
Hoành phi đại tự cổ - Chùa Vạn Linh Khánh tự - Trả Cổ, Móng Cái, Quảng Ninh.


Hoành phi : QUANG THẾ TRẠCH " Ân trạch của tổ tiên được đời đời phát huy "


Câu đối :
Đọc từ trái qua
Vế phải : THƯ VÂN DOÃN CHẤP QUYẾT TRUNG THÁNH NHÂN TU KỶ CHI ĐẠO
Vế trái : TRUYỀN VIẾT BẤT NGUYỆN HỒ NGOẠI QUÂN TỬ TỐ VỊ NHI HÀNH
Dịch nghĩa :
Sách xưa viết hãy luôn biết tự xửa mình như bậc thánh nhân
Truyền rằng hãy hành động và cư xử như người quân tử
"Thánh nhân tích đức , bất tích kỳ tài . Quân tử mưu đạo , bất mưu kỳ thực " Thánh nhân tích đức không tích tiền của , quân tử chỉ lo giữ được đạo không lo ăn
Bức hoành phi cung tiến đình làng
Đình làng Nhân Vực khánh thành năm 1932. Phạm Quỳnh là con rể làng Nhân Vực bấy giờ đã thôi chủ bút Nam Phong tạp chí vào Huế làm quan đã được 5 năm (Thật ra là mới năm đầu – PT chú). Vào mùa đông năm Đinh Sửu (1937), với tư cách Ngự tiền văn phòng, Cơ mật đại thần kiêm Thượng thư Bộ Học,Phạm Quỳnh đi kinh lý Bắc Hà. Ông đã tranh thủ về thăm quê vợ, làng Nhân Vực. Lần ấy các bô lão trong làng được gặp ông quan Thượng Thư, cũng là giai tế của làng, trịnh trọng cung tiến đình làng một đôi câu đối và bức hoành phi. Nay câu đối bị hư hỏng, chỉ còn bức hoành sơn son thếp vàng với bốn chữ đại tự: Thông minh chính trực. Bên phải bức hoành khắc dòng chữ Hán: Bảo Đại Đinh Sửu đông (mùa đông năm Đinh Sửu 1937 triều vua Bảo Đại – TG). Bên trái hoành phi phía trên cao có hai dòng chữ: Tả đại Học sĩ lãnh Giáo dục bộ thượng thư, sung Ngự tiền văn phòng Tổng lý cơ mật đại thần Phạm Quỳnh, bái.

Bức hoành phi đã được treo trang trọng gian giữa đình. Đã qua hơn 70 năm trải qua bao nhiêu biến cố, những sự đẽo gọt của thời gian, rồi chiến tranh, rồi giông bão mà tấm hoành phi vẫn còn. Các cụ trong làng bảo rằng: mỗi lần làng quê vào đình đám, mỗi lần thắp hương, ngước trông lên tấm hoành phi, lại nhớ tới người con rể của làng, thấy bâng khuâng…
Các cụ kể, những năm chiến tranh, đình là kho quân sự nên không có ai được xâm phạm, vì thế đồ tế tự mới còn.
Bản sơ thảo các câu đối cung tiến về Đình Làng. Anh Trương Lê Anh Tuấn (con trai cố nhà giáo Trương Văn Quảng) vừa sơ bộ hoàn thành 3 đôi câu đối để cung tiến về Đình Làng. Với sự đồng ý của anh Tuấn, Quản trị trang Web Làng trích đăng ở đây để xin ý kiến đóng góp của quí bà con xa gần trước khi gởi đến thợ gia công chạm trổ. Mọi ý kiến đóng góp xây dựng đều rất quí giá, kính mong nhận được thật nhiều và sớm các hồi âm từ bà con chúng ta:
Thông tin góp ý, vui lòng gửi về: langphule@gmail.com hoặc gọi điện trực tiếp cho Quản trị web Làng và anh Tuấn.
Ghi chú: Các phần dịch nghĩa ở đây chỉ dịch ý để dễ hiểu, không còn là câu đối.



Miếu Hy Hòa thờ chư vị thần này.
Nhìn lên cổng chính tam quan miếu sẽ thấy ba chữ:
五 行 門
NGŨ HÀNH MÔN
Hai bên có hai tiểu đối:
東 成 - 西 就
ĐÔNG THÀNH - TÂY TỰU
Các cặp đối ở trụ cổng:
Thắng cảnh lâu dài thiên cổ tú
Thái bình thủy nguyệt vạn niên xuân
Mỹ lệ lâu đài ngàn thuở đẹp
Hòa Bình trăng nước vạn năm xuân
Thần nhân sở xá y nam bắc
Tiên nữ du cư tỳ cổ kim
Thần nhân thờ tự nam như bắc
Tiên Nữ độ trì xưa đến nay
Hoành phi ghi: SẮC NGŨ VÂN TƯỜNG
Gian giữa miếu thờ năm bài vị:
金 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Kim đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
木 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Mộc đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
水 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Thủy đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
火 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Hỏa đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
土 徳 仙 娘 聖 女 神 位 - Thổ đức Tiên nương Thánh nữ thần vị
Và bài vị:
明 天 依 阿 娜 主 玉 聖 女 神 位
Minh Thiên Y A Na chủ ngọc thánh nữ thần vị
(Đây là bài vị thần chủ nhưng hiện nay được an vị ở hàng bên như vị trí phối tế là chưa đúng)
Bên cạnh các bài vị trên còn phối thờ thêm hai bài vị:
奉 為 亡 祖 姑 穎 川 郡 陳 氏 之 神 位
Phụng vị vong tổ cô, Dĩnh Xuyên quận, Trần thị, chi thần vị
Bài vị phụng thờ vong hồn bà tổ cô họ Trần, quận Dĩnh Xuyên
奉 為 亡 祖 姑 蔡 氏 紅 娘 令 神 位
Phụng vị vong tổ cô, Thái Thị Hồng Nương, lệnh nữ thần vị
Bài vị phụng thờ Tổ cô, bà Thái Thị Hồng, lệnh nữ
Câu đối trụ tiền đường ghi:
Hiển hách anh linh chân thánh nữ
Chiêu chương đức hóa thị tiên nương
Hiển hách anh linh là thánh nữ
Sáng soi đạo đức chính tiên nương
HOÀNH PHI
Nội thất đinh có treo hai hoành phi được chuyển đến từ miếu Ngũ Hành bị sụp lở:
Hoành phi trước: Huệ đồng nhân
Duy Tân Quý Sửu, trọng hạ
Ban ơn nhân dân
Duy Tân năm Quý Sửu (1913), tháng năm
Hoành phi sau: Phối nghĩa hưởng
Long Phi, Quý Sửu, trọng hạ
Cùng hưởng việc nghĩa
Long Phi, năm Quý Sửu (1913), tháng năm
Hoành phi lăng ghi :
清 順 萬
Thanh Thuận vạn
Tân Tu
Hà Trung ấp
Đình với gian giữa thờ thần vị: 神 THẦN
Gian đông và tây thờ các chữ: 左 班 - 右 班
TẢ BAN-HỮU BAN
Ngoài ra còn có các hoành phi:
CHUNG ANH TÚ
Đức Kỳ Thịnh
Ất Tỵ niên, mạnh thu vọng nhật (Năm Ất Tỵ 1965, ngày rằm tháng bảy)
Huỳnh Kim Quán, Phạm Văn Phi đồng phụng cúng
xà cò ghi:
啟 定 二 年 歲 次 丁 巳 四 月 吉 日
錦 鋪 社 河 中 邑 四 政 春 生 普 同 新 造
Khải Định nhị niên, tuế thứ Đinh Tỵ, tứ nguyệt, cát nhật
Cẩm Phô xã, Hà Trung, Tứ Chánh, Xuân Sanh phổ đồng tân tạo
Khải Định năm thứ hai (1917), Đinh Tỵ, tháng tư, ngày tốt
Xã Cẩm Phô, ấp Hà Trung, Tứ Chánh, phổ Xuân Sanh đồng tân tạo
HOÀNH PHI
Kỷ Tị niên mạnh đông. Bổn vạn đồng tái tạo
Phổ Xuân Sanh
Năm Kỷ Tị (1919), tháng bảy. Vạn ghe ta cùng tái tạo
求 必 應
Cầu tất ứng
Cầu tất ứng
Bính Ngọ niên hạ nguyệt
Ngư hộ : Nguyễn Đình Lan - Cựu Trùm vạn : Đỗ Có, đồng bái
Cầu tất ứng hiện
Năm Bính Ngọ 1969, tháng hạ
Hộ nghề cá Nguyễn Đình Lan - Cựu trưởng xóm vạn ghe Đỗ Có: đồng bái
Duy Tân Kỷ Dậu niên, mạnh thu cát nhật
Xuyên Châu, Tập Phước phổ tịnh tứ chánh, phụng cúng
Sóng yên
Duy Tân năm Kỷ Dậu (1909), tháng bảy, ngày tốt
Phổ Tập Phước, Xuyên Châu và dân tứ chiếng phụng cúng
助 信 彰 靈
助 信 彰 靈
Trợ tín chương linh
Tuế thứ Kỷ Dậu niên, trọng thu, cát nhật
Thuyền chủ : Nguyễn Đình Để, Đỗ Việt Dận đồng phụng cúng
Giúp tin tưởng sáng suốt
Năm Kỷ Dậu (1909) tháng tám, ngày tốt
Chú thuyền: Nguyễn Đình Để, Đỗ Viết Dận cùng phụng cúng.
CÂU ĐỐI
Xuân tiết thanh binh ba lãng tĩnh
Sinh lai cốt cách sa bằng y
Xuân đến thanh bình qua sóng lặng
Sống theo cốt cách dựa cát yên
Niệm cổ kim ân tiền bối
Xuân lai thu khứ tưởng hậu hiền
Nhớ ghi sau trước ân tiền bối
Đi đến xuân thu nhớ hậu hiền
Tứ thời thuận hú đồn niên phong
Lục phủ khổng tu trưng vật phụ
Tự đức bát niên hạ nguyệt, cát nhật
Thuyền hộ: Nguyễn Văn Thê phụng cúng
Bốn mùa thuận hộ cả năm thịnh
Sáu phủ thông thương, trọn vật đầy
Tự Đức năm thứ tám (1854) tháng hạ, ngày tốt
Thuyền hộ : Nguyễn Văn Thê phụng cúng
Lại nữa, câu đối của một chủ thuyền có ghi năm phụng cúng là năm 1854 như sau:
嗣 德 八 年 夏 月 吉 日 - 船 戶 阮 文 悽 供
Tự Đức bát niên, hạ nguyệt, cát nhật. Thuyền hộ Nguyễn Văn Thê cúng.
CÁC GIAN THỜ
Bàn thờ gian giữa thờ thần vị: Tiêu Diện đại sĩ
僬 面 大 士
僬 面 大 士
Tiêu Diện (Tiêu: cháy bỏng; diện: cái mặt) là bậc đại sĩ mặt cháy. Tên đầy đủ của vị thần này là "Tiêu Diện lực sĩ, Diệm khẩu quỹ vương" làm chức năng chưởng quản cô hồn nơi âm giới.
Hiên miếu đắp nổi hoành phi: NGŨ HÀNH MIẾU
Gian giữa thờ hai chữ:
靈 遂
Linh Toại
Dòng Lạc khoản trên Vế 1 câu đối (ảnh) đã đọc được chữ “xx 己卯年” còn 2 chữ đầu chưa đọc được.
Hơn nữa nguyên tắc ghi thời gian theo chữ Hán là “Ghi từ đơn vị lớn (năm) xuống dần đến đơn vị nhỏ (ngày)” mà ở đây chữ “kỷ mão niên” lại để sau cùng vậy 2 chữ trước nếu chỉ thời gian thì lớn hơn năm là gì, tôi đoán chưa ra.
Rất mong các bậc cao minh chỉ giúp. Xin cám ơn trước!

Có người mách đó là chữ “Càn” 乾 trong “Càn Khôn” nhưng tôi thấy “x Càn” cũng khó hiểu!
Tôi xin nói thêm: địa danh và người cung tiến nói ở Vế 2. Đó la: “青化会朝梁族供進” (Thanh Hóa Hội Triều Lương tộc cung tiến) có chữ “” (hoá) chỉ Thanh Hoá chứng minh rằng đôi câu đối này không thể được chế tác trong khoảng từ 1469 đến 1841 bởi thời gian này Thanh Hoá đã được nhà Lê đổi thành Thanh Hoa 清華. Đồng thời như trong ảnh thì chữ “quốc” được viết là 国 (giản thể) chứ không phải là 國 (phồn thể).

Phong quang vô hạn, khí tượng vạn thiên 風光無限氣象萬千, tạm hiểu: Cảnh sắc tráng lệ vô cùng vô hạn, nhưng cũng muôn hình vạn trạng và biến đổi không ngừng.
![]() |
4 chữ đầu là Mai Khai Ngũ Phúc (梅开五福)
Còn chữ cuối cùng là 3 chữ ghép lại là Mậu Tý Niên - năm Mậu Tý (戊子年)

Trong dòng lạc khoản có địa danh xã Thuận An 順安社 thuộc huyện Vũ Tiên 武仙縣, phủ Kiến Xương 建昌府 đúng ra còn thiếu địa danh tổng Đội Trạch 隊澤là cấp hành chính bên trên xã Thuận An (trước kia thôn có trên 10 dòng họ gọi là xã, nhiều xã họp thành tổng) nay là thôn Thuận An (còn có tên Nôm là làng Vều), xã Việt Thuận, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.











Nhận xét
Đăng nhận xét