Đại lộ Bonard cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20

 Đại lộ Lê Lợi ở trung tâm Saigon thời Pháp thuộc có tên gọi là Boulevard Bonard hoặc Boulevard Bonnard. Trước tiên tên gọi là Boulevard Bonard hay Boulevard Bonnard cái nào là đúng?. Theo quyển sách “Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon” (3) do hội đồng thành phố xuất bản năm 1917 thì tên chính thức là Boulevard Bonard chứ không phải Boulevard Bonnard. Đại lộ được đặt tên Bonard, tên của vị chuẩn đề đốc (contre-amiral) sau là phó đề đốc (vice-amiral) hải quân Pháp. Khi đảm đang chức vụ thống đốc Nam Kỳ, chính ông là người chỉ đinh cho viên sĩ quan công binh tên là Coffyn qui hoạch thành phố Saigon cho tương lai và ra lệnh khởi công xây dựng kinh đào “canal de ceinture” phòng thủ.

Ở Chợ Lớn còn có kênh Bonard (rạch Bãi Sậy). Ông Coffyn đã cho đào kinh gọi là kinh Coffyn nối kinh chợ Vãi với rạch Cầu sấu và rạch Bến Nghé, hai bên bờ kinh là đường Bonard. Sau này khi lấp kinh rạch, kinh Coffyn trở thành đại lộ Bonard và rạch Cầu Sấu trở thành “Boulevard de la Somme” (đường Hàm Nghi ngày nay). Chính người Pháp trong số họ cũng có nhiều người nhầm lẫn. Các niên giám, sách vỡ trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và ngay cả sau này cũng gọi sai là Boulevard Bonnard. Có lẽ sự lầm lẫn này là do có một vị giáo sĩ người Pháp tử đạo do hành hình năm 1852 ở Bắc kỳ trong thời vua Tự Đức cấm đạo có tên là Jean-Louis Bonnard, trước khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh Saigon năm 1860.

Trong bài này chúng tôi dùng từ đúng nguyên thủy là Đại lộ Bonard (Boulevard Bonard) nhưng một số các đoạn trích từ niên giám, báo chí… từ Boulevard Bonnard nhầm lẫn vẫn được giữ nguyên theo qui ước trích dẫn.

Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đại lộ Bonard bắt đầu từ ngã ba đại lộ Bonard với đường Pasteur (trước đó đựợc gọi là “rue de l’Hôpital” từ bến Bạch Đằng đến nhà thương quân đội, sau đổi tên là đường Đồn Đất và ngày nay là đường Thái Văn Lung) đến cuối đại lộ ở góc với đường Mac-Mahon (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) tại số 44bis Boulevard Bonard. Lúc này chưa có Nhà hát Thành phố và Chợ Bến Thành và cũng chưa có đường Trần Hưng Đạo. Đường đi Chợ Lớn là từ đường La Grandière (Lý Tự Trọng) đi Route Haute (đường trên tức Nguyễn Trãi sau nay). Saigon chỉ giới hạn đến đường rue Boresse và rue de Thuan Kieu (Cách Mạng tháng 8). Trên bản đồ 1897, ngoài phạm vi Saigon ta còn thấy hai bên đường trên (route haute) và vài nơi trên “rue de Thuan Kieu” (nay là Cách mạng tháng 8) là các nghĩa trang của cánh đồng mã (plaine des tombeaux).

Đại lộ Bonard lúc này không quan trọng bằng hai con đường từ sông Saigon lên trung tâm thành phố là đường Catinat và đại lộ Charner. Chỉ sau khi nhà hát thành phố và Chợ Bến Thành mới (chợ Mới) sau này được thành lập vào năm 1914, ga xe lửa Saigon-Mỹ Tho được dời từ đầu đường Hàm Nghi gần bến Bạch Đằng đến vị trí ở quảng trường Cuniac (quảng trường Quách Thị Trang) gần chợ Mới và xe hơi và đường bô bắt đầu phát triển thay thế cho vận chuyển, chuyên chở hàng hóa trên kinh rạch vào khoảng thập niên 1920 song song với sự thành lập Boulevard Galliéni (đại lộ Trần Hưng Đạo), con đường huyết mạch nối Saigon với Chợ Lớn thi đại lộ Bonard bắt đầu có lợi thế và chiếm ưu thế về kinh tế so với đường Catiant và đại lộ Charner. Từ đó đại lộ Bonard (Lê Lợi) là con đường được coi như là trung tâm thương mại của thành phố Saigon.

Cũng như hai con đường Catinat (Đồng Khởi) và Charner (Nguyễn Huệ), một số các nhân vật để lại dấu ấn trên đại lộ Bonard, trong đó có bác sĩ Theodose Dejean de la Bâtie, Hua Bon Hoa, Châu Văn Liêm, Nguyễn Phong Cảnh, Nguyễn Đình Khánh (Khánh Ký), Cazeau, Bernard…cho ta một bối cảnh kinh tế, xã hội của con đường này trong lịch sử gắn liền với ký ức của người Saigon.

bonard1

Hình 1 – Bản đồ Saigon 1867 – Giới hạn ỏ phía bắc thành Saigon (citadelle) là cánh đồng mả (plaine de tombeau), ở phía tây là route de Thuan Kieu (nay là Cách mạng tháng 8) và phía tây của trung tâm thành phố gần rạch Bến Nghé là đường Rue de l’Imperatrice (Nam Kỳ khởi nghĩa ngày nay). Đường Bonard chủ yếu là kinh Bonard nối với kinh Charner (nay là đường Nguyễn Huệ) chảy ra sông Saigon và kinh Olivier chảy ra rạch Bến Nghé. Kinh Bonard chảy dài đến vị trí ngày nay là khu Thái Văn Lung và Nguyễn Siêu trước khi đổ ra sông Saigon.

bonard2

Hình 2 – Bản đồ Saigon 1896 – So với bản đồ năm 1867 thì kinh Bonard và Charner đã được lấp và phía tây gần rạch Bến Nghé (Arroyo Chinois), Saigon nới rộng đến đường Boulevard Projeté (Nguyễn Thái Học ngày nay). Các đường mới là rue Bourdaisrue Nemesisrue Boresserue Lefèbrerue D’Ayotrue Hamelinrue Batavia.

Bắt đầu sau này khoảng năm 1914 sau khi chợ Bến Thành (chợ Mới) được xây và đại lộ Bonard được nối dài thêm đến quảng trường Cuniac thì địa chỉ trên đại lộ Bonard được thay đổi. Đại lộ Bonard không còn từ đường Pasteur (Thái Văn Lung) mà bắt đấu từ quảng trường Francis Garnier hay quảng trường nhà hát cho đến quảng trường Cuniac.

Bây giờ ta hảy tìm hiểu các tòa nhà, địa chỉ, nhân vật cư ngụ hay có liên quan đến đại lộ Bonard và cảnh quan chung của Đại lộ Bonard trước năm 1914 và sau này khi đại lộ Bonard nới rộng đến chợ Mới (Bến Thành ngày nay).

Giai đoạn trước 1914

Theo Niên giám Đông Dương năm 1908, các tòa nhà và địa chỉ trên đại lộ Bonard được ghi chép như sau

Số 3 đại lộ Bonard là của hàng hớt tóc, làm tóc (coiffeur) của ông bà Julien Adolphe. Ở góc đại lộ Bonard và rue Pellerin (đường Pasteur ngày nay) là số 28 nơi cư ngụ của ông bà Samuel Gauthier, Phó trưởng phòng sở công chánh thành phố (sous-chef de bureau des traveaux publics). Số 30 Bonard là nơi ở của bà Hyacinthe Vinson, trưởng ga xe lửa Saigon (direction du chemin de fer) của công ty xe lửa Saigon-Mỹ Tho “Société générale du Chemin de fer de Saïgon à My-Tho”, nơi này cũng là văn phòng hỏa xa và sau này là địa điểm của rạp hát Casino đầu tiên ở Saigon sau khi tòa nhà hỏa xa ở Place de Cuniac (quảng trường Quách Thị Trang ngày nay) được xây. Ga xe lửa Saigon lúc này là nơi đến tấp nập của các thương nhân, học sinh từ các tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh qua đường xe lửa huyết mạch Saigon-Mỹ Tho.

Cả dãy nhà từ số 32 đến 36 đại lộ Bonard là nơi cư ngụ của các nhân viên Sở Công Chánh (Traveaux publics) thành phố: 32 ông bà Lebriac phụ tá quản đốc các công trình xây dựng của Sở Công Chánh (commis des Traveaux publics), 34 ông bà Eynard (Camille) giám sát (inspecteur) Sở công chánh và 36 ông bà Etienne, quản đốc các công trình của Sở Công Chánh (conducteur des Traveaux publics).

Số 39 là văn phòng của ông Clamont (Bernard), quyền đại diện pháp lý cho công ty Talayrach (fondé de pouvoir de la maison Talayrach).

Số 41 Bonard là nơi giáo sư Marc-Ange Canavaggio cư ngụ. Ông Marc-Ange Canavaggio, thuộc gia đình Canavaggio gốc đảo Corse có tiếng tăm ở Saigon lúc này. Ông có bằng luật, được bổ nhiệm giáo sư tạm thời vào năm 1906 ở Sở Giáo dục Nam kỳ (Service de l’Enseignement en Cochinchine).  Một người khác trong gia đình Canavaggio là ông Paul Canavaggio (anh của Marc-Ange), chủ nhiều đồn điền canh nông và các cơ sở bán muối ở Nam Kỳ. Paul Canavaggio là hội viên của Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial) cư ngụ ở số 229 đường rue Bourdais (nay là đường Calmette). Ông có giao thiệp rộng với các người Việt. Ông là bạn của nhà văn nhà báo Nguyễn Chánh Sắt, ông Lương Khắc Ninh và ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, và đứng ra lập và bảo trợ tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn.

Trước đó tháng 2 năm 1901, giấy phép thành lập báo Nông cổ Mín đàm cũng được cấp cho ông François Canavaggio, một nhà kinh doanh rất thành công của gia đình Canavaggio và là chủ một đồn điền ở Xuân Vinh gần Thủ Đức. Ông François Canavaggio, lập gia đình với một phụ nữ người Việt, chính là cha của hai ông Paul và Marc-Ange Canavaggio. Báo Nông cổ Mín đàm (1901-1924) sau này được giao cho ông Gilbert Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Con của ông Gilbert Chiếu là Jean Minh được học bổng vào trường College Chasseloup-Laubat cùng năm 1900 với Jules-François Canavaggio cũng là con của ông François Canavaggio.

Ông François Canavaggio còn là phó chủ tịch Phòng Canh nông Nam Kỳ (Chambre d’Agriculture de Cochinchine) và là hội viên Hội đồng Quản hạt. Nhà của ông ở rue Chasseloup-Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) gần trường Chasseloup-Laubat và hiện nay biệt thự này (số 128 Nguyễn Thị Minh Khai) vần còn (10). Năm 1898, trong khu đất canh tác ở gần Thủ Đức của ông François Canavaggio, giám đốc thảo cầm viên Saigon đã trồng thử nghiệm các loại cây gutta-percha mang từ Singapore sang. Do ông Canavaggio là phó chủ tịch Phòng Canh nông Nam Kỳ nên đất của ông Canavaggio được dùng làm nơi thủ nghiệm trồng các loại cây, trong đó có gutta-percha và cây cao su (Hever Brasiliensis) (12), Loại cây gutta-percha có nguồn gốc từ vùng bán đảo Malaysia, cho ra chất nhựa dùng để làm chất cách điện, trám răng, làm đồ trang trí, làm trái đánh banh golf, và làm thuốc trong y học. Đây là loại cây cho nhiều nhựa hơn cây cao su và vào cuối thế kỷ 19 là loại cây có lợi ích kinh tế lớn và được kỷ nghệ ở nước Anh dùng nhiều như trong sản xuất chất cách điện cho đường dây điện tín xuyên biển.

Ông Trần Chánh Chiếu là một nhà yêu nước, ông mong muốn cải cách canh tân xã hội và con người Việt Nam. Ông cùng các người Việt trí thức khác lập ra phong trào Minh Tân ở Nam Kỳ khuyến khích người Việt vào thương trường, công nghệ cạnh tranh với người Hoa, Pháp và Ấn độ qua hội đoàn “Nam Kỳ Minh tân Công nghệ xã”. Ông Gibert Chiếu cũng ủng hộ ngầm phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Vì ủng hộ phong trào Đông Du ông bị nhà cầm quyền theo dõi và vào tháng 10 1908 ông bị bắt qua vụ “L’Affaire Gilbert Chieu”. Do ông François Canavaggio là người có giấy phép xuất bản tờ “Nông cổ Mín đàm” và chịu trách nhiệm nên cũng bị chỉ trích. Toàn quyền Đông Dương, ông Klobukowski tháng 12 1908 đã ra sác lậnh sửa đổi giấy phép xuất bản báo Nông cổ Mín đàm (9). Theo đó ông François Canavaggio phải bảo đảm không có bài báo nào nói xấu bất kỳ góc cạnh nào về nhà cầm quyền Pháp và phải nộp bản thảo báo lên chính quyền Nam Kỳ đại diện bởi phó soái Nam Kỳ là ông Bonhoure để kiểm duyệt 4 ngày trước khi báo được xuất bản. Mổi bài viết bằng tiếng Việt đều phải được dịch ra tiếng Pháp khi nộp và sau khi đã được chấp thuận báo được in thì không một bài báo nào khác được kẹp vào báo đã in.

Số 55 đại lộ Bonard là của ông bà Amedee Courtot, thủ quỉ cho công ty xây dựng Graf Jacques (maison Graf Jacques). Số 57 ông bà Lemaal, nhân viên sở công chánh. Số 59 là nơi ở của ông bà Flambon, kế toán viên cho công ty Graf Jacques (maison Graf Jacques). Công ty Graf Jacques có các xưởng xây dựng cơ khí sản xuất và sửa chữa các tàu, sà lúp ở Khánh Hội. Các xưởng ở Khánh Hội của công ty Graf Jacques sau này cũng làm các tàu hơi nước (bac à vapeur) chở xe và hành khách qua sông Hậu ở bắc Cần Thơ (L’Éveil économique de l’Indochine, 24 novembre 1918). Công ty còn nhập các máy động cơ, cung cấp và thiết lập máy móc dụng cụ cần thiết cho các đồn điền cao su.

Số 61 là nơi cư ngụ của ông bà Brizon, giám đốc một công ty địa ốc (directeur de la sociétée immobilière), số 63 là ông Alphonse Grosjean, nhân viên trắc địa ở sở Địa chính (géomètre au Cadastre) Saigon.

Số 44 là nơi Benjamin Espelette, giáo sư trung học, cư ngụ và cạnh bên ở số 44bis là ông Eugène Dejean, thư ký thuế vụ (commis des Douanes)

(Theo Niên giám Đông Dương 1908, Annuaire General de l’indochine 1908)

Khách sạn Hôtel Continental nằm ở góc đường Catinat và đại lộ Bonard. Nơi đây cũng là trụ sở Hội đồng thành phố và và văn phòng thị trưởng trước khi tòa thị sảnh thành phố (Mairie) hay tòa đô chính (nay là Ủy ban Nhân dân Thành phố) được xây sau này. Số 8 Bonard là quán cà phê, quán ăn và nhà nghĩ “Café de la musique” nổi tiếng của ông bà Pancrazi, người Pháp gốc đảo Corse.

bonard3

Hình 3 – “Café de la musique” số 8 Boulevard Bonard (góc Boulevard Bonard và rue Catinat)

Số 16 là Cercle colonial, số 32 là tòa soạn của báo “La dépêche de Saigon”. Bên kia đường ở số 19 là văn phòng của nhà nhiếp ảnh J. Brignon. Số 39, là ông Albert biên tập viên của tờ báo Courrier Saigonnais (redacteur du Courrier Saigonnais), trong khi ở số 49 là nơi biên tập của tờ báo Colon (Redaction du journal le Colon)

Số 42 là văn phòng của nhà quay phim Louvet (Cinematographe Louvet). Ông Louvet là một trong những người đầu tiên mang phim ảnh chiếu cho công chúng trước khi có rạp Casino Saigon. Trong lịch sử điện ảnh Việt Nam thì phim đầu tiên chiếu ở Saigon là vào năm 1898 ở nhà hát cũ của thành phố (vị trí ngày nay là khách sạn Caravelle). Năm 1908, ông Louvet mở rạp chiếu phim ở góc đường rue Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay) và đại lộ Charner. Sau đó ông dời địa điểm chiếu phim về cơ sở của công ty điện ảnh “Pathé frères” ở số 63 rue d’Ormay (Mạc Thị Bưởi) gần góc đại lộ Charner. Phim chỉ được cho phép chiếu từ buổi chiều tối đến 11 giờ đêm nên tại nơi này về đêm rất vui náo nhiệt so với các nơi khác trong thành phố. Nhưng chỉ vài năm sau khi rạp Casino Saigon rộng rãi hơn được thành lập vào năm 1910 thì địa điểm chiếu phim của ông Louvet không còn cạnh tranh được với rạp Casino mới. Chúng ta không biết gì thêm về ông Louvet sau này.

Số 42bis là văn phòng của công ty đồn điền cao su “Société Suzannah”. Công ty Société Suzannah được thành lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1907 với số vốn là 150000 đồng Đông Dương (piastres) do nhóm nghiên cứu mà ông Louis Cazeau đứng đầu thành lập. Công ty Société Suzannah có các đồn điền cao su rộng 3400 mẫu (hectare) ở Dầu Giây thuộc tỉnh Biên Hòa và sau này còn có thêm các đồn điền ở An Lộc. Cây cao su được lấy hạt giống từ Singapore và đã trồng rất thành công ở đồn điền Dầu Giây. Trước kia ông Cazeau cũng là giám đốc của công ty nổi tiếng xe (tramway) hơi nước ở Nam Kỳ, “Société générale des tramways à vapeur de Cochinchine” (SGTVC). Công ty SGTVC có các tuyến đường xe lửa công cộng chuyên chở hành khách Saigon-Chợ Lớn và đắc biệt tuyến đường xe lửa Saigon-Mỹ Tho. Ông Cazeau là hội viên trong Hội đồng Quản hạt (Conseil colonial) và cũng chính là người đã xây dựng khách sạn Hôtel Continental ở ngay góc đại lộ Bonard và đường Catinat mà hiện nay như ta biết vẫn còn.

Số 55-59 là trụ sở của Ngân hàng Nam kỳ (Banque Cochinchine). Và cuối đường bên trái cạnh Ngân hang Nam Kỳ là số 61-63 trụ sở bót Cảnh sát quận 1 (commissariat 1er arrondissement). Cuối đại lộ Bonard là giao điểm của ba đường: đại lộ Bonard, đường MacMahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) và đường rue de Cap St Jacques (Nguyễn Trung Trực ngày nay).

(Theo Niên giám Đông Dương, Annuaire Generale de l’Indochine 1910)

Giai đoạn sau 1914

Như đã đề cập ở trên thì khoảng năm 1914 sau khi chợ Bến Thành (chợ Mới) được xây và đại lộ Bonard được nối dài thêm đến quảng trường Cuniac thì địa chỉ trên đại lộ Bonard được thay đổi. Giai đoạn này chứng kiến sự phát triển của đường bộ và xe hơi nối với Chợ Lớn. Vị trí kinh tế của đại lộ Bonard quan trọng hơn so với vị trí đại lộ Charner và đường Catinat về hướng sông Saigon.

bonard4

Hình 4 – Đại lộ Bonard toàn cảnh nhìn từ quảng trường nhà hát thành phố

Số 3 Bonard là cửa hàng của Hãng rượu The Crystal, 3 Boulevard Bonnard. Sau này chuyển về địa chỉ số 19 Bonard.

bonard5

Hình 5 – Quảng cáo hảng rượu The Crystal ở số 19 Bonard (trên báo Écho Annamite ngày 23/2/1922)

Số 21 Đại lộ Bonard ngay góc với Đại lộ Charner là cửa hàng xe hơi Autohall. Nơi đây bán các loại xe hơi như Dodge Brothers, Citroën của công ty “Établissement Bainier d’Indochine” (É. Bainier) của ông Bainier. Ông Bainier đến Saigon vào đầu thế kỷ 20 và là một người có đầu óc kinh doanh trong lãnh vực xe hơi mới bắt đầu chớm nở.

Qua bên kia đường, số 28 là cửa hàng café và khách sạn “Grand Hôtel des Nations” của ông bà Pancrazi. Sau này vào thập niên 1950 tòa nhà được xây lại và là cửa hàng thực phẩm “Épicerie Saigonnaise Lien-Seng”.

bonard6

Hình 6 – Café nhà hàng khách sạn Hôtel des Nations, góc đại lộ Bonard và đại lộ Charner, của ông bà Pancrazi (hình chup đầu thế kỷ 20).

bonard7

Hình 7 – Cửa tiệm “Épicerie Saigonnaise Lien-Seng” cuối thập niên 1950

So 23-29 Boulevard Bonard là trụ sở của công ty “Société anonyme des garages indochinois”, đại lý chính thức độc quyền bán xe hơi hiệu Chevrolet. Garage Bonard nằm ở vị trí cạnh bên thương xá Grands Magasins de Charner (GMC) và đối diện với rạp Casino Saigon (1). Sau này nơi đây trong thập niên 1960 là garage xe hơi Kim Long.

Số 30 là rạp Casino Saigon của công ty “Société anonyme pour l’exploitation des cinemas” do ông Léopold Bernard thành lập khoảng năm 1910. Ngoài rạp chiếu phi, Casino ở Saigon, công ty của ông Bernard còn xây dựng các rạp hát ở một số nơi khác ở Nam kỳ như rạp Casino Mỹ Tho (Casino de Mytho), rạp Casino Bến tre (Casino de Bentre) và rạp Casino Cần Thơ (Casino de Cantho) phục vụ nhu cầu xem phim xinê (ciné) của dân chúng ở Nam Kỳ Lục tỉnh.

Sau này rạp Casino Saigon được chuyển sang số 28 Bonard rộng rãi hơn, ngay góc đại lộ Bonard và đường Pellerin (đường Pasteur ngày nay) và số 30 trở thành một cơ sở của rạp Casino là nhà hàng khách sạn “Brasserie des sports” do Daniel Courrèges, bạn của ông Bernard, quản lý (15). Trong sách hướng dẫn du lịch Angkor đi từ Saigon của Claudius Madrolle in năm 1925, có ghi chú chi tiết các khách sạn ở Saigon trong đó có ghi Hôtel du Casino et Brasserie des Sports, cách nhà ga Saigon 2 phút, có 30 giường ngũ, có điện và vòi tắm sen trong mỗi phòng. Giá mướn phòng là 4$, giá ăn sáng, trưa, tối là 50 cents, 1$50 và 1$50. Giá cho nguyên tháng phòng và ăn từ 100 đến 150$, nếu chỉ ăn thôi là 45$.Trong khi giá ở Hotel des Nations của ông bà Pancrazi gần đó là 7$ mỗi ngày mướn phòng và ăn.

Rạp Casino chiếu các phim mới thịnh hành ở Paris như phim hài “Ce bon Lucien” ra mắt năm 1918 thì không lâu ở Casino Saigon đã có chiếu. Các phim được ưa chuộng khác như phim nhạc “Marinella” (1936) do Tino Rossi đóng, “Arènes joyeuses” (1935), “L’Equipage” (1935) với tài tử Annabella và Jean Murat đóng, “Toni” (1935) của đạo diễn nổi tiếng “film noir” là Jean Renoir. Ngoài ra rạp Casino cũng là nơi có trình diễn các vỡ kịch như Déillusione cạnh tranh với nhà hát thành phố.

Đặc biệt vào mùa mưa, Casino Saigon là nơi có tổ chức các cuộc đánh quyền anh (boxe hay võ tay) rất phổ thông thu hút nhiều người đến xem, đến nổi ban quản lý Casino Saigon phải hạn chế số lượng người vào như tin đăng trên báo Écho Annamite (13/5/1925) như sau

“Tin thể thao

Đánh quyền anh (boxe)

Trong lúc này là mùa mưa, ông Tellier đã phải tổ chức các trận đánh boxe trong phòng của rạp Casino và do không đủ rộng, số chổ ngồi bị hạn chế nên ông đã quyết định tạm ngưng số lượng vào cửa dùng thẻ ưu tiên đặc biệt ở Casino Saigon.

Vì thế, chỉ những ký giả viết về thể thao và các nhân viên mới có thể dùng thẻ ưu tiên vào. Không bất kỳ lý do nào là có thể vào them.

Những báo sau có cột viết về thể thao

(1 thể ưu tiên cho mỗi báo)

Le Courrier Saigonnais, L’Opinion, L’Echo Annamite, L’Impartial, L’ Écho des Sports, Saigon-Sportif Cong luan Bao, Trung lap Bao, La Voix Libre.

Casino de Saigon”

(dịch theo bản tin viết bằng tiếng Pháp trên báo Écho Annamite – Tiếng Vọng An Nam)

Những võ sĩ đánh quyền anh là người Việt, Pháp và ngay cả người Phillipin (Phi Luật Tân) cũng có mặt. Trên báo Écho Annamite ngày 13/5/1925 có đăng tin thể thao về các trận đánh quyền anh ở Casino Saigon như sau

“Ngày mai 14 tháng 5 vào lúc 21 giờ

Các trận đánh quyền anh lớn

4 hiệp

KID THOMAS đấu với VANG

Người Việt – người Việt (Annamite – Annamite)

8 rounds revanche

KID ALFRED đấu với IROJANI

Người Phi Luật Tân – Người đảo Corse (Philippin – Corse)

6 hiệp

MATRAT đấu với SIRE

Người thành phố Dijon – Người Paris (Dijonais – Parisien)

Grand combat revanche en 12 ’rounds

AYOT đấu với T. R. SOSA

Người thành phố Marseille – Người Phi Luật Tân (Marseillais – Philippin)

(dịch theo bản tin tiếng Pháp trên Écho Annamite – Tiếng Vọng An Nam)

Sau khi ông Bernard Léopold mất năm 1918, người em vợ của ông là Constant René Blot lên thay thế quản lý công ty “Société anonyme pour l’exploitation des cinemas” cho đến khi Pháp rút khỏi Việt Nam (15). Năm 1955, rạp Casino Saigon được xây lại trên đường Pasteur (59 Pasteur) cạnh rạp cũ ở góc đường. Rạp Casino sau năm 1975 được đổi tên là rạp Vinh Quang và trở thành Sân khấu Kịch Sài Gòn vào năm 1998. Cách đây vài năm rạp bị phá để xây khách sạn Liberty Central Hotel kết thúc một lịch sử đặc thù lý thú của phim ảnh Saigon trong thế kỷ 20.

bonard8

Hình 8 – Rạp Casino Saigon ở 28 đại lộ Bonard, ngay góc đại lộ Bonard và đường rue Pellerin (Pasteur ngày nay) (hình chụp đầu thế kỷ 20, thập niên 1920)

bonard9

Hình 9 – Nhà hàng khách sạn “Brasserie des Sports” ở số 30 đại lộ Bonard, bên cạnh (phải) là rạp Casino Saigon.

Số 50 là phòng mạch của bác sĩ Laimé chuyên khoa tai, mủi và họng như đăng trong Écho Annamite (23/2/1922)

Docteur Laimé

Ex-assistant ad’. des Hôpitaux de Paris, spécialiste des maladies du Nez, de la Gorge et des Oreilles.

50 Boulevard Bonnard

Consultations : Lundi, Mercredi, Jeudi et Vendredi de 10 à 11 heures et de 15 à 18 h. et sur Rendez-vous.

Số 54 là tiệm nhiếp ảnh của nhà nhiếp ảnh Việt Nam tiên phong trong lãnh vực nhiếp ảnh: ông Nguyễn Đình Khánh tự Khánh Ký. Trong báo “Écho Annamite” ngày 13/6/1925, có đăng quảng cáo tiệm nhiếp ảnh Khánh Ký như sau

Khanh-Ky & Cie

Phtographie Industrielle et Artistique

Prix Modérés

Ex-premiers ope’rateurs des Grandes Maisons de Paris

54 Boulevard Bonnard, 54 – Saigon

Téléphone No. 410

 

Năm 1926 khi nhà chí sĩ Phan Châu Trinh mất ở Saigon, nhà nhiếp ảnh Khánh Ký đã chụp ảnh đám tang từ đường Pellerin (nay là Pasteur), gần tiệm nhiếp ảnh của ông, đến nghĩa trang Gò Công gần Tân Sơn Nhất. Bộ ảnh này của Khánh Ký có giá trị lịch sử và hình ảnh của ông đã được dùng trên báo chí và một số hiện nay được trưng bày ở nhà lưu niệm Phan Châu Trinh cạnh mộ Phan Châu Trinh ở Saigon. Khi thi hào Ấn Độ viếng thăm Saigon tháng 6 1929, trong dịp viếng nhà in Imprimerie Nguyen Van Cua, nhà nhiếp ảnh Khánh Ký đã có chụp ảnh thi hào Tagore cạnh chủ nhà in là ông Nguyễn Văn Của.

Tham Khảo

  1. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l’Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières… : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, éditeurs L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
  2. L’Information d’Indochine. économique et financière, Saigon, 1935, 1936, 1940.
  3. Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l’Union (Saigon), 1917
  4. Annuaire général de l’Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.
  5. Annuaire de l’Indo-Chine, 1890, T1, pp. 198-199, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1890.
  6. Annuaire de l’Indo-Chine, 1897, T1, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
  7. Annuaire de la Cochinchine française pour l’année 1870, Imprimerie du Governemnt, Saigon 1869.
  8. Écho Annamite, 10/11/1921, 13/5/1925, 13/6/1925, 29/12/1928.
  9. Bulletin officiel de l’Indochine française, A1908 N12, p. 1112-1113
  10. Tim Doling, Old Saigon building of the week: 128 Nguyen Thi Minh Khai, http://www.historicvietnam.com/128-nguyen-thi-minh-khai/
  11. Tim Doling, Date with the wrecking ball: Saigon hospital, http://www.historicvietnam.com/saigon-hospital/
  12. Bulletin économique de l’Indo-Chine, 1898/07/01 (A1,N1)-1898/12/01 (A1,N6), pp. 142, Imprimerie commerciale Rey, Saigon.
  13. Húa Hoành, Giai thoại Nam Kỳ Lục Tỉnh,
  14. Claudius Madrolle, Guide aux Ruines Khmères, Vers Angkor. Saïgon. Phnom-Penh, Hachette (Paris), 1925.
  15. Tim Doling, Icons of Old Saigon: The Casino de Saigon, http://saigoneer.com/saigon-buildings/3726-icons-of-old-saigon-the-casino-de-saigon

Nhận xét