Top 10 Khuynh Hướng Nghệ Thuật Đương Đại

Trong tạp chí “Art news” số 2 phát hành tháng 2 năm 2006 có một loạt bài viết về các khuynh hướng mỹ thuật đương đại dưới một tiêu đề chung Top 10 trends, 10 bài viềt viết về những họa sĩ mà tác phẩm của họ phản ánh những khuynh hướng tiêu biểu được tạp chí trên tuyển chọn. Do số trang có hạn, Thông tin Mỹ thuật không thể đăng lại trọn vẹn các bài viết trên; để giúp bạn đọc có một cái nhìn toàn bộ và cập nhật về mỹ thuật thế giới, chúng tôi tổng thuật trong bài viết sau và đăng tải thành 2 kỳ
Thảm cầu nguyện
SANFORD BIGGERS. Thảm cầu nguyện. 2005. Với sự chỉ dẫn của ông, mọi người im lặng trải cát màu lên sàn gallery
Mở đầu loạt bài này, Robin Cembla viết: “Làm sao bạn có thể nhận ra một khuynh hướng? Nếu bạn là Kay Larson, bạn thấy sự hư hỏng ở mọi nơi. Nếu bạn là Jori Finkel, bạn sẽ thấy chất thơ trong vẻ đẹp của những kho chứa vật dụng trong nhà. Và nếu bạn là Carly Benwick, bạn sẽ kết luận rằng một con chim cánh cụt mang linh hồn của giải thưởng hai năm Whitney sắp tới. Trong khi danh sách 10 khuynh hướng được biên tập và đóng góp, sắp xếp, dĩ nhiên mang tính chủ quan, nó được coi như là một bức tranh tổng hợp của thế giới nghệ thuật đương đại.”
Bài đầu tiên là của Kay Larson, với tựa đề
GIỮ VỮNG NIỀM TIN, tác giả viết: “Những tác phẩm nghệ thuật về những lễ nghi tôn giáo, sự thiền và nỗ lực hàn gắn thế giới phản ánh mối quan tâm ngày càng nhiều đối với vấn đề của linh hồn”. Những tác giả của khuynh hướng sáng tác này có một điểm chung nhất, đó không phải là hình thức sáng tác của tác phẩm mà là nội dung nó đề cập tới: đời sống tâm linh và linh hồn.
Khác với những tác phẩm về đề tài linh hồn vốn ồn ào và bị công kích ở nửa thế kỷ trước, những tác phẩm ngày nay về đề tài này diễn ra lặng lẽ hơn trong các loại hình nghệ thuật như: sắp đặt, video, nghệ thuật hậu những năm 1960 và hậu Nghệ thuật Tối thiểu. Với cái nhìn khơi gợi những hiện tượng tinh tế, sâu sắc trong đời sống trần tục thường ngày, các bóng mờ của hình dáng và sự khó nắm giữ thuộc tiềm thức, các nghệ sĩ này đã khai quật tâm trí, trái tim mình. Họ là Marina Abramovic, Lauri Anderson, James Turner và Bill Viola với các tác phẩm là những cuộc phiêu lưu vào thế giới bên trong. Viola đến với nghệ thuật Nhật Bản và thiền từ năm 1980, sau đó ông lại say mê Nghệ thuật Phục Hưng cùng với niềm đam mê Thiên Chúa. Tác phẩm bộ đôi “Lễ rửa tội” lại là sự cọ xát tinh thần mang tính vô thần, đã làm bốc cháy màn hình plasma với hình ảnh 2 tấm thân đàn ông và đàn bà trong bóng tối, bị chia cách bởi một cột nước chập chờn, lấp loáng, rất khó nắm bắt như thể áp lực của dòng chảy cuộc sống. Viola nói: “Lễ rửa tội có mối liên quan đến sự thanh tẩy, nhưng cũng được coi như sự rộng mở những cánh cửa thần kỳ trong mỗi chúng ta”... “Những điều không thể đặt tên hay không thể giải thích trong cuộc sống luôn hấp dẫn tôi.”... “Nghệ thuật của tôi không đưa ra những câu trả lời, mà là những câu hỏi”.
ARLENE SHECHET. Đức Phật phía Đông .1999
“Tôi tin rằng con người có năng lực sáng tạo vô tận đối với những hình ảnh mang tính thần thánh”, Ukeles, một nghệ si Do Thái với màn trình diễn về nghi lễ tắm rửa, hay “Bản tuyên ngôn cho nghệ thuật hiện nay” 1969, thể hiện một khởi đầu cho nỗ lực cứu rỗi thế giới trong việc tái che rác. Cô nói quan điểm của mình về linh hồn đối với tiềm năng của con người. Tương tự như vậy, nghệ si Kimsooja của Hàn Quốc và nghệ sĩ Lee của Đài Loan (từng ở thiền viện trong 6 mùa hè) đã có những tác phẩm tinh tế nhấn mạnh tới sự tiết chế, lòng trắc ẩn và sự cảm thông, một thế giới tuyệt vời phản ánh gốc rễ đạo Phật của họ.      
Antoni, nghệ sĩ theo đạo Thiên Chúa, đã nghiên cứu đời sống tu viện, những chủ đề về sự hợp nhất, cũng như những quy tắc thiền Châu Á. Trong tác phẩm trình diễn, bằng cách liếm và ăn những bức tường bằng chocolate của mình, cô đã hòa hợp chúng vào cơ thể mình như một quan niệm theo nghi lễ hợp nhất, sự chuyển bánh mì thành cơ thể và rượu thành máu của Chúa. 
Đối với Arlene Shechet, người tôn vinh đạo Do Thái gốc của mình ngang bằng với đạo Phật mà cô theo. Năm 1992, khi cô bắt đầu làm những tượng Phật ở Hydrocal, thì từ điển nghệ thuật thế giới đang bị ảnh hưởng lớn bởi những hình ảnh gợi dục và những ấn phẩm về giới tính, để chống lại chúng, theo cô cần một hình ảnh đầy ấn tượng, gây sửng sốt, đó chính là hình ảnh một đức Phật khiêm nhường. Cô đã thể hiện suy nghĩ của mình như vậy trong những triển lãm cá nhân tại Elizabeth Harris ở New York, Shoshana Wayne ở Los Angeles, Hemphill Fine Art ở Washington.D.C.
Con đường của Bigger lại dẫn tới những kết quả bất ngờ, huyền bí và đầy sức mạnh. Có ông Cha đã từng là trụ cột nhà thờ của cộng đồng Mỹ gốc Phi. Nhưng ông ta cũng chưa thức tỉnh - như ông nói - cho đến khi học xong cao đẳng và đi tới Nagoya, Nhật. Sau 2 năm nghiên cứu thiền và tiếng Nhật, ông đã làm những bức tranh vẽ nguệch ngoạc bằng những vòng tròn thể hiện vũ trụ. Nghệ thuật của ông thấm đẫm chất nhạc hip-hop, nhạc jazz và gần đây là văn hóa đạo Hồi. Cuộc trình diễn sắp đặt với những bức tranh cát Tibetan, nghi lễ cầu nguyện đạo Hồi với những bình đựng cát màu ở nhà Triple Candie - New York. “Hành động mọi người quỳ trải cát lên sàn nhà trong im lặng giống như là một nghi thức thiền”. Ong nói: “Bạn đi vào nơi đó khi cơ thể và tâm trí bạn làm việc độc lập và tác phẩm hình thành một cách vô thức. Đó là sự chú tâm, khi những nghệ sĩ cùng đạt tới cõi thiền một cách an nhiên. Tính chất linh hồn là từ mà chúng tôi cần, để nói về nhu cầu được đồng điệu với mỗi người chúng ta”.
SALÔNG  VẬT PHẾ THẢI là bài viết tiếp theo của JORI FINKEL, nói về Nghệ thuật Sắp đặt mà theo tác giả đang lan tràn các gallery. “Sau Kurt Schwitters, những nghệ si đang mang những cơn bốc đồng và chất thơ của mình vào những sắp đặt ngổn ngang, đầy ám ảnh của họ”.
Năm ngoái, Sarah Sze đã biến gallery Marianne Boesky ở New York thành một bãi hỗn độn gồm thước dây, dây điện, ly giữ nhiệt, lông chim… Gần đó, tại nhà Texter và Spengemann, Charlotte Becket đã xây một ngọn núi bằng cách nén đĩa CD, thùng giấy, chai rượu, lon bia, “bất cứ vật gì còn sót lại cuối ngày trong studio của tôi”. Và Phoebe Washburn đã bỏ ra cả mùa hè năm ngoái ở Los Angeles để dựng lên 2 sắp đặt khổng lồ với hàng tấn ván ép, kết hợp với bút chì và keo dán mang tên “Không có bí mật nào gây ngạc nhiên”, trông giống như một khu ngoại ô lụp xụp bị quật nát bằng một cơn bão. Sắp đặt khác của cô “Nó được tạo ra khi tôi là nhà tỷ phú” ở gallery Karton/Feuer, cỏ và cây mọc trong nhà được cô đặt vào những cái thùng để tạo ra một địa hình thành thị mơ hồ. Băng qua Đại Tây Dương, tại nhà Kunsthallen Brandts ở Odense, Đan Mạch, bậc thầy xây dựng Jessika Stockholder đã hoàn tất tác phẩm gồm những căn nhà màu xanh lá (nhưng không có cây), những cái chảo lá nhôm và ánh sáng bức xạ.
PHOEBE WASHBURN. Nó tạo ra cho tình trạng tỷ phú của tôi . Cây cối mọc rễ giữa những mảnh ván
Không hề có ý định tạo ra một trào lưu, những nghệ sĩ này đang tạo ra một loại hình Nghệ thuật Sắp đặt ngổn ngang, gom góp nhiều đối tượng, đầy ám ảnh. Loại hình này rất khó trong việc xây dựng và cũng là một thử thách trong việc góp nhặt. Rõ ràng nghệ thuật này cần đến kích thước và tỷ lệ của kiến trúc, như tác phẩm “Merzbau” của Kurt Schwitters. Từ “merzbau” phát xuất từ tiếng Đức, do Hannover, người theo trường phái Dada tạo ra để chỉ thương mại và xây dựng. Nhưng Schwitter lại sử dụng nó để chỉ từ “gesamtkunstwerk”, có nghĩa là “tác phẩm nghệ thuật hoàn toàn”. Tác phẩm được ông xây dựng trong nhà mình từ đầu những năm 1920 và không ngừng đắp đổi cho đến khi ông rời nước vào năm 1937. Nó mọc từ bức tường này sang bức tường khác, từ sàn nhà đến trần nhà, hình thành lên cái mà ông gọi là hang động, cho đến khi nó chọc thủng mái nhà. Tác phẩm là sự tập hợp những bức tranh, bộ sưu tập, những cái ly chứa chất lỏng trong cơ thể và vô số những vật khác. Khi Hannah Hosch làm mất chìa khóa cũng là sự đóng góp thêm chiếc chìa khóa vào tác phẩm Merzbau.
PIERRE HUYGHE. Chuyến đi không thành, 2005. Tại Wollman Rink trong công viên Trung tâm
“Merzbau” của Schwitter đã bị bom phá hủy trong thế chiến thứ 2, nhưng linh hồn của nó vẫn sống tới ngày nay trong những sắp đặt khó hiểu được tạo ra bằng những vật dụng hàng ngày. Lynne Cooke, nhà tổ chức triển lãm sắp đặt cho Stockholder năm 1995 tại Dia Center for the Arts – New York, nói: “Những nghệ sĩ như Jessica và Sarah không tạo ra những bài tường thuật quan trọng hay những bài bình luận sâu sắc về môi trường chúng ta đang sống, mà họ chia sẻ một cơn bốc đồng đầy chất thơ và trữ  tình”. Những cơn bốc đồng này cũng làm cho họ khác với những nghệ sĩ sắp đặt Châu Âu như Thomas Hinschhorn, Jonathan Meese và Graham Hudson, những người có sức công kích mạnh hơn. Những tác phẩm của các nghệ si Châu Âu mang tính chính trị sâu sắc và tồn tại lâu hơn.
Đối với thế hệ ngày nay, mọi đồ vật để làm sắp đặt ta có thể thấy bất cứ ở đâu, từ kho xưởng cho đến vật dụng trong căn hộ. Vậy, những nghệ sĩ này có nghĩ những sắp đặt của họ mang tính tái sinh? Wasburn đồng ý với quan điểm này, vì cô thích tái sử dụng những miếng ván ép từ công trình này sang công trình khác.
Hầu hết những thứ trong sắp đặt của Stockholder có thể tìm thấy ở kho đồ dùng trong nhà, như máy giặt, bóng đèn, dây nối. Thực chất, Stockholder, Sze, Washburn và Becket đều được mô tả như có một khiếu thẩm mỹ về kho chứa đồ dùng trong nhà. Mặc dù những tác phẩm của họ có hình thức khác nhau, nhưng cũng thấy được khuynh hướng trong việc tập hợp những nguồn vật liệu hay công cụ xây dựng. Và hầu hết họ đều có những trải nghiệm trong việc sử dụng gỗ hay xây dựng cơ bản, đủ để xây dựng lên một cấu trúc chắc chắn, chỉnh tề. Ở đây xuất hiện câu hỏi: Phải chăng những tác phẩm nữ tính của họ mang một hành động giễu cợt đối với cái thú sửa chữa đồ dùng trong nhà của đàn ông. 
PATRICIA PICCININI. Không tách rời. 2004. Những con quái vật làm bằng sillicone và lông như giễu cợt sự tiến hóa
NHỮNG CON CHIM CÁNH CỤT, NHỮNG LỜI NÓI DỐI VÀ BĂNG VIDEO. Những cuốn băng video phim tài liệu mang tính giễu cợt đã xóa mờ ranh giới sự  thật và giả tưởng là tiêu đề và lời dẫn bài viết của CARLY BERWICK, bài thứ 3 trong loạt bài này.
Vào một đêm mưa sũng nước ở New York mùa thu năm ngoái, hàng trăm người đã tụ tập xem “Chuyến đi không thành” của nghệ sĩ người Pháp Pierre Huyghe, tái tạo lại chuyến đi của ông tới Nam Cực để tìm loài cánh cụt trắng. Họ tập trung ở công viên trung tâm Wollman Rink, nơi đã được biến đổi thành một quang cảnh thời tiền sử đẫm hơi nước với đá và mặt nước đen. Khán giả được hướng dẫn hành động một cách tự nhiên, hạ dù xuống khi màn trình diễn bắt đầu. Sương mù cuộn xoáy trên mặt nước như một dàn nhạc chơi trên một sân khấu nổi. Sau nhiều phút, một con chim cánh cụt đột ngột xuất hiện thấp thoáng trên những tảng đá trong màn sương.
Mặc dù hình ảnh con chim cánh cụt có thể được thấy rõ ràng hay không thì sự kiện này cũng như một cuộc phiêu lưu đích thực cho những người thưởng thức nghệ thuật. Huyghe là một trong những nhà lãnh đạo những nghệ sĩ sử dụng phim ảnh và những phóng sự trong phim theo lối truyền thống, biểu diễn “ngay ranh giới mập mờ giữa sự thật và giả tưởng”. Chrissie Iles, phụ trách Bảo tàng Nghệ thuật Mỹ ở New York nhận định rằng những tác phẩm của họ có nhiều liên quan đến những thành công trong lịch sử điện ảnh của thế kỷ, hơn là nghệ thuật video trên nền trình diễn những năm 1970.
Lần đầu tiên, giải thưởng Whitney Biennial lại có tựa đề “Ngày dành cho đêm”, giống tựa đề phim của Francois Truffaut năm 1973 (do chính tác giả đóng vai chính) về một đạo diễn phim giả tưởng. Chương trình này bao gồm việc khám phá hay biểu diễn với những quy luật truyền thống của cách làm phim, cách kể chuyện – như lối tường thuật trôi chảy và nghệ thuật phối cảnh gây ảo giác.
“Ngày nay, người ta biết rằng mọi thứ đều có thể điều khiển bằng tay. Hơn bao giờ hết, ý thức về cái thật và cái không thật cùng tồn tại trong nền văn hóa”. Cùng lúc với thành công của các nhà làm phim tài liệu, những nghệ sĩ như Huyghe cho tới Douglas Gordon, Walid Raad Dang sử dụng phim và video để thăm dò khoảng trống giữa hiện thực và sáng tạo. Sự xóa mờ ranh giới giữa sự thật và giả tưởng, cho phép nghệ sĩ bình luận với thế giới những sự kiện theo cách ít tranh cãi hơn.
Năm 1999, Raad, nghệ sĩ người Lebanon, sống ở New York, thành lập dự án “Nhóm Atlas”, đưa ra những tác phẩm làm méo mó lịch sử và những câu chuyện đã bị chôn vùi ra ánh sáng. Trong sắp đặt “Con tin, những cuộn băng của Bachar” (2001), con tin người Lebanon tên là Souheil Bachar được đặt vào trong một câu chuyện phóng sự về 5 người Mỹ bị bắt ở Beirut giữa những năm 1980. Tên và hình ảnh của Bachar xuất hiện cùng lúc với những người Mỹ trong bản tin tức gốc đã bị sửa đổi. Raad nói: “Những câu chuyện đưa ra lời phán quyết cho những trải nghiệm này có thể là những điều hoàn toàn tưởng tượng, nhưng khả năng tưởng tượng lại đòi hỏi phải dựa trên sự thật”.
Những trải nghiệm gây ít tổn thương hơn, như  là một chuyến đi, có thể thực hơn khi tưởng tượng lại những dẫn chứng tư liệu giả tưởng. Bản video của Patty Chang “Shangri-La” (2005) sẽ được trình chiếu ở Bảo tàng nghệ thuật đương đại tại Chicago mùa hè năm nay. Mở đầu như một cuốn video nghỉ hè của một khách du lịch, nhưng sau đó dần dần trở nên đặc biệt: Người nghệ si đi vào một thị trấn Trung Quốc ở Zhongdian, gần Tibe, mà sau đó đã được đổi tên thành Shangri-La sau khi tiểu thuyết “Chân trời bị mất” (1933) của James Hilton nói về thiên đường Himalaya giả tưởng xuất bản. Cảnh núi của thị trấn rất kỳ lạ, và hình ảnh lập đi lập lại của dãy núi lồng ghép với sự xuất hiện của Chang như là sự pha trộn giữa thực tại và tưởng tượng. Trong cuốn video này, Chang đã nhờ những công nhân địa phương dựng lên những dãy núi và một mô hình đỉnh núi bằng ván ép bóng để có thể phản chiếu phong cảnh chung quanh. Cô đã đặt làm một cái bánh trang trí với những trái núi và quay phim những nhà sư đang khám phá những cục đá giả trồi lên ở trung tâm một khách sạn của Trung Quốc. Chang nói: “Bản video tự nó có thể là một tài liệu và ý tưởng của việc du hành để thực sự thấy điều gì đó. Tuy nhiên tính chất không thật của nó vẫn dần dần lộ ra”.
Ormer Fast cũng thích thú tham gia những chuyến du hành để khám phá sự xung đột giữa những câu chuyện hư cấu và sự thật. Bản video “Thành phố của Chúa” (2004) được dựa trên những cuộc phỏng vấn những nam diễn viên tiếng tăm ở Colomal Williamsburg, Virgin, sau đó ông cắt và nối lại tạo thành những câu chuyện mới. “Tôi rất thích những chỗ mà sự thật được để lại và đồng hóa vào nghệ thuật trình diễn”. Trong phần âm thanh của một đoạn, nó không còn rõ nữa để nhận ra người được phỏng vấn, người đang nói chuyện về quá trình làm dân quân, là một nhà cách mạng thế kỷ 18 hay thế kỷ 21. “Thành phố của Chúa” gần đây được chiếu ở gallery Posmasters – New York.
Cho bản video “Danh sách của Spielberg” (2003), Fast đã tới Krakow, Ba Lan, và những địa phương đã được sử dụng trong phim “Danh sách Schindler” (1993) của Steven Speilberg, những nơi trở thành đích đến cho khách du lịch Mỹ. Fast đã phỏng vấn những người dân địa phương đã tham gia trong bộ phim, nhưng bản video không đủ rõ để nhận diện họ là những diễn viên hay những người sống sót từ nạn diệt chủng. Fast nói: “Điều đó đã khuyến khích sự cảm nhận mới và sự thực mới. Khi mà mọi người tới để xem những cái còn lại của lịch sử cũng là để xem những cái mà bộ phim để lại. Những cuộc đời thật đã được thay thế bằng những điều giả tưởng”.

Bài tiếp theo của KAY LARSON với tựa đề
NHỮNG BIẾN THỂ ĐẸP, nói về một khuynh hướng mà theo tác giả là: “Vừa dễ chịu, vừa buồn, vừa tình cảm lại gây ác cảm, vừa dễ thương lại vừa đáng ghét, đó là trường phái kiểu cách hậu hiện đại”.
Nhà sử học nghệ thuật Walter Fredlander, đầu thế kỷ 20, đã định nghĩa trường phái Kiểu Cách như là một phần mở rộng của phong cách Phục Hưng cao hơn – và là một sự tiến triển khỏi sự cân bằng và vẻ duyên dáng của nó. Tính đa cảm, sự méo mó, sự biến mất của tính cân xứng, sự phóng đại quá đáng hay không tự nhiên, và sự bồn chồn, lo lắng – là những dấu hiệu của chủ nghĩa chống cổ điển xuất hiện ở thế kỷ XVI.
Sự bất tuân với lý tưởng cổ điển đối với những thứ “được kiểu cách hóa“ ngày nay có vẻ thân thuộc với công chúng thưởng thức nghệ thuật. Sự cân bằng về mặt hình thức của chủ nghĩa hiện đại những năm 1950 và chủ nghĩa chống tính đa cảm của nghệ thuật Pop giai đoạn đầu đã tiến triển thành nghệ thuật đỉnh cao, mà ta có thể gọi là chủ nghĩa Kiểu Cách hậu hiện đại. Marthew Barney đã đeo tai dê, những thứ nhái lại và những dòng chữ điệp khúc trong phim và trình diễn của ông. Damien Hirst thì mang cả lò sát sinh vào gallery, và Patricia Piecinini mang những chi tiết tương tự từ phim E.T, Chiến tranh giữa các vì sao, Chúa tể những chiếc nhẫn, và những thứ đẹp đẽ của hãng Pixar để cho ta thấy những sinh vật có dòng họ với quái vật.
SHINIQUE SMITH. Không đề. 2005. Kết hợp thư pháp với các mảnh vải vụn trong máy giặt tự động
Chính xác thì sự rối loạn cảm xúc kết hợp với Chủ nghĩa Kiểu Cách đã mang phong thái của nghệ thuật Baroque, hay trường phái Kiểu Cách đương đại chuyển dần thành trường phái Baroque đương đại. Đối với Paul Schimmel, người phụ trách bảo tàng nghệ thuật đương đại Los Angeles thì nghệ thuật của Barney có những quan điểm tương tự như Mike Kelly và Paul McCathy, trong sự kết hợp đa thành phần của nghệ thuật trình diễn, video, nhiếp ảnh và sắp đặt.
Màn trình diễn gần đây của McCathy tại gallery Whitechapel ở London gồm có một tàu hộ tống, một nhà trên sông và một cuốn phim bị dập nát, tất cả dựa trên hành trình “Những tên cướp biển Caribbean“ tại Disneyland. Mùa hè này, ông sẽ có một cuộc triển lãm về quá trình làm việc của mình tại Moderna Museet ở Stockholm.
Theo như Schimmel thì “Cả 3 nghệ sĩ này đều sử dụng những yếu tố trong tranh biếm họa và sự phóng đại“. Phức hợp sắp đặt, trình diễn của họ có một vẻ hoành tráng mà họ kết hợp được từ nhạc kịch. Cùng một lúc, họ sử dụng một bản nhạc giao hưởng, một đội hợp xướng và những ca sĩ riêng biệt; một bài tường thuật; đó luôn luôn là cái phức tạp và thử thách nhất của nghệ thuật.
Nhưng lịch sử nghệ thuật Kiểu Cách và nghệ thuật Baroque không giống nhau, cả những chủ đề tương tự cùng thời cũng khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật Baroque, những ám ảnh trần tục với ruột rà, sự tử vì đạo, những hình dáng đa cảm (như cách phối hợp sáng tối của Caravaggio) đã chuyển tải cái nhựa sống đầy bi kịch nhưng cũng đồng thời mang tính lạc quan. Những bộ phận cơ thể và ý nghĩa xúc cảm của chúng, hiện đang là chủ đề yêu thích cho nhiều nghệ sĩ – Louise Bourgeois đã khai thác lĩnh vực này được nhiều năm. Trong những bức tranh mới nhất của Sue William tại gallery 303 ở New York, những hình dáng với những đường nét lưu loát, tao nhã đang ranh mãnh rùng mình để chuyển thành những thành phần cơ thể, như đang đánh thức những cơn rung động cảm xúc đầy quyến rũ nơi người xem.
Đặc điểm của trường phái Kiểu cách trái ngược lại, có tính chất nhân tạo, màu sắc kỳ dị, sự nén không gian bất hợp lý, và một mối bất an vượt qua khỏi cái vẻ tự nhiên hời hợt. Trường phái Kiểu Cách nhấn mạnh đến sự khéo léo của cách diễn tả cảm xúc. Nhà phụ trách Norman Kleeblatt của bảo tàng Jewish tại New York: “Tôi thấy tính chất tiêu khiển khi xem những tác phẩm của trường phái Kiểu cách, tôi nghĩ đó là sự gắn kết với nghệ thuật đương đại“. Ông ta định nghĩa trường phái Kiểu Cách như là “một phương thức, kỹ xảo về nhận thức hay hình thức”.
Vào cuối những năm 1980, Mike Kelly đã viết về những diện mạo khác của trường phái Kiểu Cách: “Run rẩy, châm biếm, khoa trương, hay mối quan hệ của sự chuyển tải mối bất an với nền văn hóa phổ biến”. Trường phái Kiểu Cách hậu Pop có thể thấy rõ trong tính chất nhân tạo và bất an của những câu chuyện kỳ dị về loài thú của Piccinini, gây sự chú ý quốc tế tại giải thưởng Venice Biennale 2003. Peccinini không những lôi cuốn chiến lược chiếm hữu văn hóa mà còn về cái nhìn và cảm giác của những thiên anh hùng ca của nền điện ảnh hiện thời. Tính chất tự nhiên hời hợt của những sinh vật bằng silicone của cô – da nhăn, loang đốm, móng chân dài – buộc người xem phải nhận diện lại. Đáng khinh, đáng ghét, sần sùi, những sinh vật này mang những cảm xúc cố ý: vừa ghê tởm vừa dễ thương, vừa dễ chịu vừa buồn. Những biến dị của Darwin như là trò đùa cho sự phát triển và cho nỗi sợ hãi của chúng ta đối với hiểm họa của trật tự tự nhiên.
Dù gì thì tính chất nhân tạo đã được cố ý tạo ra để phù hợp với nỗi bất an không tên nói chung. Đối với Kiki Smith sự tự nhận thức là điều quan trọng cho trường phái Kiểu Cách. “Nó có những khía cạnh tình cảm và hồi ức. Tôi luôn nhìn lại những thứ trong quá khứ, làm đẹp thêm và tái định hình cho chúng… nó luôn là những thứ quen thuộc cần được nhìn lại, vì thế nó có sức sống”.
Yinka shonibare thì đang xem xét tính chất thực dân qua những chất vải vóc, đồ vật Châu Phi, hay điêu khắc gia người Canada David Altmeid đang tạo ra vẻ đẹp từ ma chó sói, tất cả đều từ hình thức văn hóa xa xưa. Cái chân dung bằng sứ của Kim Simonsson thể hiện một mối lo lắng đang dày vò dưới cái bề mặt dễ thương của truyện tranh và hoạt hình Nhật.

NGHỆ THUẬT ĐƯỜNG PHỐ. “Hình, chữ vẽ trên tường, nhạc hip-hop, ván trượt với vẻ gan góc, quyến rũ của chúng đang tiến vào các gallery”. Đó là nhận định của REBECCA SPENCE trong bài thứ 5 này.
“Tôi muốn có một cái nhìn về văn hóa Pop”, nghệ sĩ 34 tuổi Mickalene Thomas đã diễn giải như vậy khi cô gắn những viên đá Swarovski và đá thạch anh vào những bức tranh khổ lớn của mình về những phụ nữ da đen.
Thomas là một trong những nghệ sĩ tìm cảm hứng trong cái gai góc và hấp dẫn của văn hóa thành thị. Nikkis Lee tự chụp hình mình như một siêu sao nhạc hip-hop. Ryan McGinners tạo ra những bức tranh nhiều lớp với những hình ảnh nhỏ xíu của những tay trượt ván, và những hình vẽ trên tường và ván ép chung quanh thành phố New York. Và thế là bảo tàng và các gallery bắt đầu chú ý tới hiện tượng này. Có những buổi biểu diễn liên tục như “Những kẻ thất bại xinh đẹp: Nghệ thuật đương đại và văn hóa đường phố“ khai mạc tại Trung tâm Nghệ thuật đương đại Cincinnati tháng 3-2004; với những tác phẩm của McGinnes, Brian Donelly, Shepard Fairy, Barry McGee và Tobin Yelland. Hoặc “Tiếng bản xứ mới: Pop, tranh chân dung, tạp chí giật gân và khiêu dâm“ tại gallery Steve Turner ở Beverly Hills, và “Nghệ thuật đường phố, cuộc sống đường phố” đã được lên kế hoạch khai mạc tại Bảo tàng Nghệ thuật Bronx đầu năm 2008.
Nghệ thuật graffiti (vẽ trên tường), nhạc hip-hop, trượt ván – đã từng bị loại ra khỏi lề xã hội – nay đang tiến vào dòng chảy chính, và nghệ thuật đương đại thì đang phản chiếu sự thay đổi đó. Lydia Yee, người phụ trách Bảo tàng Bronx và là nhà tổ chức “Nghệ thuật đường phố, cuộc sống đường phố“, giải thích: ”Internet và các phương tiện truyền thông đã đưa những nền văn hóa địa phương ít được biết đến tới gần với lượng khán giả đông đảo hơn”.
KEHINDE WILEY mang phong cách hip - hop vào một tranh mẫu của ingres "Napoleon đang tiến quân vượt qua dãy Alps", 2005
Ta có thể so sánh với trường hợp của những nghệ si như Jean - Michel Basquait và Keit Haring đầu những năm 1980, từ những nghệ sĩ vẽ trên tường trở thành những siêu sao của thế giới nghệ thuật. Nhưng đối với Yee thì Nghệ thuật Trình diễn của Vito Acconi và Valie Export cuối những năm 1960 cũng đã định hình trước khuynh hướng này. “Lúc đó họ đã muốn tìm một con đường liên kết với khán giả trực tiếp hơn và bỏ qua những cấu trúc nghệ thuật hàn lâm. Tôi nghĩ những nghệ sĩ trẻ hơn cũng lấy những đề tài đường phố với lý do này”. Nghệ sĩ New York Shinique Smith, truy tìm những nghiên cứu nghệ thuật của mình với gốc rễ thành thị ở Baltimore, nơi cô viết, vẽ trên tường với nhóm bạn của mình. Tại trường Cao đẳng Nghệ thuật Maryland, cô đã bắt đầu kết hợp những nghiên cứu thời trẻ với nghệ thuật viết chữ Nhật Bản để tạo ra hình thức viết “giống như một loại hình viết chữ trên tường rất tự do, với nhiều lớp chồng lên nhau, và rất khó đọc ngay cả đối với những nghệ si graffiti chuyên viết vẽ trên tường“. Cô đã vẽ trực tiếp lên những bức tường của bảo tàng và gallery và tạo ra những bức tranh bằng giấy 3 chiều.
Với diện mạo tác phẩm có tính nghi thức và tâm linh, nghệ thuật của cô là những kết hợp mang tính lập đi lập lại, như sự khẳng định nhịp điệu làm nền cho âm nhạc hip-hop. Trong bức tranh màu đen và bạc “Tôi là tôi, tôi đi đến nơi tôi phải đi“ (2002), Smith đã kết hợp lời bài hát của ban nhạc Beastie Boys với những đoạn văn trong kinh thánh – mặc dù câu duy nhất hiểu được, có sự tương đồng với tiếng Ả Rập cổ có nghĩa là “tôi là”. “Điều quan trọng là hình thức của những từ này tạo thành một phức hợp, và sức mạnh bùng nổ từ đó“. Sắp đặt “Bale Variant # 006” (2005) của Smith lấy cảm hứng từ cách sử dụng và hủy bỏ vật chất của những đường phố chật hẹp, chen chúc với máy móc. Người phụ trách Sirman coi việc sử dụng những vật liệu của Smith và Thomas trong “Neo Vernacular“ như  “thức ăn tâm hồn”. “Đó là khả năng tạo ra một thứ gì đó từ không có gì, hay bất cứ thứ gì có trong tay”.
Không giống như Smith mang đường phố vào trong nghệ thuật, nghệ sĩ Nam Phi Robin Rhode lại mang nghệ thuật ra đường phố. Ông vẽ phác bằng than những vật hàng ngày như ván trượt, ca đựng nước, xe đạp rồi diễn với chúng, chẳng hạn như trượt ván trong loạt tranh “Board” (2003). Tương tự, David Hammons sử dụng sân bóng rổ ở Brooklyn và Harlem cho loạt sắp đặt “Những bàn thắng cao hơn” giữa những năm 1980. Rhode sử dụng không gian đô thị ngoài trời như bãi đậu xe, sân chơi để làm sân khấu cho trình diễn của mình. Trong “Người vũ nữ thoát y“ (2004), một phim hoạt hình kết hợp với những bức ảnh dài 2 phút, Rhode mặc quần đen bóng như nhựa, mũ đen, giầy Nike trắng, ông cạo hình mới vẽ bằng than trên tường trắng (như ngụ ý đang lột trần). Tương tự, ông làm với hình cửa sổ, cửa chính, cho đến khi chỉ còn lại một khối màu trắng và cũng là tấm toan vẽ của ông.
McGee đã từng viết chữ lên tường trong suốt những năm niên thiếu ở San Francisco, đến nay vẫn bám theo những cột đèn, lề đường với những chủ đề đa dạng. Sắp đặt “Không đề” (2004) của McGee là một bức tường thể hiện một bàn cờ với những hình chữ nhật nhiều màu. Đứng trước bức tường là một mannequin có lắp động cơ, mang hình ảnh người bạn - cộng sự của ông - Josh Lazcano đang vẽ bằng sơn xịt.
Edith Newhall NGHỆ THUẬT GOTHIC MỸ
Hình ảnh về cuộc nội chiến và những khoảnh khắc đen tối trong lịch sử quốc gia là đề tài mà nghệ sĩ thể hiện những mối quan tâm về hiện tại
Tác phẩm “Một thế kỷ của tháng mười một” tại trung tâm của Dario Robleto 2005 là một cái áo đầm để tang của đứa trẻ được làm bằng giấy. Bột giấy được nhào nặn từ những bức thư của những người lính không bao giờ trở về từ chiến tranh. Áo đầm được trang trí bằng mực chích từ những bức thư, những cái nút bằng xương có hình khắc, những bông hoa tết bằng tóc của một góa phụ thời nội chiến, vải xưa và ren được khâu bằng chỉ phẫu thuật của thế chiến thứ hai.
Robleto vẽ về những đề tài quá khứ của nước Mỹ - phần nhiều về mặt đen tối, những điềm gở báo trước, ám ảnh sự nhận diện về nước Mỹ.  Điều đó có thể thấy trong những tác phẩm của Kara Walker với những câu chuyện về nô lệ, những tác phẩm sắp đặt với súng trường bằng gỗ và trình diễn về những trận nội chiến của Allison Smith, hay những bức tranh biểu hiện của Brad Kahlhamer.
"Dr.Mary Edwards Walker (mặc đồ xanh) và Eliza Wilson trong bộ binh tình nguyện Wisconsin thứ 5", 2005, của Allison Smith, chất liệu sứ và tổng hợp
Những nghệ sĩ của nghệ thuật Gothic Mỹ không hẳn chỉ là những người Mỹ. Bức vẽ “Dự án cho một thế kỷ nước Mỹ mới” (2004) của họa sĩ người Anh Dominic McGill là một đồ thị gợn sóng lịch sử về sự vận động không nghỉ của xã hội và sự hung hăng của quân đội. Hai nghệ sĩ Canada Janet Cardiff và George Bure Miller lại nổi tiếng cho cuốn video kỳ quái của họ về những khu trại cải tạo phía đông ở Philadelphia, là nơi lần đầu tiên áp dụng việc giam hãm tù nhân cách biệt một người trong  nhà tù lớn.
Sự khủng hoảng của sự kiện ngày 11 - 9 - 2001 hiện ra lờ mờ “đầy vẻ đe dọa” trong chương trình “Greater New York” tại Trung tâm Nghệ thuật đương đại P.S.1. Người phụ trách Bảo tàng Nghệ thuật Klaus Biesenbach nói: “Nhiều nghệ sĩ không thể tránh khỏi việc đối diện với ngày 11 - 9, họ nhìn vào lịch sử nước Mỹ để xem làm sao những người khác có thể sống qua thời gian khủng khiếp đó”. Ông chỉ vào những bức vẽ của Smith, McGill giải thích: “Nếu anh làm tác phẩm về lịch sử, nó sẽ không sống
nổi nếu nó không nói về tương lai hay những gì học được từ quá khứ”.
Với hoạt hình kỹ thuật số “Bộ ba Winchester” (2002 - 04), tác phẩm của Jeremy Blake lấy cảm hứng từ lâu đài kiểu Gothic, mà người thừa kế Sarah Winchester xây ở California cuối thế kỷ 19 để an ủi những linh hồn con người và thú vật đã bị giết bởi những khẩu súng Winchester. Tác phẩm của Blake tại Bảo tàng đương đại Feigen ở New York có giá từ 10.000 $ đến 30.000 $.
J.Morgan Puett có thể thay đổi toàn bộ không gian kiến trúc bằng những đạo cụ và trang phục sân khấu. Dự án nghệ thuật công cộng của cô “Cuộc họp bị lỡ” (2005), đã biến phòng họp bỏ hoang của giáo phái Quaker thế kỷ 19 ở Pennsylvania thành phòng vẽ hiện tại để nghiên cứu văn hóa vật chất của những giáo hữu Quaker, cũng như lịch sử của tòa nhà. Margaret Kilgallen, người nghệ sỹ chết năm 2001 khi cô 33 tuổi, có những bức tranh đồ họa trên tường rất táo bạo. Tác phẩm được nối lại với nhau với những từ và hình ảnh, là nét đặc biệt của cuộc triển lãm 2001 do Baker tổ chức cho Viện Nghệ thuật đương đại Philadelphia.
Những tiền đề của nghệ thuật Gothic Mỹ bao gồm sự tập hợp những vật thờ cúng của Bruce Conner, chuyện lịch sử của nhà làm phim Eleanon Antin và “Sự hài hước vô tội” của họa sĩ và điêu khắc gia William Wiley. Gần nay là sự sắp xếp lại những bộ sưu tập bảo tàng của Fred Wilson, những mẫu vật cách tân của Elaine Bloom. Nhưng tâm điểm vẫn là những cá nhân đại diện, khắc họa chân dung một nước Mỹ can trường, những nghệ sĩ đả phá tín ngưỡng như Jackson Pollock, Ed Kienholz, Robert Smithson và Bruce Nauman, hay những nhiếp ảnh gia như William Eggleston, Lee Friedlander và Stephen Shore; hay được thể hiện trong âm nhạc của Woody Guthrie và John Fahey, trong áng văn của William Carlos Williams, Hunter S.Thompson, nhà lịch sử văn hóa Grei Marcus.    
Nghệ thuật Gothic Mỹ không hề phát xuất từ nghệ thuật hậu hiện đại những năm 1980, với những nghệ sĩ như Mark Tansey hay Mc Dermott và McGough; mà nó thông thường là nghệ thuật trình diễn ở những khu vực đặc thù của những năm 1960 và 70; với nghệ thuật đầy nữ tính, nó tìm kiếm để khai phá huyền thoại văn hóa đã được chấp nhận và thậm chí cả tính đa văn hoá, cùng đặc điểm chính trị những năm 1990. Nó không đòi hỏi người ta phải đồng ý với những dữ kiện lịch sử cũng như mốc thời gian, nhưng nó đặt ra những câu hỏi làm thế nào mà lịch sử hình thành?.    
Annette Carlzzi, nhà phụ trách Nghệ thuật đương đại tại Bảo tàng nghệ thuật Blanton của Trường đại học Texas ở Austin đồng ý rằng: à cách mà Robleto và Blake đang làm. Họ không trích dẫn những khoảnh khắc đặc thù nào. Bạn có thể bắt đầu với 1 ví dụ lịch sử điển hình, rồi gộp chung nó với những sự kiện không thật. Đó là cách để hỏi mà hoàn toàn không cần câu trả lời và là cái to lớn mà nghệ thuật mang lại”.
Elisabeth Kley HÃY XÂU NÓ VÀO
Triển lãm 1989 “Những thầy phù thủy của thế giới” tại trung tâm Pompidou – Paris bao gồm những tác phẩm nghệ thuật mới nhất và không theo truyền thống Phương Tây, do Jean-Hubert Martin tổ chức. Ông nói: “Những nghệ sĩ cấp tiến luôn làm những gì bị cấm. Và đó là lý do Liza Lou chọn làm việc với hột, vật liệu rẻ tiền đối với những nhà sử gia và phê bình nghệ thuật Mỹ – Au”. Triển lãm cá nhân 2004 của Lou tại Deitch Projects – New York, cô đã trét thạch cao lên các bề mặt bên trong của một ngôi nhà di động, và gắn những hột đen, trắng lấp lánh lên giấy và bàn. Lou hiện sống tại Nam Phi, cộng tác với những người thợ kết cườm Zulu cho triển lãm sắp tới của cô tại gallery White Cube ở London.
Liza Lou trong trình diễn "Traller", 1999-2000, một căn nhà di động với bề mặt bên trong phủ hột cườm
Lou chỉ là một trong nhiều nghệ sĩ chuyển sang làm việc với những chất liệu thủ công. Andrew Lord bắt đầu triển lãm những cái bình của mình năm 1981 tại gallery Donald Young, Chicago. “Hơi thở” (1996), là chiếc bình sứ được tạo ra bằng cách ôm giữ đất sét trước ngực khi ông ta thở. “Lắng nghe” (1998) được cấu tạo bằng những dấu ấn của tai, và “Cắn” (1995 - 98) là những dấu răng của chính ông. Lá vàng hay đồng được gắn vào những chỗ nối hay rãnh của những chiếc bình, như đặt thêm sức mạnh cho hình dáng và làm nổi bật vẻ duyên dáng kỳ lạ từ đất.
Sự giao nhau giữa nghề thủ công và mỹ thuật đã bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, với những thiết kế đồ, vải của Sonia Delauney và Lyubor Popova, những tấm vải dệt của Anni Albers, những tấm thêu và con rối bằng gỗ của Sophie Taeuber-Arp. Vào những năm 1960 và 1970, những nữ nghệ sĩ California đã sử dụng cách may và thêu như là những yếu tố trong tranh và tượng với những lý do chính trị. Những nghệ sĩ trang trí và thiết kế đã đi theo con đường của họ. Những nghệ sĩ như Arch Connelly, Thomas Lanigan-Schmidt và Nicholas Moufarrege đã sử dụng nữ trang, kim tuyến và đồ thêu. Jim Isermann làm những bức tranh hình học, điêu khắc Tối thiểu.
Christine Y Kim, người đồng phụ trách với Thelma Golden của triển lãm “Sự thường xuyên” của những nghệ sĩ Mỹ gốc Phi mới nổi tại Studio Museum ở Harlem, nói: “Trong những năm 1990, với những buổi thuyết trình toàn cầu trong Nghệ thuật đương đại, đã có một mối ác cảm đối với tính đa cảm và nghề thủ công. Nhưng bây giờ chúng ta thấy rất ít khoảng cách đối với những thứ đáng lẽ cần được quan tâm một cách chính đáng, như tình cảm, nghề thủ công, những đồ làm bằng tay, người Mỹ gốc Phi, nữ giới…”
“Những bộ đồ âm thanh” của Nick Cave được may từ những đồ trang trí lòe loẹt bỏ đi. Được đặt tên do những âm thanh phát ra khi mặc trong những buổi trình diễn khiêu vũ, từ tiếng huýt như rắn khi di chuyển những đồng xu cho đến tiếng gõ lách cách của những nắp chai. Những bộ trang phục kín người và những bộ tóc cầu kỳ của Cave tại gallery Jack Shainman, New York, đã biến những người mặc nó thành những ông già tuyết ghê tởm với những nhánh cây, những đôi vớ cũ, bầu đựng nước, hoa làm bằng rơm, tóc người, khăn lông.
Theo như Amy Smith Stewart, người phụ trách Trung tâm Nghệ thuật đương đại P.S.1 ở thành phố Long Island thì: “Nền văn hóa tiêu thụ tôn thờ những cái bóng bẩy, tinh tế và kỹ thuật cao. Trong khi đó, nghề thủ công thiên về những kinh nghiệm cảm giác của vật chất xúc giác và gợi lên ký ức về mối liên hệ người với người”. Điều này rất thích hợp với tác phẩm của Larry Krone tại triển lãm cá nhân ở Bảo tàng Nghệ thuật đương đại St. Louis mùa thu này, Krone nối những mảnh vải thành một màn gió dài 45 foot. Chắp lại từ những tấm trải giường đầy màu sắc của Mylar. Những dải vải này khi treo lên cửa sổ của bảo tàng, nó sẽ tỏa sáng lung linh như kiếng màu có vạch, được sử dụng như phông nền của màn trình diễn về gia đình và những người bạn của ông, mặc những trang phục cầu kỳ do ông may bằng tay.
Sự đa dạng về chất liệu có thể thấy trong tác phẩm của Randy Wray “Những cái lọ linh hồn” (2004 - 05) là 1 bộ sưu tập những bình gốm màu sáng làm bằng tay được phủ với mảnh gương, vỏ sò, kim tuyến, nắp chai và nấm khô, đã đẩy nghề thủ công trang trí chai lọ thông thường lên đỉnh điểm rồ dại. Khi những ngọn nến được thắp sáng và đặt vào giữa hai cái chai màu trắng cao nhất, tác phẩm trở thành một bàn thờ, gợi nhớ tới những ký ức Thiên Chúa Giáo.
Tại Trung tâm Nghệ thuật Thị giác MIT List, người phụ trách Bill Arning, thường viết bài về Wray, chỉ ra rằng: “Thậm chí ở thời đại chúng ta, khi mà mọi thứ đều tiến triển, những kỹ thuật mỹ thuật vẫn mang hơi hướng hàn lâm. Việc chuyển sang những kỹ thuật thủ công cho phép những nghệ sĩ để thế giới nội tâm của mình tự nở hoa”.
Những nghệ sỹ không hề lung túng khi sử dụng vải, hột, đất sét và những vật liệu thủ công khác để tạo ra những tác phẩm và “để tự thế giới bên trong chúng nở hoa”
Carly Berwick HÒA BÌNH, TÌNH YÊU VÀ SỰ HIỂU LẦM
Một khuôn mặt quen thuộc lởn vởn phía trên một đống những lon nước súp Campbell, những huy hiệu đoàn thể và tính cách mạng của những nắm tay giơ lên trong tác phẩm “Hoàng đế nước xốt cà chua” (2004) của Justin Faunce. Đó là Michael Jackson, với cái mũ beret của Che Guevara và mái tóc giống những hình của Alberto Korda, nhe răng cười như con mèo Cheshire trong vùng đất thần tiên hiện đại. Những tác phẩm của Faunce sàng lọc những thần tượng văn hóa Pop và đặt họ vào trong một kính vạn hoa cỡ lớn. Chẳng có tính chất cấp tiến cũng như đạo đức trong một xã hội tiêu thụ, điều đó được thể hiện trong những tác phẩm của Faunce.
"Hoàng đế nước sốt cà chua"của Justin Faunce, 2004
Những nghệ sĩ đang làm việc với những phương tiện khác nhau, để định lại giá trị của sự theo đuổi một thế giới hoàn hảo. Từ những trình diễn hài hước, châm biếm của Tamy Ben-Tor nói lên những đặc tính của một con người tự do ở phương Tây sầu khổ và của một quý bà đi dạo, cho đến những video của Sue de Beer tập hợp những sự lo âu tuổi thiếu niên và bạo lực cách mạng. Nhiều tác phẩm của họ là sự phản ứng lại những đổ vỡ của mộng tưởng sôi nổi. Phần lớn những nghệ sĩ này sinh ra trong những năm 1970, theo gót chân những cuộc cách mạng sinh viên năm 1968, trong thời đại của sự tái chế, nhận diện chính trị, chủ nghĩa chống vật chất.
Sau thế chiến thứ nhất, những nghệ sĩ từ trường phái Xây dựng Nga như Vladimir Tatlin cho tới những nghệ sĩ Vị Lai, những sinh viên trường phái Bauhaus, tìm kiếm cách tạo ra những hình ảnh hoàn toàn của một xã hội lý tưởng bằng những bản tuyên ngôn mạnh mẽ. Trong những thập kỷ kế tiếp, nhiều nghệ sĩ thể hiện lý tưởng nghệ thuật thuần khiết của họ trong việc gắn bó với một phong cách nhất định, như Trừu tượng hay Tối thiểu. Nhưng các chấn thương những năm gần đây, từ chiến tranh Iraq cho tới những cuộc tấn công nước Mỹ ngày 11 - 9, đã thúc đẩy “việc coi lại mối quan tâm rõ ràng về chính trị của nghệ sĩ” (Biesenbach)
Để trả lời cho nhận thức này, nhiều nghệ sĩ đang tìm cách tạo ra một sự cân bằng giữa dư luận xã hội và sự tham gia đầy hy vọng. Nghệ sĩ Thụy Sỹ Thomas Hirschharn đã viết e-mail cho tờ ART News rằng “Tôi tin nghệ thuật có thể thay đổi thế giới. Tôi không làm việc cho hòa bình và tình yêu. Tôi muốn làm việc bây giờ và ở đây, trong cái thô bạo và tình trạng không thể thấu hiểu được của thế giới”. Sắp đặt của ông “Sự quan tâm bề mặt” tại gallery Gladstone, New York, gồm sân khấu bằng gỗ được bao bọc bằng giấy cứng, lá kim loại, hình cắt ra từ tạp chí về cuộc chiến ở Iraq. Sắp đặt “Người đàn ông tiền sử ” (2002), ông đã biến gallery thành cái hang bằng giấy cứng, chứa đầy sách và những bộ phận TV hư và viết nguệch ngoạc những khẩu hiệu như “Một người đàn ông = một người đàn ông”. Trong sắp đặt “Không tưởng, không tưởng” (2005) tại Viện Wattis, trường Cao đẳng Nghệ thuật California, ông thể hiện chủ đề về ý tưởng và thực tế của “sự trang trọng thật sự” – kiểu phong cách được nâng lên từ những người tiên phong của nền văn hóa mới.
Trong tác phẩm của Josephine Meckseper, nền văn hóa thương mại, quyến rũ, thịnh vượng chịu sự chi phối bởi nền văn hóa mới suy tàn. Gần đây, cô lại trét bột lên những cửa sổ phía trước của gallery Elizabeth Gee – New York với những huy hiệu của gallery Duane Reade & Gagosian. Bên trong, những khối hộp bằng kiếng, một hộp hiển thị cái búa, liềm bằng bạc phản chiếu sự trang trọng thực sự tới tột đỉnh. Cô cũng mắc một khăn choàng đầu của người Palestin vòng quanh một mannequin mảnh mai. Gần đó, video về cuộc chống chiến tranh gần đây, nhìn có vẻ như cuối những năm 1960. Cũng như với những tác phẩm của Hinschhorn, sự bất mãn của cô đối với xã hội đương thời xuất phát từ mong muốn làm cho nó tốt hơn.
Một ký ức ngậm ngùi cho chủ nghĩa lạc quan của thế hệ hòa bình và tình yêu, có thể tìm thấy trong “Những kẻ chống đối hòa bình” (2003) của Jules de Belincourt. Một vòng tròn những người khỏa thân nắm tay nhau quanh lửa trại trong rừng; trong khi đó “Những kế hoạch mới đầy tham vọng” (2005) mang khoảnh khắc chính trị hiện tại. De Balincourt nói ông đang nghĩ về sự vô ích của cộng đồng đối với những nhà chính trị ngày nay.
Triển lãm của Carol Bove tại Maccarone, New York, gồm những sắp đặt nghiên cứu phi thường với những sách cẩm nang cuối những năm 1960 - 70. Bove thể hiện sự pha trộn giữa sự mong đợi và sự coi thường đối với quá khứ gần đây “Tôi nghĩ đó là giai đoạn đầy thích thú mà mọi người cố gắng làm lại thế giới”. Nhưng cô cũng nói “Những vấn đề của chúng ta hiện nay có nguồn gốc từ cuối những năm 1960. Tôi không thấy nó tách rời với thời đại chúng ta ngày nay”.
Nỗ lực làm lại bản thân và thế giới có thể mang những hình thức khác nhau. Video “Preah” (2005) của Corey McCorkle được chiếu vào mùa thu năm ngoái trong một nhà chứa thịt cũ ở New York. Video được quay ở Cambodia, có cảnh con bò liếm đầu của những người cầu xin, vì họ tin vào tính chữa bệnh của nước miếng động vật. McCorkle cũng quay tư liệu một thành phố ở nam Ấn Độ được sắp xếp trật tự xoắn theo nguyên lý “sự hỗn loạn thần thánh”, và ngôi làng xa xăm của Findhorn, Scotland, nơi những người dân nói những cái cây trò chuyện với họ. Qua đó ông muốn tìm tới cái cốt lõi của sự thiền định và tình yêu, hòa bình vẫn là những ý tưởng tốt.
Những nghệ sĩ hoài nghi đang nhận định lại 
sự theo đuổi của một thế giới hoàn hảo
HILARIE M.SHEETS NƠI NHỮNG CÂY NẤM THẦN KỲ NỞ HOA
Sự quá tải về cảm giác của cái đẹp phiêu diêu đã gây phấn khích cho đôi mắt và tinh thần
“Luôn luôn có sự hấp dẫn để làm mọi thứ đều có nghĩa. Nhưng vùng đất phiêu diêu trong sự hiểu biết của bạn là nơi tất cả sự hỗn loạn và mọi thứ đều nở hoa cùng lúc”. Tình cảm này của Lisa Beck, 47 tuổi, họa sĩ Brooklyn, vang vọng trong những tác phẩm của cô về những vòng tròn được sắp xếp ngẫu nhiên “trở thành có trật tự”, khi cô lập lại cái cách của Rorschach và khi cô phản chiếu chúng lộn ngược từ phía sau trong những trái banh acrylic. Xin chào mừng tới vùng đất phiêu diêu của thế kỷ 21: hình ảnh thị giác, không cần đến những loại ma túy mạnh.
"Căn phòng nấm lộn ngược", 2002, của Carsten Holler
Một trong những tác phẩm của Beck “Glimmerer” (2004) được trưng bày trong triển lãm “Những đồ pha lê kỳ lạ của sự tinh khiết bất thường” tại Trung tâm Mỹ thuật đương đại P.S.1, New York. “Cảm nghĩ về buổi triển lãm là những thứ lạ lẫm, đẹp đẽ gây phấn khích cho đôi mắt và tinh thần bạn, và thời gian đang dần chậm lại một chút”. Đó là ý kiến của Nickas, người đã xếp những tác phẩm thôi miên thị giác của những nghệ sĩ như Alex Brown, Jim Drain, Ara Peterson, và Fred Tomaselli bên cạnh tác phẩm của những bậc tiền bối như Bruce Conner và Harry Smith những năm 1960.
Trong một nền văn minh đang đối mặt với sự tràn ngập của hình ảnh và thông tin, tính chất trang trí lộng lẫy vẫn nổi trội hơn tất cả. Như “Những vòng pháo hoa 1-35” (2005) của Drain và Peterson, một không gian như kính vạn hoa của những vòng pháo hoa xoay tròn khổng lồ trong triển lãm “Hypnogoogia” của họ ở Deitch Projects, New York mùa thu vừa rồi. Nhưng những nghệ sĩ vẫn tiếp tục phát huy khả năng trong loại nghệ thuật dẫn đầu này, từ căn phòng đầy những cây nấm quá cỡ của Carsten Holler cho đến sắp đặt ánh sáng của Erwin Redl Nikas. Tác phẩm “Bàn tay giới hạn sa mạc” (2002) của Trisha Donelly, một tấm ảnh đen trắng chụp chân sau của con Sphinx. “Cô tưởng tượng rằng nếu chân của Sphinx nhấc lên thì tất cả các hạt cát đều bay vào trong không gian. Đó không phải do những màu sắc sáng và cuộn xoáy, mà nó thể hiện nhiều hơn về nhận thức và mơ mộng”
Những dự án Deitch đã khai thác trào lưu Tân phiêu diêu này trong catalogue gần đây “Hãy sống qua cái này: New York vào năm 2005”, để tôn vinh 25 nghệ sĩ, bao gồm Jules de Balincour, và những nhà sưu tập như Dearraindrop và Paper Rad, những người đến với nghệ thuật như là một trải nghiệm sống và tự do. Tác phẩm những vòng pháo hoa của Drain và Peterson có giá 150.000 $ cũng có mặt trong catalogue. Hai nghệ sĩ này trước đây là thành viên của nhóm 4 người trong bộ sưu tập Forcefield ở Providence. Tại giải thưởng 2 năm Whitney 2002, nhóm đã gây nhiều sự chú ý với cái hang không gian nhốt những sinh vật có trang phục ngoài trái đất vừa nhấp nháy vừa kêu bíp bíp. Mặc dù bộ sưu tập có tiếng vang từ giải thưởng 2 năm, song tác phẩm của họ vẫn tác động tới những nghệ sĩ trẻ tuổi. Nhưng những nhà cách tân này không hẳn là sao chép phong cách những năm 1960; đúng hơn là họ đang cập nhật nó trong sự trả lời với thế giới quanh họ. Beck noi: “Tôi nghĩ nền văn hóa của chúng ta ngày nay đang đặt giác quan của con người vào vùng nước xoáy, và nó đang xoay sở giữa việc tránh ra hay là bơi vào trong đó”
Người phụ trách Paul Schimmel cũng cảm thấy những nghệ sĩ đương đại đang sử dụng phong cách những năm 1960 như là một “ván nhún” hơn là những ký ức. Thực chất, ông định ra những khu vực tái hiện của tính phiêu diêu như một sự thúc đẩy phía sau cuộc triển lãm “Trạng thái xuất thần bên trong và về những tình trạng bị thay đổi” tại Bảo tàng Mỹ thuật đương đại ở Los Angeles. Với buổi triển lãm, Schimmel đã chọn 29 nghệ sĩ và những bộ sưu tập với những tác phẩm có ý tưởng của sự nhận thức mới. Trong khi Franz Ackermann và bộ sưu tập thể hiện không gian sinh động tập trung vào cách sử dụng màu và sắp xếp, những nghệ sĩ khác lại nghiên cứu về sự choáng ngợp của cảm giác và những thí nghiệm về ánh sáng. Olafur Eliasson tạo ra một vòi phun mưa lộng lẫy trong căn phòng tối được chiếu sáng gián đoạn; Ann Veronica Janssens thôi miên người xem với những vòng đèn lớn màu xanh chớp tắt; và Redl tạo ra chòm sao gồm những bóng đèn xanh lượn trong bóng tối quanh những đường kẻ ô 3 chiều vô tận. Cũng như những cây nấm trong buổi triển lãm, thật thần kỳ với những nhãn cầu liếc mắt đưa tình như trong những bức tranh và điêu khắc hoạt hình ở Takashi Murakami, đang mọc lên từ sàn nhà trong tác phẩm “Cánh đồng Psilocybe Cubensis” (1977) của Roxy Paine, hay những cây nấm khổng lồ đung đưa từ trên trần nhà trong “Căn phòng nấm đảo ngược” (2000) của Holler.
Đạo diễn Christoph Grunenberg đã triển lãm “Mùa hè của tình yêu: Nghệ thuật của thời đại phiêu diêu”, đặt tại Liverpool và Schirn Kunsthalle Frankfurt. Ông đã gộp tất cả những poster, sắp đặt, những trình diễn ánh sáng, phim, thời trang, những vật thiết kế, và tranh của những nghệ sĩ như Robert Indiana, Yayoi Kusama, Verner Panton, và Andy Warhol, cũng như của Isaac Abrams và Mati Klarwein. Trong catalogue, ông giải thích về sở thích của mình đối với những chủ đề đang phục hưng của phong cách này.
Sự trộn lẫn giữa nghệ thuật vama túy từ lâu đã thể hiện trong những tác phẩm của Tomaselli, trong đó có tác phẩm “Trạng thái xuất thần”. Những viên thuốc có màu như kẹo và những lá cây gai dầu là những thành phần thiết kế trong tác phẩm cắt dán độc đáo trên những tấm ván đen phủ nhiều lớp nhựa cây trong suốt. Cái ý tưởng tiền hiện đại của hội họa như một cánh cửa mở ra một thế giới khác đó là những trải nghiệm của tác giả với ma túy.
Meredith Mendelsoln
NHỮNG NGHỆ  SĨ LÃNG MẠN MỚI
Trong “Đại dương mênh mông” (2001) của Ena Swansea, một bé trai đang đứng bên một bờ biển giận dữ. Bức tranh gợi nhớ lại tác phẩm của những họa sĩ Lãng mạn thế kỷ 19 như Caspar David Friedrich và J.M.W. Turner. Nhưng với ánh sáng chói, màu điện tử và vẻ dữ dằn của biển, tác phẩm của Swansea mang một vẻ lãng mạn đương đại – cùng sự giận dữ của những phong cách 2 thế kỷ trước.
Cảnh biển báo trước điềm gở của J.M.W Turne có một diện mạo mới trong "Dự cảm", 2004, của Dan Ford
Là một trong những chủ nghĩa khó nắm bắt của lịch sử nghệ thuật, phong cách Lãng mạn hiện thân của nó có nhiều hình thức. Như một trào lưu, nó nổi lên vào cuối thế kỷ 18 như một phản ứng với chủ nghĩa duy lý hình thành ở thời đại Ánh sáng. Bị vỡ mộng bởi Cách mạng Pháp và những hậu quả hỗn loạn của nó, cũng như cách mạng công nghệ và những căn bệnh tinh thần của nó, những nghệ sĩ Lãng mạn nhấn mạnh đến tính xúc cảm và chủ quan trên tính duy lý và khoa học. Chủ đề của họ thường là những đề tài huyền thoại, lịch sử, linh hồn, hay những ý nghĩa, tính nguyên thủy trong thiên nhiên, để chuyển tải những trạng thái tâm lý và những trải nghiệm vượt qua những cái tầm thường.
Hơn 200 năm sau, nhiều nghệ sĩ đã quay về với những chủ đề và phong cách của trường phái Lãng mạn. Anoelm Kiefer với niềm đam mê lịch sử và huyền thoại Đức, Bill Viola với những chân dung video đầy cảm xúc. Nhưng ngày nay, có những nghệ sĩ quan tâm tới những điều cơ bản đặc thù của trào lưu này, trong phong cách lẫn chủ đề, từ những nhát cọ điên cuồng và màu sắc rực rỡ đến những chiếc tàu chìm và hình ảnh cô độc của con người trong khung cảnh thiên nhiên.
Người phụ trách Martina Weinhart của nhà Schirn Kunsthalle ở Frankfurt nói: “Cả một thế hệ nghệ sĩ trẻ có vẻ như đang làm sống lại linh hồn Lãng mạn”. Ông tổ chức “Những thế giới lý tưởng: trường phái Lãng mạn mới trong nghệ thuật đương đại” tại Schim mùa hè vừa rồi với Max Hollein. Triển lãm bao gồm những tác phẩm của 13 nghệ sĩ, từ những bức ảnh mang không khí sầu muộn của những người đàn bà trẻ trên bãi biển mờ sương của Justine Kurland cho đến những tượng rùng rợn với đồ trang sức đầu sói của David Altmejd. Weinhart nói những nghệ sĩ này đi theo những “thiên đường, cái đẹp, và chuyện thần tiên”. Kể cả những khu rừng trăng sáng trong sách truyện của Laura Owen, những bức màu nước của Hernan Bas về những người đàn ông trầm ngâm trong những phong cảnh mơ màng và những bức tranh cắt dán giấy về những tòa nhà uy nghi trong những phong cảnh tuyệt vời của David Thorpe.
Đối với những nghệ sĩ Lãng mạn thời quá khứ cũng như hiện tại,  sự hiện diện của thiên nhiên là không thể biết và không thể kiểm soát, phong cảnh là một nơi tồn tại những nhận thức của huyền thoại. Vì lý do nào đó, những huyền thoạ này nhường chỗ cho sự suy đoán không tưởng; mặt khác, chúng là nguyên nhân của sự  khủng hoảng cuộc sống. Trong khi những họa sĩ Lãng mạn thế kỷ 19 thấy phong cảnh là nơi biểu lộ cái chất hùng vĩ đầy tín ngưỡng, thì những nghệ sĩ ngày nay lại ít thiên về tâm linh hơn. Họ tìm cách mô tả sự cô lập của con người – trong một thế giới xa lạ đầy tính xã hội và kỹ thuật.
WHITNEY BEDFORD. Không đề. 2005
Peter Doig, cũng trong nhóm “Những thế giới lý tưởng”, thường đưa hình ảnh đơn độc trong phong cảnh của ông với những hình thức thưa thớt, mềm mại, các mảng màu trong những hình bóng vẽ bằng pastel. Ông là một trong vài họa sĩ nằm trong bộ sưu tập của Charle Saatchi về những nghệ sĩ Anh trẻ đầu những năm 1990. Trong khi những đồng nghiệp của mình tập trung vào nghệ thuật ý niệm, Doig đã tạo ra những tác phẩm lấy cảm hứng từ Friedric. “Tôi đã vẽ theo sở trường của ông ta về phạm vi và sự dằn vặt đối với hiện thực. Những bức tranh mang phong cách hiện thực, nhưng là một thế giới được sáng tạo”. Tác phẩm của Doig sẽ được triển lãm ở gallery Michael Werner và Gavin Brown’s Enterprise ở New York cuối năm nay (với giá từ 40.000 $ đến 250.000 $). Ông tạo hình ảnh bằng cách kết hợp những thành phần từ nhiều bức ảnh, tranh của ông đầy vẻ hồi tưởng và mơ mộng, nhưng cái hình dáng trung tâm thường có vẻ không hợp với phong cảnh chung quanh, mang lại một cảm giác không thoải mái. Doig nói, một trong những mục đích của ông là “với tới cái không thật”.
Martin Oppel vẽ thành phố đang lan tràn và những khung cảnh sa mạc để nối những phong cảnh trường phái Lãng mạn với những vấn đề của thế giới hiện đại, thể hiện một cảm giác thất vọng. Trong “Những ngọn đồi Miami” (2004) tại Galerie Emmanuel Perratin ở Miami năm ngoái, một bầu trời màu hồng và xanh cuộn xoáy phía trên những đống gạch đổ nát lờ mờ, với những ống khói ở phía xa. Vẻ uy nghiêm của thiên nhiên đang cạnh tranh với những sáng tạo của con người.
Ernesto Caivano đã mang những kiểu Lãng mạn truyền thống về thiên nhiên và huyền thoại kết hợp với những tàu vũ trụ và những sinh vật tương lai trong câu chuyện khoa học giả tưởng về những tình nhân bị đày đọa. Loạt tranh 300 bức vẽ bằng mực “Sau những cánh rừng” (2001 - 05) kể câu chuyện về một công chúa và chàng hiệp sĩ bị lạc mất nhau một nơi mà Caivano gọi là “vũ trụ mới”. Công chúa dùng những con chim để liên lạc với hiệp sĩ, nhưng chàng hiệp sĩ lại giết những con chim để lấy lông mà không phát hiện ra những thông tin chúng mang theo. Cuối câu chuyện, nàng công chúa biến thành tàu vũ trụ và chàng hiệp sĩ biến thành bộ đồ du hành. Đó là một thiên sử thi về sự thất bại trong sự giao tiếp.
Những nghệ sĩ khác sử dụng trực tiếp những hình ảnh bi kịch từ thế kỷ 19. Dan Ford vẽ những bức họa về biển với hiểm họa báo trước đầy cảm xúc, đặt thêm vào những đồ chứa dầu bị chìm hay những tàu chở dầu ngập chìm trong khói đen. Ford nói ông ta đang cố gắng kéo sự chú ý phi thương mại giữa vấn đề phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Ryan Taber trộn lẫn những yếu tố từ những bức tranh khoa học của những họa sĩ Lãng mạn Mỹ – như những họa sĩ trường Hudson River, Thomas Cole, Albert Bierstadt và Frederic Edwin Church – với những nội dung lịch sử nghệ thuật khác. Trong một công trình điêu khắc, phiên bản phóng lớn của tảng đá non bộ Nhật Bản có mô hình của một con tàu Norse và cảnh một tranh nhà thờ. Taber rất thích khám phá những vật có vẻ bên ngoài khác so với nội dung gốc của nó, nhưng ông cũng cố gắng chỉ ra sự liên lạc giữa những trào lưu lịch sử.
Đối với Whitney Bedford, đó là “những hình ảnh khải huyền” của những nghệ sĩ Lãng mạn ngày nay. Mang một trong những phong cách chính yếu của thế kỷ 19, cô vẽ những con tàu đang đáp vào trong những vũng sơn của lối vẽ đắp “Chất sơn tự nó đang cố nhấn chìm con tàu”. Với những màu sền sệt , những bức tranh này vừa lạc quan vừa đầy vẻ chết chóc, vừa rạng rỡ vừa u sầu. Đó là tính hai mặt mà những nghệ sĩ Lãng mạn mới luôn mang trong lòng như những bậc tiền bối của mình.

Nhận xét