn Thượng Hai, xã Thủy Xuân, xung quanh là hàng loạt lăng mộ của bà con thân thuộc. Khu tẩm điện và lăng mộ bắt đầu được xây dựng từ năm 1888, được đánh giá có giá trị điển hình cho giai đoạn kiến trúc chuyển tiếp giữa cổ truyền và hiện đại, và là một trong 17 cụm di tích thuộc quần thể di sản văn hóa được UNESCO công nhận tại Huế. http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/c/c6/Tomb_of_DongKhanh4.JPG

http://static.panoramio.com/photos/large/52488931.jpg















Lăng Khải Định :

Trong quyển “L’art Vietnamien” (Mỹ thuật Việt Nam), L.Bezacier đã gọi mỹ thuật thời Khải Định là thời “tân cổ điển” trong lịch sử mỹ thuật nước ta. Nhân dịp TP Huế chuẩn bị tổ chức Festilal Huế 2010  E-info gởi đến bạn đọc bài giới thiệu lăng Khải Định
Nếu so sánh thời gian thì lăng Gia Long xây dựng trong 6 năm (1814-1820) lăng Minh mạng trong trong 4 năm (1840-1843), lăng Tự Đức trong 3 năm (1864-1867) thì công việc kiến trúc của lăng Khải Định kéo dài đến 11 năm (1920-1931). So với 6 khu lăng của các vua nhà Nguyễn, lăng Khải Định là lăng sau cùng, và mặt bằng kiến trúc nhỏ hẹp nhất, nhưng đây lại là công trình đòi hỏi nhiều nhất về thời gian, công sức và tiền của.
Dưới thời Khải Định (1916-1925), ngoài lăng này, một loạt công trình kiến trúc khác cũng đã được thực hiện theo một kiểu cách mới, hợp với sở thích của nhà vua: dùng vật liệu bê tông, trang trí nổi bằng cách ghép mảnh sành sứ và thủy tinh. Đó là cung An Định (đặc biệt là nhà hát Cửu Tư Đài(, lầu Kiến Trung (trong Tử Cấm Thành), cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức, cửa Trường An ở Hoàng Thành… Các công trình ấy, nhất là lăng KHải Định hiện còn hầu như nguyên vẹn, đánh dấu một giai đoạn kiến trúc mới lạ trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam.

Tiền cảnh Lăng Khải Định (Ảnh Hoàng Kim)

Vào năm 1920, sau khi các thầy địa đi coi đất và chọn địa điểm xong, triều đình huy động nhiều tù nhân và binh lính ở Huế lên làm việc khổ sai tại đó: mở đường, phá nú, làm toại đạo, tạo ra mặt bằng xây dựng ở triền phía tây của một ngọn núi thuộc vùng Châu Chử. Bấy giờ, vùng núi Châu Chử, nơi có khe Châu Ê chảy qua, là nơi nước độc, đầy lam sơn chướng khí. Tù nhân, binh lính và thợ thuyền lên làm việc ở đây đã bị bệnh, bị thương và chết khá nhiều. Cho nên, ở Huế lúc ấy lưu truyền câu ca dao:
Châu Ê ơi hỡi Châu Ê,
Khi đi thì có, khi về thì không.
Triều đình đã đưa tất cả các thợ thủ công có tay nghề cao nhất trong “Nê ngoã tượng cuộc” lên dạy làm việc dài hạn. Trong số đó có một nghệ nhân nổi tiếng nhất về tài trang trí bằng cách vẽ những bức hoạ long vân trên trần và đáp nổi cảnh vật lên tường, là cụ Phan Văn Tánh, về sau được tặng hàm bát phẩm.

Mộ bia Lăng Khải Định (Ảnh Hoàng Kim) 
Toàn cảnh sân trong lăng (Ảnh Hoàng Kim)

Trong lăng Khải Định, hiện nay có hai pho tượng bằng đồng tạc hình nhà vua với tỉ lệ 1/1: một pho tượng ngồi trên ngai vàng và một pho tượng đứng. Sự có mặt của tượng vua trong lăng là một điều đặc biệt so với các lăng khác.

Các pho tượng hình quân lính (Ảnh Hoàng Kim)

Pho tuợng ngồi ttrên ngai vàng được thực hiện ở Paris vào năm 1920, do hai người Pháp là P.Ducuing tạc tượng và F.Barbedienne đúc tượng. Trong lòng tượng rỗng nên không nặng lắm, sau khi chở về đến Huế mới mạ vàng bên ngoài.
Còn pho tượng đứng thì ngay tại Huế do một người lính thợ, quê ở Quảng Nam thực hiện. Làm xong, ông cũng được tặng hàm bát phẩm. Tượng này nguyên đặt trong ngôi nhà bát giác xinh xắn mang tên là Trung Lập Đình ở trong sân trước của cung An Định. Vào năm 1960, trong hoàn cảnh chính trị và xã hội thay đổi, pho tượng được đua lên đặt tại Bi đình ở lăng Khải Định. Kể từ năm 1975, nó bị dẹp vào cất trong một phòng kín tại lăng.
Tượng đồng vua Khải Định (Ảnh Hoàng Kim)
Để thực hiện các công trình kiến trúc và trang trí tốn kém ở lăng Khải Định, nhà nước bấy giờ đã tăng thuế điền trên toàn quốc lên 30%. Kinh phí lớn nhất là phải mua vật liệu từ nước ngoài. Sắt Xi măng, ngói đá phải mua từ Pháp. Sành ngang chở từ Hà Đông vào, nhưng sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai, thủy tinh phải nhập từ Trung Quốc, Nhật Bản... Dưới thời Khải Định (1916-1925), chủ quyền Việt Nam đã lọt hẳn vào tay thực dân Pháp và văn hoá nghệ thuật phương Tây đang thâm nhập mạnh vào nước ta. Cho nên,ở lăng Khải Định, một số yấu tố hiện đại (éléments modernes) đã chen lấn vào dòng nghệ thuật kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Thoạt nhìn, lăng Khải Định giống như một toà lâu đài ở châu Âu, vì được xây dựng bằng bê tông trên một sườn núi. Các vật liệu truyền thống của bản địa như gỗ, đá, gạch, vôi ở đây chỉ là một số lượng không đáng kể. Những cánh cửa sắt, gạch ca rô ngói ác-đoa, cột thu lôi (paratonnerre), hệ thống đèn điện những tháp nhọn stoupa cũng là những thứ ngoại lại. Sự loại bỏ màu xanh của lá cây cổ thụ, sự vắng bóng của mặt nước ao hồ và bể cạn trong lăng, làm cho tổng thể kiến trúc từ bậc cấp thứ nhất đến bậc cấp thứ 127 thiếu đi vẻ êm dịu, tưới mát. những con rồng to lớn, kệch cỡm tạo nên các thành bậc thềm của 5 tầng sân càng tăng vẻ mặt nặng nề cứng cỏi của toàn bộ công trình kiến trúc hình khối bằng bê tông.Tuy nhiên, tất cả núi đôi, khe suối của một vùng rộng lớn quanh lăng đều đã được dùng làm các yếu tố phong thủy địa lý: tiền án, hậu chẩm, hổ phục, rồng châu, minh đường, thủy tụ, tạo ra được cho lăng Khải Định một ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ và tráng lệ. Nhưng giá trị nghệ thuật cao nhất của lăng này là ở phẩm trang trí nội thất cung Thiên Định, công trình kiến trúc chính của lăng. 
Ảnh điêu khắc hội họa trong lăng (Ảnh Hoàng Kim)
Về mặt hội hoạ, ở các mặt tường và trần của Tả, Hữu trực phòng, các nghệ nhân xưa đã dùng màu xanh sầm vẽ lên xi măng để giả đá cẩm thạch trông giống như thật. Những bức hoạ long vân với diện tích hàng chục mét vuông trên trần 3 phòng giữa của cung Thiên Định đang được các hoạ sĩ Việt Nam hiện đại công nhận là những bức hoạ hoành tráng có giá trị mỹ thuật cao nhất của nền hội hoạ nước ta.

Về nghệ thuật ghép mảnh lên tường, những “”bàn tay vàng” của các ngệ nhân đầu thế kỷ XX đã dùng hàng vạn mẫu sành sứ thủy tinh đủ màu để đắp nổi thành hàng ngàn hình ảnh cung đình và dân gian sinh động, sống sít, vui mắt: các bộ tranh tứ thời, ngũ phúc, bát bửu, bộ khay trà, mâm ngủ quả, ngọn đèn dầu hoả, những chiếc đồng hồ, mấy cái mè đay, v..v.Mọi hình ảnh tuy được kết cấu bằng những vật liệu cứng, nhưng nhờ sự tạo hình khéo léo, nên trông vẫn trang nhã, mượt mà, óng ả, long lanh.

 
Tác giả bên bàn thờ vua Khải Định (Ảnh Hoàng Kim)

Bằng những đường cong uốn lượn mềm mại của chiếc bửu tán che trên ngự toạ, các nghệ nhân bậc thầy thời ấy đã tạo ra được cho người xem cái ảo giác nó rất nhẹ nhàng, có thể lay động trước một cơn gió thoảng. Ở một số panô thể hiện cây cối hoa lá, khách tham quan có cảm tưởng như đang thấy gió thổi tre nghiêng, mưa rơi liễu rũ...Trong một số hộc khác, các thú vật như đang chạy nhảy trên núi đồi, đồng cỏ, những đôi chim như đang bay lượn, vùng vẫy giữa không gian. Ngoài những chữ “”phúc” ở đây còn tang trí hàng trăm chữ “thọ” và “vạn thọ” được cách điệu hoá bằng cả chục hình thức khác nhau: hình tròn, hình chữ nhật, hình vuông, hình thuẫn, hình cái lư, hình lồng đèn...Thọ nghĩa là sống lâu, sống mãi, nói lên quan niệm “sống gửi thác về” của các vua nhà Nguyễn.. 
Dấu ấn đầu tiên trong mắt khách du lịch là tượng đồng bia đá, với cung Thiên Định giống như một viện bảo tàng, với ngoại cảnh thiên nhiên bao la hùng vĩ, lăng Khải Định là một tác phẩm mỹ thuật tổng hoà của nhiều dòng văn hoá, một điểm giao thoa giữa mỹ thuật kim cổ đông tây. Nó phản ánh rõ nét phong cách sống thích chưng diện của vua Khải Định lúc sinh thời và đánh dấu giai đoạn giao thời giữa hai nền văn hoá Á Âu của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ. Với nét kiến trúc độc đáo lăng Khải Định là niềm tự hòa trong nền văn hóa thuần Việt.
 

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/e/ec/L%C4%83ng_Kh%E1%BA%A3i_%C4%90%E1%BB%8Bnh.JPG

http://e-info.vn/vn/images/store/langkhaidinh/27.3.5.jpg

http://images.yume.vn/blog/201106/23/1308809619_DSC05867.JPG

http://www.huexuavanay.com/images/stories/DanhThangDiTich/HinhAnhBaiViet/LangKhaiDinh/buutantuongnhavuamophanoduoi_web.jpg

http://lh3.ggpht.com/_ot9k8Q07Ns0/S1tYRpcZY4I/AAAAAAABeq8/8J4bi-2tk54/s800/IMG_3716.JPG

http://static.panoramio.com/photos/large/69216906.jpg

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/1/1b/N%E1%BB%99i_th%E1%BA%A5t_L%C4%83ng_Kh%E1%BA%A3i_%C4%90%E1%BB%8Bnh.JPG

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/c/ca/%C3%81n_th%E1%BB%9D_Vua_Kh%E1%BA%A3i_%C4%90%E1%BB%8Bnh_t%E1%BA%A1i_%E1%BB%A8ng_L%C4%83ng.JPG

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/d/d0/L%C4%83ng_Kh%E1%BA%A3i_%C4%90%E1%BB%8Bnh_1.JPG

http://e-info.vn/vn/images/store/langkhaidinh/27.3.4.jpg



Vua Khải Định ( 1885 – 1925), hay Nguyễn Hoằng Tông là vị hoàng đế thứ mười hai của nhà Nguyễn trị vì từ 1916 đến 1925.

Khải Định
Hoàng đế Việt Nam

Vua nhà Nguyễn

Trị vì :1916 - 1925
Tiền nhiệm: Duy Tân
Kế nhiệm :Bảo Đại
Vợ :12 phi tần
Hậu duệ: Bảo Đai
Tên húy :Nguyễn Phúc Bửu Đảo
Niên hiệu :Khải Định
Thụy hiệu :Tuyên Hoàng Đế
Miếu hiệu :Hoằng Tông
Triều đại :Nhà Nguyễn
Hoàng gia caĐăng đàn cung
Thân phụ :Đồng Khánh
Thân mẫu :Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục
Sinh :1885
Mất :1925
Việt Nam
An táng :Ứng Lăng

Nguyễn Hoằng Tông tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo , còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn , con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục, sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu tức 8 tháng 10 năm 1885

Khi vua Đồng Khánh qua đời, Bửu Đảo còn nhỏ tuổi nên không được kế vị. Nǎm 1906 Bửu Đảo được phong là Phụng Hóa Công. Bửu Đảo là người mê cờ bạc, thường xuyên bị thua, có khi phải cầm bán cả những đồ dùng và những người hầu hạ. Bửu Đảo còn bắt vợ mình, là con gái của quan đại thần Trương Như Cương, về xin tiền bố mẹ gán nợ để đánh bạc tiếp.
Việc Bửu Đảo lên ngôi cũng không hoàn toàn suôn sẻ. Vì sau khi buộc tội vua Duy Tân, người Pháp đã có ý muốn xóa bỏ nền quân chủ ở Việt Nam nhưng các triều thần, đặc biệt là thượng thư Nguyễn Hữu Bai không chịu nên Pháp phải chiều theo ý.
Ngày 18 tháng 5 năm 1916, Nguyễn Phúc Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định.
Dưới thời vua Khải Định, triều đình Huế không có xích mích với Pháp. Mọi việc đều do Tòa khâm sứ định đoạt. Khải Định cũng kết thân với Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles và gửi gắm con mình là Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại) cho vợ chồng Khâm sứ. Khải Định bị đánh giá là một vị vua chỉ ham chơi bời. Ông tự sáng chế ra những bộ y phục mới cho mình và cho cả quan hộ vệ. Ông rất chuộng trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y phục hoàng bào truyền thống của các vua chúa và thường bị đả kích trên báo chí đương thời.
Ngày 20 tháng 5 năm 1922, Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một vị vua triều Nguyễn ra nước ngoài. Chuyến đi công du của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm phản đối ông. Phan Chu Trinh đã gửi một bức thư dài trách Khải Định 7 tội, thường gọi là Thư thất điều hay Thất điều trần. Trong bức thư đó Phan Chu Trinh chỉ gọi là Bửu Đảo chứ không gọi vua Khải Định và trách Khải Định tội "ăn mặc lố lăng". Tại Pháp, trên tờ báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc có một loạt bài chế giễu Khải Định trong đó có truyện ngắn "Vi hành" và còn viết vở kịch Con rồng tre, diễn ở ngoại ô Paris.
ngoại ô Paris.
Tháng 9 năm 1924, từ Pháp về, Khải Định còn lo tổ chức lễ tứ tuần đại khánh rất lớn và tốn kém, bắt nhân dân khắp nơi gửi quà mừng. Sau lễ mừng thọ, ngân sách Nam triều kiệt quệ, Khải Định cho tǎng thêm 30% thuế điền.
Khải Định cũng không được lòng dân chúng. Ở Huế nhân dân đã truyền tụng câu ca dao phổ biến về Khải Định:
Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây Nghề này thì lấy ông này tiên sư

Khải Định có tất cả 12 bà vợ. Sách sử còn chép vua Khải Định bất lực, không thích gần đàn bà, chỉ thích đàn ông . Khải Định chỉ có một con trai duy nhất là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, con bà Hoàng Thị Cúc và chuyện này đã gây ra nhiều đồn đại. Nhưng Khải Định cũng đã đối xử tốt với các bà vợ của mình. Bà vợ con gái của quan đại thần Trương Như Cương bỏ đi tu, ông vẫn giành cho chức Hoàng quý phi. Bà Hoàng Thị Cúc, xuất thân là con nhà dân dã, không được cưới hỏi một cách đàng hoàng, nhưng đã sinh được Vĩnh Thụy, Khải Định giành cho bà nhiều quyền lợi, sau trở thành bà Từ Cung.
Khải Định có xây cất nhiều công trình, trong đó nổi tiếng nhất chính là lăng của ông. Lăng Khải Định khác hẳn các lǎng tẩm xưa nay và đã trở thành vấn đề thảo luận của nhiều người, cả dư luận chung và trong giới chuyên môn kiến trúc. Nhiều người chê lăng Khải Định có kiến trúc lai căng, nhưng lại có ý kiến cho là độc đáo và khác lạ.
Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu tức 6 tháng 11 năm 1925, thọ 40 tuổi. Lăng của vua Khải Định hiệu Ứng Lăng, tại làng Chân Chữ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.


Toàn quyền Pháp đến dự lễ


Lễ động quan với sự hiện diện của những nhân vật quan trọng


Lễ động quan ở điện Càn Thành


Kiệu tang


Ðoàn đưa đám đi ra cổng thành


Ðoàn đưa đám


Tấm triện ghi tên họ và chức tước của Vua


Ðoàn sư dẫn hương linh


Ðàn voi đi mở đường


Lồng đèn giấy


Cúng bái trên đường đi


Ðến nhà trạm trước lăng


Toàn cảnh lăng


Vào lăng


Ðồ mã (xe cộ, nhà cửa,... bằng giấy)


Ðiện Kiến Trung bằng giấy


Ðốt đồ mã (cho vua dùng ở thế giới bên kia !)


Chuyển quan tài vào lăng


Ðoàn đưa đám đi qua vùng Châu Ê


Ðoàn hát


Kiệu tang


Vua Bảo-Ðại mặc tang phục đứng kế bên quan tài


Dân chúng đi coi trên sông Hương

-----------------------------
bài đọc thêm về vua Khải Định


Đức Hoằng Tôn Tuyên Hoàng Đế, con Đức Đồng Khánh, Ngài lên ngôi nhận thấy 2 triều trước đã bị Pháp thâu hết quân quyền. Ngài thử mở đường ngạoi giao đòi quyền tự trị.


Ngài đặc cử Nguyễn Hữu Bài làm Cơ Mật Viện trưởng lo việc ngoại giao, điều đình với Pháp. Công việc đang xúc tiến chưa kết quả thì ngày 6/11/1925 Ngài băng hà để lại bản di chiếu bằng quốc văn có những đoạn như tiên tri (sấm ngữ) .


"Chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, một dân tộc hoà nhã, thế mà bị những thói tham ô từ phương xa đến, xã hội Việt Nam đã tiêm nhiễm hơn 60 năm. Một ngày kia, cả bức cẩm tú sơn hà, sẽ phải làm sân khấu cho những tấn thảm kịch, xương thành núi, máu thành sông.
Dầu có điên đảo một thời gian, đặc tính của dân tộc Việt Nam vẫn ưa trật tự. Song phải có những tay tuấn kiệt, duy trì trong buổi giao thời là buổi thay thế chính quyền, hay là đổi đời chính thể...


...Dầu sao chúng ta cũng đặt hy vọng vào tinh thần của toàn thể dân tộc, không vì đời sống về vật chất, mà nở phá hoại cơ sở của tổ tiên, nếu không giữ vững luân lý cương thường thì sẽ không có gia đình, mà đã không có gia đình thì cũng không còn xã hội nữa..."


Ngài ở ngôi 9 năm và băng hà ngày 6/11/1925.


Lăng của Ngài hiệu Ứng Lăng, tại làng Chân Chữ, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên.


Hoàng Hậu của Đức Khải Định:


- Đoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung huý Hoàng Thị Cúc, là sinh mẫu của Vua Bảo Đại. Hoàng Thái Hậu mất ngày 10/11/1980 tại Từ Đường của Ngài số 79 Phan Đình Phùng, Tp. Huế, thọ 93 tuổi.


- Ân Phi huý Hồ Thị Chỉ, con của đại thần Hồ Đắc Trung

Vua Khải Định - người phát hiện khu du lịch nghỉ mát Lăng Cô


Vua Khải Định

Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.
Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi trong nước và cả nước ngoài nữa.

Ngay từ khi còn là một hoàng tử, vào năm 1909, ở tuổi 25, ông đã mở một chuyến đi du lịch trong Nam Bộ. Tại đây, ông đã đi tham quan Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Đức, Biên Hoà...
Ông lên ngôi vào tháng 5 - 1916. Sau đó hai tháng, tháng 7 - 1916, nhà vua liền mở một cuộc du lãm các thắng cảnh ở những huyện từ Huế đến đèo Hải Vân.
Qua tháng 9 - 1916, nhà vua “ngự giá” đi thăm tỉnh Quảng Trị. Trong dịp này, vua đi tham quan Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, mỏ vàng Bồng Miêu v.v...
Sau đó gần hai năm, vào tháng 4 và 5 - 1918, nhà vua mở một cuộc tuần du dài ngày hơn ở các tỉnh thành phía bắc kinh đô Huế. Vua đi tham quan một số cơ sở sản xuất, danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử ở Quảng Trị, Đồng Hới, Lũy Thầy (Quảng Bình), Đèo Ngang, Hà Tĩnh (đến biên giới Lào), Vinh (Nghệ An), bái yết lăng miếu tổ tiên nhà Nguyễn ở Gia Miêu Ngoại Trang, thăm Phố Cát (Thanh Hoá), Văn Miếu, Trường Viễn Đông Bác Cổ, Nhà Hát Lớn (Hà Nội), Sơn Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, hang động Kỳ Lừa, Nhị Thanh, Tam Thanh, Đồng Đăng (Lạng Sơn), Hải Dương, Hải Phòng, vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long....
Hai năm sau, vào tháng 8 -1920, nhà vua lại “ngự giá” vào Đà Nẵng để xem các chiến hạm của Pháp đang đậu tại đó
Vào năm 1922, nhân cuộc “Đấu xảo Thuộc địa” (Exposition Coloniale) được tổ chức tại Marseille, trong đó có sự tham gia của Việt Nam, và nhận lời mời của Khâm sứ Trung kỳ Pierre Pasquier, vua Khải Định đã đáp tàu thuỷ qua Pháp, đi thăm thú ở nhiều nơi, kể cả việc đến xem 52 di vật có giá trị lịch sử rất cao liên quan tới thời Gia Long tại Hội Địa lý (La Société de Géographie) ở Paris . Chuyến du hành qua Tây đã kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 năm ấy.
Ngay trong chuyến “tuần tỉnh quan phong” đầu tiên vào mùa hè năm 1916, vua Khải Định đã phát hiện ra địa điểm du lịch nghỉ mát ở bãi biển Lăng Cô. Địa điểm này nằm cách Huế 66,5 km về phía nam và cách Đà Nẵng 40,5 km về phía bắc tính bằng đường bộ. Chính tại nơi đây, nhà vua đã nhận ra và đánh giá cao các cảnh đẹp tự nhiên ở bốn bề chung quanh: phía bắc là cửa biển Cảnh Dương (ở mũi Chân Mây), phía nam là Hải Vân Quan (ở núi Hải Vân), phía tây bắc là núi Phú Gia chập chồng, mờ ảo trong mây khói (ở bên kia đầm An Cư), và phía đông là sóng nước đại dương mênh mông, trong lành, mát mẻ. Chính tại điểm ngắm đó bên bờ biển, nhà vua đã thưởng thức, hưởng thụ được những ngày nghỉ thú vị và cảm thấy hưng phấn từ thể xác đến tinh thần.
Sau khi trở lại Hoàng cung Huế, vua Khải Định liền ban lệnh cho Bộ Công đưa vật liệu về Lăng Cô xây dựng một “hành cung” để nhà vua nghỉ mát vào mùa hè, và thỉnh thoảng còn rước hai bà mẹ của vua, là bà Thánh Cung (mẹ đích) và bà Tiên Cung (mẹ ruột), về đây hóng mát và ngắm cảnh. Nhà vua đã đặt tên cho hành cung này là “Tịnh Viêm” (nghĩa đen: làm dịu sự nóng nực).
Sau đó gần 3 năm, cũng trong một dịp đứng ở điểm du lịch và nghỉ mát lý tưởng ấy, vua Khải Định lại xúc cảnh sinh tình và đã viết một bài văn có giá trị cao về mặt văn học. Áng văn “ngự chế” này đã được khắc vào bia đá, dựng ở Lăng Cô để kỷ niệm, nay vẫn còn nguyên tại chỗ.
Nay xin phiên âm và dịch nghĩa bài văn ấy như sau:
Phiên âm:
“Khải Định ngự chế Tịnh Viêm Hành Cung bi minh.
“Trẫm tức chính chi sơ niên hạ lục nguyệt,
tuần tỉnh quan phong,
loan dư nam chỉ,
sở kinh sơn xuyên,
mĩ bất chu lãm,
thích phùng thử địa.
“Địa tùng Phú lĩnh,
sa dư hoành thôi,
thuỷ tiếp hải dương,
giang đà hoàn nhiễu.
Trùng loan lăng tiêu bảo kỳ hậu,
cự hác vô tế lâm kỳ tiền.
giáp Vân quan, bắc liên Dương khẩu.
U thôn tịch ổ,
xứ xứ bích thọ hồng hà,
phù chử hạc đinh,
vãng vãng tiều thanh ngự trạo.
Quan hồ sơn, tắc kỳ vân xuất tụ,
như bồng vũ chư tiên, thủ ư thuỷ,
tắc thanh phong kích đào,
như hải triều vạn mã.
Ư thị, đình dữ tứ cố,
tra mục ngu quan, nhi khí giai,
nhi phong hoà, nhi cảnh hi, nhi vật tú
. Chung mâu lương cửu,
bất giác mãn thân sinh lương,
viêm kháng đô tịnh, đào nhiên xúc cảnh nhi hứng hoài.
“Hồi loan chi nhật, tức sắc Công Bộ để xứ tương lập dinh kiến hành cung, mạng danh viết Tịnh Viêm Hành Cung, vi thạnh hạ thừa lương chi sở, dĩ thời phụng Lưỡng Cung ngự lâm tị thử, tịnh phụng quan kỳ lãm thắng, hạnh phụng gia ngu. Tắc phi duy Trẫm thừa hoan thanh chức chi nhất trợ, nhi thả thừa lương thắng trí diệc nghi lưu ký. Ư dĩ lặc thạch vi minh.
“Khải Định tứ niên nhị nguyệt nhị thập tứ nhật”.
Tạm dịch:
Bài văn bia Hành cung Tịnh Viêm do vua Khải Định ngự chế.
Vào tháng sáu mùa hè năm đầu Trẫm mới lên ngôi (1916), nhân dịp đi tuần du trong tỉnh để xem xét phong tục, xe loan hướng về phía Nam, vượt qua sông núi, không đâu không nhìn ngắm kỹ, bỗng gặp được chốn này.
Ở đây, đất liền núi Phú , bãi cát giăng ngang, nước tiếp đại dương, sông chảy quanh quất. Núi non cao ngất ôm phía sau, đầm nước trải dài về phía trước. Phía Nam giáp với Hải Vân quan, phía Bắc liền với cửa biển Cảnh Dương. Thôn yên đảo vắng, nơi nơi cây biếc ráng hồng, bãi hạc đầm cò, thỉnh thoảng vọng tiếng tiều phu và nhịp chèo ngư phủ. Trông về núi thì thấy những cụm mây kỳ ảo bay lên từ hang hốc như các tiên nữ đang múa ở non bồng, nhìn xuống nước thì gió trong xua sóng chạy, như muôn ngựa cùng chầu về trên biển. Bấy giờ mới dừng xe loan trông ra bốn phía, nhìn rõ càng vui mắt, thấy nào là khí lành, nào là gió dịu, nào là cảnh vui, nào là vật đẹp. Đắm nhìn một hồi lâu, bất giác cả người mát rượi, sự nóng nực tan biến, lòng thấy hớn hở hẳn ra, và xúc cảnh sinh tình.
Đến ngày quay xe trở về, liền ban sắc bảo Bộ Công đến đó xây dựng hành cung, đặt tên là hành cung Tịnh Viêm, để làm nơi nghỉ mát giữa mùa hè và thỉnh thoảng rước hai Hoàng Thái hậu về tránh nóng và ngắm cảnh. Khi đến đó, các ngài cũng cảm thấy hài lòng.
Vậy thì đây không phải chỉ là nơi giúp riêng một mình Trẫm vui thú lúc rảnh rang, mà còn cần phải ghi chép để lưu lại về sau một nơi nghỉ mát và một thắng cảnh. Vì thế cho nên làm bài văn này để khắc vào bia đá.
Ngày 24 tháng 2 năm Khải Định thứ 4 .
Về các thực thể địa lý và thắng cảnh được tác giả bài văn bia mô tả trên đây, chúng ta đều có thể kiểm chứng và cảm nhận rất rõ trên thực địa ngày nay.
Như vậy, lúc sinh thời, vua Khải Định đã du lịch đến rất nhiều nơi, trong đó có 3 Di sản Văn hoá và Thiên nhiên Thế giới của Việt Nam là Huế, Hội An và vịnh Hạ Long. Và, nếu mãi đến năm 1932, ông Girard (Kỹ sư trưởng người Pháp thuộc sở Công chánh Trung kỳ đóng tại Huế) mới phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát Bạch Mã, thì trước đó 16 năm, vào năm 1916, vua Khải Định đã phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát Lăng Cô.
Cung An Định tọa lạc bên bờ sông An Cựu, xưa thuộc phường Đệ Bát- Thị xã Huế, nay tại số 97 đường Phan Đình Phùng, Thành phố Huế là cung điện riêng của vua Khải Định từ khi còn là thái tử đến khi làm vua, sau này được Vĩnh Thụy thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị.


Cung An Định và bến thuyền

Nguyên tại vị trí này từ năm Thành Thái14 (1902), Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo (tức vua Khải Định sau này) đã lập phủ riêng, đặt tên là phủ An Định. Đến sau khi lên ngôi, vào năm 1917 Khải Định đã dùng tiền riêng để cải tạo lại theo lối kiến trúc hiện đại. Đầu năm 1919, công việc xây dựng hoàn tất, cung vẫn giữ nguyên tên gọi. Từ ngày 28/2/1922, cung An Định trở thành tiềm để của Đông Cung Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại về sau). Sau Cách mạng tháng Tám 1945, gia đình cựu hoàng Bảo Đại đã chuyển từ Hoàng cung qua sống tại cung An Định. Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tịch thu cung An Định. Sau năm 1975 bà Từ Cung đã hiến cung An Định cho chính quyền cách mạng . Cung An Định được sử dụng như một khu nhà tập thể cho gia đình các giáo sư Đại học Huế và bị xuống cấp nghiêm trọng cho đến năm 2001 mới được phục hồi, trùng tu. Đến nay sáu bức bích họa ở Khải Tường Lâu dưới sự giúp đỡ của CHLB Đức đã được phục hồi theo phương pháp phục hồi hoàn nguyên và sử dụng các chất bảo quản nhằm ngăn chặn những tác hại của môi trường, trả lại diện mạo vốn có của nó trong nội điện di tích cung An Định . Sau khi điện Long An (nơi đặt Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế) đóng cửa để thực hiện dự án trùng tu, toàn bộ hiện vật của bảo tàng đã được đưa đến cung An Định để trưng bày


Tranh tường ở cung An Định
Cung An Định quay mặt về hướng nam, phía sông An Cựu. Cung có địa thế bằng phẳng, tổng diện tích mặt bằng 23.463m2, chung quanh có khuôn viên tường gạch, dày 0,5m, cao 1,8m trên có hàng rào song sắt bao bọc . Khi còn nguyên vẹn cung có khoảng 10 công trình. Từ trước ra sau là: Bến thuyền, Cổng chính, đình Trung Lập, lầu Khải Tường, nhà hát Cửu Tư Đài, chuồng thú, Hồ nước... trải qua thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, đến nay cung chỉ còn lại 3 công trình khá nguyên vẹn là Cổng chính, đình Trung Lập và lầu Khải Tường. Cổng chính làm theo lối tam quan, hai tầng, trang trí bằng sành sứ đắp nổi rất công phu. Đình Trung Lập, nằm phía trong cửa, kết cấu kiểu đình bát giác, nền cao. Trong đình nguyên có đặt bức tượng đồng vua Khải Định, tỷ lệ bằng người thật, đúc từ năm 1920.




Phục chế tranh tường tại Cung An Định dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia bảo tồn Đức (thuộc Dự án đào tạo, bảo tồn và phục chế của Đức - GCREP


Lầu Khải Tường nằm phía sau đình Trung Lập, là công trình kiến trúc chính của cung An Định. Chữ Khải Tường (nghĩa là nơi khởi phát điềm lành), tên lầu là do vua Khải Định đặt. Lầu 3 tầng, xây dựng bằng các vật liệu mới theo kiểu lâu đài châu Âu, chiếm diện tích tới 745m2. Lầu được trang trí rất công phu, đặc biệt là phần nội thất của tầng 1 với các bức tranh tường có giá trị nghệ thuật rất cao.

Cung An Định được vua Đồng Khánh xây dựng cho con trai trưởng - hoàng tử Nguyễn Phúc Bửu Đảo và đặt tên là phủ Phụng Hóa. Năm 1916, sau khi vua Duy Tân bị giặc Pháp bắt đi đày, Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định. Năm 1917, vua Khải Định cho xây dựng lại phủ Phụng Hóa thành một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ nhất VN thời đó, gọi là An Định cung và tặng cho hoàng tử Vĩnh Thụy (Bảo Đại).
Cung An Định nằm bên dòng An Cựu (hiện mang số nhà 97 Phan Đình Phùng) được xây trên diện tích 2,5ha, gồm nhiều công trình khác nhau, trong đó lầu Khải Tường ba tầng là kiến trúc chính. Tại sảnh đường tầng 1



có sáu bức tranh trang trí có tuổi gần 90 năm. Những bức bích họa này được vẽ bằng sơn dầu trực tiếp lên các mảng tường và có khung gỗ ốp viền, chạm khắc hoa mai, lá sen cách điệu rất đẹp.
Khổ khung tranh có hai loại: 1,8m x 1,1m và 1,6m x 1,4m. Sáu bức tranh này không đề tên, nhưng nhìn hình vẽ ai cũng có thể nhận ra phối cảnh thật của năm lăng: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh; còn một tranh chưa rõ vẽ công trình gì. Nét vẽ rất điệu nghệ, nêu bật đặc điểm phong cảnh và nét đẹp của từng lăng, chứng tỏ trình độ có hạng của tác giả.
Sau khi Bảo Đại thoái vị (tháng 9-1945), ông về sống ở cung An Định cùng mẹ là bà Từ Cung, vợ là hoàng hậu Nam Phương và con cái, người hầu. Đầu thập niên 1950, bà Nam Phương cùng các con qua Pháp, bà Từ Cung ở đây cho đến năm 1955 cung An Định bị chính quyền Ngô Đình Diệm tịch thu.
Từ 1975 - 2001, cung An Định được sử dụng làm nhà văn hóa lao động tỉnh. Có thể nói suốt gần 60 năm, tòa lâu đài này không được trùng tu bảo dưỡng gì nên đã xuống cấp nghiêm trọng, sáu bức tranh tường cũng bị sứt mẻ, phai nhạt sắc màu. Năm 2001, cung An Định được trùng tu nhân tổ chức lễ hội Festival Huế 2002.
Năm 2003, Đại sứ quán Cộng hòa liên bang Đức đã tài trợ 17.000 euro để phục chế sáu bức tranh tường cổ quí hiếm ở cung An Định. Năm chuyên gia phục chế di tích người Đức, bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại đã nghiên cứu, phân tích và phục chế trong suốt ba tháng trời, nhờ đó các bức tranh mới hiện lên sinh động như hiện nay (nhưng liệu có đúng như nguyên tác?).
Tuy nhiên, chung quanh sáu bức tranh này đến bây giờ còn có hai câu hỏi chưa ai giải thích thỏa đáng. Thứ nhất, bức tranh thứ sáu vẽ phủ đệ hay khu lăng mộ nào? Thứ hai, ai là tác giả của sáu bức tranh này? Về câu hỏi thứ nhất, theo ông Phùng Phu, giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, do cung An Định được vua Khải Định xây dựng khi mới lên ngôi, lúc đó ông chưa xây lăng cho mình nên tranh thứ sáu không thể vẽ lăng Khải Định mà có thể vẽ một phủ đệ nào đó có tầm quan trọng đặc biệt với triều đình và bản thân Bửu Đảo (?).
Còn tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn, giám đốc Bảo tàng Cổ vật Huế, cho rằng có thể bức tranh đó vẽ lăng Khải Định khi đang ở dạng phác thảo trên bản vẽ. Theo ông Sơn, lúc khánh thành cung An Định, vua Khải Định 33 tuổi, đã bắt đầu cho thiết kế lăng. Sở dĩ bức họa không giống với lăng Khải Định hiện nay vì sau chuyến đi Pháp về, Khải Định đã cho thay đổi thiết kế lăng theo kiểu phương Tây, đồ sộ hơn nên không còn giống với bức tranh đã vẽ.
Câu hỏi sau càng khó lý giải hơn. Theo các tác giả sách Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 1992), những tác phẩm này là của họa sĩ Lê Quang Duyệt. Còn sách Mỹ thuật Huế (Viện Mỹ thuật và Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế xuất bản, 1992) lại cho rằng đây là tranh của các họa sĩ VN đương thời (thế kỷ 20) như Lê Duy Hiến, Tôn Thất Sa... Do trên tranh không có chữ ký họa sĩ, thật khó biết căn cứ vào đâu để xác định tác giả.
Chỉ đến khi trùng tu sáu bức tranh, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ở góc một trong sáu bức tranh có chữ ký tên Nguyễn Văn Ngoan (hay Ngoãn?). KTS Phùng Phu cho biết nếu đúng là họa sĩ Nguyễn Văn Ngoãn thì đây là một trong những họa sĩ đã tốt nghiệp Trường cao


đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội trong những khóa đầu tiên. Nhưng vấn đề rắc rối ở chỗ họa sĩ Nguyễn Văn Ngoãn tốt nghiệp năm 1934, khi cung An Định đã được xây xong từ lâu và Khải Định cũng đã qua đời; và ông Ngoãn sẽ không bao giờ ký tên của mình vào bản vẽ của người khác nếu được mời sửa chữa hay vẽ lại. Còn nếu như những bức tranh này được vẽ sau năm 1934, do ý tưởng của Bảo Đại chẳng hạn, thì bức tranh thứ sáu phải được vẽ đúng như nó chứ! Lại có ý kiến rằng cũng có thể họa sĩ Nguyễn Văn Ngoãn khi chưa đi học Trường Mỹ thuật Đông Dương đã được triều đình Huế trưng dụng...
Hai câu hỏi trên nhất định sẽ được làm sáng tỏ. Đây là công việc của các nhà nghiên cứu văn hóa Huế cũng như các nhà nghiên cứu mỹ thuật.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngôi biệt thự có số nhà 79B, nay đổi số mới là 147, ở đường Phan Đình Phùng – thành phố Huế, hướng mặt tiền ra sông Lợi Nông (sông An Cựu) từ vài chục năm nay người Huế quen gọi là nhà Đức Từ Cung.


Nhà lưu niệm Hoàng Thái hậu Từ Cung

Ngôi nhà được xây cất dưới thời thuộc Pháp, đã qua vài lần đổi chủ. Chủ nhân cuối cùng là Đoan Huy Hoàng Thái Hậu.
Bà Từ Cung, nhũ danh là Hoàng Thị Cúc, con ông Hoàng Văn Tích, nguyên quán ở làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, tỉnh TT-Huế. Ông Hoàng Văn Tích được ban chức Thái Thường Tự Khanh, tước Nghi Quốc Công.
Phủ thờ họ Hoàng, họ ngoại vua Bảo Đại, được lập ở đường Nguyễn Du, phường Phú Cát. Dưới thời Duy Tân (1907-1916) bà là phủ thiếp của Phụng Hoá Công Bửu Đảo. Bà sinh hạ công tử Vĩnh Thụy vào ngày 20/10/1913.
Năm 1916, khi Phụng Hoá Công lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định, địa vị của bà Hoàng Thị Cúc trở nên quan trọng trong Hoàng gia.
Tháng 3 năm Khải Định thứ 2 bà được phong tước Tam giai Huệ Nhân, tháng 10 năm sau được phong Nhị giai Huệ Phi, tháng 2 năm Khải Định thứ 8 (1923) được phong Nhất giai Hậu Phi.
Năm 1925, khi Hoàng tử Vĩnh Thụy nối ngôi vua cha địa vị của bà càng quan trọng hơn. Tháng 2 năm Bảo Đại thứ 8 (1933) bà được triều đình tấn phong Đoan Huy Hoàng Thái Hậu.
Từ đó bà được tôn xưng là Từ Cung. Vào ngày sinh nhật hàng năm của bà triều đình tổ chức lễ mừng rất trọng thể, gọi là Lễ Từ Khương.
Tháng 8-1945, một ngày sau lễ thoái vị của vua Bảo Đại, gia đình nhà vua ra khỏi Hoàng cung, chuyển về ở tại Cung An Định. Đây là Tiềm để của vua Khải Định và vua Bảo Đại.
Công trình này nguyên có tên là Phủ Phụng Hoá, do vua Đồng Khánh xây dựng dành cho Hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Bửu Đảo. Khi lên ngôi, vua Khải Định cho cải tạo Phủ Phụng Hoá thành một lâu đài tráng lệ, dành tặng cho Hoàng tử Vĩnh Thụy.
Vĩnh Thụy đã ở tại đây cho đến năm 1922 thì qua Pháp học. Khi tại vị, cả vua Khải Định và vua Bảo Đại đều ở trong Điện Kiến Trung.
Khi cựu hoàng Bảo Đại ra Hà Nội làm cố vấn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hoàng Thái hậu Từ Cung và Hoàng hậu Nam Phương cùng các hoàng nam, hoàng nữ vẫn ở tại Cung An Định.
Những năm 1949 - 1954, khi Bảo Đại trở về làm Quốc trưởng bà Từ Cung trở lại Hoàng cung, ở tại Cung Diên Thọ. Năm 1954, khi Bảo Đại qua Pháp lưu vong bà lại phải ra khỏi Hoàng thành về sống ở Cung An Định.
Năm 1955, khi Quốc trưởng Bảo Đại bị lật đổ, ông Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng thì chính quyền (miền Nam Việt Nam) không cho phép bà Từ Cung ở lại trong Cung An Định. Trong tình cảnh này bà đã mua lại ngôi nhà của bà Ân Phi.
Ngôi nhà lầu của bà Ân Phi nguyên chỉ có 2 gian. Bà Từ Cung cho xây thêm 1 gian ở bên phải, cho cải tạo một số bộ phận kiến trúc và trang trí nội thất theo lối hiện đại.
Bà đã cho mang khá nhiều đồ tự khí và bảo vật từ Cung An Định về trang hoàng trong ngôi nhà này. Nhiều hiện vật trong ngôi nhà hiện vẫn thấy chạm khắc 2 chữ An Định (chữ Hán).
Tầng trệt, gian giữa, phần trước thờ bà Từ Cung. Gian bên trái là nơi bà Từ Cung ăn, ở. Gian bên phải dành để tiếp khách quan trọng. Trong phòng khách bà cho treo nhiều hình ảnh của những thành viên trong gia đình, từ vua Khải Định đến các cháu nội của bà.
Trong một cái tủ ở giữa phòng khách hiện còn trưng một bức ảnh có giá trị lịch sử, ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp chung với cố vấn Vĩnh Thụy tại Phủ Chủ tịch (Hà Nội) năm 1945.
Tầng trên của ngôi nhà dùng để thờ phụng. Gian giữa thờ các vua, chúa nhà Nguyễn. Gian bên phải thờ phật, thánh, thờ bà Nghi Quốc Công (mẹ bà Từ Cung); và thờ 2 bà Thánh Cung, Tiên Cung - Bà Thánh Cung là mẹ đích, bà Tiên Cung là mẹ đẻ của vua Khải Định.
Gian bên trái sắp đặt một số tượng của vua Bảo Đại và ảnh Hoàng hậu Nam Phương. Sau khi cựu Hoàng Bảo Đại mất, phần trước của gian này được dùng để thờ ông.
Bà Từ Cung đã ở trong ngôi biệt thự tư hữu này từ năm 1955 cho đến ngày qua đời - ngày 10/11/1980.
Từ khi trở thành Hoàng hậu cho đến những ngày cuối đời bà Từ Cung đã đóng góp rất nhiều công sức và tiền của trong việc thờ phụng, kỵ giỗ các vị vua, chúa nhà Nguyễn; trong việc tu bổ một số miếu, điện; và cả trong việc gìn giữ di sản văn hoá cung đình Huế.
Suốt một đời người bà chưa bao giờ bỏ Huế mà đi cho dù chính sự đổi thay, chiến tranh ác liệt. Bà là người nhân hậu, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng làm hết bổn phận của mình đối với các bậc tiên vương và Hoàng tộc.
Đạo đức và nhân cách của bà đã làm cho mọi người từ trong cung đến ngoài nội nể trọng. Kể từ khi Tôn Nhơn Phủ bị cháy (vào năm 1975), tại ngôi biệt thự này bà Từ Cung đẫ tổ chức những cuộc lễ kỵ giỗ các vua Nguyễn, chúa Nguyễn và một số nhân vật đặc biệt trong Hoàng tộc Nguyễn.
Vì thế, trong một thời gian dài, nhiều người đã coi Nhà Đức Từ như là Từ đường của Nguyễn Phước tộc, là hậu thân của Tôn Nhơn Phủ.
Về giá trị lịch sử, ngôi nhà này là nơi ở của bà Hoàng Thái Hậu cuối cùng của triều Nguyễn, triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Ngôi nhà chứng kiến sự “lưu lạc” của một bà Hoàng Thái Hậu trong suốt 35 năm thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Bên trong ngôi nhà hiện nay vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật. Trong đó có nhiều đồ ngự dụng, cổ vật còn ghi rõ niên đại thời nhà Thanh, thời vua Thiệu Trị, thời vua Tự Đức. Vì thế, có thể xem ngôi biệt thự này là một bảo tàng mi ni, một điểm tham quan du lịch nhân văn.
Được biết, chủ nhân đầu tiên của ngôi nhà này cũng là một vị quan chức quê ở Nghệ An. Ông tậu ngôi nhà hồi đầu thế kỷ XX, khi vào Huế làm việc. Chủ nhân tiếp theo là ông Hồ Đắc Điềm.
Là con quan Thượng thư, ông Điềm có điều kiện du học ở Pháp và đã đậu Tiến sĩ Luật. Về nước ông được giữ chức Tham tri Bộ Hình, sau chuyển qua ngành Hành chính của Chính phủ Bảo hộ Pháp tại Đông Dương. Ông đã kinh qua nhiều chức vụ quan trọng.
Từ năm 1941 ông làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 ông ở lại miền Bắc, làm Phó Chủ tịch UBHC thành phố Hà Nội, sau đó chuyển sang làm Phó Chủ tịch UBMTTQ thành phố, ủy viên trung ương UBMTTQ Việt Nam.
Ông mất hồi thập niên 80. Sinh thời, vì thương mến người chị ruột, ông Hồ Đắc Điềm đã mua ngôi nhà này cho bà Ân Phi - người vợ chính thức của vua Khải Định do triều đình cưới hỏi - làm nơi ăn ở.
Năm 1975, khi Huế vừa giải phóng ông đã vào công tác kết hợp thăm gia đình. Ông đã tìm bà Ân Phi và quan tâm đến việc sắp xếp chỗ ở cũng như việc phụng dưỡng bà.
Về kiến trúc, đây là một công trình mang dấu ấn của 2 nền văn hoá Đông phương và Tây phương. Nội thất và sân vườn ngôi biệt thự thuộc kiến trúc nhà - vườn Huế. Kết cấu công trình có bê tông cốt thép đánh dấu giai đoạn giao thời của kiến trúc nhà ở Việt Nam..
Bà Từ Cung chỉ có một người con duy nhất. Khi bà qua đời cựu Hoàng Bảo Đại vẫn đang sống lưu vong ở Pháp.
Ở Huế không có ai đủ tư cách thừa kế gia sản cho nên ngôi nhà của bà và các hiện vật bên trong được giao cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế quản lý để bảo tồn và phát huy tác dụng.
Trong hồ sơ tiếp quản di tích ngôi nhà có tên là Nhà lưu niệm bà Hoàng Thái Hậu Từ Cung, thường được gọi tắt là Nhà lưu niệm bà Từ Cung.(còn tiếp)Lăng Dục Đức

Lăng Dục Ðức

tên chữ An Lăng là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế, là nơi an táng vua Dục Ðức, vị vua thứ 5 của triều đại nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc huyện Hương Thủy, nay thuộc phường An Cựu, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố chưa đầy 2km.
Khái niệm khu lăng Dục Ðức thường dùng hiện nay là để chỉ toàn bộ quần thể kiến trúc nằm trong một khu vực rộng gần 6 ha, bao gồm lăng vua Dục Ðức, hoàng hậu và 42 tẩm mộ ông hoàng bà chúa cùng 121 ngôi mộ đất của những người thuộc Ðệ Tứ Chánh phái Nguyễn Phước tộc (hệ phái của vua Dục Ðức).
An Lăng nằm ở khu vực trung tâm, diện tích khoảng 1ha. Lăng gồm 2 khu vực: khu lăng mộ và khu tẩm thờ đặt song song với nhau. Cả hai khu đều có tường thành bao bọc. Lăng quay mặt về phía tây bắc, lấy đồi Phước Quả làm tiền án, núi Tam Thai sau lưng làm hậu chẩm và dòng khe chảy vòng qua trước mặt làm minh đường tụ thuỷ




Bi Đình và lăng tẩm vua Dục Đức


Sau khi vua Tự Đức (1847 - 1883) qua đời, ngai vàng triều Nguyễn đã được 3 đời vua là Dục Đức (1883), Hiệp Hòa (1883) và Kiến Phúc (1883 - 1884) thừa kế liên tục chỉ trong vòng 4 tháng, sử gọi là “Tứ nguyệt tam vương”, rồi tiếp tục được chuyển cho 4 đời vua nữa trong vòng thời gian ngắn là Hàm Nghi (1884 - 1885), Đồng Khánh (1885 - 1889), Thành Thái (1889 - 1907) và Duy Tân (1907 - 1916).
Vua Dục Đức tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sinh năm 1852, khi lên 2 tuổi, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và làm Dục Đức Đường trong kinh thành cho ở. Năm 17 tuổi ông được đổi tên thành Ưng Chân. Khi vua Tự Đức qua đời, vị hoàng trưởng tử 32 tuổi lên nối ngôi, nhưng chỉ sau 3 ngày thì bị phế (23-7-1883) và bị quản thúc tại Thái Y Viện, cuối cùng chết đói ở nhà ngục Thừa Thiên sau 7 ngày không cho ăn uống (6-10-1883); để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái. Mộ chôn tạm tại khe cồn Phước Quả, gần chùa Tường Quang. Mấy hôm sau triều đình mới cho người vợ chính là bà Từ Minh được phép lên thăm mộ và làm lễ chịu tang ở chùa Tường Quang. Con trai của vua Dục Đức là Nguyễn Phúc Bửu Lân được đưa lên ngôi vua vào năm 1889, với niên hiệu Thành Thái. Sau khi lên ngôi vua, Thành Thái liền cho xây lăng mộ của vua cha đàng hoàng và đặt tên là An Lăng. Nơi thờ thì có chùa Tường Quang cách 200 mét. Năm 1891, triều đình vua Thành Thái cho xây dựng một ngôi miếu ở phường Thuận Cát, gần bên phải Hoàng thành để thờ vua Dục Đức, đặt tên là Tân Miếu (Năm 1897, đổi tên là Cung Tôn Miếu). Năm 1892, bà Từ Minh Hoàng Thái Hậu - mẹ vua Thành Thái xuất tiền đúc tượng Phật và mở rộng nhà tăng của ngôi chùa Tường Quang, năm sau vua Thành Thái cho đổi tên thành chùa Kim Quang và ban cho chùa tấm hoành phi đề 5 chữ “Sắc Tứ Kim Quang Tự”.
Đến tháng 7 năm Thành Thái thứ 11 (8-1899), nhà vua cho xây dựng điện Long Ân gần khu vực lăng mộ vua Dục Đức để thờ cha. Trong khuôn viên này có xây dựng thêm một số nhà của phụ thuộc như Tả, Hữu phối đường, Tả Hữu tòng viện dành cho 7 bà vợ thứ của vua Dục Đức ăn ở để lo hương khói phụng thờ. Năm 1906, bà Từ Minh tạ thế, triều đình cho quy hoạch lại khu vực lăng mộ vua Dục Đức, làm thành một khu lăng kép, xây mộ bà gần mộ ông theo kiểu “song táng”, “càn khôn hiệp đức”. Cuối năm 1945, ngay sau khi vua Duy Tân tử nạn máy bay ở châu Phi, một cuộc lễ truy điệu nhà vua được tổ chức tại điện Long Ân và thờ chung vua tại đây. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng Thành Thái. Gần hai bên lăng vùa Thành Thái và Duy Tân còn có lăng mộ của 3 bà vợ vua Thành Thái. Và năm 1994, hài cốt bà Mai Thị Vàng (mất năm 1980), vợ vua Duy Tân được đưa vể chôn gần lăng mộ của vua Duy Tân.
Ngoài ra, trong khu vực lăng Dục Đức hiện nay còn có 39 lăng mộ các ông hoàng bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc Đệ tứ Chánh hệ.
Theo địa bộ cũ, lăng Dục Đức chiếm một vùng đất rộng 56.144 m2, trong đó có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ; chia ra làm hai khu vực: lăng và tẩm, nằm cách xa nhau khoảng hơn 50 mét. Cả hai khu vực kiến trúc đều xây thành bao bọc chung quanh. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, dùng một ngọn đồi thấp, thường gọi là cồn Phước Quả làm tiền án; lấy dòng khe chảy ngang trước mặt làm yếu tố "minh đường" và dùng ngọn núi Tam Thai ở đằng sau làm "hậu chẩm".
Đi vào khu lăng mộ - diện tích 3.445m2 bằng một cửa tam quan khá lớn xây bằng gạch, trên làm mái giả. Sau cửa là Bái đình, không có tượng đá như các lăng khác, mà chỉ xây lan can bằng vôi gạch để trang trí. Trung tâm của lăng mộ nằm ngay sau cửa tam quan thứ hai, có ngôi nhà Huỳnh Ốc được xây dựng trên một nền hình vuông mỗi cạch 8 mét. Nhà xây như một phương đình với dạng cổ lầu, mái lợp ngói hoàng lưu ly. Bờ nóc bờ quyết chắp hình rồng và phụng, nội thất trang hoàng đơn giản.
Các công trình kiến trúc nằm trong khu tẩm điện với diện tích mặt bằng 6.245m2. Công trình chính là điện Long Ân là một tòa nhà kép làm theo kiểu cung điện Huế, với 6 bộ vì kèo nóc ở 5 gian nhà trước được kết cấu theo lối “chồng rường giả thủ”, trang trí mặt hổ phù rất tinh xảo. Đây là một công trình kiến trúc gỗ có giá trị nghệ thuật trong hệ thống công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn ở Huế.

Khu lăng mộ có diện tích gần 3.500 m², la thành chu vi 136 m, cao 3,7 m, dày 0,5 m. Mặt trước la thành trổ 1 cửa vòm xây gạch, trên có 2 tầng mái giả ngói (trước kia có 2 cửa hông nhưng đã bị xây bít). Sau cửa là sân Bái đình lát gạch. Hai bên sân không có tượng đá như ở lăng mộ các vua khác. Tiếp đến là 1 cửa tam quan đồ sộ 3 tầng, hình thức như cửa Trường An ở cung Trường Sanh trong Hoàng thành. Ðây là cửa chính của vòng tường thành thứ hai, chu vi 142m, cao 2m, dày 0,5m. Bên trong lại có vòng tường thứ ba, chu vi 106m, cao 1,5m, dày 0,4m bao bọc lấy mộ vua, mộ hoàng hậu và nhà Huỳnh ốc. Ở vị trí trung tâm trong vòng tường thứ 3 là nhà Huỳnh ốc làm theo lối phương đình, mái lợp ngói lưu ly vàng, đặt trên 1 bệ hình vuông, mỗi cạnh dài 7m. Trong nhà có sập thờ, án thờ đều làm bằng đá dùng để trần thiết các đồ thờ cúng. Hai bên ngôi nhà này là hai ngôi mộ của vua Dục Ðức và Hoàng hậu Từ Minh nằm đối xứng với nhau. Mộ đều xây bằng đá Thanh, theo kiểu 5 hình khối chữ nhật chồng lên nhau, tổng chiều cao mộ là 0,85m. Trước 2 mộ đều có bình phong đắp nổi hình chữ Thọ, chữ Song Hỷ. Bên ngoài khu mộ, ở hai bên có 2 trụ biểu xây gạch, trên đắp hình hoa sen, xa hơn nữa có các trụ cấm để giới hạn khu vực lăng mộ.

Khu tẩm điện cách khu lăng mộ khoảng 50m, diện tích rộng 6.245m², có vòng la thành chu vi 260m, cao 2,3m, dày 0,5m bao bọc. Ở cả 4 mặt la thành đều trổ 1 cửa, cửa sau thông với một vòng tường thành hình thang vuông giới hạn khu vực ăn ở của các cung phi và gia nhân.
Cổng chính phía trước làm theo lối tam quan, trên đắp 4 tầng mái ximăng giả ngói ống, thân cổng chia làm nhiều ô hộc để trang trí. Các cổng bên và cổng sau đều làm theo lối cửa vòm, trên có 2 tầng mái giả ngói.
Sau cổng chính là bình phong, rồi đến sân chầu lát gạch Bát Tràng
. Trung tâm của khu tẩm thờ là điện Long An, một tòa nhà kép trùng thiềm điệp ốc đặt trên một mặt nền kích thước 24,2m x 22,2m. Chính điện 3 gian 2 chái kép, tiền điện 5 gian 2 chái đơn mái lợp ngói lưu li vàng. Trong điện có 3 khám thờ: khám giữa thờ bài vị vua Dục Ðức và bà Từ Minh Huệ Hoàng hậu, khám bên trái thờ bài vị vua Thành Thái, khám bên phải thờ bài vị vua Duy Tân.

So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, lăng Dục Đức có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn hơn. Lăng gồm hai khu vực: điện Long Ân và lăng mộ vua cùng Hoàng hậu, đều lấy cồn Phước Quả ở đàng trước làm tiền án, khe Mụ Niệm chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường và dùng ngọn núi Tam Thai ở đằng sau làm hậu tẩm.
Khu vực lăng mộ hình chữ nhật, có diện tích 3.445m², bên trong không có Bi Đình và tượng đá như các lăng vua khác. Muốn vào lăng phải đi qua hai cổng tam quan, có mái giả bằng xi măng. Chính giữa Bửu Thành có một nhà Huỳnh Ốc dạng phương đình, thay thế cho nhà bia. Bên trong nhà Huỳnh Ốc không có bi ký, thay vào đó là một sập đá và kỷ đá dùng để bày hương án và hào soạn mỗi khi cúng giỗ nhà vua. Điện Long Ân ở trung tâm khu vực tẩm là một công trình được xây cất theo khuôn mẫu của các ngôi điện có ở Huế. Bên trong hiện có 3 án thờ thờ bài vị của các vua: Dục Đức và vợ (ở giữa), Thành Thái (bên trái) và Duy Tân (bên phải).
Phía sau điện Long Ân ngày xưa là chốn hậu cung của các bà vợ vua, giờ đây được mở rộng và chỉnh trang thêm. Đó cũng là nơi yên nghỉ của hai ông vua Thành Thái và Duy Tân. Trong khu vực này còn có mộ của các bà vợ vua Thành Thái: mộ bà Hoàng Quý Phi Nguyễn Gia Thị Anh, bà Nguyễn Thị Định (mẹ vua Duy Tân) và bà Khoan Phi Hồ Thị Phương; mộ công chúa Lương Linh (em vua Duy Tân), mộ bà Mai Thị Vàng (cải táng) vợ vua Duy Tân và một số lăng mộ của các hoàng thân anh em với vua Duy Tân. Khu vực An Lăng còn có 39 lăng mộ các ông hoàng, bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc Đệ tứ Chánh hệ (Nguyễn Phúc Tộc).

http://static.panoramio.com/photos/large/51668847.jpg

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/c/c7/An_lang.jpg

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/0/09/Cong_An_lang.jpg

http://v7.cache3.c.bigcache.googleapis.com/static.panoramio.com/photos/original/51674626.jpg?redirect_counter=2

http://v21.lscache1.c.bigcache.googleapis.com/static.panoramio.com/photos/original/51674850.jpg

Nỗi lòng vua Thành Thái: “Bể Cấp bốn bề bủa sóng vây”


Vua Thành Thái mặc triều phục

Cả thành phố Vũng Tàu rạo rực chào đón Festival biển đầu tiên sẽ chính thức khai mạc vào ngày 11.4.2006. Nhân dịp này, một phòng trưng bày các tư liệu và di vật của nhà vua yêu nước Thành Thái - người có 12 năm sống trong cảnh “cá chậu chim lồng” ở phố biển cũng được khai trương tại khu di tích Bạch Dinh...
...Cùng với lễ hội bắn súng thần công, việc trưng bày di vật của vua Thành Thái là sự tái hiện lịch sử sống động nhiều ý nghĩa của Festival biển 2006.

Súng thần công bắn đạn thật tại Bạch Dinh ở Núi lớn Vũng tàu


Khởi đầu tấn bi kịch gia đình
Vua Tự Đức của nhà Nguyễn lấy trên một trăm bà vợ nhưng không có con nên phải nuôi ba người cháu ruột của mình làm con nuôi là Ưng Chân, Ưng Kỷ và Ưng Đường. Sau khi vua Tự Đức băng hà năm Quí Mùi-1883, để lại di chiếu cho Quốc công Ưng Chân nối ngôi. Đó là vua Dục Đức. Tuy nhiên, mới ngồi trên ngai vàng được ba ngày, vua Dục Đức bị hai phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truất phế, tống giam, bức hại đến chết, đem xác vùi trên một ngọn đồi, không một ai được phép đưa tang. Cho đến 20 năm sau, khi người con trai thứ bảy của vua Dục Đức là hoàng tử Bửu Lân ngồi lên ngai vàng thì vua Dục Đức mới được khôi phục đế hiệu, xây lăng tẩm.
Cái chết bi thảm của vua Dục Đức mở đầu cho tấn bi kịch của gia đình ông trong một giai đoạn lịch sử bi hài của một triều đại phong kiến bất lực trước nạn ngoại xâm. Chỉ trong vòng bốn tháng, tiếp sau vua Dục Đức, ngai vàng đẫm máu nhà Nguyễn trải thêm hai đời vua nữa là Hiệp Hoà và Kiến Phúc mà lịch sử gọi là “tứ nguyệt tam vương”. Tấn bi kịch chưa dừng lại. Cái ngai vàng ấy lại liên tục đổi chủ trong một thời gian ngắn thêm bốn đời vua: Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, trong đó có ba vị vua yêu nước bị thực dân Pháp truất phế, bắt đày biệt xứ; chỉ có riêng ông vua bù nhìn Đồng Khánh thì yên vị được ba năm.


Hòang hậu Từ Minh
- mẹ vua Thành Thái

Vua Đồng Khánh đột ngột chết, các con còn quá nhỏ, triều thần thương nghị đưa hoàng tử Bửu Lân con vua Dục Đức lên ngôi. Sử chép rằng, lúc đoàn quan quân với cờ xí uy nghi đến rước, hoàng tử Bửu Lân mới 10 tuổi sợ quá hét lên: “Các ông đến làm chi? Bắt tôi à? Các ông muốn làm chi thì làm nhưng phải đợi ả tôi về đã”. Thân mẫu của Bửu Lân là hoàng hậu Từ Minh đang vắng nhà, nghe tin chạy về, nghẹn ngào khóc van xin: “Lạy các quan! Xin các quan tha cho mẹ con tôi. Tôi không bao giờ quên cái chết vô cùng thê thảm của chồng tôi. Tôi cũng không quên rằng các vua Hiệp Hoà, Kiến Phúc đều đã bị giết và vua Hàm Nghi thì bị đi đày”. Rồi hai mẹ con bà Từ Minh ôm nhau khóc nức nở! Tuy nhiên, cuối cùng cậu bé Bửu Lân cũng buộc phải về triều làm lễ đăng quang, trở thành hoàng đế Thành Thái chỉ ba giờ sau đó.
Mồ côi cha từ năm mới 4 tuổi, sống cơ cực gần gũi với bà con lao động, nhờ đó vua Thành Thái hiểu được nỗi thống khổ của nhân dân và sớm có ý thức về thân phận của ông vua bù nhìn trước cảnh nước mất nhà tan. Chuyện rằng, một lần vua Thành Thái đang đi bộ trên cầu Gia Hội thì gặp phải một người vác tre. Quân lính vội vàng chạy lên định dẹp đường, vua ngăn lại bảo: “Cứ để cho người ta đi! Mình dân không phải là dân, vua không phải là vua, tại sao dẹp người ta làm chi?”. Nhà vua còn thực hiện nhiều chuyến vi hành, tranh thủ các dịp đi săn bắn để hoà nhập, tìm hiểu đời sống dân tình, nhằm thực hiện các dự định cải cách triều chính, canh tân đất nước. Đồng thời không ít lần ông bày tỏ thái độ bất hợp tác với các viên khâm sứ Pháp. Phong độ khác thường của vua Thành Thái so với bậc tiên đế nhu nhược Đồng Khánh đã chiếm được cảm tình, nể trọng của nhân dân.
Vua cha vua con cùng bị đày biệt xứ
Lòng yêu nước thương dân và tinh thần tự cường dân tộc của vua Thành Thái ngày càng làm cho thực dân Pháp lo ngại. Chúng đã tìm cách ngăn cản mọi việc làm của ông. Tệ hại hơn, chúng còn phao tin đồn nhảm rằng nhà vua bị điên để hạ uy tín và dễ bề truất phế. Trong cuốn Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn (Nxb Thuận Hoá-1997), ông Phạm Khắc Hoè nguyên đổng lý văn phòng vua Bảo Đại cho biết: “Qua đầu năm 1907, Thành Thái định đi Thanh Hoá viếng lăng các chúa ở Triệu Tường rồi tuần du ra Hà Nội, với hai hộ giá đại thần là Lê Trinh và Cao Xuân Dục, nhưng khâm sứ nhất định không đồng ý, lấy cớ là cuộc ngự giá Bắc tuần sẽ tốn kém quá, ngân sách không chịu nổi”. Biết tin, vua Thành Thái rất bất bình, đã phản ứng bằng cách chiêu mộ một số phụ nữ lập đội nữ binh, đích thân nhà vua ngày ngày dạy họ cưỡi ngựa bắn súng. Phản ứng khác thường này bị viên khâm sứ Pháp ở Huế lợi dụng cho rằng vua Thành Thái điên thật, báo cáo lên quan toàn quyền và Bộ thuộc địa để truất phế nhà vua.


Các con của vua Dục Đức (vua Thành Thái ngồi giữa)

Sau khi bàn bạc với Hội đồng thượng thư nhà Nguyễn bù nhìn, ngày 29.7.1907, viên khâm sứ Pháp tuyên bố: “Nhà vua không thành thật cộng tác với chính phủ bảo hộ thì từ nay mọi việc Hội đồng thượng thư cứ tuỳ nghi mà làm”, rồi thông báo cho Thành Thái biết rằng nhà vua đã bị tước quyền hành và cấm rời khỏi nơi ở là điện Cần Thành trong Đại Nội. Đến ngày 3.9.1907, được lệnh của Toà khâm sứ Pháp, các quan đại thần nhà Nguyễn vào điện Cần Thành vái lạy vua Thành Thái và dâng một tờ biểu có chữ ký của tất cả các đại thần (trừ Thượng thư Ngô Đình Khả) cùng dự thảo chiếu thoái vị để nhường ngôi cho con mình là hoàng tử Vĩnh San. Vua Thành Thái cầm lấy đọc lướt bản dự thảo, nhếch mép cười ghi “phê chuẩn” rồi quay lưng bỏ đi.
Sự kiện thoái vị của ông vua yêu nước Thành Thái đã làm cho giới sĩ phu và nhân dân cả nước thêm kính trọng nhà vua, đồng thời càng thêm bất bình hành động ngang ngược của thực dân Pháp cùng sự nhu nhược của giới quan lại “mũ cao áo rộng” bù nhìn nhà Nguyễn. Rõ ràng các vị đại thần ấy chẳng xứng đáng là “bề tôi” của vị vua đầy lòng tự trọng, có tinh thần yêu dân yêu nước, không cam chịu làm con rối để bọn ngoại xâm dễ dàng sai bảo.
Để tránh mối nguy hại tiềm ẩn, ngày 12.9.1907 thực dân Pháp đã ra lệnh áp giải vua Thành Thái vào Sài Gòn, rồi đưa xuống quản thúc ở Cap Saint Jacques (tên của thành phố Vũng Tàu thời Pháp thuộc, hay gọi tắt là Cấp). Trong khi đó ở ngoài Kinh thành Huế, người con trai của ông là hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi đã bị buộc ngồi lên ngai vàng, trở thành hoàng đế Duy Tân. Cái gien Thành Thái truyền sang Duy Tân, với tính cách và hành động của bậc quân vương đầy lòng tự tôn dân tộc, mong muốn đưa đất nước thoát khỏi ách ngoại bang, nên 12 năm sau-1919 vua Duy cũng bị thực dân Pháp truất phế đưa vào Cap Saint Jacques, để rồi ngay sau đó cả hai cha con cùng bị đày biệt xứ sang tận đảo Réunion của châu Phi.

Bể Cấp bốn bề bủa sóng vây


Bạch Dinh
Trong 12 năm bị quản thúc tại Vũng Tàu, vua Thành Thái ở tại Bạch Dinh, còn gọi Biệt thự trắng nằm triền phía nam núi Lớn, cao gần 30m, sát biển Bãi Trước. Năm 1907, cha con vua Thành Thái – Duy Tân rời Bạch Dinh lên tàu đi lưu đày. Năm 1947, cựu hoàng Thành Thái mới được trở về Tổ quốc, mà nơi ông đặt chân đầu tiên cũng chính là nơi cuối cùng ông đau lòng cất bước ra đi 40 năm trước. Đây cũng là thời khắc mà nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh đã ghi lại bằng nhiều bức ảnh lịch sử.
Về đến đất Cấp - Vũng Tàu trong hoàn cảnh đôi mắt đã bị mù loà, cựu hoàng Thành Thái không nhìn được cảnh vật quê hương, nhưng tâm hồn và trái tim yêu nước vẫn “nghe” vẫn “thấy” được hơi thở của giống nòi còn đớn đau trước tiếng súng tái xâm lược của quân Pháp. Không tuyên ngôn, không diễn văn mà còn mạnh hơn diễn văn, tuyên ngôn, ấy chính là những vần thơ thất ngôn bật lên từ đáy lòng của một ông vua-thi-sĩ, một nhân cách đáng kính:
“Nào ngờ còn có đến hôm nay
Nhìn thấy non sông đất nước này
Sừng ngựa chưa quên câu chuyện cũ
Ruột tằm chín khúc mối thù Tây
Thành Xuân muôn dặm mây mù tịt
Bể Cấp bốn bề bủa sóng vây
Tiếng súng đì đùng như khúc nhạc
Dẫu cho sắt đá cũng chau mày”

Vua Thành Thái
trước khi bị truất phế


Thái tử Đan nước Yên bên Trung Hoa ngày xưa bị bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng bắt làm con tin ở nước Tần và hẹn bao giờ ngựa mọc sừng mới cho về. Câu chuyện “sừng ngựa” đã “vận” vào số phận của hai cha con vua Thành Thái - Duy Tân. Tuy nhiên, may mắn hơn người con trai của mình, Thành Thái còn có dịp được “nhìn thấy non sông đất nước này”, dù đằng sau chuyến “qui cố hương” ấy là mưu đồ của Pháp lợi dụng nhà vua vào mục đích chính trị. Có điều, những tên “cao thủ” thực dân đâu ngờ rằng tận đáy lòng con người từng chống đối chúng, từng bị chúng gán ghép là “điên” vẫn “chưa quên câu chuyện cũ”, vẫn canh cánh “mối thù Tây”. Đây là bài thơ đầu tiên của Thành Thái khi về nước và cũng là bài thơ cuối cùng ông viết tại Vũng Tàu, sau đó ông về sống tại Sài Gòn cho đến năm 1954 thì mất, thi hài được đưa ra Huế chôn cất trong lăng vua cha Dục Đức.



Vua Bảo Đại “vấn an” cựu
hoàng Thành Thái ở Sài Gòn

Bể Cấp vẫn còn đó. Bạch Dinh vẫn còn đó...

Ngắm nhìn những di vật, đọc lại những vần thơ rút ruột của vua Thành Thái năm nào, chúng ta càng hiểu hơn, thông cảm hơn, kính trọng hơn tinh thần và nhân cách của một ông vua yêu nước nhưng bất lực trước thời cuộc, trước vận mệnh quốc gia “bốn bề bủa sóng vây”. Cái “chau mày” đau đớn của vua Thành Thái cũng chính là nỗi đớn đau của nhiều bậc tiền nhân một thuở...(còntiếp)
Bảo Đại vị vua cuối cùng của Vương Triều Nguyễn.

Bảo Đại ( 22 tháng 10, 1913 – 31 tháng 7, 1997) là vị hoàng đế thứ mười ba và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Đúng ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua nhưng nay thường dùng như là tên nhà vua khi tại vị và sau khi thoái vị dưới danh nghĩa cựu hoàng.

Bảo Đại
Hoàng đế Việt Nam

Vua nhà Nguyễn

Trị vì6 tháng 11 năm 1925– 30 tháng 8 năm 1945
Đăng quang8 tháng 1 năm 1926
Tiền nhiệm: Khải Định
Kế nhiệm :Không có.
Chế độ phong kiến sụp đổ
Hoàng hậu:Nam Phương Hoàng hậu
Hậu duệ
Thái tử Bảo Long
Công chúa Phương Mai
Công chúa Phương Liên
Công chúa Phương Dung
Hoàng tử Bảo Thắng
và tám người khác
Tên húy :Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
Niên hiệu: Bảo Đại (1926 - 1945)
Triều đại Nhà Nguyễn
Hoàng gia caĐăng đàn cung
Thân phụ: Khải Định
Thân mẫu :Từ Cung Hoàng Thị Cúc
Sinh:22 tháng 10 năm 1913
Huế,
Việt Nam
Mất 31 tháng 7 năm 1997
Paris, Pháp
An táng :Nghĩa trang Passy



Ông hoàng Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy , còn có tên Nguyễn Phúc Thiển , tục danh "mệ Vững" sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 (ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế, là con của vua Khải Định và bà Từ Cung Hoàng Thị Cúc. Về thân thế của Bảo Đại vẫn còn nhiều nghi ngờ, vì vua Khải Định bị mang tiếng là bất lực và không thích gần đàn bà .
Ngày 28 tháng 3 năm 1922, Vĩnh Thuỵ được xác lập Đông cung Hoàng Thái tử. Ngày 15 tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thuỵ cùng vua cha Khải Định sang Pháp để thưởng ngoạn cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp. Tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và cho ăn học tại học ở trường Lycée Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques), Paris.
Tháng 2 năm 1924, Vĩnh Thụy về nước để dự Lễ Tứ Tuần Đại Khánh vua Khải Định, đến tháng 11 năm 1924 trở lại nước Pháp để tiếp tục học.
Vua Khải Định mất ngày 6 tháng 11 năm 1925, Vĩnh Thụy về nước thọ tang vua cha và ngày 8 tháng 1 năm 1926, Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị làm vua lấy niên hiệu Bảo Đại. Tháng 3 cùng năm, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập. Từ niên khóa 1930, Bảo Đại theo học trường Khoa học Chính trị (Sciences Po). Đến tháng 9 năm 1932, Bảo Đại hồi loan về nước.


Bảo Đại và đoàn hộ giá ngày tấn phong


Bảo Đại trước ống kính máy ảnh


Người Pháp làm lễ trao ấn kiếm cho Quốc trưởng Bảo Đại (3 tháng 3năm 1952)


Lầu Tịnh Minh, Đại NộiHuế. Năm 1950 là tư thất của quốc trưởng Bảo Đại



Tháng 9 năm 1932, Bảo Đại hồi loan trở về nước, chính thức làm vua. Bảo Đại đã cải cách công việc trong triều như sắp xếp lại việc nội chính, hành chính...Bảo Đại đã cho bỏ một số tập tục mà các tiên vương đã bày ra như thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà vua tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy... Bảo Đại đã cho các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài về hưu, sắc phong thêm 4 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải và Ngô Đình Diệm. Ông thành lập Viện Dân biểu để trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo hộ, tháng 12 năm 1933, Bảo Đại ngự du Bắc hà thăm dân chúng.
Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, sau khi mất mới được truy phong Hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều phản đối vì Nguyễn Hữu Thị Lan là người Công giáo và mang quốc tịch Pháp.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam.
Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam.

Thoái vị
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 25 tháng 8, Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh buộc Bảo Đại phải thoái vị. Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế vào chiều 30 tháng 8, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là ông Trần Huy Liệu. Ông trở thành "công dân Vĩnh Thụy". Trong dịp này, ông có câu nói nổi tiếng "Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ".
Tháng 9 năm 1945, ông được Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mời ra Hà Nội nhận chức "Cố vấn tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam", ông là một trong 7 thành viên của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh đứng đầu.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 16 tháng 3 năm 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không trở về nước, mà về Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Côn Minh, ông đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị, trong đó có người Mỹ. Đại Tướng Marshall, đại diện Hoa Kỳ, đã đem bản giao ước với Bảo Đại về trình Tổng thống Harry S. Truman. Bảo Đại bèn viết thư về nước xin từ chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


Cựu hoàng Bảo Đại tại Paris



Làm Quốc trưởng
Năm 1947, cựu trùm mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau đã tiếp xúc với Bảo Đại tại Hồng Kông, ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền, hình thành nên "giải pháp Bảo Đại" để chống lại cuộc chiến giành độc lập của phong trào Việt Minh. Ngày 24 tháng 4 năm 1948, thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu cũng bay tới Hồng Kông để gặp Bảo Đại xin thành lập Chính phủ Lâm thời cho Việt Nam, ngày 15 tháng 5, Bảo Đại gửi thông điệp cho tướng Xuân, tán thành sự thành lập Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam do tướng Xuân điều khiển "để giải quyết vấn đề Việt Nam đối với Pháp và dư luận Quốc tế".
Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại đã gặp gỡ Cao ủy Pháp Bollaert ở vịnh Hạ Long, trên chiến hạm Duguay Trouin, bản tuyên ngôn Việt - Pháp được công bố, theo đó nước Pháp thừa nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại. Bảo Đại yêu cầu Pháp phải trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam và Pháp đã chấp nhận yêu cầu này.
Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Bảo Đại về nước. Hai tháng sau, vào ngày 14 tháng 6, Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng tuyển cử và tạm giữ danh hiệu Hoàng đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp. Ngày 20 tháng 6 năm 1949, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân đệ đơn từ chức, Chính phủ Lâm thời Nam phần tuyên bố giải tán. Ngày 21 tháng 6, thỏa ước Elyseé được công bố.
Ngày 1 tháng 7 năm 1949, Chính phủ Lâm thời của Quốc gia Việt Nam được thành lập theo sắc lệnh số 1-CP của thủ tướng, tấn phong Bảo Đại là Quốc trưởng, trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (Có tài liệu ghi Bảo Đại là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng, Nguyễn Văn Xuân là phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng). Tháng 1 năm 1950, Bảo Đại chỉ định Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng. Ngày 27 tháng 4 năm 1950, giải tán chính phủ Nguyễn Phan Long và ủy nhiệm Thủ hiến Trần Văn Hữu thành lập chính phủ mới. Chính phủ do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng tồn tại đến ngày 6 tháng 6 năm 1952 thì phải cáo lui, nhường chỗ cho Nguyễn Văn Tâm lên làm thủ tướng cùng thành phần tổng, bộ trưởng đa số là người do Pháp đào tạo.
Ngày 20 tháng 11 năm 1953, hoàng thân Bửu Lộc từ Pháp về Sài Gòn lập chính phủ thay thế chính phủ Nguyễn Văn Tâm. Thời gian này, Quốc trưởng Bảo Đại sống và làm việc tại biệt điện ở Đà Lạt. Xung quanh nơi ở của Bảo Đại có cả một trung đoàn Ngự lâm quân bảo vệ và có cả một đoàn xe riêng gọi là "công xa biệt điện", lại có cả một đội máy bay riêng do các phi công người Pháp lái phục vụ.
Ngày 11 tháng 1 năm 1954, Chính phủ mới do Bửu Lộc thành lập trình diện Bảo Đại nhưng đến ngày 16 tháng 6 năm 1954, Bửu Lộc từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm về nước, ngày 6 tháng 7, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới.
Sau Hiệp định Genève 1954, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, chính quyền và quân đội Quốc gia Việt Nam tập kết ở miền Nam Việt Nam chờ tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam.
Ngô Đình Diệm tiến hành cải tổ chính phủ lần thứ nhất vào ngày 24 tháng 9 năm 1954 và lần thứ hai vào ngày 10 tháng 5 năm 1955.
Tháng 9 năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh không chịu dưới quyền chỉ huy của Ngô Đình Diệm nên đánh điện sang Pháp nhờ Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại điện về Sài Gòn triệu tập Diệm sang Cannes gặp Bảo Đại để bàn lại việc sắp xếp nhân sự nhưng Diệm không đi. Bảo Đại quyết định điện về Sài Gòn cách chức thủ tướng của Ngô Đình Diệm.
Tuy nhiên, ngày 4 tháng 10 năm 1955, Ủy ban trưng cầu dân ý thành lập đưa ý kiến đòi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại và đưa Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Quốc trưởng. Đến ngày 26 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm được suy tôn lên chức vị Quốc trưởng, và với 5.721.735 phiếu truất, Quốc trưởng Bảo Đại bị phế truất và bắt đầu cuộc sống lưu vong tại Pháp cho đến ngày tạ thế
Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có hạng. Bị cơ quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán dần tài sản của mình. Năm 1963, Nam Phương Hoàng hậu qua đời ở Chabrignac.
Năm 1982, khi đã tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946). Bảo Đại nhập đạo Công giáo lấy tên thánh là Jean-Robert.
Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại, Bảo Đại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân. Trong chuyến đi này ông đã nhận tên cha để làm lại giấy khai sinh cho những người con ngoại hôn trước đây không ghi tên cha. Tại thị trấn Sacramento, ông được tặng chiếc chìa khóa vàng tượng trưng cho thị trấn này. Ông cũng được bà thị trưởng thành phố Westminster, California tặng danh hiệu "công dân danh dự" của thành phố.
Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông qua đời ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val-de-Grâce, hưởng thọ 84 tuổi. Ông cũng là một phế đế sống thọ nhất trên thế giới thời hiện đại. Trước đó ông có nhận lời về tham dự Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) được tổ chức tại Hà Nội vào 1997.Đám tang Bảo Đại được điện Elysée đứng ra lo liệu đầy đủ và trang trọng. Về phía gia đình, ngoài bà quả phụ Vĩnh Thụy Baudot có hoàng tử Bảo Long và các công chúa cùng đến tiễn đưa thân phụ, ngoài ra còn có bà Didelot (chị ruột của bà Nam Phương), tuy đã 90 tuổi nhưng cũng tới dự. Linh cữu Bảo Đại được đưa từ Quân y viện Val de Grace tới thánh đường Saint Pierre de Chaillot để làm lễ cầu hồn. Ông được an táng tại nghĩa trang Passy, quận 16, Paris, khá gần tháp Eiffel. Đám tang Bảo Đại được nhà nước Pháp cử một tiểu đội lính lê dương quân phục trắng, gù đỏ trên vai, bồng súng, một sĩ quan cầm quốc kỳ Pháp đi đầu và tiểu đội lính cầm súng đi hai bên linh cữu.Chính phủ Pháp có cử đại diện đến dự lễ, chia buồn và tiễn đưa. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi điện chia buồn đến tang quyến và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã gửi vòng hoa viếng.Trả lời BBC về sự kiện này, bà Monique nói "Ngày hôm nay tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rồi, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vừa qua đời. Nhưng hôm nay trang sử của triều Nguyễn Việt Nam cũng được chấm dứt. Tôi cầu nguyện cho chồng tôi".


Vợ và tình nhân


Theo tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, trong cuốn "Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn", Nhà xuất bản văn nghệ, 2006, thì những người vợ và tình nhân của Bảo Đại gồm:
  1. Nam Phương Hoàng hậu, quê Gò Công, Tiền Giang, có 5 người con
  2. Bùi Mộng Điệp, quê Bắc Ninh, không hôn thú, có 3 người con
  3. Lý Lệ Hà, quê Thái Bình, vũ nữ, không hôn thú, không có con
  4. Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong), vũ nữ Trung Hoa lai Pháp, không hôn thú, có 1 con gái
  5. Lê Thị Phi Ánh ở Huế, không hôn thú, có 2 người con
  6. Vicky (Pháp), không hôn thú, có 1 con gái
  7. Clément(?), vũ nữ và buôn lậu ở xóm Cigalle (Pháp), không hôn thú
  8. Monique Marie Eugene Baudot (Pháp), có hôn thú, không có con
Các con
Vua Bảo Đại có 8 người vợ, tình nhân và có 13 người con.

Với Nam Phương Hoàng hậu


  1. Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, mất ngày 28 tháng 7 năm 2007
  2. Công chúa Nguyễn Phúc Phương Mai,sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937 tại Đà Lạt
  3. Công chúa Nguyễn Phúc Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938
  4. Công chúa Nguyễn Phúc Phương Dung, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942
  5. Hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943
Với bà Mộng Điệp
  1. Nguyễn Phúc Phương Thảo, sinh năm 1946
  2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng, sinh năm 1954
  3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn, sinh năm 1957
  4. Với bà Hoàng Tiểu Lan
  5. Nguyễn Phúc Phương An
  6. Nguyễn Phúc Hoàng My
  7. với bà Phi Ánh
  8. Nguyễn Phúc Phương Minh
  9. Nguyễn Phúc Bảo Ân
  10. Với bà Vicky
  11. Nguyễn Phúc Phương Từ
Bảo Đại còn có một người con do bà Từ Cung nuôi, nhưng không rõ là con bà nào do ông không tiết lộ.


Câu nói nổi tiếng
  • Làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.
  • Xin cho tôi được sống và chết trong bình yên.
--------------------------
Bài đọc thêm về Vua Bảo Đại.
Khi nghiên cứu về vua Bảo Đại, người ta phát hiện ra rằng, cuộc đời ông có nhiều chi tiết gắn liền với con số 13. Trong khi trên thế giới, có rất nhiều quốc gia và rất nhiều người kiêng kị con số 13 vì cho rằng đó là một con số tiềm ẩn những rủi ro...

Năm 1922, vua Khải Định được mời sang Pháp tham dự một hội đấu xảo, trong lần đi này ông đã đem theo con trai của mình là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sang nhờ vợ chồng ông Charles - nguyên là khâm sứ ở Trung Kỳ - nuôi dạy theo nền văn minh phương Tây. Sau đó Khải Định trở về nước, còn Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy ở lại Pháp theo sự sắp đặt này.
Đến ngày 16/11/1925, vua Khải Định mất, triều đình đã mời Vĩnh Thụy về nước để lên ngôi hoàng đế thay cha. Lễ tấn tôn được tổ chức vào ngày 8/1/1926 với niên hiệu là Bảo Đại. Và con số 13 bắt đầu được ghi nhận:

1. Ông sinh năm 1913 (chính xác là ngày 22/10/1913, tức 23/9 năm Quý Sửu)

2. Ông sinh năm 1913, lên ngôi năm 1926, như vậy Bảo Đại lên ngôi năm 13 tuổi.

3. Triều Nguyễn thành lập năm 1802 với vị vua đầu tiên là Gia Long, trải qua các đời Minh Mạng (2), Thiệu Trị (3), Tự Đức (4), Dục Đức (5), Hiệp Hòa (6), Kiến Phúc (7), Hàm Nghi (8), Đồng Khánh (9), Thành Thái (10), Duy Tân (11), Khải Định (12) và kết thúc tại đời Bảo Đại (13). Như vậy khi lên ngôi ông là ông Vua thứ 13 của triều Nguyễn, và cũng là vị vua cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

4. Nếu tính từ khi lên ngôi năm 1926 đến khi thoái vị năm 1945 là 19 năm nhưng sau khi lên ngôi, ông trao quyền lại cho Phụ chính thân thần Tôn Thất Hân và quay trở lại Pháp để tiếp tục việc học. Mãi đến ngày 8/9/1932, ông mới hồi loan chính thức trị vì đất nước.

Sang tháng 8/1945, trước cao trào cách mạng của nhân dân, ông thoái vị ngày 30/8/1945 và trao lại ấn kiếm cho các đại diện Chính phủ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấm dứt vĩnh viễn chế độ quân chủ phủ tại Việt Nam. Như vậy Bảo Đại thực sự trị vì đất nước chỉ 13 năm.

5. Ngày 1/8/1997, Bảo Đại qua đời tại trung tâm y tế Van-de-grace, đến ngày 6/8/1997 ông mới được đem chôn cất tại nghĩa trang Thiên Chúa giáo Passy (Paris). Tháng 8, trời thu Paris trong xanh rất đẹp, nhưng khi thi hài ông sắp được hạ huyệt (giờ tốt đã được chọn trước) thì trời đột ngột đổ mưa làm tất cả những người dự đám tang đều ướt đẫm.

Trời mưa làm huyệt mộ ngập nước nên không thể nào tiến hành nghi lễ hạ huyệt, nhưng giờ lành lại không đợi ai bao giờ nên mọi người ra sức tát cạn nước vì e giờ tốt qua đi, khi nước được tát cạn, trời đã bớt mưa thì đồng hồ điểm đúng 13 giờ… Như vậy ông vua này được hạ huyệt lúc 13 giờ.

6. Sinh thời vua Bảo Đại có với Hoàng hậu Nam Phương 5 người con là Hoàng Thái tử Bảo Long, Hoàng tử Bảo Thăng, Công chúa Phương Mai, Phương Dung, Phương Liên; với bà Thứ phi Mộng Điệp 3 người là Hoàng nữ Phương Thảo, Hoàng nam Bảo Hoàng, Bảo Sơn; với bà Thứ Phi Ánh 2 người là Hoàng nữ Phương Minh, Hoàng nam Bảo An; với bà Vicky 1 người là Phương Từ; và bà Thứ Phi Mộng Điệp cho biết trong sổ gia đình của Bảo Đại do bà từ cung giữ còn một người con nữa nhưng không ghi mẹ là ai. Như thế Bảo Đại có 13 người con chính thức được ghi nhận!
--------------------------------------------------------------
Sau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

Số là sau cuộc mít tinh chào mừng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời, chứng kiến lễ thoái vị và trao ấn kiếm của vua Bảo Đại cho đại diện Chính phủ vào ngày 30 - 8 - 1945, một số anh em TNTT, trong đó có tôi, được phân công vào canh gác trong Đại nội. Đây là một dịp hiếm có, không dễ gì ai cũng được vào tận Hoàng cung, nên mọi người đều náo nức, chọn bộ quân phục mới nhất, nai nịt chỉnh tề, chân đi ghệt, giày láng bóng, calô đội lệch trên đầu, thay khẩu mút-cơ-tông cổ lỗ sĩ bằng khẩu cacbin hay khẩu Brâuning Canada mới toanh vừa mới tước của 6 tên sỹ quan Pháp mấy hôm trước, trông ai nấy oai vệ như những chàng ngự lâm pháo thủ trong sách truyện Pháp (mà nào đã ai biết ngự lâm pháo thủ họ ăn mặc ra sao?).

Tôi được phân công gác ở một Điện, nếu tôi không nhớ nhầm thì đó là Điện Kiến Trung. Còn đang đi lại nhìn cảnh vật xung quanh thì thấy một bóng người từ trong Điện đi ra, mặc bộ pigiama kẻ sọc, chân đi dép lê, từ từ tiến lại gần tôi. Tôi nhận ra ngay là người đã đọc bức thư thoái vị ngôi vua hôm qua, Hoàng đế Bảo Đại, nay chỉ còn là công dân Vĩnh Thụy. Thoáng một cái trong đầu tôi tự hỏi: xưng hô như thế nào đây: bẩm hay thưa? Ngài hay ông? Tôi chọn ngay: thưa ông.
Thấy tôi trong tư thế đứng nghiêm, ông Vĩnh Thuỵ chủ động hỏi bằng tiếng Pháp: - Pardon, qu’ est ce que vous faites ici? (xin lỗi, anh làm gì đấy?). Một thoáng phân vân, nên trả lời bằng tiếng Pháp hay tiếng Việt? Tôi chọn ngay tiếng Việt: - Thưa ông, chúng tôi được phân công vào canh gác để đảm bảo trật tự an toàn trong Hoàng cung.
Thấy tôi hiểu và trả lời rành rọt, Vĩnh Thuỵ chuyển sang nói tiếng Việt pha lẫn tiếng Pháp, lơ lớ giọng Huế: - Merci - Très bon (cảm ơn - tốt lắm). Anh ăn mặc đẹp lắm - Très élégant (phong độ lắm). De quelle unité? (thuộc đơn vị nào?).
Tôi trả lời: - Xin cảm ơn lời khen của ông. Chúng tôi là những sinh viên trường TNTTdo hai ông Phan Anh và Tạ Quang Bửu trong chính phủ Trần Trọng Kim đứng ra thành lập - nay là lực lượng vũ trang cách mạng của Uỷ ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên Huế (sợ Vĩnh Thuỵ không hiểu rõ tôi dịch đoạn cuối ra tiếng Pháp: Maintenant nous sommes des forces armées révolution naires à la disposition du Comité révolutionnaire temporaire de Thừa Thiên - Huế).
Nghe nhắc đến trường TNTT, Vĩnh Thuỵ gật đầu: - Tôi có được ông Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè bẩm báo lên về ngôi trường này.
Bỗng như sực nhớ ra việc hạ cờ quẻ ly xuống, kéo cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ trước cửa Ngọ môn ngày 21-8, Vĩnh Thuỵ vặn hỏi:
- Có phải hai người ra lệnh kéo cờ Cách mạng trước đây ở Ngọ môn là bạn TNTT của các ông không?
Đúng là cách đây mươi hôm, ngày 21-8, hai anh TNTT Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương được đồng chí Trần Hữu Dực trong Uỷ ban lâm thời Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế giao nhiệm vụ tìm mọi cách hạ cờ quẻ ly của Nam Triều xuống, kéo cờ đỏ Cách mạng lên đỉnh cột cờ trước Ngọ môn. Hai anh đã khôn khéo thuyết phục và trực tiếp chỉ huy tiểu đội lính bảo vệ Kỳ đài hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Và tôi đã trả lời:
- Thưa ông, đúng là có hai anh bạn TNTT chúng tôi, theo lệnh cấp trên đã làm việc đó?
Và như để thăm dò phản ứng của Bảo Đại hôm ấy ra sao, tôi đặt câu hỏi:
- Thưa ông, hôm đó cấp dưới có bẩm báo lên ông sự việc ấy không? Và ý kiến ông như thế nào?
Ông ta không trả lời ngay mà đắn đo một lát mới nói:
- Hôm đó ông lãnh binh có bẩm với tôi, tôi có nói với ông ta rằng: Họ là người của Việt Minh đấy. Cứ để cho họ làm. Ta không cản trở được họ đâu.
Đúng là trong những ngày ấy, khí thế cách mạng sôi sục, uy tín Việt Minh mạnh mẽ khiến Hoàng đế cũng phải chịu bó tay.
Về sự kiện này, về sau trong bút ký của Đặng Văn Việt có một chi tiết lý thú, bộc lộ tâm trạng hoang mang bối rối của Bảo Đại trong thời khắc ấy: Trong buổi lễ thoái vị 30-8, tình cờ Đặng Văn Việt gặp viên lãnh binh chỉ huy đội cận vệ Hoàng gia (đội lính khố vàng). Ông ta bộc bạch: “Hôm nọ hai ông ra lệnh hạ cờ vua treo cờ Cách mạng lên cột cờ lớn. Thi hành nhiệm vụ bảo vệ Hoàng cung, tôi đã cho đại đội nằm rạp dọc thành cửa Ngọ môn, chĩa súng vào hai ông. Xin ý kiến Hoàng đế, ngài thét lên và bảo: Chớ, chớ, Việt Minh đấy, các người mà nổ súng thì Trẫm chết trước đó”...).
Trở lại câu chuyện giữa tôi và Vĩnh Thuỵ: Nhân nhớ đến buổi lễ thoái vị hôm trước, tôi nói:
- Hôm qua tôi rất thích bức thư Ngài đọc (lại là Ngài, tôi vẫn chưa quen với từ “ông”) bài văn ngắn gọn, ý tứ sâu sắc (ý tôi muốn nhắc đến câu: Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ). Có phải do Ngài tự mình viết hay qua một người khác dự thảo (thâm tâm tôi vẫn không tin là Bảo Đại có thể một mình nghĩ và viết nổi).
Lần nay ông ta thành khẩn bộc lộ, vẫn giọng cả Tây lẫn Ta:
- Jusqu’ ici, tous papiers (từ trước đến nay mọi văn bản giấy tờ) đều do ông Hoè viết rất tốt. Tôi rất phục ông ta. Lần này cũng vậy, tous est conforme à mes réflexions (tất cả đều phù hợp với suy nghĩ của tôi)...
... Tôi còn muốn hỏi ông nhiều chuyện nữa, nhưng không tiện kéo dài thời gian, vi phạm điều lệnh canh gác của quân nhân (như thế này cũng đã vi phạm rồi còn gì). Đang tìm cách rút khỏi câu chuyện, thì Vĩnh Thụy chủ động hỏi:
- Pardon, attendez moi une minute (xin lỗi, chờ tôi một phút)
Ông ta vội vã vào nhà, đem ra tặng tôi một hộp nhỏ gọi là kỷ niệm cuộc gặp gỡ tình cờ, ngắn ngủi hôm nay.
Tôi đứng nghiêm, nhận quà, nói lời cảm ơn và lời từ biệt xã giao, hẹn ngày gặp lại, mà không tiện bắt tay.
Giở ra mới biết là trong hộp xinh xắn đó có bản đồ thành phố Hà Nội thu nhỏ, có in chi tiết cụ thể từng đường phố, từng vật thể rất sắc nét. Sau này, năm 1952, từ Liên khu 5 lặn lội ra dự chỉnh huấn chính trị và bổ túc quân sự ở chiến khu Việt Bắc, mừng rỡ gặp lại Nguyễn Thế Lương (Cao Pha) tôi tặng lại anh ta tập bản đồ đó, để ngày về tiếp quản Thủ đô có mà dùng đỡ lớ ngớ. Cho đến bây giờ không biết Cao Pha có còn giữ nó không?

... Thú thật, qua tiếp xúc bề ngoài ban đầu ngắn ngủi với Vĩnh Thuỵ, tôi có một chút cảm tình với ông ta, cho là trong ông ta còn có một chút lương tri đang thức tỉnh, còn chút tinh thần dân tộc đang được khơi dậy, với sức mạnh giác ngộ cải tạo to lớn của Cách mạng, lại được may mắn gần gũi Bác Hồ mà ông ta kính phục coi như cha (theo thư ông ta gửi về Huế cho mẹ và vợ là bà Từ Cung và bà Nam Phương), hy vọng ông ta sẽ từng bước cải tạo thành người công dân lương thiện có ích cho xã hội xứng đáng là hậu duệ của Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.
Nhưng, như chúng ta đã biết, ông ta đã phản bội lại lời thề thiêng liêng trước Tổ quốc, cam tâm trở lại làm tay sai cho Pháp lần nữa (1949-1956) để rồi cuối cùng bị Mỹ Diệm hất cẳng, thất cơ lỡ vận, sống lưu vong vất vưởng trên đất Pháp, bạn bè xa lánh, vợ con ruồng bỏ, cho đến khi chết (1997).
Suy cho cùng, lời thề ta cho là thiêng liêng mà Bảo Đại trịnh trọng đọc trong buổi lễ thoái vị đâu có phải xuất phát từ trong tâm khảm của ông ta đâu, mà chỉ là sản phẩm “lời hay ý đẹp” của ông Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè mớm cho ông ta đọc mà thôi.
THĂNG LONG HOÀI CỔ (Tạo hóa gây chi cuộc hý trường. Đến nay thấm thoát mấy tinh sương. Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Nước còn cau mặt với tang thương .Ngàn năm gương cũ soi kim cổ .Cảnh ấy người đây luống đoạn trường )Đó là bài thơ viết về Thăng Long - Hà Nội nhưng khi đến kinh thành Huế cảm giác của em man mác giống bài thơ này Bác ạ , nhất là khi em đã từng đọc bài viết về ngôi mộ hiện nay của Vua Bảo Đại .Một vị vua oai hùng là thế , chết nơi cô quạnh ..cuộc đời huy hoàng giờ lạnh lẽo và cô đơn nơi xứ người .Một vị vua không đủ tài sức, trí lực để giữ nước , đời sống lưu vong xa xứ thật buồn ..(Giàu thì nhiều người theo ...quạnh hiu trống vắng khi nghèo ..)
Bí mật cuộc đời Nam Phương Hoàng hậu


    • Cách mạng Tháng Tám thành công, vua Bảo Đại thoái vị, hoàng hậu Nam Phương sang Pháp sinh sống. Tuy giàu có, nhưng bà sống thiếu hạnh phúc và chết trong cô đơn nơi đất khách năm 1963, khi mới 49 tuổi.
    • Vĩnh Thụy khi mới 8 tuổi đã trở thành Đông cung Hoàng thái tử. Sau 11 năm du học bên Pháp, Vĩnh Thụy trở lại quê nhà lên ngôi Hoàng đế Bảo Đại, ở tuổi 19. Trên chuyến tàu này, có một nữ khách người Việt, cô Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan xinh đẹp, năm ấy vừa tròn 18 tuổi. Cô sinh năm 1914 tại Sài Gòn, con ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bính, cháu ngoại ông huyện Sĩ ở Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 20, một gia đình theo đạo Thiên Chúa, quốc tịch Pháp. Năm 14 tuổi, cô được gia đình gửi sang Pháp, học trường dòng Couvent des Oiseaux ở Paris, cũng trở về nước chuyến này khi vừa học xong. Và lần đầu cô trông thấy Vĩnh Thụy ở phòng ăn trên tàu.


Nam Phương Hoàng hậu




    1. Năm sau, dưới sự đạo diễn của người Pháp, Vĩnh Thụy và cô Lan hội ngộ. Họ bố trí cho Vĩnh Thụy và Toàn quyền Pasquier đến nghỉ mát ở núi Lâm Viên Đà Lạt. Darles, đốc lý, được giao nhiệm vụ tổ chức một buổi tiệc trà với lý do họp mặt giữa người Pháp và một số thân hào nổi tiếng ở miền Nam đang làm ăn tại cao nguyên này. Hai mẹ con cô Lan và anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào, ông Denis Lê Phát An, từ Sài Gòn lên đây nghỉ mát từ vài hôm trước, cũng được gửi thiếp mời tới dự tiệc trà. Nể lời cậu, cô Lan đi dự nhưng không trang điểm, chỉ mặc áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp. Trong buổi tiệc ấy, khi ông Darles đưa ông cậu và cô cháu gái đến giới thiệu, Hoàng đế đã bị chinh phục, nhìn cô không chớp mắt.
    2. Sau bữa tiệc, Vĩnh Thụy trở lại Huế bẩm với bà Hoàng Thái hậu Từ cung Hoàng Thị Cúc về chuyện gặp cô Lan. Bà Cúc tỏ ra lo lắng, nét mặt u buồn, bởi cô Lan đi đạo, lớn lên ở châu Âu, không phải sống trong khuôn phép lễ giáo Việt Nam. Không phải chỉ trong hoàng tộc và đình thần, cả trong dân chúng đều lo lắng, bàn tán xôn xao. Vĩnh Thụy vẫn bất chấp, hôn lễ được cử hành vào ngày 20/3/1934, trước sự hiện diện của đình thần và đại diện nước Pháp, tại điện Cần Chánh. Triều đình đứng thành hàng dọc theo tấm thảm hai màu vàng, đỏ dành riêng cho hoàng đế. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một phụ nữ xuất hiện giữa triều đình.



Hoàng hậu trong trang phục


    • Bà Nam Phương, tên trị vì do Bảo Đại đặt, có nghĩa "Người con gái phương Nam", mặc áo thụng, chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện đính 9 con phượng bằng vàng thật và nhiều ngọc châu óng ánh. Bà đi đến giữa tấm thảm, cả triều đình vái chào. Với một vẻ đẹp lộng lẫy, bà đi thẳng vào phòng lớn giữa lúc nhà vua đang ngồi trên ngai thấp ở đó. Hôn lễ ngắn gọn, đơn giản. Hoàng đế và hoàng hậu sánh vai bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành vào điện Kiến Trung, nơi ở và làm việc chính. Sau này, họ có với nhau 5 người con: 2 hoàng tử và 3 công chúa.

    • Cuộc sống xa xứ
    • Cách mạng Tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị cùng gia đình rời khỏi Đại Nội, tới ở cung An Định, bên bờ sông An Cựu. Thời gian sau, trong bối cảnh nhà Nguyễn đã suy vong, bà Nam Phương sang Pháp sống những năm tháng cuối đời.
    • Giữa đất khách, bà sống ẩn dật trong yên tĩnh với một tài sản chẳng ai bằng. Ngoài 2 chung cư lớn ở Neuilly và đại lộ Opéra (Paris), bà còn sở hữu nhiều nhà đất ở các nước Maroc, Congo, cùng nhiều ngọc ngà, châu báu.
    • Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống thiếu hạnh phúc, bà chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ.
    • Một lần, sau chuyến đi chơi về, bà thấy đau cổ. Bác sĩ tới thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ, không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số. Nhưng bà càng khó thở hơn và trái tim bà đã ngừng đập ở tuổi 49. Đó là ngày 14/9/1963.
    • Trong giờ phút lâm chung, ngoài những người giúp việc, bên cạnh bà không có một người thân. Đến viếng bà là những người có mối quan hệ gần gũi như công chúa Như Lý, con gái Vua Hàm Nghi, và vài viên chức thuở xưa làm việc với cựu hoàng Bảo Đại. Đám tang bà hoàng hậu thưa thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than, không lời ai điếu. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại Chabrignac, kém cả những ngôi mộ xây đủ hình khối ở ngay bên cạnh.
    • Người tới thăm viếng có thể nhìn tấm bia, mặt trước ghi mấy dòng tiếng Pháp: "Ici, repose l'impéreatrice d'Annam née Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan". (Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan). Mặt sau tấm bia khắc dòng chữ Hán: "Đại Nam Nam Phương Hoàng hậu chi mộ" (mộ phần bà Hoàng hậu Nam Phương của nước Đại Nam).
    • Ngôi mộ của Nam Phương Hoàng Hậu
Chân dung cựu hoàng Bảo Đại
Vua nhà Nguyễn
Trị vì6 tháng 11 năm 1925 – 30 tháng 8 năm 1945

Đăng quang8 tháng 1 năm 1926

Tiền nhiệm Khải Định

Kế nhiệmKhông có.

Chế độ phong kiến sụp đổ

Hoàng hậuNam Phương Hoàng hậu

Hậu duệThái tử Bảo Long

Công chúa Phương Mai
Công chúa Phương Liên
Công chúa Phương Dung
Hoàng tử Bảo Thắng

Tên húyNguyễn Phúc Vĩnh ThụyNiên hiệuBảo Đại (1926 - 1945)Triều đạiNhà NguyễnHoàng gia ca Đăng đàn cungThân phụ Khải ĐịnhThân mẫuTừ Cung Hoàng Thị CúcSinh22 tháng 10 năm 1913
Huế, Việt Nam Mất 31 tháng 7 năm 1997
Paris, PhápAn tángNghĩa trang Passy

  1. Bảo Đại 22 tháng 10, 1913 – 31 tháng 7, 1997) là vị hoàng đế thứ mười ba và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Đúng ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua nhưng nay thường dùng như là tên nhà vua khi tại vị và sau khi thoái vị dưới danh nghĩa cựu hoàng.
  2. Thuở nhỏ
  3. Ông hoàng Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy , còn có tên Nguyễn Phúc Thiển sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 (ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế, là con của vua Khải Định và bà Từ Cung Hoàng Thị Cúc. Về thân thế của Bảo Đại vẫn còn nhiều nghi ngờ, vì vua Khải Định bị mang tiếng là bất lực và không thích gần đàn bà
  4. Ngày 28 tháng 3 năm 1922, Vĩnh Thuỵ được xác lập Đông cung Hoàng Thái tử. Ngày 15 tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thuỵ cùng vua cha Khải Định sang Phá để thưởng ngoạn cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp. Tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và cho ăn học tại học ở trường Lycée Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques), Paris.
Tháng 2 năm 1924, Vĩnh Thụy về nước để dự Lễ Tứ Tuần Đại Khánh vua Khải Định, đến tháng 11 năm 1924 trở lại nước Pháp để tiếp tục học.
  1. Vua Khải Định mất ngày 6 tháng 11 năm 1925, Vĩnh Thụy về nước thọ tang vua cha và ngày 8 tháng 1 năm 1926, Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị làm vua lấy niên hiệu Bảo Đại. Tháng 3 cùng năm, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập. Từ niên khóa 1930, Bảo Đại theo học trường Khoa học Chính trị (Sciences Po). Đến tháng 9 năm 1932, Bảo Đại hồi loan về nước.
  2. Lên ngôi
  3. Tháng 9 năm 1932, Bảo Đại hồi loan trở về nước, chính thức làm vua. Bảo Đại đã cải cách công việc trong triều như sắp xếp lại việc nội chính, hành chính...Bảo Đại đã cho bỏ một số tập tục mà các tiên vương đã bày ra như thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà vua tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy... Bảo Đại đã cho các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài về hưu, sắc phong thêm 4 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải và Ngô Đình Diệm. Ông thành lập Viện Dân biểu để trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo hộ, tháng 12 năm 1933, Bảo Đại ngự du Bắc hà thăm dân chúng.
  4. Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thi Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, sau khi mất mới được truy phong Hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều phản đối vì Nguyễn Hữu Thị Lan là người Công giáo và mang quốc tịch Pháp.
  5. Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam.
  6. Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam.
Thoái vị



  1. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 25 tháng 8, Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh buộc Bảo Đại phải thoái vị. Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngo Môn, Huế vào chiều 30 tháng 8, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là ông Trần Huy Liệu. Ông trở thành "công dân Vĩnh Thụy". Trong dịp này, ông có câu nói nổi tiếng "Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ".
  2. Tháng 9 năm 1945, ông được Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mời ra Hà Nội nhận chức "Cố vấn tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam", ông là một trong 7 thành viên của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh đứng đầu.
  3. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
  4. Ngày 16 tháng 3 năm 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không trở về nước, mà về Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Côn Minh, ông đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị, trong đó có người Mỹ. Đại Tướng Marshall đại diện Hoa Kỳ, đã đem bản giao ước với Bảo Đại về trình Tổng thống Harry S. Truman. Bảo Đại bèn viết thư về nước xin từ chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Làm Quốc trưởng



Năm 1947, cựu trùm mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau đã tiếp xúc với Bảo Đại tại Hồng Kông, ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền, hình thành nên "giải pháp Bảo Đại" để chống lại cuộc chiến giành độc lập của phong trào Việt Minh. Ngày 24 tháng 4 năm 1948, thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu cũng bay tới Hồng Kông để gặp Bảo Đại xin thành lập Chính phủ Lâm thời cho Việt Nam, ngày 15 tháng 5, Bảo Đại gửi thông điệp cho tướng Xuân, tán thành sự thành lập Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam do tướng Xuân điều khiển "để giải quyết vấn đề Việt Nam đối với Pháp và dư luận Quốc tế".


Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại đã gặp gỡ Cao ủy Pháp Bollaert ở vịnh Hạ Long, trên chiến hạm Duguay Trouin, bản tuyên ngôn Việt - Pháp được công bố, theo đó nước Pháp thừa nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.


Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại. Bảo Đại yêu cầu Pháp phải trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam và Pháp đã chấp nhận yêu cầu này


Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Bảo Đại về nước. Hai tháng sau, vào ngày 14 tháng 6 Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng tuyển cử và tạm giữ danh hiệu Hoàng đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp. Ngày 20 tháng 6 năm 1949, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân đệ đơn từ chức, Chính phủ Lâm thời Nam phần tuyên bố giải tán. Ngày 21 tháng 6, thỏa ước Elyseé được công bố.


Ngày 1 tháng 7 năm 1949, Chính phủ Lâm thời của Quốc gia Việt Nam được thành lập theo sắc lệnh số 1-CP của thủ tướng, tấn phong Bảo Đại là Quốc trưởng, trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (Có tài liệu ghi Bảo Đại là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng, Nguyễn Văn Xuân là phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng). Tháng 1 năm 1950, Bảo Đại chỉ định Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng. Ngày 27 tháng 4 năm 1950, giải tán chính phủ Nguyễn Phan Long và ủy nhiệm Thủ hiến Trần Văn Hữu thành lập chính phủ mới. Chính phủ do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng tồn tại đến ngày 6 tháng 6 năm 1952 thì phải cáo lui, nhường chỗ cho Nguyễn Văn Tâm lên làm thủ tướng cùng thành phần tổng, bộ trưởng đa số là người do Pháp đào tạo.


Ngày 20 tháng 11 năm 1953, hoàng thân Bửu Lộc từ Pháp về Sài Gòn lập chính phủ thay thế chính phủ Nguyễn Văn Tâm. Thời gian này, Quốc trưởng Bảo Đại sống và làm việc tại biệt điện ở Đà Lạt. Xung quanh nơi ở của Bảo Đại có cả một trung đoàn Ngự lâm quân bảo vệ và có cả một đoàn xe riêng gọi là "công xa biệt điện", lại có cả một đội máy bay riêng do các phi công người Pháp lái phục vụ.


Ngày 11 tháng 1 năm 1954, Chính phủ mới do Bửu Lộc thành lập trình diện Bảo Đại nhưng đến ngày 16 tháng 6 năm 1954, Bửu Lộc từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm về nước, ngày 6 tháng 7, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới.


Sau Hiệp định Genève 1954, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, chính quyền và quân đội Quốc gia Việt Nam tập kết ở miền Nam Việt Nam chờ tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam.


Ngô Đình Diệm tiến hành cải tổ chính phủ lần thứ nhất vào ngày 24 tháng 9 năm 1954 và lần thứ hai vào ngày 10 tháng 5 năm 1955.


Tháng 9 năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh không chịu dưới quyền chỉ huy của Ngô Đình Diệm nên đánh điện sang Pháp nhờ Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại điện về Sài Gòn triệu tập Diệm sang Cannes gặp Bảo Đại để bàn lại việc sắp xếp nhân sự nhưng Diệm không đi. Bảo Đại quyết định điện về Sài Gòn cách chức thủ tướng của Ngô Đình Diệm.


Tuy nhiên, ngày 4 tháng 10 năm 1955, Ủy ban trưng cầu dân ý thành lập đưa ý kiến đòi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại và đưa Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Quốc trưởng. Đến ngày 26 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm được suy tôn lên chức vị Quốc trưởng, và với 5.721.735 phiếu truất, Quốc trưởng Bảo Đại bị phế truất và bắt đầu cuộc sống lưu vong tại Pháp cho đến ngày tạ thế.


Cuộc sống lưu vong


Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có hạng. Bị cơ quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán dần tài sản của mình. Năm 1963, Nam Phương Hoàng hậu qua đời ở Chabrignac.


Năm 1982, khi đã tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946). Bảo Đại nhập đạo Công giáo lấy tên thánh là Jean-Robert.


Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại, Bảo Đại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân. Trong chuyến đi này ông đã nhận tên cha để làm lại giấy khai sinh cho những người con ngoại hôn trước đây không ghi tên cha. Tại thị trấn Sacramento, ông được tặng chiếc chìa khóa vàng tượng trưng cho thị trấn này. Ông cũng được bà thị trưởng thành phố Westminster, California tặng danh hiệu "công dân danh dự" của thành phố.


Tang lễ


Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông qua đời ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val-de-Grâce, hưởng thọ 84 tuổi. Ông cũng là một phế đế sống thọ nhất trên thế giới thời hiện đại. Trước đó ông có nhận lời về tham dự Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) được tổ chức tại Hà Nội vào 1997.


Đám tang Bảo Đại được điện Elysée đứng ra lo liệu đầy đủ và trang trọng. Về phía gia đình, ngoài bà quả phụ Vĩnh Thụy Baudot có hoàng tử Bảo Long và các công chúa cùng đến tiễn đưa thân phụ, ngoài ra còn có bà Didelot (chị ruột của bà Nam Phương), tuy đã 90 tuổi nhưng cũng tới dự. Linh cữu Bảo Đại được đưa từ Quân y viện Val de Grace tới thánh đường Saint Pierre de Chaillot để làm lễ cầu hồn. Ông được an táng tại nghĩa trang Passy, quận 16, Paris, khá gần tháp Eiffel. Đám tang Bảo Đại được nhà nước Pháp cử một tiểu đội lính lê dương quân phục trắng, gù đỏ trên vai, bồng súng, một sĩ quan cầm quốc kỳ Pháp đi đầu và tiểu đội lính cầm súng đi hai bên linh cữu.


Chính phủ Pháp có cử đại diện đến dự lễ, chia buồn và tiễn đưa. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi điện chia buồn đến tang quyến và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã gửi vòng hoa viếng.


Trả lời BBC về sự kiện này, bà Monique nói "Ngày hôm nay tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rồi, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vừa qua đời. Nhưng hôm nay trang sử của triều Nguyễn Việt Nam cũng được chấm dứt. Tôi cầu nguyện cho chồng tôi".


  1. Những người vợ và tình nhân của Vua Bảo Đại
  2. Theo tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, trong cuốn "Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn", Nhà xuất bản văn nghệ, 2006, thì những người vợ và tình nhân của Bảo Đại gồm:
  3. Nam Phương Hoàng hậu, quê Gò Công, Tiền Giang, có 5 người con
  4. Bùi Mộng Điệp, quê Bắc Ninh, không hôn thú, có 3 người con
  5. Lý Lệ Hà, quê Thái Bình, vũ nữ, không hôn thú, không có con
  6. Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong), vũ nữ Trung Hoa lai Pháp, không hôn thú, có 1 con gái
  7. Lê Thị Phi Ánh ở Huế, không hôn thú, có 2 người con
  8. Vicky (Pháp), không hôn thú, có 1 con gái
  9. Clément(?), vũ nữ và buôn lậu ở xóm Cigalle (Pháp), không hôn thú
  10. Monique Marie Eugene Baudot (Pháp), có hôn thú, không có con
  11. Những người con của Bảo Đại
Vua Bảo Đại có 8 người vợ, tình nhân và có 13 người con.






Với Nam Phương Hoàng hậu

Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, mất ngày 28 tháng 7 năm 2007

Công chúa Nguyễn Phúc Phương Mai,sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937 tại Đà Lạt

Công chúa Nguyễn Phúc Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1939

Công chúa Nguyễn Phúc Phương Dung, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942
Hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1











Với bà Mộng Điệp



Nguyễn Phúc Phương Thảo, sinh năm 1946

Nguyễn Phúc Bảo Hoàng, sinh năm 1954





Nguyễn Phúc Bảo Sơn, sinh năm 1957



Với bà Hoàng Tiểu Lan

Nguyễn Phúc Phương An

Nguyễn Phúc Hoàng My







Với bà Phi Ánh



Nguyễn Phúc Phương Minh

Nguyễn Phúc Bảo Ân






Với bà Vicky

Nguyễn Phúc Phương Từ

Bảo Đại còn có một người con do bà Từ Cung nuôi, nhưng không rõ là con bà nào do ông không tiết lộ.








Câu nói nổi tiếng



. Làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.



Xin cho tôi được sống và chết trong bình yên.











Bảo Đại và đoàn hộ giá ngày phong vương







Bảo Đại trước ống kính máy ảnh




Người Pháp làm lễ trao ấn kiếm cho Quốc trưởng Bảo Đại (3 tháng 3 năm 1952)




Lầu Tịnh Minh, Đại Nội Huế. Năm 1950 là tư thất của quốc trưởng Bảo Đại





Bảo Đại tại Paris



Nam Phương Hoàng Hậu






Mộ cựu hoàng Bảo Đại tại Nghĩa trang Passy Paris.


CÂY PHẢ HỆ CỦA VƯƠNG TRIỀU NHÀ NGUYỄN



Ghi chú : Những số tương thích chỉ thứ tự của các vị hoàng đế đã trị vì.

Bài đọc thêm về ngôi mộ của Vua Bảo Đại

Thật bất ngờ, mãi đến trước lúc về Việt Nam tôi mới biết rằng cách chưa đầy 1km từ chỗ tôi trọ học mấy năm nay là nơi an nghỉ của vị hoàng đế cuối cùng Việt Nam - Bảo Đại. Từ tháp Eiffel, đi bộ khoảng chừng 10 phút là đến nghĩa trang Passy, nằm ngay bên cạnh quảng trường Trocadero, nơi du khách thường đến để ngắm và chụp ảnh tháp Eiffel hùng vĩ. Không khí se lạnh và trong lành, hoa cúc muôn màu khoe sắc được trồng khắp nơi trong nghĩa trang.

Các ngôi mộ ở đây thật sạch sẽ, tinh tươm với đủ mọi hình thái kiến trúc. Quả thật, qua hơn 10 nghĩa trang trải khắp nước Pháp mà tôi đã từng viếng thăm, có thể cảm nhận rằng nghĩa trang ở Pháp có cái sắc thái tươi tắn, sinh động, ngược hẳn với vẻ u buồn, đôi chút rùng rợn của các nghĩa trang Việt Nam.

Ngay cửa vào tôi thấy một bản đồ nghĩa trang với tên tuổi những người nổi tiếng được chôn tại đây và chỉ dẫn khu vực mộ, số hiệu của ngôi mộ... Trong danh sách những người nổi tiếng này, tôi đã tìm thấy ngay tên “Bảo Đại - hoàng đế Việt Nam”. Tạt vào phòng quản lý nghĩa trang, tôi xin một bản đồ giấy cầm tay để tiện cho việc tìm kiếm.

Theo hướng dẫn trên bản đồ, tôi nhanh chóng tìm thấy khu vực mộ của Bảo Đại. Thế nhưng, quành đi quành lại cả chục vòng, tôi vẫn không nhìn thấy mộ của vị cựu hoàng nước Nam. Không một bia mộ nào có đề tên ông. Thật lạ lùng!

Tôi quay trở lại phòng quản lý. Vừa nghe tôi hỏi, người giám đốc nghĩa trang đã xông xáo dẫn đường. Đến khu vực mà tôi đã tìm kiếm lúc nãy, ông đưa tay chỉ vào một ngôi mộ nằm thấp tè sát mặt đất. Thật không thể tin nổi vào mắt mình! Phần đất khiêm tốn, phủ bên trên bởi hai miếng bêtông như hai tấm dale. Không một tấm bia, không một dòng đề tặng. Một vài chậu cây xơ xác...

Tôi hỏi ông giám đốc ấy vì sao ngôi mộ lại quá đỗi hoang lạnh. Phải chăng vì không ai cung cấp tiền để tu bổ, chỉnh trang? Ông khẳng định vấn đề ở đây không phải là tiền. Phần đất nơi chôn ông Bảo Đại đã do người vợ Pháp của ông mua quyền sở hữu vĩnh viễn. Và chính bà đã quyết định chôn cất ông như thế.

Đã nhiều người, trong đó có ông, bỏ tiền túi ra để dựng bia mộ cho ông Bảo Đại. Nhưng mỗi lần như thế bà vợ Bảo Đại đều phản đối, cho người gỡ đi. Chính ông cũng không biết lý do tại sao lại như vậy. Vị giám đốc ấy còn kể rằng sự ngạc nhiên mà tôi gặp khi nhìn thấy mộ Bảo Đại cũng là chuyện bình thường. Đã rất nhiều người VN đến đây thăm mộ. Lần nào ông giám đốc cũng phải dẫn họ đi tìm. Và lần nào ông cũng chứng kiến họ ra về, thái độ rất thất vọng.

Được biết có lần hội Việt kiều đã tổ chức quyên góp mỗi người 1 euro để tu bổ mộ Bảo Đại. Tiền không thiếu, thế nhưng khi quyên xong công việc vẫn không thực hiện được vì gặp sự phản đối của người vợ góa của Bảo Đại. Ngày đám tang của ông có rất nhiều người Việt Nam đến dự. Các cô con gái lai Tây của ông cũng có mặt, nhưng như nhiều người Việt ở đây mô tả “họ đã quá lai căng, không chút vấn vương của tâm hồn người Việt nơi họ”.

Thật bất ngờ! Giữa quần thể các ngôi mộ tinh tươm, đẹp đẽ của những thường dân Pháp, ngôi mộ của Bảo Đại nằm nép mình thật cô đơn và lạc lõng... (hải ngoại)
Từ Trường Quốc Học Huế
Ngày 19 - 8 - 1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội.
Chiều ngày 30 - 8 - 1945, lễ thoái vị của vua Bảo Đại được cử hành tại Ngọ Môn, Huế, trước sự chứng kiến của hơn 50 nghìn người dân Cố đô.
Phái đoàn thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại gồm các ông Trần Huy Liệu, trưởng đoàn và hai ông Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận.
Đúng 19 giờ 30, vua Bảo Đại đọc chiếu chính thức thoái vị trước máy truyền thanh và xin làm công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Chiếu thoái vị của vua Bảo Đại do ông Phạm Khắc Hòe, lúc bấy giờ là Tổng lý ngự tiền văn phòng của Triều đình Huế soạn thảo bắt đầu từ chiều 20 tháng 8 năm 1945 và được hoàn thành trong đêm hôm đó.
Đúng 12 giờ 25 phút trưa ngày 23 tháng 8 năm 1945, Nội các họp dưới quyền chủ toạ của nhà Vua và gồm có: Trần Trọng Kim, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Trịnh Đình Thảo, Vũ Văn Hiền và Nguyễn Hữu Thí. Về vấn đề trả lời tối hậu thư của Việt Minh, cuộc họp đồng ý chấp nhận các điều kiện của Việt Minh. Về vấn đề góp ý kiến vào dự thảo Chiếu thoái vị, chỉ có một ý kiến của Trần Đình Nam là nên bỏ bớt bốn chữ "nồi da xáo thịt", nói "Nam Bắc phân tranh" là đủ rồi.
Khoảng 11 giờ đêm ngày 26 - 8 - 1945, ông Tôn Quang Phiệt đến nhà ông Phạm Khắc Hoè, hỏi xem Chiếu thoái vị. Đọc xong, ông Tôn Quang Phiệt nói: "Hay thật đấy ! Nhưng đoạn nói về công lao liệt thánh đậm nét quá ! Chủ yếu là công lao của nhân dân lao động chứ đâu có phải là của các Chúa Nguyễn" ?
Trong Lời giới thiệu tác phẩm "Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc" của Phạm Khắc Hoè, đồng chí Hồng Chương đã viết: "…Phạm Khắc Hòe là người chứng kiến sự hấp hối của triều đình nhà Nguyễn trước và trong Cách mạng Tháng Tám (1945). Không những là người chứng kiến, hơn thế nữa, Phạm Khắc Hòe còn là người góp phần thúc đẩy sự sụp đổ của triều đình phong kiến nhà Nguyễn từ bên trong. Bằng cuộc vận động gây sức ép bắt buộc Bảo Đại thoái vị, lại chính tay mình soạn thảo Chiếu thoái vị cho Bảo Đại, Phạm Khắc Hòe, từ bên trong, phối hợp với các lực lượng cách mạng như triều dâng thác đổ từ bên ngoài, góp phần làm sụp đổ chế độ phong kiến cuối cùng ở Việt Nam".

Toàn văn Chiếu thoái vị

"Hạnh phúc của dân Việt Nam, độc lập của nước Việt Nam, muốn đạt được mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả mọi phương diện và cũng vì mục đích ấy, nên Trẫm muốn sự hy sinh của Trẫm phải có bổ ích cho Tổ quốc. Xét thấy điều bổ ích nhất cho Tổ quốc lúc này là sự đoàn kết toàn thể quốc dân, Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi rằng trong giờ nghiêm trọng này, đoàn kết là sống mà chia rẽ là chết, nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc bộ lên quá cao, nếu Trẫm cứ ngồi yên mà đợi Quốc hội thì không thể nào tránh được nạn Nam Bắc phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân, lại thuận tiện cho người ngoài lợi dụng, cho nên mặc dầu Trẫm hết sức đau đớn nghĩ tới công lao liệt thánh vào sinh ra tử trong gần 400 năm, mở mang giang sơn đất nước từ Thuận Hoá đến Hà Tiên; mặc dầu Trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua trong 20 năm trời mới gần gũi quốc dân được mấy tháng, chưa làm được gì.
Trong khi trao quyền lại cho Chính phủ mới, Trẫm chỉ mong ước ba điều sau này:
1- Đối với tôn miếu và lăng tẩm các liệt thánh, Chính phủ nên xử trí thế nào cho có sự thể.
2- Đối với các đảng phái đã từng phấn đấu cho nền độc lập quốc gia, nhưng không đi sát theo phong trào dân chúng, Trẫm mong Chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hoà xử trí, để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào việc kiến thiết quốc gia và tỏ rằng Chính phủ Dân chủ Cộng hoà nước ta xây đắp trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân, lợi ích cho quốc dân như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một Chính phủ Dân chủ Cộng hoà.
3 - Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết tất cả các giai cấp, các đảng phái cho đến các người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để Chính phủ Dân chủ giữ vững nền độc lập của nước, chứ đừng vì lòng quyến luyến Trẫm và hoàng gia mà sinh ra chia rẽ. Còn về phần riêng Trẫm trong 20 năm ngai vàng bệ ngọc đã biết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui mừng được làm dân tự do của một nước độc lập, chứ Trẫm quyết không để ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay của hoàng gia mà lung lạc dân chúng.
Việt Nam độc lập muôn năm!
Dân chủ Cộng hoà muôn năm!".

Nhận xét