Chuyển đến nội dung chính

Tượng thờ và cách bài trí tượng

Sự khác biệt về bài trí tượng thờ hiện nay 

Hệ thống tượng thờ ở ngoài Bắc đa dạng và phong phú, hầu hết các chùa đều có gian thờ mẫu, ban thờ các nhân vật Nho và Ðạo giáo. Trong khi đó, hệ thống tượng tại miền Trung đã giản lược đi rất nhiều, bắt đầu xuất hiện những chùa thờ Phật độc tôn. Còn ở Nam Bộ, những chùa cổ có hệ thống tượng tương đối giống miền Bắc, phổ biến kiểu thờ tiền Phật hậu Tổ, ban thờ Tổ đặt ngay sau chính điện.

1. Miền Bắc 

Các lớp tượng cũng được phân bố theo các lớp kiến trúc tạo nên các con đường ngang dọc trong không gian chùa. Tượng thờ được bài trí qua các thời kỳ song song với việc phát triển kiến trúc và là một trong những nguyên nhân mà bố cục ngôi chùa thay đổi.
Khác biệt trong bài trí tượng thờ không chỉ ở quy mô của Phật điện mà còn do ảnh hưởng của tông phái, do trình độ của người trụ trì, do kinh phí nhiều ít, do được cúng tiến tượng thờ...
Không có một công thức duy nhất cho bài trí tượng thờ, nhưng có một số điểm chung giữa cách bố trí tượng thờ các chùa đã được các nhà nghiên cứu đã đề cập đến như Trần Lâm Biền, Trần Nho Thìn, Nguyễn Đăng Duy...

Triết lý vô thường có thể thấy rõ trong bài trí tượng thờ miền Bắc, đó là vạn vật luôn biến đổi, mọi không gian và thời gian bao gồm quá khứ, hiện tại và tương lai, trong Phật giáo gọi là tam thiên thế giới gồm trang nghiêm đại kiếp (quá khứ), hiền đại kiếp (hiện tại) và tinh tú đại kiếp (tương lai) . Triết lý này được biểu hiện qua bộ tượng Tam thế phật và việc bố trí tượng thờ theo hàng dọc gồm tượng Di Đà tam tôn (quá khứ), Thích ca niệm hoa còn gọi là Hoa nghiêm tam thánh (Hiện tại) và Di lặc (thể hiện tương lai). Tiếp đó là những bức tượng thể hiện sự tích Đức Phật, như tượng Tuyết Sơn khổ hạnh (khi đức Thích Ca tu luyện khổ hạnh trên núi Tuyết), tượng Thích ca nhập Niết Bàn hay đản sanh. Trong khi chùa nào cũng có tượng đức phật đản sanh thì nhiều chùa không bày tượng Phật nhập Niết Bàn va tượng Di lặc do quan niệm hiện nay là thời hiện tại, chưa đến tương lai.
Một đặc điểm nổi trội của người Việt là tín ngưỡng đa thần và “vô tôn giáo”, họ đã đưa nhiều thần linh khác vào thờ trong chùa tạo nên các dạng chùa tiền thần hậu phật. Ví dụ chùa Thầy Hà Tây thờ đức Từ Đạo Hạnh, chùa Keo Thái Bình thờ thần Nguyễn Minh Không…Nhiều chùa do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa còn thờ cả tượng Quan Công, Châu Xương…

user posted image

H1. Cách bài trí tượng thường gặp trong ngôi chùa nội công ngoại quốc

user posted image

H2. Cách bài trí tượng thường gặp trong ngôi chùa chữ Đinh

user posted image

H3. Cách bài trí tượng thường gặp trong ngôi chùa chữ Công

2. Miền Trung 

Việc thờ Tổ trong các chùa miền Trung trở nên quan trọng hơn, thường bàn thờ sư tổ được đặt ngay sau bàn thờ Phật tạo thành cách thờ Tiền phật hậu tổ (đề cao thờ cúng tổ tiên - sư tổ trụ trì chùa, nói lên vị thế quan trọng của con người trong việc mở mang Phật giáo ở Trung Bộ ). Ví dụ như chùa Quốc Ân (Huế), chùa Từ Hiếu ( Huế), chùa Chúc Thánh ( Hội An) đều có dạng chánh điện (hay còn gọi là đại hùng bảo điện) phía trước thờ Phật, phía sau ngăn ra thành gian thờ Tổ hoặc các tăng chúng quá cố.
Nói chung, việc bài trí tượng thờ tại các chùa miền Trung không thống nhất. Nhưng thông thường các chùa thờ tượng Di Lặc ( tương lai tươi sáng hơn), thờ Quan Âm (cứu khổ cứu nạn cho con người), Ðịa Tạng bồ tát (chống lại thiên tai ác nghiệt tại vùng đất này). Các chùa ở Thuận Hoá thường bị ảnh hưởng đậm nét của phong cách Trung Hoa trong việc tạo tác tượng Phật cùng như bài trí Phật điện, nên nhiều chùa không thờ bộ Tam thế mà chỉ thờ Di đà tam tôn ( tam thánh Tây Phương) hoặc thờ độc tôn đức Thích ca (chùa Từ Ðàm). Một số trường hợp đặc biệt khác như chùa có ban thờ Quan Thánh (chùa Quốc Ân), chùa không có ban thờ Tổ như chùa Thánh Duyên - Huế.
Cùng với hệ thống tượng Phật, các tượng thuộc các tôn giáo khác cũng có phần thay đổi. Trong các chùa Huế ta không thấy tượng Bát Bộ Kim Cương hoặc Mẫu liễu hạnh, thay vào đó là thờ Thiên Yana và Tiêu diện. Xu hướng tạc tượng thờ các ông hoàng bà chúa, quan lại nhà Nguyễn đã có công đóng góp xây dựng cho nhà chùa và các vị khai canh khai khẩn tương đối phổ biến ở đây.
Ví dụ ta có thể thấy cách bố trí tượng thờ của chùa Thập Tháp Di đà tại Bình Ðịnh như sau: khu chính điện thờ Tam thế Phật và tượng Phật Quan âm, nhà Phương trượng phía sau thờ sư tổ, khu đông đường và tây đường có nơi thờ phụng sư Nguyên Thiều, các sư trị trì khác và Phật tử.

user posted image

Chùa Thuyền Tôn , Huế

3. Miền Nam 

Chùa Nam Bộ phổ biến việc thờ Tổ ngay trong không gian thờ Phật. Ví dụ chùa Giác Hải (1890), chùa Giác Lâm tại thành phố Hồ Chí Minh. Các vị sư tổ có công hoằng dương Phật Pháp. Thờ tượng Ðạo Lão cũng gặp ở một số chùa, ví dụ thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Ðẩu ở chùa Sắc Tứ Từ Ân . Miếu thờ Linh Sơn Thánh Mẫu trong khuôn viên chùa Giác Lâm là một minh chứng cho sự cộng sinh của tôn giáo và tín ngưỡng.
Chùa Miền Nam tôn thờ Ðức Thích Ca hoặc Adi Ðà làm chủ đạo. Ví dụ chùa Vĩnh Tràng, Tây An thờ Phật A Di Ðà , có thể lý giải việc ít tượng thờ tại Nam Bộ như sau: Phật giáo Tịnh Ðộ Tông tôn thờ Ðức A Di Ðà làm giáo chủ với cách tu Phật dễ nhất, chỉ cần niệm nhiều lần tên A Di Ðà Phật là có thể tu Phật và thành Phật. Do đó, với con người Nam Bộ lao động lo cho hiện thực cuộc sống thì đây là cách hiệu quả nhất để theo Phật. Còn một số ngôi chùa chỉ tôn đức Thích Ca trên Phật điện có thể là do ảnh hưởng của Phật giáo Tiểu Thừa , chỉ tôn thờ một mình đức Thích Ca. Những ngôi chùa Nam Bộ là những không gian phong phú gây lên ấn tượng thiêng liêng về Phật cứu độ chúng sinh, về luân hồi chuyển kiếp, về ở hiền gặp lành.

user posted image

Ví dụ bố trí tượng thờ trong chính điện chùa Sắc Tứ Linh thứu- Tiền Giang

TLTK
Nguyễn Quảng Tuân-Huỳnh Lứa-Trần Hồng Liên. Những ngôi chùa ở Nam bộ. NXB TPHCM 1994.
Nguyễn Ðăng Duy. Phật giáo với văn hoá Việt Nam. NXB Hà Nội 1999.

nhànhlantím - October 11, 2004 08:25 AM (GMT)
Tượng thờ trong không gian kiến trúc Phật giáo Việt Nam.

Hệ thống tượng Phật (Phật là danh hiệu cho những ai đã thoát ly được sinh tử)

Bộ tam thế Phật : Tượng biểu trưng cho tất cả các chư Phật ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Ba pho tượng bằng nhau, hình dáng như nhau, thường được tạo tác mang những quý tướng như gồ thịt ở đỉnh đầu, tóc xoắn ốc, ngực có chữ vạn.

user posted image









Phật A Di Ðà : ( vô lượng quang Phật, vô lượng thọ Phật) Ðức Phật A Di Ðà là giáo chủ ở cõi Tây phương cực lạc, chủ trong việc tế độ chúng sinh.Tượng Ðức Phật A Di Đà cũng như tượng Phật nói chung mặt tròn, cằm vuông vức, đôi tai dài, ôm lấy mặt, đôi mắt khép thanh thản. Thường thấy trong tư thế toạ thiền hoặc thuyết pháp.















user posted image

Thích Ca mầu ni Phật : Tượng thờ Đức Thích Ca thường có hai vị đệ tử của ngài là Anan và Cadiếp hai bên (còn gọi là bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh). Tượng này mô tả lúc đức Thích ca đã thành Phật, thường được tạc theo kiểu ngồi cầm hoa sen đưa lên, toạ thiền hoặc đang thuyết pháp.

HÌNH ẢNH TUYỆT ĐẸP CHỌN LỌC VỀ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (the most beautiful images of Namo Sakya Muni Buddha)

Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket



user posted image
TƯƠNG 3 VỊ TÂY PHƯƠNG TAM THÁNH

Đông Phương Tam Thánh


Thích ca cửu long : Bức tượng mô tả đức Phật Thích ca đản sinh. Thường gặp dạng tượng đứa trẻ ở giữa, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, có 9 con rồng hiện ra phun nước cho Ngài tắm.

user posted image



Tượng Tuyết Sơn : Bức tượng mô tả lúc đức Phật Thích Ca tu khổ hạnh trên núi tuyết 6 năm mà không tìm ra chân lý. Tượng được tạc mang hình dáng gầy gò, da bọc xương.










user posted image


18 vị A la hán: Chùa Việt Nam thờ 18 vị A La Hán giống Trung Quốc và Tây Tạng, là những bậc tu đến không sinh không tử, đã loại bỏ được những phiền não cho mình. Các tượng A La Hán được tạc nhiều kiểu, nhiều dáng khác nhau, trông sống động, kích thước tương tự như người thực.1. La Hán Ba Tiêu
2. La Hán Bố Đại
3. La Hán Cử Bát
4. La Hán Hàng Long
5. La Hán Khai Tâm
6. La Hán Kháng Môn
7. La Hán Khánh Hỷ
8. La Hán Khoái Nhĩ
9. La Hán Kỵ Tượng
10. La Hán Phục Hổ
11. La Hán Quá Giang
12. La Hán Thác Tháp
13. La Hán Thám Thủ
14. La Hán Tiếu Sư
15. La Hán Tĩnh Tọa
16. La Hán Tọa Lộc
17. La Hán Trầm Tư
18. La Hán Trường Mi

1. La Hán Ba Tiêu
Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu.
Có lần, đức Phật hàng phục con yêu long trong một cái đầm sâu. Cảm phục ân đức của Phật, yêu long xin Ngài lưu lại chỗ của mình để được gần gũi cúng dường. Phật dạy Ngài không thể ở một nơi lâu, nên cử năm vị Đại A-la-hán đến, đó là các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân-kiệt-đà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư. Khi tôn giả Phạt-na-bà-tư đến tiếp nhận lễ vật cúng dường, Ngài thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc ngồi cả nửa tháng.
Theo lời phó chúc của đức Phật, Tôn giả lưu tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn giả hóa làm con thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng đang lấy bùn đất nặn tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây tháp thờ Phật tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa hiện. Từ đó, vua trở nên bậc đại quân vương hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng hộ cúng dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại thủ đô Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này đều nhờ thâm ân giáo hóa của tôn giả Phạt-na-bà-tư.
Theo Pháp Trụ Ký, tôn giả Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười bốn, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.
2. La Hán Bố Đại

photo
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người, Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.
Nhân có một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di-lặc, nhưng chưa được thấy diện mạo Bồ-tát nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành khấn nguyện, cung thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì có một vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di-lặc. Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả thảy ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn tại thủ đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn giả.
La-hán là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại, các Ngài du hóa nhân gian dưới mọi hình thức. La-hán Bố Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện thân của Bồ-tát Di-lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên hệ.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.
3. La Hán Cử Bát

Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja). Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.
Quốc vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn giả Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do phép thần biến của Tôn giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
Ngài Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại Phật, thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường. Khi mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa thượng từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua hỏi lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui mừng thỉnh hai Tôn giả chứng minh trai phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói:
- Này các vị, 16 La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật tử chí thành đời sau.
Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát.
Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ ba, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.
4. La Hán Hàng Long
photo
Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.
Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của Ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”. Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống như mưa, mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường.
Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất định Ngài ôm bát xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó Ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng Ngài vĩnh viễn không rời thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.
* Dị bản: Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.
5. La Hán Khai Tâm
photo
Hình tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y làm đệ tử.
Sau khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh, Ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ nói:
- Nếu Phật pháp là chân lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở đây.
Nói xong, Ngài cắm cây sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc lên một rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là Trượng Lâm. Quần chúng Phật tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng, tôn giả Thú-bác-ca liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng, một lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân chúng vùng này mãi nhớ ơn đức của Tôn giả.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ  chín, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương Túy.
6. La Hán Kháng Môn
Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
Một hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả Bán-thác-ca không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tinh xá xem có sót người nào. Tôn giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa thượng đang tọa thiền rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là trò đùa của em mình, Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán công phu của Châu-lợi-bàn-đặc.
Theo truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối rối! Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì Trục.
7. La Hán Khánh Hỷ
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau.
Ngài thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương lai bị quả khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấây một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp.
Bằng cách giảng dạy chân thật, Tôn giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân sinh.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).
8. La Hán Khoái Nhĩ
photo
Ngài tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận. Đương thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của tôn giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.
Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.
9. La Hán Kỵ Tượng
Tên của Ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp.
Phật đến Tích Lan thuyết kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong số đệ tử đi theo. Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi, nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào hang núi, Tôn giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi để hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người, mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh tích rầm rộ không ngớt.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).
10. La Hán Phục Hổ
photo
Tên của Ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các Ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ thấy.
Một hôm trong khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử động, vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt, Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.
Thành một A-la-hán thần thông tự tại, Ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một con hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng Ngài người ta vẽ thêm một con hổ, Ngài thành danh La-hán Phục Hổ.
La-hán Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập Lục La-hán, để trở thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.
11. La Hán Quá Giang
photo
Tên của Ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.
Theo truyền thuyết, Tôn giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và như vậy rất mất thời gian đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi người thọ trai, Ngài lại đi tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều buổi tối, Ngài lén đi tắm khi mọi người đang tọa thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng thức dậy đi tắm, có khi một đêm tắm năm, sáu lần! Việc này đến tai đức Phật. Thế Tôn kêu Tôn giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân phiền não để cả thân tâm đều thanh tịnh.
Tiếp nhận lời Phật dạy, Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa là một pháp tu hữu dụng thiết thực mà Tôn giả thường khuyên dạy mọi người. Các tự viện Trung Hoa thường thờ hình tượng Ngài trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản tỉnh tư duy.
Tôn giả cũng thường dong thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta… nên được mang tên La-hán Quá Giang.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ sáu, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại Đam-một-la-châu.
12. La Hán Thác Tháp
photo
Tên của Ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda). Thường ngày, Ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn giả ít khi đi theo đức Phật ra ngoài, Ngài chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người phê bình cách nói chuyện của Ngài không hay, đức Phật biết được an ủi: “Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng thành tựu sự giải thoát”.
Đúng thật là Tôn giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm.
Đương thời vua nước Án-đạt-la muốn xây dựng một tinh xá u tịch tại núi Hắc Phong, nhưng tìm không ra những tảng đá lớn. Tôn giả chỉ cần vận thần thông trong một đêm, mang đến vô số đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại muốn tạo một pho tượng thật lớn bằng vàng tôn trí trong tinh xá nhưng kho lẫm quốc gia không đủ cung ứng. Tôn giả chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng đều biến thành vàng. Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy vàng đúc tượng để nhân dân chiêm lễ.
Năm trăm năm sau Phật diệt độ, Tôn giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa. Hình tượng Ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế Ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.
13. La Hán Thám Thủ
Hình tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định. Ngài tên là Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka), Trung Hoa dịch: Đại lộ biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ.
Bán-thác-ca lớn lên là một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi nghe Phật thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập Tăng đoàn, trở thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nhớ đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, Ngài trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc, thời gian đầu thấy em mình quá dốt nên Ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng là vì tình thương và trách nhiệm nên Tôn giả đối xử như thế, hoàn toàn không phải giận ghét.
Về sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả Bán-thác-ca là người mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán thán ngợi khen. Đức Phật dạy: “Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian để hoằng dương Phật pháp”.
Hai tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười, Ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
14. La Hán Tiếu Sư
photo
Tên của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quýt bên Ngài, do đó Ngài được biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.
Về phía Bắc tinh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành được nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập tức nước đầy trở lại. Tôn giả bảo mọi người rằng:
- Nước ao cạn khô vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi bảo đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô.
Mọi người nghe Tôn giả nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của Tôn giả nên phát khởi lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.
Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân gian để xiển dương pháp Phật.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán? trụ ở châu Bát-thích-noa.
15. La Hán Tĩnh Tọa
photo
Tên của Ngài là Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết, Ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa.
Đương thời của Tôn giả, có ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao, từng biện bác với hy vọng chinh phục Tôn giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với niềm tin chân chánh, Tôn giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được định lực không thối chuyển. Pháp tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời, không thể an trú vĩnh viễn trong pháp giải thoát, khi gặp cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ bị hủy hoại.
Sau này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi vào địa ngục. Tôn giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:
- Đó chính là pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của con người chưa được diệt trừ hết.
Vua nghe Tôn giả giải thích mới hiểu được Phật pháp chân chánh đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Tôn giả.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La-hán thứ năm, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.
16. La Hán Tọa Lộc
Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja), xuất thân dòng Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập, sau khi chứng Thánh quả cỡi hươu về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng danh hiệu La-hán Cỡi Hươu.
Nhân một hôm Tôn giả dùng thần thông lấy cái bát quý treo trên cây trụ cao của một trưởng giả, bị Phật quở trách việc biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ nhận mục đích tu học Phật pháp. Phật dạy Tôn giả phải vĩnh viễn lưu lại nhân gian để làm phước điền cho chúng sanh, vì thế trong các pháp hội Tôn giả thường làm bậc ứng cúng. Một lần ở thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có một Hòa thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày dài bạc trắng bay đến ngồi vào chỗ dành cho khách quý mà ăn uống vui vẻ. Ăn xong Ngài tuyên bố Ngài là Tân-đầu-lô. Dưới thời vua A-dục và vua Lương Võ Đế, Ngài đích thân hiện đến giáo hóa, làm tăng trưởng lòng tin. Thời Đông Tấn ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh điển thường lo buồn vì sợ chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện xin chư Hiền Thánh hiển lộ thần tích để chứng minh. Tối hôm đó Ngài nằm mộng thấy một vị Hòa thượng lông mày trắng nói:
- Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những kinh điển ông dịch đều rất chính xác.
Tôn giả Tân-đầu-lô là một vị La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
17. La Hán Trầm Tư

photo
Ngài chính là La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm ở, Ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn đồ ném đá trúng đầu chảy máu, Ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín chủ cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem cúng người khác, Ngài cũng bình thản? dọn ra khỏi phòng.
Sau khi chứng quả A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là Mật hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tánh lặng lẽ, Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.
Sau Phật diệt độ, vua nước Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng, số người xuất gia giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào thành khất thực, nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới gặp một gia đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa thượng hớp xong miếng cháo thở dài, thí chủ hỏi thăm thì được Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại thế, Ngài cũng từng theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa thượng tiết lộ thân thế mình chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng dương Phật pháp.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị la-hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù châu.
18. La Hán Trường Mi

photo
Tên của Ngài là A-thị-đa 阿氏多 (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán.
Ngài cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian. Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời danh y trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại vương chớ lo, bệnh của Thái tử không cần uống thuốc cũng khỏi.” Khi gặp tôn giả A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng Thái tử hết bệnh. Điều này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh ở nước này.
Đã hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa còn đang trị bệnh cho người hay tọa thiền trên núi.
Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu Sơn.


user posted image

user posted image

user posted image


Tượng Bồ tát : Bồ tát thường hiện diện ở các không gian khác nhau để hoá độ chúng sinh và hành luyện nhằm đạt được Phật quả.

Di Lặc Bồ Tát Ðức Di Lặc sẽ thay thế đức Phật Thích ca ở thế giới Sabà (thế giới loài người sinh sống), đức Di Lặc tuy chưa thành Phật nhưng lấy lòng từ bi mà phổ độ chúng sinh nên mọi người đều gọi ngài là Phật. Ðức Di Lặc được mô tả như một cụ già phúc hậu, to béo đang cười ngửa lưng về phía sau có vẻ không lo buồn gì cả. Ðức Di Lặc hợp với Pháp hoa lâm bồ tát và Ðại diệu tướng Bồ tát thành bộ Di Lặc tam tôn.Di Lặc Bồ Tát

user posted image

user posted image

Văn Thù Bồ Tát : Ngài là vị Bồ tát hiểu rõ Phật tính và đủ ba đức là Pháp thân, bát nhã và giải thoát. Ngài biểu hiện cho sự anh minh về trí tuệ, tượng thờ ngài thường có dạng 5 búi tóc biểu thị cho 5 trí của nhà Phật, cưỡi trên sư tử xanh biểu thị sức mạnh của trí tuệ, tay cầm thanh gươm biểu thị cho 5 lợi hại của trí tuệ.

user posted image

Phổ hiền Bồ Tát : Ngài là vị Bồ tát chủ về chân lý, về thiền định và tu hành của các vị Phật, ngài có những chân lý trị được những vô minh.Tượng ngài thường hay tạc tay cầm hoa sen, sắc mặt trắng, thanh kiếm sáng biểu thị cho chân lý sắc bén, trong sáng. Tượng thờ Ngài thường ngồi trên con voi trắng, biểu thị cho chân lý trong sáng, chắc chắn.

user posted image

Ðại thế chí Bồ Tát 0 :Vị này cùng Quan thế âm giúp Phật A Di Đà để tế độ chúng sinh. Tượng Đức Ðại Thế chí thường được đặt ở bên tay trái của Ðức Phật A Di Đà trong bộ Di đà tam tôn. Dáng vẻ mang phong cách người phụ nữ, tay thường được tạc cầm quyển kinh biểu lộ cho sự thông tuệ.

user posted image

Quán thế âm Bồ tát Là bậc Ðại Bồ Tát có lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Tượng thờ có nhiều dạng hình hài khác nhau , ví dụ Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Chuẩn Đề Quan Âm, Phật Bà Quan Âm, Quan Âm Tống Tử (Quan Âm Thị Kính).

Quan Âm Nam HảiĐối với các dân tộc Á châu, không ai là chưa từng nghe đến đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Chẳng những thế, truyền thuyết về ngài còn được nhân gian thêu dệt vào những huyền thoại làm tăng vẻ huyền nhiệm, trong đó có sự hiện thân của Bồ Tát Quán Âm Nam Hải.

Theo huyền sử Tàu thì Diệu Thiện là con gái thứ ba của vua Diệu Trang, một tiểu quốc cận biên Ấn Độ; Không vâng lời vua theo gương hai người chị là Diệu Âm và Diệu Thanh lập gia thất mà muốn xuất gia quy Phật; sau nhiều lần cản ngăn và trừng phạt không thành, vua thuận cho Diệu Thiện vào chùa, nhưng mật cho các sư ni hành hạ cho Diệu Thiện nản chí mà quay về. Ni trưởng chùa Bạch Tước báo cáo về triều là công chúa Diệu Thiện vẫn cam chịu được mọi khó nhọc, một lòng quyết chú tu hành, nổi giận, vua sai đốt chùa, bắt công chúa về lại triều rồi xử trảm. Nhiều hình phạt đều bất thành vì được Ngọc Đế sai Thần hoàng bổn cảnh hóa thân cọp cỏng nàng chạy để bảo vệ nàng. Trong lúc hồn liền khỏi xác, được Diêm vương đưa nàng đi thăm các cửa ngục hành hình tội nhân. Do uy lực của Diệu Thiện mà các tội nhân được siêu thoát; Diêm vương được lệnh nghinh tiển hồn Diệu Thiện trở lại dương thế. Tỉnh lại, Diệu Thiện hoang mang không biết đi về đâu, thì được đức Phật khuyên  hãy đến núi Phổ Đà ở cù lao Hương đảo  Nam Hải tiếp tục tu luyện. Sau 9 năm, Ngài đắc đạo, từ đó được hồng danh là Quan Âm Nam Hải.
Như vậy Nam Hải là biển phía Nam của Tàu, là phía Đông hoặc Đông Bắc của Việt Nam. Quan Âm Nam Hải như thế, đối với người Việt cũng có thể gọi là Quan Âm Đông hải ?
Từ câu chuyện trên, sang Việt Nam được địa phương hóa như sau: Ngài vẫn là con thứ ba của vua Diệu Trang nước Hưng Lâm, vẫn bị hành hình khổ nhục như câu chuyện trên, nhưng khi đi tu thì vào chùa Hương Tích Việt Nam chứ không phải núi Phổ Đà bên Trung quốc. Đặc biệt là Quan Âm đến Tàu hay Việt Nam đều biến thành thân nữ, mặc dù Đức Bồ Tát Quán Thế Âm vốn là thân nam.
Từ đây, Đức Quán Âm tu ở Việt Nam nên gọi là Quan Âm Nam Hải. Thực ra đây không phải là vấn đề để tranh cải về Nam hải hay Đông hải, mà là vấn đề hạnh nguyện của Ngài đã cứu vớt bao chúng sanh lâm nạn kêu cứu đến ngài. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn nói:
Bấy giờ trong Pháp Hội, Bồ Tát Vô Tận Ý, Từ tòa ngồi đứng dậy Chắp tay nhìn Đức Phật Mà cung kính bạch rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn Bồ Tát Quán Thế Âm ,vì bởi nhân duyên gì tên là Quán Thế Âm?
Đức Phật liền chỉ bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: Này các Thiện Nam Tử! Nếu có vô lượng trăm, nghìn, muôn, ức chúng sanh phải chịu mọi khổ não mà được nghe danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm liền dốc lòng niệm tên Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì Ngài Quán xét giọng tiếng của người ấy liền được khỏi khổ não. Nếu được trì tên hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm dù vào trong lửa lớn lửa không thể cháy được là nhờ sức uy thần của Bồ Tát Quan Âm. Nếu bị nước lớn trôi mà niệm tên Bồ Tát liền được vào chỗ cạn. Nếu lại có chúng sinh hàng trăm nghìn muôn ức vì tìm cầu vàng bạc ngọc mã não, trân châu San hô cùng hổ phách và các thứ ngọc báu, phải vào trong bể lớn. Giả sử bị mây mù gió dữ thổi thuyền bè giạt vào nước La Sát. Ở trong đám người đó dù chỉ có một người dốc lòng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm những người trong thuyền ấy đều liền được giải thoát…
Bấy giờ đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý nếu có các chúng sanh ở trong các cõi nước phải dùng thân chư Phật mới độ được người ấy  Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện ra thân Phật…
Này Ông Vô Tận Ý Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu các công đức đầy đủ là như thế Ngài dùng mọi thân hình dạo đi khắp các nước để độ thoát chúng sanh
Bồ Tát Quán Âm đối với các chúng sanh Ở trong chốn tai nạn nguy cấp và sợ hãi Ngài đều hay ban cho những điều không lo sợ, cho nên cõi Ta Bà mọi người đều gọi Ngài Là bậc Thí Vô Úy…
Do hạnh nguyện đó mà những thương nhân Ấn ngày xưa thường thờ ngài trong các thương thyền, nạn nhân tù tội, những nạn nhân biển cả, các nạn nhân trên bờ, hay dưới nước đều thành tâm khẩn cầu và tôn kính thờ phượng Ngài. Chính vì nguyên nhân nầy mà các quốc gia châu Á đều tôn kính tạo tượng thờ phượng trong chùa hoặc ngoài sân. Không một ngôi chùa người Việt nào mà không có bóng dáng đức Quán thế Âm với bạch y , tay cầm nhành dương và bình cam lồ, mắt nhìn xuống dương thế với khuôn diện nhân ái và tấm lòng thanh thoát.
Người Phật tử mỗi khi quỳ trước tôn tượng như cảm thấy được che chở. Tại Việt Nam hiện nay, hầu hết các chùa , mỗi ngày đều có nhiều thành phần xã hội thành kính thắp nhang lễ bái trước Bồ Tát mỗi sáng  và tối. Chùa Xá Lợi đường Bà Huyện Thanh Quan,  công nhân viên chức, nam cũng như nữ, mỗi sáng trước khi đi làm đều tạt vào lễ Ngài; Đức tin vào Bồ Tát đã ăn sâu vào máu huyết dân tộc; Đi đâu, dù lên rừng xuống biển, dù tha phương lập nghiệp, người Phật tử đều tôn tạo thánh tượng ngài để thờ phụng.
Chính vì lòng khẩn thiết đó mà hạnh nguyện lắng nghe lời cầu cứu của chúng sanh, được Ngài luôn chiếu cố. Quán thế Âm là dụng tướng, nhưng Quán Âm còn có nghĩa của diệu tánh trong mỗi hành giả biết lắng nghe tiếng nói phàm tục của mình mà tìm cách hóa giải để thăng hoa, đó là công hạnh của một hành giả Quán âm.


Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn thường có nhiều đầu, mắt và tay, tượng Quan Âm Chuẩn Đề thì có ba mắt, mười tám tay và mặc áo sắc trắng. Tượng Phật Bà Quan âm thường có hình tượng một người phụ nữ đẹp đứng hoặc ngồi trên toà sen, tay cầm lọ nước cam lộ và cành dương liễu










Đây là tượng Phật Quan Âm ở Hàn Quốc, mình đã sử dụng tiếng Hàn để tìm. Và đây là tượng Phật Quan Âm ở Thái Lan, giống Phật bà nguyên thuỷ ở Ấn Độ. 


còn tượng Quan Âm Thị Kính thường ôm đứa trẻ trên tay


. Nói chung , tượng Quan âm Việt Nam đều mang phong cách nữ.Quan Âm (zh. 觀音, ja. kannon), nguyên là Quán Thế Âm nhưng do tránh chữ Thế trong tên nhà vua Đường  Lý Thế Dân nên gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát Quán Thế Âm (zh. 觀世音, sa. avalokiteśvara) tại Trung Quốc, Việt Nam và các nước lân cận. Phật tử Trung Quốc thường thờ cúng Quan Âm bên cạnh các vị Bồ Tát Phổ Hiền (zh. 普賢, sa. samantabhadra), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha) và Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī). Đó là bốn vị Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.
Quan Âm hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm cũng hay được nhắc tới bên cạnh Phật A-di-đà (sa. amitābha) và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm 25 với tên Phổ môn, các công hạnh của Bồ Tát trình bày rõ ràng và tán thán. Tại Trung Quốc và Việt Nam, Quan Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.
Trong thần thoại, văn học bác học (như tác phẩm Tây Du Ký của Trung Quốc), văn học dân gian, hay trong kinh sách nhà Phật (ví dụ phẩm Phổ môn), thì Quán Thế Âm Bồ Tát được xem là vị Bố Tát có thần lực nhất, chỉ sau Phật Tổ. Điều này có thể là do Quán Âm là vị Bồ Tát cứu độ chúng sanh và là Bồ Tát đặc trưng cho tinh thần của Phật giáo Đại thừa - giác tha, có nghĩa là cứu vớt và giác ngộ người khác - cho nên có thể Phật giáo Đại thừa đã nâng ngài lên tầm quan trọng như vậy, khác biệt với Phật giáo Tiểu thừa. Điều này càng làm tăng lòng sùng kính của người theo đạo Phật đối với Quán Âm. Trong mọi ngôi chùa, thường thì chính giữa là tượng đức Phật Tổ, hai bên là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, tuy nhiên ở ngoài khuôn viên chùa hầu hết đều có tượng đức Phật Tổ hay Quán Thế Âm mà không thấy hoặc ít thấy hơn tượng của các vị Phật hay Bồ Tát khác.
Tranh tượng thường trình bày Quan Âm dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng phổ biến nhất là dạng một vị Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt. Có khi Quan Âm ẵm trên tay một đứa bé, có khi một đồng tử theo hầu. Người ta cũng hay vẽ Quan Âm hiện trong mây, hoặc cưỡi rồng trên thác nước. Hình ảnh Quan Âm đứng trên một hải đảo cứu người bị nạn cũng phổ biến, biển cả tượng trưng cho Luân hồi. Tay Quan Âm thường cầm hoa hoa sen hay bình nước Cam lồ.
Danh xưng Quán Thế Âm là xuất phát từ một truyền thuyết của Phật giáo, tin rằng những người tu hành đạt tới chính quả, thì ngũ giác của họ có thể dùng chung được. Nghĩa là họ có thể dùng tai để "nhìn" thấy hình ảnh, dùng mắt để "nghe" thấy âm thanh, lưỡi có thể ngửi được v.v. Theo lòng tin này, thì danh xưng Quán Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là: vị Bồ Tát luôn "nhìn thấy" tiếng ai oán, đau khổ trong bến mê của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp hay nói pháp khi cần.
Theo quan niệm Trung Quốc, Quan Âm ngự tại Phổ-đà Sơn, miền Đông Trung Quốc, đó là một trong Tứ đại danh sơn, là bốn trú xứ của bốn Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.

user posted image

user posted image

Ðịa tạng Bồ tát : Là vị Bồ tát tính lặng, sâu xa mà kín đáo, ngài là Bồ tát đắc đạo nhưng vẫn ở lại địa ngục để cứu giúp chúng sinh ở đây. Có thể nói ngài là người cai quản, cứu độ chúng sinh ra khỏi địa ngục.Tượng Ðịa tạng Bồ tát thường có đầu tròn, một tay cầm bảo châu, một tay cầm gậy tích trượng. Có một số chùa tạc ngài ngồi xếp bằng tay cầm bảo châu.
Tôn giả Mục Kiền Liên
Mục Kiền Liên là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “phục lai căn,” còn dịch là “thái thúc thị”. Tên của Tôn giả là “Câu Luật Đà”, vốn là tên của một loại cây. Sự chào đời của Tôn giả cũng có một nhân duyên như Tôn giả Đại Ca Diếp vậy–Tôn giả Đại Ca Diếp là do cha mẹ cầu khẩn dưới cây mà sinh ra; thì Tôn giả Mục Kiền Liên cũng vậy, cũng do cha mẹ cầu tự dưới cây Câu Luật Đà mà sinh ra, cho nên lấy tên của cây nầy đặt tên cho con.

Mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên tuy cầu Thần linh, nhưng không tin Phật, không tin Pháp, không tin Tăng. Bà chẳng những không tin Tam bảo, lại còn hủy báng, phá hoại Tam bảo, nói nào là Tam bảo không tốt, nào là không đáng để tin theo…, cho nên sau khi chết, bà liền bị đọa vào địa ngục. Đợi đến sau khi Tôn giả Mục Liên chứng quả vị La Hán, đắc được lục thông, Tôn giả liền quan sát khắp các cõi giới để tìm mẹ; vừa nhìn đã thấy bà đã bị đọa vào địa ngục. Vì Tôn giả đã khai mở được Phật nhãn, Pháp nhãn, huệ nhãn, đắc được ngũ nhãn lục thông, nên nhìn thấy được mẹ mình đang chịu khổ nơi địa ngục, cơm cũng không có mà ăn; thế là Tôn giả liền đi xin một bát cơm để mang đến cho mẹ.

Vào đến địa ngục, Tôn giả dâng bát cơm cho mẹ. Bà mẹ của Tôn giả lúc còn sanh tiền vì tâm tham quá nặng nề, cho nên dù bị đọa làm ngạ quỷ nhưng vẫn không dứt bỏ được tâm tham. Bà một tay đỡ lấy bát, dùng vạt áo của tay kia che lại, rồi vội vàng chạy đến chỗ không có các ngạ quỷ, đem bát cơm ra len lén ăn một mình. Vì sao bà phải che bát cơm lại? Vì bà sợ các ngạ quỷ khác đến giành giật, nào ngờ cơm vừa đưa đến miệng thì liền hóa thành lửa. Đây là lý do gì? Đây là vì nghiệp chướng của bà quá nặng nề, nghiệp tội quá sâu dày, cho nên dù là thức ăn có ngon đến mấy, bà cũng không thể ăn được!

Tôn giả Mục Liên tuy là thần thông đệ nhất, nhưng bây giờ thì hết cách, không còn chú để niệm, không thể thi triển thần thông, không còn cách nào khác— đành đi tìm sư phụ thôi: “Những khả năng đệ tử học được, đến nơi đó đều trở nên vô dụng!” Thế là Tôn giả trở về tinh xá Kỳ Hoàn, tìm đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thưa rằng: “ Mẹ của con bị đọa vào địa ngục, con mang cơm đến cho mẹ, nhưng mẹ vừa bốc ăn thì cơm liền hóa thành lửa. Xin Phật hãy nói cho con biết nên làm thế nào? Đức Thế Tôn từ bi, xin hãy cứu mẹ của con!”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni liền đưa ra một phương cách giúp Tôn giả cứu mẹ, đó là cách gì? Phật bảo: “Vì mẹ của ông hủy báng Tam bảo, tội nghiệp quá nặng; bây giờ sức của một mình ông không thể nào giải cứu được đâu. Muốn cứu được mẹ ông thì vào ngày rằm tháng bảy, là ngày chư Phật hoan hỷ, cũng là lúc chư Tăng tự tứ, ông hãy thiết lễ Vu lan bồn, đây là lễ cúng “giải đảo huyền” (giải cứu cái khổ bị treo ngược). Trước tiên, ông hãy cúng dường mười phương Tăng; khi mười phương Tăng chưa thọ dụng những thức ăn này thì ông cũng chưa được dùng. Ông trước hết là phải cúng Phật, Pháp và Tăng, sau đó mới có thể thọ dụng những phẩm vật dâng cúng. Vào ngày này, ông thiết trai cúng dường Tam bảo thì mẹ của ông sẽ lìa khổ được vui!”

Thế là Tôn giả Mục Kiền Liên y theo phương cách này, thiết bày pháp hội Vu lan, lễ cúng Vu lan bồn. Cho nên mỗi năm đến ngày này, các chùa đều tổ chức pháp hội Vu lan bồn, siêu độ cho cha mẹ trong bảy đời quá khứ và cha mẹ hiện đời. Có người hỏi rằng: “Cha mẹ của tôi hiện còn tại thế, vậy tôi nên làm gì?” Cha mẹ hiện đời vẫn còn sống thì hãy siêu độ cho cha mẹ trong bảy đời đã qua; siêu độ cho cha mẹ trong quá khứ thì cha mẹ hiện đời cũng sẽ được tăng thêm phước báu, kéo dài tuổi thọ.

Thần thông của Tôn giả Mục Kiền Liên là đệ nhất, vô cùng quảng đại. Có một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp, trên đường đi, lúc băng qua núi Tu di, Đức Phật gặp một con rồng độc. Con rồng độc này ganh tỵ với Phật, nói rằng: “Sa môn như Ngài mà lại muốn lên trời thuyết pháp à, tôi không cho Ngài đi!” Rồng bèn phun cát độc từ trong miệng ra, muốn dùng nọc độc giết chết Đức Phật, nhưng Tôn giả Mục Kiền Liên đã dùng thần thông biến cát độc thành những bông gòn mềm nhuyễn, không còn tác dụng độc hại nữa.

Rồng độc liếc nhìn: “Thì ra vị sa môn này có thần thông, đã hóa giải hết cát độc của ta!” Thế là rồng độc liền hiện thành một thân to lớn, quấn quanh núi Tu di ba vòng; quý vị thấy có lợi hại không! Rốt cuộc là núi Tu di lớn bao nhiêu? Núi Tu di lớn không thể diễn tả được–bốn bộ châu lớn của chúng ta đều nằm ở bốn bên của núi Tu di. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mục Liên cũng hiện ra thân hình to lớn, lớn hơn cả thân của rồng độc–thân của rồng độc quấn núi Tu di được ba vòng, thì Tôn giả Mục Liên lại hiện ra một thân hình to lớn, quấn quanh núi đến chín vòng. Rồng độc vừa nhìn thấy: “A! Tôn giả lợi hại hơn tôi như thế!” Nhưng rồng độc vẫn chưa chịu thua.

Bấy giờ, Tôn giả Mục Liên lại biến thành một con trùng nhỏ, chui vào trong bụng của rồng độc cắn xé ruột của nó khiến nó vô cùng đau đớn. Rồng độc biết mình không có được thần thông quảng đại như vậy, nên liền quy y theo Phật! Bởi vậy nên nói thần thông của Tôn giả Mục Liên vô cùng quảng đại.

Tôn giả Mục Liên là vị nào? Chính là “Bồ tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương” mà bây giờ chúng ta thường gọi. Bồ tát Địa Tạng Vương vì nhìn thấy mẹ mình phải chịu khổ, Ngài không chỉ không nỡ nhìn cảnh mẹ mình chịu khổ, mà cũng không nỡ nhìn thấy mẹ của tất cả chúng sanh chịu khổ, cho nên Ngài phát nguyện làm Địa Tạng Vương đi vào địa ngục, trông coi tình hình ở địa ngục. Đây là nhân duyên của Tôn giả Mục Kiền Liên.
Tôn giả Mục Kiền Liên












Tượng các vị la hán, tôn giả, kim cương, thiên vương... : Các vị này thường hiện diện ở các không gian khác nhau để hoá độ chúng sinh và hành luyện nhằm đạt được Phật quả .
A-nan-đà (zh. 阿難陀, sa., pi. ānanda, bo. kun dga` bo ཀུན་དགའ་བོ་), cũng gọi ngắn là A-nan, dịch nghĩa là Khánh Hỉ (zh. 慶喜), Hoan Hỉ (zh. 歡喜).
pTượng A-nan-đà tại Pagan, Myanmar
1. Một trong Thập đại đệ tử của Phật Thích-ca Mâu-ni. Cùng họ với Phật, A-nan-đà gia nhập giáo hội hai năm sau ngày thành lập, trở thành người hầu cận của Đức Phật. Tôn giả nổi tiếng với trí nhớ phi thường về những lời Phật dạy. Tôn giả là người xây dựng cơ bản giáo pháp trong lầnkết tập thứ nhất và được xem là Nhị tổ của Thiền tông Ấn Độ.
Theo kinh sách, A-nan-đà được xem là người rất nhẫn nhục, hết lòng phụng sự đức Phật. Tôn giả chỉ chấp nhận làm người hầu cận cho Phật khi được Phật hứa rằng không vì thế mà được quan tâm hơn các vị khác. A-nan-đà cũng chính là người khám phá và trừ bỏ âm mưu giết Phật của Đề-bà-đạt-đa. Hơn ai hết, A-nan-đà bênh vực cho việc nữ giới được học hỏi giáo pháp. Nhờ sự can thiệp của Tôn giả mà Phật chấp nhận thành lập ni đoàn. Chính vì điều này mà trong lần Kết tập thứ nhất, A-nan-đà bị Tăng-già chê trách. Tương truyền rằng, sau khi Phật nhập Niết-bàn, A-nan-đà mới giác ngộ, đắc quả A-la-hán trong đêm trước lần kết tập thứ nhất.
2. Nếu định nghĩa theo Ấn Độ giáo (Hinduism) thì A-nan-đà không phải là tâm trạng khánh hỉ được tạo ra bởi một đối tượng mà hơn nữa, nó là một niềm vui của một trạng thái nằm trên mọi tư duy nhị nguyên, những cặp đối đãi. Hệ thống triết lí Vedānta quan niệm rằng, một tâm thức thoát khỏi suy nghĩ—nghĩa là tâm thức không còn vướng mắc những khái niệm như sinh, tử, khổ não, nói chung là mọi tư duy—chính là A-nan-đà, sự an vui thuần túy. Khi miêu tả, diễn giải những danh từ rất trừu tượng như "Brahman", hệ thống Vedānta sử dụng thành ngữ "Sat-Cit-Ānanda", nghĩa là "Chân lí—Nhận thức tuyệt đối—A-nan-đà" và A-nan-đà ở đây là sự an vui tuyệt đối, vô lượng mà hành giả chỉ có thể cảm nhận được trong lúc nhập Định (sa.samādhi). Trong các dòng tu theo truyền thống của Đại sư Śaṅkara thì A-nan-đà là chữ cuối của nhiều danh hiệu, ví dụ như Vivekānanda.
Tập tin:Ananda.gifKim Cương Thủ Bồ tát – Vajrapani
Vajrapāṇi (Phạn ngữ vajra là “tia sét” hay “kim cương” và pāṇi, là. “trong bàn tay”) là một trong những vị Bồ Tát đầu tiên của Phật giáo đại thừa. Ngài là người bảo vệ và hướng dẫn của nhà Phật, và tượng trưng cho quyền năng của chư Phật. Kim Cương Thủ được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm hội họa Phật giáo như là một trong ba vị bảo hộ xung quanh đức Phật. Mỗi biểu đượng đó là một đức hạnh của Phật: Văn Thù Sư Lợi (Manjushri – Biểu hiện trí tuệ của tất cả các vị Phật), Quán Thế Âm (Avalokiteshvara – Biểu hiện lòng từ bi của tất cả các vị Phật) và Kim Cương Thủ (Vajrapani – Biểu hiện sức mạnh của tất cả các vị Phật)
Theo mức độ phổ thông, Kim Cương Thủ, người giữ cây sét trượng (Biểu tượng cho sức mạnh của lòng từ bi), là vị Bồ Tát đại diện cho sức mạnh của tất cả các vị Phật giống như Quán Thế Âm Bồ Tát đại diện lòng từ bi vô lượng, Văn Thù Bồ Tát đại diện trí tuệ, và Tara những việc làm huyền diệu. Với các hành giả Du già, Kim Cương Thủ mang ý nghĩa hoàn thành sự quyết tâm sắt đá và và là biểu tượng cho sự hiệu quả không khoan nhượng trong khi thuần phục sự tiêu cực. Dáng vẻ cương mãnh của Ngài giống như một chiến binh thực thụ (pratayalidha), dựa trên tư thế của một cung thủ nhưng lại tương tự bộ vị en garde trong hàng rào phòng thủ phương Tây. Cánh tay phải vươn ra của ngài giương một cái chày kim cương và tay trái cầm một cái thọng lọng một cách khéo léo – mà ngài dùng để trói quỷ dữ. Ngài đội một cái vương miện đầu lâu với mái tóc dựng đứng từ chân tóc. Biểu hiện của ngài là phẫn nộ và ngài có ba mắt. Xung quanh cổ của ngài là vòng cổ hình rắn và thắt lưng ngài được làm bằng da hổ, đầu của nó có thể nhìn ở đầu gối bên phải của ngài
Kim Cương Thủ (Chana Dorje) màu xanh vương giả hay xanh thẫm, và , trong hình tướng an bình cầm cân đối vũ khí kim cương trên tay, hay trong hình tướng phẫn nộ, cầm một chầy kim cương như chuẩn bị ném nó. Trong một dạng phẫn nộ khác, ngài cũng cầm một cái thọng lọng hoặc cái gông. Trong vẻ rất phẫn nộ, ngài mọc cánh
Kim Cương thủ được kết hợp với Phật Thích Ca Mâu Ni và được đề cập, thường bởi một cái tên khác của ngài, như một người theo để phụ giúp Đức Phật bất cứ nơi nào ngài đến. Trong cuộc đời đức Phật, sự hiện diện của ngài được gọi bởi cụm từ Sự hùng mạnh của một con voi hoặc Mahasthamaprapta – Đại Thế Chí Bồ Tát (Tây tạng. Thehenthop – Khỏe như voi). Biệt hiệu này được sử dụng đặc biệt khi ngài đứng cạnh Vô Lượng Thọ Phật (Vô lượng thọ Phật là hóa thân của A Di Đà Phật) cung với Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong những bức ảnh, ngài thường được vẽ trên bên trái trong khi Quán Thế Âm Bồ Tát đứng bên phải của Phật A Di Đà, (Trong tiếng việt, Avalokiteshvara là Quán Thế Âm Bồ Tát hay Quan Âm, và Mahasthanaprapta được gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát)
Đại Thế Chí Bồ Tát đã là thành viên của hàng ngũ Tăng già ưu tú người đã ngăn hòn đá lăn nhắm vào Phật trong khi ngài đang giảng về Tính không ở Rajgriha. Ngài biểu hiện “những phương tiện thiện xảo” hay những kỹ thuật trí tuệ.
Kim Cương Thủ đại diện cho sự phẫn nộ chính nghĩa, một sự liên tưởng xuất phát từ một câu chuyện, khi một người cư xử xấc xược với Phât Thích Ca Mâu Ni, từ chối trả lời câu hỏi của anh ta, ngài ngay lập tức xuất hiện trên đầu và sẵn sàng thả một tia sét.
Điều đó đã nói lên rằng khi đức Như Lai khuất phục một con thiên long khổng lồ của Udyana, ngài đã giao Kim Cương Thủ bảo vệ những con rắn khác đã bị hang phục và quy y sau cuộc tấn công của loài thần điểu Garuda. Ngài cũng là kẻ thù của Atula/ma quái sở hữu thuốc độc bậc nhất halahala
Bên cạnh việc là vô địch trong Kim cương Phật bộ, tất cả sức mạnh của năm Phật nguyên thủy được hợp nhất vào trong ngài. Bởi vậy, ngài được triệu thỉnh để vượt qua nội chướng ngại bao gồm cả tâm bệnh, và trong thời điểm tràn ngập những tình huống khó khăn.
Trong sự kết hợp của Ngài với tu tập Mật thừa, ngài thỉnh thoảng được gọi là Ghuyapati hay Chúa tể của những bí mật.
Kim Cương Trì là một vị Bồ Tát Mật Tông – tên tiếng Phạn Vajradhara – hay Đức Phật nguyên thủy là tinh túy của Tam Thân, hóa thân của ba đời chư Phật. Vajradhara là biểu trưng Pháp Thân Phật, vì vậy cũng chính là biểu trưng sự chứng ngộ tuyệt đối. Trong Tạng Mật – Kim Cương trì xuất hiện trong hầu hết trong các tác phẩm điêu khắc và hội họa của Phật Giáo Tạng truyền với nhiều hình dáng và ứng thân khác nhau.Đức Phật Vajradhara là hóa thân chân thực của tinh túy vô thượng Phật quả. Hai tay Ngài bắt chéo trước ngực, tay phải cầm chày kim cương haykim cương chử (Phạt Chiết La - tượng trưng phương tiện), tay trái cầm chuông (Kim Cương Linh - tượng trưng trí tuệ). Vajradhara biểu trưng hữu không bất nhị cùng cứu kính bất nhị cũng chính là Đại Hợp nhất Mahamudra. Kim Cương Trì biểu thị trí lực kiên nghị của Bồ Tát ở Kim Cương bộ hàng phục ác ma. Kim Cương Chử cũng tượng trưng cho trí tuệ bền sắc như Kim Cương của Như Lai.Kim Cương Trì là Đức Phật nguyên thuỷ, Kim Cương Trì là nguồn mạch của mọi tantra trong truyền thuyết mới. Ngược lại – trong truyền thuyết cũ, Vajradhara tượng trưng cho nguyên lý của vị Thầy như bậc trì giữ giác ngộ của giáo lý Kim Cương Thừa.Trong Phật Giáo Mật thừa, Đức Phật Kim Cương Trì là vị thần tối cao của dòng truyền thừa Kagyu bởi vì yếu tổ của dòng là Đức Tilopa đón nhận trực tiếp giáo pháp Kim Cương Thừa từ Đức Kim Cương Trì, đức Báo thân Phật. Trong dòng Nyingma, Đức Kim Cương Trì được coi là bất khả phân với Đức Liên Hoa Sanh. Trong hiển thừa, ngài chính là vị cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã giúp Phật Thích Ca dạy dỗ các đại đệ tử và Bồ Tát 2500 năm trước.
Kim cương trì diễn tả sức mạnh vũ trụ tối cao xuất phát từ cõi giới Pháp thân, Vajradhara tượng trưng sức mạnh hợp nhất tối cao và long từ bi. Ở Kim Cương Trì – một vị thể hiện hết mọi hình tướng của Báo thân, mọi phẩm chất và công năng được thống nhất. Từ đó Vajradhara được diễn tả là sự thống nhất của mọi thuộc tính giác ngộ.
Phạm Thiên, Ðế Thích : Hai vị thiên vương làm chủ thế giới Sa bà ( Sắc giới và dục giới) và hộ trì Ðức Thích Ca khi Ngài chưa thành Phật. Vị trí tượng thường đặt hai bên tượng Thích ca cửu long. Tượng được tạc mặc đồ long bào, ngồi trên ngai như vị hoàng đế.ĐỨC PHẬT VÀ PHẠM THIÊN 
Toàn Không

1)- ĐẤU TRÍ VỚI PHẠM THIÊN:
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Bấy giờ có một Phạm Thiên Vương ở cõi Trời Phạm, nghĩ rằng: “Chỗ này là thường hữu, chỗ này là thường hằng, chỗ này trường tồn, chỗ này quan yếu, chỗ này là pháp không hoại diệt, chỗ này là xuất yếu, ngoài xuất yếu này không còn xuất yếu nào khác nữa, mà có bậc tối thắng, tối diệu, tối thượng”.
Lúc ấy, đức Phật bằng trí biết cùng khắp (Tha Tâm trí), biết rõ tâm niệm của Phạm Thiên kia đang nghĩ. Ngài liền nhập định biến (Như Kỳ Tượng Định), chỉ trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay, Ngài biến mất khỏi vườn Cấp Cô Độc, tới ngay chỗ vị Trời ấy tại cõi Trời Phạm. Phạm Thiên trông thấy đức Phật liền chào nói:
- Kính chào Đại Tiên Nhân, rồi Phạm Thiên nói những lời giống như đã nghĩ ở trên.
Đức Phật nói:
- Này Phạm Thiên, cái không thường Ông bảo là thường, cái không hằng Ông bảo là hằng, cái không trường tồn Ông bảo là tường tồn, cái không quan yếu Ông bảo là quan yếu; cái hoại diệt Ông bảo là không hoại diệt, cái không xuất yếu Ông bảo là xuất yếu. Ông còn bảo: ngoài xuất yếu này không còn xuất yếu nào khác, mà có bậc tối thắng,
tối diệu, tối thượng. Này Phạm Thiên, Ông có cái vô minh này, Ông đang chìm đắm trong vô minh này.
Lúc đó có Thiên Ma Ba Tuần nói:
- Này Sa Môn, chớ nên trái lời Phạm Thiên, chớ có chống đối Phạm Thiên; nếu Ông không nghe lời lại còn chống đối, cũng như người gặp hên may mà lại xua đuổi đi, lời Sa Môn nói ra cũng như vậy. Cho nên ta bảo Ông chớ trái lời, chớ chống đối Phạm Thiên; nếu Ông chống trái lời Phạm Thiên, Ông cũng như người từ núi cao rơi xuống vực sâu thẳm, tuy dang hai tay hai chân bám vào hư không, nhưng chẳng bám được gì. Lời Sa Môn nói ra cũng như vậy.
Này Sa Môn, ta bảo chớ chống trái lời Phạm Thiên, vì sao? Vì Phạm Thiên có phúc lớn (phước hựu), là bậc hóa sinh, là đấng tối tôn, tạo dựng tất cả, là Tổ phụ của tất cả chúng sanh đã sinh và sẽ sinh, tất cả đều do Ngài sanh ra; những gì Ngài thấy biết là trọn thấy biết.
Này Đại Tiên Nhân, nếu có Sa Môn, Phạm Chí nào ghê tởm hủy báng địa đại (đất), thì khi chết chắc chắn sinh làm Thần kỹ nhạc trong chốn hạ tiện nhất. Cũng thế, nếu ai ghê tởm, chống đối, hủy báng Phạm Thiên, sau khi qua đời chắc chắn sinh làm Thần kỹ nhạc trong chốn hạ tiện nhất.
Trái lại, này Đại Tiên Nhân, nếu có ai ưa thích tán thán Phạm Thiên, thì sau khi chết (mạng chung) chắc chắn sinh làm bậc tối thượng cõi Phạm Thiên; này Đại Tiên Nhân, Ông há không thấy đại quyến thuộc của Phạm Thiên như bọn tôi đang ngồi đây sao?
Lúc ấy, đức Phật nghĩ rằng: “Ma Ba Tuần này chẳng phải Phạm Thiên, cũng chẳng phải quyến thuộc Phạm Thiên, nhưng lại tự xưng là Phạm Thiên. Nếu bảo rằng có Thiên Ma Ba Tuần thì đây chính là Ma Ba Tuần”, biết rõ như vậy rồi, Ngài bảo:
- Này Ma Ba Tuần, Ông chẳng phải Phạm Thiên, cũng chẳng phải là quyến thuộc Phạm Thiên, nhưng lại tự xưng Phạm Thiên; nếu cho rằng có Ma Ba Tuần, thì chính Ông là Ma Ba Tuần.
Ma Ba Tuần liền nghĩ: “Thôi rồi, Sa Môn Cù Đàm đã biết ta, Như Lai đã biết ta”; biết như thế, Ma Ba Tuần rất đỗi buồn rầu, rồi vụt biến mất.
Bấy giờ vị Phạm Thiên Vương ấy nói lại lời nói trước đó, đức Phật cũng nói y như đã nói: là lời Phạm Thiên nói là sai là vô minh.
Nghe vậy, Phạm Thiên nói:
- Này Đại Tiên Nhân, thuở xưa có Sa Môn, Phạm Chí mạng sống rất lâu dài, còn Ông thọ mạng quá ngắn, Ông không biết sự ngồi yên trong khoảnh khắc của các vị Sa Môn, Phạm Chí kia, vì sao? Vì các vị ấy biết trọn vẹn, thấy trọn vẹn thật sự chỗ này không hoại, là nơi xuất yếu, ngoài chỗ này không còn chỗ nào khác tối yếu hơn, nơi đây có bậc tối thắng, tối diệu, tối thượng.
Này Đại Tiên Nhân, đối với chỗ xuất phát ra tất cả chúng sanh, Ông bảo là không phải; đối với chỗ không phải là chỗ xuất phát ra tất cả chúng sanh, Ông bảo là phải; như vậy, Ông sẽ không có xuất yếu và trở thành đại si, vì sẽ không bao giờ có cảnh giới ấy cho Ông.
Này Đại Tiên Nhân, nếu có Sa Môn, Phạm Chí nào ưa địa đại, tán thán địa đại, thì vị ấy tùy sự tự tại của ta, làm theo ý ta muốn, vâng theo lệnh ta sai. Cũng thế, bất kỳ ai, nếu ai ưa thích Phạm Thiên, tán thán Phạm Thiên, vị ấy tùy sự tự tại của ta, làm theo ý ta muốn, vâng theo lệnh ta sai. Ông nếu ưa thích địa đại, tán thán địa đại, thì Ông cũng tùy theo sự tự tại của ta, làm theo ý ta muốn, vâng theo lệnh ta sai.
Đức Phật bảo:
- Này Phạm Thiên, theo cái gọi là “Chân Đế” mà Ông vừa nói, nếu Ta theo đó mà ưa thích tán thán, thì những điều ấy vẫn như thế. Này Phạm Thiên, Ta biết rõ Ông từ đâu đến đây và sẽ đi đâu. Nếu có Phạm Thiên thì Phạm Thiên ấy có Thần thông biến hóa (đại như ý túc), có vô số công đức (đại oai đức), có phước vô số (đại phúc hựu), có uy nghi tự tại (đại oai thần).
Phạm Thiên nói:
- Này Đại Tiên Nhân, Ông làm sao biết được điều ta biết, làm sao thấy được điều ta thấy? Ta như mặt trời, tư tại soi sáng cả nghìn thế giới, Ông làm sao biết rõ được, Ông có được tự tại không, Ông có biết những nơi nào không có ngày đêm không và Ông đã có lần nào qua chốn đó chưa?
Đức Phật nói:
- Này Phạm Thiên, như mặt trời soi sáng khắp nơi, bao trùm cả ngàn thế giới, trong nghìn thế giới Ta được tự tại, và biết nơi không có ngày đêm, và đã qua lại rất nhiều lần.
Này Phạm Thiên, có ba cõi Trời là Quang Thiên, Tịnh Quang Thiên, và Biến Tịnh Quang Thiên; nếu ba loài Trời này có tri kiến gì thì Ta cũng có tri kiến ấy, nếu ba loài Trời này không có tri kiến khác, Ta vẫn có tri kiến khác ấy.
Này Phạm Thiên, Ông và quyến thuộc của Ông có tri kiến gì, Ta cũng có tri kiến đó, nếu Ông và quyến thuộc của Ông không có tri kiến khác, Ta vẫn có tri kiến khác ấy. Thế nên: Ông và quyến thuộc của Ông không thể bằng Ta về tất cả, đối với Ông và quyến thuộc của Ông, Ta là tối thắng, tối diệu, tối thượng.
Nghe vậy, Phạm Thiên nói:
- Này Đại Tiên Nhân, do đâu Ông dám nói như thế, Ông có phải là nói khoác lác không? Sau khi nói xong, không biết có tăng sự ngu si chăng, vì sao? Vì biết rõ vô lượng cảnh giới, nên có vô lượng tri kiến, vô lượng chủng loại phân biệt; trái lại, ta biết riêng rẽ từng cái: Là địa đại ta biết đó là địa đại. Với thủy đại, hỏa đại, phong đại, thần ngã, chư Thiên, v.v..., cũng giống như thế, là Phạm Thiên ta biết đó là Phạm Thiên.
Bấy giờ đức Phật bảo:
- Này Phạm Thiên, nếu có Sa Môn, Phạm Chí nào đối với địa đại nghĩ rằng: “Địa là ta, địa là của ta, ta là của địa đại” thì đã chấp địa đại là ta rồi, nên vị ấy không thực biết địa đại.
Ngược lại, nếu có Sa Môn, Phạm Chí nào đối với
địa đại nghĩ rằng: “Địa không phải là ta, địa không
phải là của ta, ta không phải là của địa đại”; nhờ
không chấp nhận địa là ta, nên vị ấy mới thực biết địa đại.
Đối với thủy đại (nước), phong đại (gió), hỏa đại (lửa), thần ngã (thức), chư Thiên, Phạm Thiên, vô phiền Thiên, vô nhiệt Thiên, tịnh Thiên, v.v... biết tất cả chẳng phải là ta, chẳng phải là của ta, ta chẳng phải là của các thứ ấy; nhờ không chấp nhận, các thứ ấy không phải là ta, nên ta mới thực sự biết về các thứ ấy.
Nghe xong, Phạm Thiên nói:
- Chúng sanh ai cũng ưa thích có (hữu), muốn có, chỉ riêng Ông không ưa thích có.
Rồi Phạm Thiên nói kệ:
Nơi có thấy sợ hãi,
Không có thấy sợ gì?
Cho nên đừng ưa có,
Có làm sao chẳng dứt?
LỜI BÀN:
Trước hết, chúng ta nên biết chương trình làm việc hàng ngày của đức Phật, ngoài giờ giảng đạo cho bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cư sĩ Nam, Cư sĩ Nữ, hoặc tiếp các ngoại đạo đến hỏi đạo hay luận bàn, hoặc đi khất thực hay đi thụ thực cúng dàng. Thời giờ còn lại, đức Phật thường ngồi Thiền vào đại Định quán sát khắp thế gian, để xem xét; nếu nhận thấy cần đến nơi ấy, Ngài liền dùng Thần thông tới liền, việc như thế đã từng xảy ra rất nhiều lần. Nhưng lần này, do Kinh Phạm Thiên, chúng ta được biết đức Phật đã quán sát cả các tầng trời nữa chứ không chỉ riêng đối với chúng sinh trên mặt đất. Do đó mới có cuộc luận bàn giữa Phạm Thiên Vương và đức Phật.
Cuộc luận bàn này, có lẽ xảy ra khi đức Phật thành Đạo chưa bao lâu, nên các Phạm Thiên Vương chưa biết nhiều về Ngài, do đó mới có cuộc tranh luận này.
Trước khi phân tích cuộc tranh luận, thiết tưởng chúng ta cũng nên biết sơ qua về cõi Trời Phạm. Cõi Phạm Thiên gồm ba tầng:
- Đại Phạm Thiên: Ở tầng cao nhất.
Vị Đại Phạm Thiên vi diệu, đẹp đẽ, uy nghi, tự tại, hạnh phúc, có ánh sáng cực kỳ rực rỡ; vị Đại Phạm-Thiên có các vị Phạm-Thiên thân cận, và Phạm-Chúng-Thiên bao quanh. Tuổi thọ của Đại Phạm-Thiên là một 1 Tiểu kiếp rưỡi = 16,798,000 + 8,399,000 = 25,197,000 năm của trái đất.
- Phạm-Thiên: Ở tầng giữa.
Phạm Thiên là những vị Trời thân cận Đại Phạm-Thiên, kém vị Đại Phạm-Thiên một chút, ví như các vị quan đại-thần; các vị Phạm-Thiên sống lâu một Tiểu kiếp = 16,798,000 năm của trái đất.
- Phạm-Chúng-Thiên: Ở tầng thấp.
Là các vị Trời tùy tùng các vị Phạm-Thiên, cũng có đầy đủ thần thông, nhưng không bằng các vị Phạm-Thiên; Phạm-Chúng-Thiên sống lâu một nửa Tiểu kiếp = 16,798,000 / 2 = 8,399,000 năm của trái đất.
Có 18 tầng trời Sắc giới hết thảy, cõi Phạm Thiên là cõi Sắc giới thấp nhất; ba tầng của Phạm Thiên tương ưng với Sơ Thiền Sắc giới. Ba tầng bên trên là Quang Thiên, tương ưng với Nhị Thiền Sắc giới; rồi đến ba tầng Tịnh Thiên Sắc giới cao hơn, tương ưng với Tam Thiền Sắc giới. Rồi đến các tầng khác cao hơn nữa, tương ưng với Tứ Thiền Sắc giới; Chư Thiên Sắc giới có hình sắc rất đẹp, nhưng không có dục tính.
Bên trên các cõi Sắc giới là 4 tầng Trời Vô Sắc giới, các vị Trời này không có hình sắc gì cả. Bên dưới các cõi Sắc giới là 6 tầng trời Dục giới, các vị Trời Dục giới cũng đẹp nhưng không đẹp bằng các vị Trời ở các cõi Sắc giới, các vị Trời cõi Dục giới có tham ngũ dục nên gọi là Trời Dục giới; tổng cộng có 28 tầng trời cả thảy.
Khi đức Phật nghe Thạm Thiên Vương nói lời tà kiến, nên Ngài đã đến ngay chỗ vị Phạm Thiên; vị Phạm Thiên nói: “Chỗ này là thường hữu, chỗ này là hằng hữu, chỗ này trường tồn, chỗ này quan yếu, chỗ này là pháp không hoại diệt, chỗ này là xuất yếu, ngoài xuất yếu này không còn xuất yếu nào hơn nữa, mà có bậc tối thắng, tối diệu, tối thượng.
Nghĩa là chỗ này luôn luôn có, chỗ này vĩnh cửu, chỗ này còn mãi mãi, chỗ này tối quan trọng, chỗ này là nơi không hư hoại, chỗ này là nơi xuất sinh tối quan trọng, ngoài chỗ này không còn chỗ nào xuất sinh tối yếu hơn nữa, mà nơi đây có bậc tối thắng, tối diệu, tối thượng vậy; tại sao Phạm Thiên nói thế?
Tại vì, như chúng ta đã biết, đời sống của Phạm Thiên vô cùng lâu dài, nên họ không thấy sự chết, họ tưởng rằng ở cõi ấy không có chết, thường hằng, trường tồn nên mới nói như thế.
Tuy nhiên có những Phạm Chúng Thiên chết rồi sinh xuống trần gian, nhưng họ lại không cho đó là chết, mà chỉ là chuyển đổi sinh ra ở thế gian mà thôi; do đó, Phạm Thiên nói “chỗ này là xuất yếu, ngoài xuất yếu này không còn xuất yếu nào hơn nữa” là vậy.
Đức Phật bảo Phạm Thiên, đại ý nói:
Cái không thường, không hằng, không trường tồn, không quan yếu, Ông lại bảo là thường là hằng, là trường tồn, là quan yếu. Cái hoại diệt, cái không quan yếu, Ông lại bảo là không hoại diệt, là quan yếu... Này Phạm Thiên, Ông có cái vô mình này, Ông đang chìm đắm trong vô minh này
Tại sao đức Phật nói vậy? Bởi vì Phạm Thiên có đời sống lâu dài, tưởng rằng mình là thường hằng trường tồn, tưỏng rằng nơi ấy là chỗ độc nhất xuất sinh ra loài ngưòi; nên đức Phật đã bảo Phạm Thiên là sai lầm, sự thực không phải như thế, tại sao? Vì Phạm Thiên hết tuổi thọ rồi phải chết, còn tái sinh ở đâu là tùy nghiệp, chứ không phải chỉ xuống cõi người; do đó Ngài bảo Phạm Thiên: “Ông có cái vô minh này, Ông đang chìm đắm trong vô minh này” là vậy.
Riêng về Thiên Ma, chúng ta thấy những lời của Ma toàn là lời đe dọa, dụ dỗ, mong đức Phật nghe lời Phạm Thiên; nhưng khi Ma bị Ngài nói trúng tên thì buồn rầu mà biến đi.
Khi đấu trí về sự hiểu biết, Phạm Thiên hỏi đức Phật:
“- Này Đại Tiên Nhân, Ông làm sao biết được điều ta biết, làm sao thấy được điều ta thấy? Ta như mặt trời, tự tại soi sáng cả nghìn thế giới, Ông làm sao biết rõ được, Ông có được tự tại không? Ông có biết những nơi nào không có ngày đêm không, Ông đã có lần nào qua chốn đó chưa?
Đức Phật nói:
”- Này Phạm Thiên, như mặt trời soi sáng khắp nơi, bao trùm cả ngàn thế giới, trong nghìn thế giới Ta được tự tại, và biết nơi không có ngày đêm, và đã qua lại rất nhiều lần”.
Về điểm này: chúng ta thấy có một vấn đề cần nêu lên, đó là “Nơi không có ngày đêm”; thế nào là nơi không có ngày đêm? Nơi không phải ban ngày mà cũng chẳng phải ban đêm, đây là nơi nào, vị nào biết được thử đoán xem là nơi đâu?
Đời sống của con người luôn luôn trải qua hết ngày đến đêm, hết đêm đến ngày, luân phiên mãi như thế. Lúc giao điểm giữa ngày và đêm không thể nói là “nơi không có ngày và đêm” được, nơi ấy phải là nơi không có ánh sáng chiếu tới.
Những ai có thể đến được nơi không có ngày đêm? Chư Phật đến được là chắc chắn rồi như đức Phật đã minh xác, chư đại Bồ Tát chắc chắn cũng đến được, và cả một số chư Thiên nữa như Đại Phạm Thiên chẳng hạn, cũng đến được; vậy thì chỗ không có ngày đêm ở đâu?
Người viết thiết nghĩ, những vùng biên giữa cõi Phật này (giải Ngân Hà này) và cõi Phật khác ở quá cách xa nhau, không có ánh sáng, chỉ mờ mờ nên không có ngày mà cũng chẳng có đêm, là vậy.
Rồi đức Phật nói tiếp:
“- Này Phạm Thiên, có ba cõi Trời là Quang Thiên, Tịnh Quang Thiên, và Biến Tịnh Quang Thiên; nếu ba loài Trời này có tri kiến gì thì Ta cũng có tri kiến ấy, nếu ba loài Trời này không có tri kiến khác, Ta vẫn có tri kiến khác ấy.
Này Phạm Thiên, Ông và quyến thuộc của Ông có tri kiến gì, Ta cũng có tri kiến đó, nếu Ông và quyến thuộc của Ông không có tri kiến khác, Ta vẫn có tri kiến khác ấy. Thế nên, Ông và quyến thuộc của Ông không thể bằng Ta về tất cả; đối với Ông và quyến thuộc của Ông, Ta là tối thắng, tối diệu, tối thượng”.
Về điểm này, đức Phật chứng tỏ cho Phạm Thiên biết rằng trên cõi Phạm Thiên còn có cõi Trời khác có nhiều sự hiểu biết (tri kiến) hơn nữa, nhưng những tri kiến của cõi ấy cũng còn kém tri kiến của Ngài, Đức Phật khẳng định tri kiến của cõi Phạm Thiên còn thua xa tri kiến của Phật.
Tới phần tranh luận cuối, để trả lời khi Phạm Thiên nói:
“- Này Đại Tiên Nhân, nếu có Sa Môn, Phạm Chí nào ưa địa đại, tán thán địa đại, thì vị ấy tùy sự tự tại của ta, làm theo ý ta muốn, vâng theo lệnh ta sai; cũng thế, bất kỳ ai, nếu ai ưa thích Phạm Thiên, tán thán Phạm Thiên, thì vị ấy tùy sự tự tại của ta, làm theo ý ta muốn, vâng theo lệnh ta sai. Ông nếu ưa thích địa đại, tán thán địa đại, thì Ông cũng tùy theo sự tự tại của ta, làm theo ý ta muốn, vâng theo lệnh ta sai”.
Đức Phật bảo:
“- Này Phạm Thiên, nếu có Sa Môn, Phạm Chí nào đối với địa đại nghĩ rằng: “Địa là ta, địa là của ta, ta là của địa đại” thì đã chấp địa đại là ta rồi, nên vị ấy không thực biết địa đại.
Ngược lại, nếu có Sa Môn Phạm Chí nào đối với địa đại nghĩ rằng: “Địa không phải là ta, địa không phải là của ta, ta không phải là của địa đại”. Nhờ không chấp nhận địa là ta, nên vị ấy mới thực biết địa đại.
Đối với thủy đại (nước), phong đại (gió), hỏa đại (lửa), thần ngã (thức), chư Thiên, Phạm Thiên, vô phiền Thiên, vô nhiệt Thiên, tịnh Thiên, v.v... biết tất cả chẳng phải là ta, chẳng phải là của ta, ta chẳng phải là của các thứ ấy; nhờ không chấp nhận, các thứ ấy không phải là ta, nên ta mới thực sự biết về các thứ ấy.”
Tại sao thế? Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thần và vật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta. Ý nghĩ cho rằng có “ta”, có “người”, có “cái của ta”, là những đơn vị độc lập không phụ thuộc vào nhau, chính là vô minh, chính là si mê.
Vì chấp sắc thân và tâm là ta nên không biết thân tâm, tại sao? Vì Sắc thân gồm các bộ phận thân thể, mà các bộ phận được cấu tạo bởi “đất, nước, gió, lửa”, bốn thứ này luôn luôn thay đổi không ngừng, chúng không có chủ thể, nên không có gì gọi là ta được cả. Tâm gồm: các cảm giác (thọ), nghĩ tưởng nhớ (tưởng), suy nghĩ khởi muốn, khởi làm (hành), và phân biệt so sánh (thức), mà có. Tất cả: thọ, tưởng, hành, thức, đều thay đổi không có chủ thể, nên tâm cũng chẳng phải là ta; như vậy, thân tâm đều chẳng phải là ta, nó vô ngã, nên chẳng có cái gì là của ta được, và ta cũng chẳng thuộc về cái gì cả, hiểu được như vậy là hết vô minh, hết si mê.
Câu đức Phật nói:: “Nhờ không chấp nhận các thứ là ta, không chấp nhận các thứ là của ta, nên ta mới thực sự biết các thứ ấy”,là sao?
Nghĩa là nếu hoàn toàn “vô ngã” rồi, không còn một chút nào tham lam, ái dục, keo kiết; không còn một tí nào sân hận giận hờn, tật đố ghen tị; không còn một dấu vết nào của kiêu căng, ngạo mạn, khinh người v.v... thì đạt quả Thánh; người đã đạt tới quả Thánh rồi nhìn mọi sự ở đời đều biết như thật vậy.
Cuối cuộc luận bàn, chúng ta thấy Phạm Thiên đuối lý, nên mới nói bài kệ theo ý luận của đức Phật, nhưng Phạm Thiên chưa chịu hàng phục hẳn đâu. Chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn Kinh kế tiếp xem Phạm Thiên trổ tài gì?
2)- THI TÀI BIẾN HÓA:
Sau khi nói kệ, Phạm Thiên nói:
- Này Đại Tiên Nhân, nay ta muốn ẩn hình.
Đức Phật bảo:
- Này Phạm Thiên, nếu Ông muốn ẩn hình thì tùy ý Ông.
Phạm Thiên liền biến hình (tàng hình), đức Phật liền nói:
- Ông ở chỗ này, Ông đến chỗ kia, Ông lại vào chỗ giữa này.
Mỗi chỗ Phạm Thiên di chuyển đến, Ngài đều chỉ không sai; Phạm Thiên muốn ẩn hình, nhưng chẳng qua được mắt Phật, nên phải hiện hình trở lại, bấy giờ đức Phật nói :
- Ta cũng muốn ẩn hình, Ông xem Ta ở chỗ nào?
Đức Phật liền nghĩ: “Ta hãy hiện Như Ý Túc Như Kỳ Tượng, phóng hào quang cực sáng chiếu rọi khắp cõi Phạm Thiên, rồi ẩn hình trong đó, khiến Phạm Thiên và quyến thuộc chỉ nghe tiếng Ta mà không thấy hình Ta”; nghĩ xong, Ngài liền thực hành.
Bấy giờ, Phạm Thiên và quyến thuộc, ai cũng nghĩ rằng: “Sa Môn Cù Đàm thực là kỳ diệu, thật là hy hữu, có đại như ý túc (biến hóa), có đại oai đức, có đại phúc hựu (phúc lớn), có đại oai thần, vì sao? Vì đang phóng hào quang cực sáng chiếu khắp cõi Trời Phạm, rồi ẩn mình ở trong, khiến chúng ta không thể thấy mà chỉ nghe tiếng thôi”.
Lúc ấy, đức Phật biết tâm ý Phạm Thiên và quyến thuộc, nên Ngài nghĩ: “Ta đã cảm hóa được Phạm Thiên này và quyến thuộc rồi, Ta nên thu hồi Như ý túc”. Nghĩ rồi, Ngài liền thu hồi Thần túc và ở giữa cõi Phạm Thiên.
Bấy giờ Thiên Ma Ba Tuần thấy thế liền nói:
- Này Đại Tiên Nhân, Ông thật khéo biết, khéo thấy, khéo thông suốt, nhưng Ông chớ nên giáo huấn đệ tử, chớ nên nói pháp vi diệu cho đệ tử, chớ nên yêu thương (ái luyến) đệ tử. Ông hãy sống vô vi (sống đạo lý, sống tùy tự nhiên) mà hưởng thụ cuộc đời an nhàn, vì sao?, vì những việc làm ấy sẽ gây phiền nhọc, và khi chết sẽ sinh vào làm Thần kỹ nhạc thấp kém.
Đức Phật bảo Ma:
- Này Ma Ba Tuần, Ông chẳng phải mong thiện lợi cho Ta, chẳng phải mong cầu ích lợi cho Ta, cũng chẳng phải mong cầu an lạc cho Ta mà nói như thế. Này Ma Ba Tuần, Ta biết Ông nghĩ rằng: “Sa Môn Cù Đàm nói pháp cho đệ tử nghe, các đệ tử ấy sẽ ra khỏi cảnh giới của ta, ta sẽ không chi phối được họ nữa”, cho nên Ông mới nói như thế.
Này Ma Ba Tuần, nếu có Sa Môn Phạm Chí nào đã giáo hóa đệ tử, nói pháp cho đệ tử nghe và yêu thương đệ tử, nên sau khi qua đời đã sinh vào làm Thần kỹ nhạc thấp kém, thì Sa Môn, Phạm Chí ấy chẳng phải là Sa Môn mà tự xưng là Sa Môn, chẳng phải Phạm Chí, mà tự xưng là Phạm Chí, chẳng phải A La Hán mà tự xưng là A La Hán, chẳng phải bậc Chính Đẳng Giác mà tự xưng là Chính Đẳng Giác (Bậc giác ngộ cao nhất).
Này Ma Ba Tuần, Ta tự biết là Sa Môn nên mới xưng Sa Môn, Ta thực sự biết là A La Hán nên mới xưng là A La Hán, Ta thực sự biết là Chính Đẳng Giác nên mới xưng là Chính Đẳng Giác.
Này Ma Ba Tuần, nếu Ta có nói pháp hay không thì Ông cũng nên đi đi, Ta tự biết nên nói pháp hay không nên nói pháp là tùy ở nơi Ta.
LỜI BÀN:
Khi luận bàn về trí tuệ, Phạm Thiên thấy rõ trí của mình không thể bằng đức Phật nên mới nói bài kệ ở đoạn trên theo ý của Phật, nhưng chưa chịu khuất phục hẳn, mà còn muốn so tài cao thấp trong sự biến hóa, tại sao? Vì từ hồi nào tới lúc ấy Đại Phạm Thiên thường trổ tài với các tầng Trời Dục giới, không có ai sánh kịp, nên kiêu hãnh cho mình là nhất. Bấy giờ gặp Phật chưa biết ra sao nên muốn thử tài, nhưng như chúng ta đã biết kết quả rồi, và từ đó trở đi, Phạm Thiên mới coi đức Phật là bậc tối thắng, tối diệu, tối thượng vậy.
Nói về Thiên Ma Ba Tuần, là Vua cõi Trời Ma La Thiên, cõi Dục giới tầng cao nhất trong 6 tầng Trời Dục giới; với bản tính của Ma là luôn luôn ngăn cản làm điều tốt lành, xúi giục làm điều quấy ác, chúng ta không còn lạ gì nữa.
Một dấu ngoặc để biết thêm về cõi Phạm Thiên, đó là đạo Bà La Môn, mà ngày nay gọi là Ấn Độ giáo; trên nguyên tắc, đạo Bà La Môn thờ Phạm Thiên, Phạm Thiên là Thượng Đế, Thượng Đế sinh ra mọi người. Người đạo Bà La Môn đều cho rằng mình là con của Phạm Thiên, nên thường phải cúng tế Thượng Đế. Vị Đại Phạm Thiên chính là Thượng Đế của đạo Bà La Môn vậy.
Còn các đạo khác như Do Thái giáo (Israel) và Cơ Đốc giáo (Christian) thờ cùng một Thượng Đế, và Hồi giáo (Muslim) thờ một Thượng Đế khác. Người viết chưa hân hạnh được biết nên không thể viết ra được, rất tiếc; không biết hai vị Thượng Đế của họ là ai và hiện nay ở đâu có ai biết không?
Tượng Ananđà và Ca Diếp 
Là hai đệ tử của đức Phật khi ngài còn trên dương thế. Vị trí tượng hai vị này thường đặt hai bên Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni .
Tượng Ananđà được diễn tả trong tư thế đứng, hai tay chắp trước ngực, mặc áo pháp. Tượng Ca diếp già hơn, gầy và hốc hác, ngài mặc áo nhà chùa và tay để khum trước ngực.
Hộ Pháp : Hai pho tượng Hộ Pháp khuyến thiện và trừng ác có sứ mạng về việc hộ trì Phật Pháp. Kích thước tượng thường cao lớn, mặc áo giáp, đội mũ trụ, tay cầm binh khí, hình dáng dữ tợn. Các tượng này được tạc trong thế đứng hoặc ngồi trên lưng lân.












Bát Bộ Kim cương : Các vị là Thần tướng trên trời nguyện đem thần lực để hộ trì Phật pháp. Hình dáng được tạc như thiên tướng, oai nghiêm mạnh mẽ.

Vi Đà Hộ Pháp



Vi Đà là một vị thiên tướng hộ Pháp của Phật giáo. Tương truyền rằng ngài là một trong 8 vị đại thần tướng của Nam phương Tăng Trưởng Đại Thiên Vương, một trong bốn Đại Thiên Vương, và là người đứng đầu 32 vị thần tướng thuộc quyền của bốn Đại Thiên Vương.

Tượng của ngài thường ở dưới dạng một người trai trẻ, thân mang áo giáp mũ sắt, hoặc một tay án chày kim cương, hoặc hai tay nâng chày lên, đứng trong điện Thiên Vương đâu lưng với Phật Di Lặc và đối diện với Phật Thích Ca Mâu Ni.

Tại sao Vi Đà lại được thờ ở Thiên Vương Điện, đâu lưng với Phật Di Lặc và đối diện với Phật Thích Ca?

Đó là vì ngài đã từng lập công trạng rất lớn trong việc diệt giặc bảo hộ Phật Pháp. Vi Đà, trong thánh điển Phật giáo còn được gọi là “Thần Hành Thái Bảo”, vì ngài nổi danh là có tài đi như bay. Tương truyền lúc Như Lai nhập Niết-bàn, có một con quỷ mệnh danh là “nhanh như chớp” đến trộm hai cái răng của Phật rồi chạy mất. Vi Đà cấp tốc đuổi theo, không lâu sau bắt kịp tên cướp, lấy lại răng Phật. Từ đó, Vi Đà trở nên một vị thần hộ pháp nổi danh.

Lúc còn trẻ, Vi Đà là một chàng trai anh tuấn, uy phong lẫm lẫm, ăn mặc như một võ tướng nên được tạo tượng khá giống các dũng tướng Trung Quốc như Triệu Vân, Mã Siêu... Vi Đà cũng là hộ pháp của Bồ Tát Quán Âm, nếu ngài tu thành chính quả cũng là nhờ sự giáo hóa của Bồ Tát vậy.

Hồi xưa, Vi Đà là một chàng thanh niên sống ở nông thôn, ven bờ sông Lạc Dương, thuộc phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến.

Cậu là người siêng năng, lanh lẹ và tốt bụng, thông minh tài giỏi, nổi tiếng là một người thợ khéo trong vùng. Nhà cậu ở bên bờ sông Lạc Dương. Sông này rất rộng, nước chảy xiết, vì không có cầu bắc ngang nên dân chúng hai bên bờ qua lại rất gian nan, phải lệ thuộc vào những chiếc thuyền chở khách. Bởi vì nước chảy xiết và trũng nước xoáy lại nhiều, lúc trời tốt qua sông đã không an toàn mà khi mưa to sóng lớn hay bão bùng thì lại càng nguy hiểm hơn nữa, nên nạn lật thuyền rất thường xảy ra, người táng thân vào bụng cá cũng không phải là ít.

Vi Đà đã bao lần chính mắt trông thấy những thảm cảnh lật tàu như thế, bèn lập nguyện xây một cây cầu bắc ngang sông, nên trong mấy năm trời ngày bán giày cỏ, đêm đi đập đá để dành từng đồng từng cắc. Lúc cậu sắp sửa xây cầu thì Bồ Tát Quán Âm vân du ở phủ Tuyền Châu, và Ngài có một đoạn nhân duyên với Vi Đà từ đó.

Mùa xuân năm ấy, một hôm Bồ Tát Quán Âm tay cầm tịnh bình, chân đạp mây lành, đứng trên không trung nhìn xuống sông Lạc Dương, bỗng nhiên nghe vọng lên tiếng la khóc cầu cứu. Ngài cúi xuống, thấy dưới chân mình có dòng sông lớn cuồn cuộn trào dâng, một ông lão lái đò đang chèo thuyền sang sông và chiếc thuyền đang bị dòng nước xiết kéo tới một con nước xoáy. Ông lái thuyền cuống cuồng chống đỡ nhưng chiếc thuyền bị con nước xoáy làm cho quay mòng mòng, dường như sắp sửa bị lật, hành khách trên thuyền kinh hoảng trăm bề, đàn bà trẻ con khóc la thảm thiết, tiếng kêu cầu thấu tới mây xanh và tới tai ngài Quán Âm.

Bồ Tát Quán Âm đại từ đại bi vội lấy nhành dương liễu từ tịnh bình ra, ném xuống chiếc thuyền đang lâm nạn trên mặt biển, thi thố thần lực áp cho sóng lặng xuống. Dòng nước giận dữ đang làm cho ba đào cuộn dâng, nước xoáy trũng sâu đang làm cho con thuyền lắc lư nghiêng ngửa bỗng tự nhiên bình lặng hiền hoà, con thuyền nhờ thế được thoát cơn hiểm nạn.

Dĩ nhiên, ông lái thuyền không biết mình đã được Bồ Tát Quán Âm cứu giúp, thấy con thuyền không còn tròng trành xoay vần và thoát ra khỏi con nước xoáy thì thở hổn hển, phần thì mừng rỡ, phần thì cố lấy lại can đảm để chèo nốt con thuyền đến bờ đối diện. Khách trên thuyền ai cũng tự cảm thấy mình đã may mắn thoát chết, và nhớ lại cảnh nguy hiểm vừa trải qua, ai cũng rùng mình rởn ốc.

Hơn ai hết, ngài Quán Âm hiểu rõ những ý nghĩ, những mong cầu của chúng sinh, vì thế Ngài lập tức quyết định ra tay làm một điều lợi ích cho dân. Thế là Ngài hạ mây xuống, biến thành một cô gái chài lưới trẻ tuổi xinh đẹp, bước lên khoang nói chuyện với ông lão chèo thuyền, hỏi ông có thể chèo trở về bờ bên kia ngay không? Lúc đó, một vài người dân làng cũng vừa đến và muốn qua sông. Ông lão còn chưa lấy lại hồn vía, bảo rằng:

– Lúc nãy suýt nữa thuyền bị lật, thoát được hiểm là một điều may mắn không ngờ. Dòng sông này nước chảy quá mạnh, mỗi lần chèo thuyền tôi đều nơm nớp phập phồng. Nói thật, bây giờ tôi hãy còn quá sợ, không muốn chèo thuyền về bên kia nữa, nhỡ có chuyện gì xảy ra thì sao?

Dân làng gấp muốn qua sông, xuống nước năn nỉ:

– Ông lão ơi, ông không đưa thì chúng tôi làm sao về được? Ông là tay nghề lão luyện, ai cũng đặt tin tưởng vào ông, xin ông chịu phiền một chút giùm đi!

Ông lão lái thuyền không từ chối được, đành để cho Bồ Tát Quán Âm cùng một vài người dân làng bước lên thuyền, một lần nữa đưa mái chèo hướng bờ đối diện, một mặt nói:

– Quý vị không biết chèo thuyền trên con sông Lạc Dương này nguy hiểm tới mức nào đâu! Mười năm trở lại đây, ngày nào tôi cũng chèo thuyền, gặp không biết bao nhiêu là cảnh nguy hiểm, tạm cho là tôi cứng tay nghề nên may mắn, lần nào cũng từ cõi chết trở về được. Trên dòng sông này, tôi đã chính mắt thấy vô số con thuyền bị lật, vô số người chết chìm làm mồi cho cá. Tôi già rồi, không còn khoẻ nữa, trước sau gì tôi cũng sẽ phải bỏ thuyền bỏ lái thôi!

Bồ Tát Quán Âm bèn xen vào hỏi:

– Thưa cụ, sông này nước chảy xiết, xoáy nước nhiều, chèo thuyền quả thật nguy khốn, làm sao không xảy ra tai nạn cho được! Tại sao chúng ta không xây một chiếc cầu bắc ngang qua sông? Cháu từ xa tới, chỗ cháu ở, nếu có dòng sông nào nguy hiểm như thế này cũng đều có cầu bắc qua cả.

Ông lão lái thuyền thở dài lắc đầu, một khách đi thuyền tiếp lời, nói:

– Trăm họ ở đây trông mong xây một cái cầu từ lâu rồi, quan huyện cũng mấy lần công bố xây cầu, nay thì kêu gọi đóng góp tiền tài, mai thì yêu cầu đóng góp thóc gạo, năm nào cũng ra công bố nhưng mấy năm rồi, cầu đâu không thấy, chỉ thấy hầu bao của quan huyện mỗi năm mỗi phồng to lên thôi.

Ngài Quán Âm hỏi:

– Dân chúng tự mình đứng ra xây cầu không được sao?

Ông lão nghe thế, cười buồn mà rằng:

– Nói thì dễ, muốn xây cầu thì một là phải có tiền, hai là phải có thợ giỏi. Dân chúng làm gì có chừng đó tiền, và cũng làm gì có người đủ tài để đứng ra tổ chức một việc to lớn như thế. Tuy nhiên cách đây vài năm có một anh chàng tên là Vi Đà cũng đã từng đề cập tới việc xây cầu. Đó là một thanh niên có chí lớn, cũng là một tay thợ khéo nổi tiếng tài giỏi ở vùng này. Một hôm thấy tôi chèo thuyền quá nguy hiểm, cậu đã nói với tôi là nhất định sẽ xây cầu. Thế mà về sau lại không thấy cậu xuất hiện nữa. Có người nói cậu đang ở nhà để dành tiền chuẩn bị việc xây cầu, mấy năm nay không thấy động tĩnh, có lẽ cậu không để dành được tiền. Chuyện xây cầu thật không phải dễ!

Quán Âm nghe thế bất giác cảm thấy hoan hỉ, nghĩ rằng ở đây mà có một chàng trai trẻ tuổi như thế thật là hy hữu, có cùng một chí nguyện với mình, về sau giao cho anh ta đứng ra tổ chức việc xây cầu không phải là một điều thích hợp lắm hay sao?

Một người dân bình thường khó mà có thể trù liệu được cần phải có bao nhiêu tiền để xây cầu, muốn cho việc xây cầu này thành tựu thì chính Ngài phải đứng ra tìm biện pháp mới xong.

Lúc ấy thuyền đã cặp bến, những người dân làng đã lên bờ và chia tay nhau ai về nhà nấy, nhưng cô gái chài lưới không lên bờ mà còn ngồi lại trong thuyền, chìm trong suy nghĩ. Ông lão chèo thuyền cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi:

– Cô nương, sao cô không lên bờ?

– Thưa cụ, cô gái chài lưới đáp, cháu đang suy nghĩ tới việc xây cầu. Vừa rồi cụ nói có anh chàng gì đó quyết tâm xây cầu, thật là hy hữu. Nhưng anh ấy một mình kiếm tiền thì chắc cả đời kiếm cũng không đủ. Tại sao tất cả chúng ta không cùng tìm cách giúp đỡ anh ấy?

Ông lão lái thuyền đáp:

– Cách nào bây giờ, ở đây ai cũng nghèo khổ cả, còn những người tài chủ có tiền thì ai mà chịu cắt núm ruột của mình ra!

Cô gái chài lưới đáp:

– Cụ à, muốn tìm biện pháp thì không khó, cháu nghĩ trên sông này hễ chưa có cầu là còn có tai nạn, vì thế cháu muốn giúp một tay.

Ông lão chèo thuyền nghe thế cảm thấy kỳ lạ:

– Cô ư? Cô có biện pháp nào? Trừ phi nhà cô có tiền và muốn làm việc thiện.

Cô gái đáp:

– Nhà cháu không có tiền nhưng cháu có biện pháp. Chẳng hạn, mình có cách nào lấy tiền của nhà giàu không?

Ông lão lái thuyền đáp:

– Lấy tiền của nhà giàu? Nhà giàu đời nào để cho mình lấy tiền, cô thật khéo mơ tưởng viển vông.

Có gái dân chài nói:

– Cụ ơi, cháu có cách này nhưng cần cụ giúp đỡ. Nếu cụ chịu làm chung việc này với cháu thì mình có thể lấy tiền của nhà giàu được.

Nói xong cô gái tới gần thầm thì to nhỏ vào tai ông lão, khua tay múa chân ra dấu, còn ông lão thì cứ thế mà gật gù từ đầu tới cuối.

Cuối cùng ông nói:

– Được, vậy bắt đầu từ ngày mai chúng ta bắt đầu thi hành kế hoạch của cô.

Hôm sau, vừa vặn đúng ngày mồng ba tháng ba, đó là ngày hội đình chùa lớn nhất trong năm ở phủ Tuyền Châu. Dân chúng từ bốn phương tám hướng đổ dồn về dự hội, người đi người về thật là náo nhiệt.

Hôm ấy ông lão cũng chèo thuyền như mọi ngày nhưng hôm nay có điểm khác biệt là có một cô gái vô cùng xinh đẹp ngồi trong thuyền, còn ông lão thì cười tươi như hoa, thuyền không cập bến mà lại ngừng ở ngay chính giữa dòng sông.

Sông Lạc Dương rộng khoảng năm mươi thước, thuyền ở ngay giữa dòng sông tức là cách xa hai bên bờ khoảng hai mươi mấy thước. Ông lão lái đò cùng cô gái cứ ở giữa dòng sông như thế mà chuyện trò, không chịu đưa thuyền về bến. Người muốn qua sông cứ đứng hai bên bờ mà réo:

– Ông lão ơi, mau chèo thuyền rước khách, chúng tôi muốn qua sông đây!

Nhưng họ kêu mấy cũng mặc họ, ông lão không hề màng đến, vẫn bình an giữa dòng sông. Khách chờ thuyền càng ngày càng đông, ai cũng nhìn thấy chiếc thuyền của ông lái và ai cũng tò mò không biết ông muốn làm gì, và càng đông họ càng ồn ào. Nhất là khi họ thấy ngồi trên thuyền là cô gái chài lưới có một nhan sắc hơn người. Cô gái này thật sự lôi cuốn người ta, cô mặc một cái áo trên ngắn thêu hoa nhiều màu, dưới là chiếc váy màu xanh lá cây nhạt thanh nhã nổi lên trên cái quần màu đỏ sậm, đầu bới tóc cao, tai đeo khuyên bạc, khuôn mặt trái soan đoan trang diễm lệ, da trắng nõn mịn màng, mắt như nước hồ thu gợi tình, người nào nhìn cô cũng phải khen thầm là đẹp tuyệt.

Trong những người đứng nhìn, có một số là con nhà hào phú, họ nhìn cô gái mà hồn phách điên đảo, thần trí rối loạn. Người nào cũng kêu ầm lên:

– Ông lái ơi, mau trở về chèo thuyền qua sông!

Thấy người chờ càng ngày càng đông, ông lão mới đủng đỉnh đứng dậy nhìn hai bên bờ mà vừa chỉ cô gái dân chài mà nói:

– Các vị nghe đây, hôm nay tôi không chèo thuyền vì tôi có cô cháu tức là cô nương đây, đã đi từ mãi tận Tô Châu lên đến phủ Tuyền Châu này. Cháu tôi năm nay vừa chẵn đôi tám, muốn tìm một chàng trai có duyên có số với mình để gá nghĩa trăm năm. Từ ngày hôm nay trở đi, cháu tôi sẽ ngồi trên thuyền, nếu có chàng trai nào muốn cưới cô về làm vợ, bất kỳ là người nào, đều phải tham dự vào cuộc thi này. Điều kiện duy nhất là phải ném một đồng tiền đồng hay một đồng tiền bạc về phía cháu tôi, nếu ai ném trúng người cô ấy thì coi như có duyên có số với cô vậy. Tôi sẽ đứng đây làm trọng tài, mọi người làm chứng, tuyệt đối không nói sai lời.

Lão lái thuyền nói xong, mọi người mới vỡ lẽ ra. Những người trai trẻ trong đám đông hiểu đây là một cuộc thi ném bạc kén chồng. Họ nhìn có gái xinh đẹp, ai cũng nghe tim đập rộn ràng, tinh thần sung mãn, nhất là đám vương tôn công tử thì trở nên như điên như cuồng vậy. Đó là những người hiếu sắc và có tiền, họ thấy cô gái này đẹp hơn tất cả những cô gái khác mà họ đã từng gặp, nên ai cũng muốn ném tiền trúng người cô ấy để cưới cô về làm vợ, được như thế thì thật là tuyệt vời!

Cô gái ngồi trên chiếc thuyền đang bồng bềnh ngay giữa lòng sông, cách hai bên bờ không quá hai mươi mấy thước, nhìn thì thấy tợ như gần ngay bên cạnh, lo gì ném không trúng? Những vương tôn công tử, người nào cũng thèm rỏ dãi, sốt ruột, muốn chính mình là người đầu tiên ném trúng cô nương. Họ bèn lập tức lấy tiền đem theo tùy thân tranh nhau ném về phía cô gái. Trong chốc lát, những đồng tiền từ hai bên bờ sông bay tới khoang thuyền như mưa.

Tuy nhiên, lạ lùng thay, tuy bờ không xa và cô gái thấy gần như thể ở ngay bên cạnh, và chàng thanh niên nào cũng nhắm cô gái cẩn thận trước khi ném nhưng tiền cứ rơi lên thuyền, không có đồng nào trúng được người cô. Đám vương tôn công tử cảm thấy giống như đang ở trong một canh bạc, hễ hết tiền thì sai người hầu chạy về nhà lấy thêm. Họ cùng nhau tranh dành, cãi nhau chí choé, thi nhau mà ném từng giỏ, từng giỏ bạc vụn. Những đồng tiền ấy chỉ trượt bên cô gái trong đường tơ kẽ tóc, cho nên họ vừa hận vừa mừng, cho rằng ném lại một lần nữa thì chắc chắn thế nào cũng trúng. Và như thế, họ không ngừng thử ném trở lại, ném cho tới khi trời tối mà rốt cuộc vẫn chưa ai ném trúng được người đẹp.

Lúc ấy ông lão lái thuyền mới nói với mọi người là trời đã tối, không thể tiếp tục ném nữa, ngày mai hãy trở lại ném tiếp.

Chuyện kén chồng trên thuyền đã làm chấn động cả phủ Tuyền Châu, một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn ngàn. Ngày hôm sau, ông lão lại chèo thuyền ra giữa giòng sông, và cô gái chài lưới lại ngồi trên thuyền. Người ham vui đến xem càng lúc càng đông, chen lấn nhau ở bên này và bên kia bờ sông, trong ngoài chật ních. Hai bên bến phà huyên náo giống như một buổi hát xiệc. Những vương tôn công tử chiều qua không ném trúng cô nương nhưng vẫn chưa mất hy vọng, tiếp tục chuyển tiền tới, những anh chàng này tâm hồn hoàn toàn si mê điên đảo trước nhan sắc của tuyệt thế giai nhân nên tổn phí bao nhiêu cũng không tiếc, tiền họ ném có thể đong thành bồ, thành sọt vậy.

Cứ thế hai ngày liền mà vẫn chưa có ai ném trúng cô nương mà chỉ thấy những đồng tiền cứ rào rào rơi xuống bên cạnh cô xuống tới khoang thuyền.

Lúc Bồ Tát Quán Âm lập kế kiếm tiền bằng cách kén chồng ở giữa dòng sông, Vi Đà cũng nghe nói đến sự việc lạ lùng ấy nên cũng tìm đến xem khung cảnh huyên náo. Vi Đà là một chàng thanh niên trẻ tuổi, nhìn thấy cô gái chài lưới trên thuyền cũng bị nhan sắc tuyệt vời của mỹ nhân hớp hồn, nên cũng đứng ngây người ra nhìn người ngọc. Cậu thọc tay vào túi, trên thân cũng có vài đồng tiền. Tâm cậu bị chấn động nên cũng muốn chen vào ném, nhưng lập tức cậu đè nén ý muốn ấy, nghĩ rằng bao nhiêu đó người ném mà chưa ai ném trúng, mình không nên ném mấy đồng tiền một cách oan uổng, thì thôi nên bỏ ý nghĩ ấy đi.

Nhưng vừa vặn lúc ấy có Lữ Động Tân, một trong Bát Tiên, cũng vân du đến chỗ này. Ông nhìn thấy bên dưới người đông như kiến, không biết đang có chuyện gì nên đáp mây xuống lẫn lộn trong đám đông người chen vào xem. Ông biến thành một ông lão tóc trắng như bông, mới nhìn cô gái chài lưới trên thuyền liền biết ngay đó chính là Bồ Tát Quán Âm và hiểu ngay tự sự, nên rất ngầm thán phục phương pháp kiếm tiền của ngài Quán Âm, nhưng đồng thời không khỏi cảm thấy buồn cười, thầm nghĩ:

– Đại sĩ, Đại sĩ, thật đã khổ công tìm cách làm việc thiện để nghĩ ra một diệu kế như thế. Nhưng hôm nay tôi muốn làm cho Ngài phải xuất đầu lộ diện chơi. Ngài làm cho con em các nhà hào phú ném tiền một cách oan uổng, không ai có thể ném trúng Ngài, Ngài kén chồng như thế đủ để xây cầu rồi. Nếu không có chuyện gì xảy ra thì thật là toi công cho đám công tử thiếu gia kia quá, nên tôi muốn xem Ngài đối phó làm sao nếu phải làm vợ một kẻ phàm phu!

Lữ Động Tân bèn đưa mắt tìm một anh chàng thanh niên để giúp anh ta ném trúng cô gái chài lưới, làm khó dễ Bồ Tát Quán Âm xem sao! Khéo sao ông lại đứng ngay bên cạnh Vi Đà. Ông thấy anh chàng này phúc hậu lại chín chắn, chứ không phải loại công tử đẻ bọc điều kia, và ông cũng đã bắt gặp động tác móc tiền ra rồi lại bỏ vào của anh chàng. Ông nghĩ:

– Được rồi, Đại sĩ, tôi sẽ làm cho anh chàng này ném trúng Ngài, để xem Ngài làm sao?

Thế là ông vỗ vai Vi Đà, cười nói:

– Này cậu, cậu có muốn thử một chuyến không?

Vi Đà bị hỏi bèn đỏ bừng cả mặt, xấu hổ cúi đầu. Lữ Động Tân nói:

– Cậu không có gì phải xấu hổ, trai lớn phải có vợ, một tuyệt sắc giai nhân như thế đang kén chồng thì không nên bỏ qua cơ hội, biết đâu hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, cậu có duyên có phần với cô ấy thì sao?

Chàng thanh niên nhìn ông lão nói:

– Ông ơi, cháu cũng muốn thử chứ, nhưng nghĩ lại hai ngày vừa qua, biết bao nhiêu là vương tôn công tử ném không biết bao nhiêu là tiền mà ném không trúng, còn cháu chỉ có mấy đồng bạc trên thân, nếu đem ra ném thì chỉ có phí tiền thôi chứ làm sao trúng được. Hơn nữa, mấy năm vừa qua, cháu chỉ nghĩ tới có một điều mà thôi, đó là làm sao để dành tiền xây cầu. Tiền kiếm được hãy còn ít lắm, cháu không thể tự tiện nghĩ tới vấn đề lấy vợ của cá nhân mình mà đi tiêu phí những đồng tiền này.

Lữ Động Tân nghe thế cảm thấy rất mến anh chàng này và nghĩ thầm:

– Thì ra chàng trai trẻ này cùng có chung một ý nguyện với ngài Quán Âm, thật là hy hữu, hy hữu! Ta phải giúp cho anh chàng ném trúng Quán Âm Đại sĩ, phá Ngài chơi. Rồi khi nào Ngài biết được và có nổi giận thì cũng dễ gỡ thế bí bằng cách để cho anh chàng này giúp đỡ Ngài trong việc xây cầu là xong!

Nghĩ thế rồi Lữ Động Tân nói với Vi Đà:

– Này cậu, để tôi nói cho cậu biết tại sao cô nương này lại kén chồng. Cô kén chồng bằng cách này là cũng chỉ vì muốn kiếm tiền xây cầu, cậu và cô ấy đều có cùng một ý chí nên tôi nghĩ rằng cậu sẽ ném trúng. Đôi bên kết hôn rồi chung lưng sát cánh với nhau lo chuyện xây cầu, không phải là thượng sách hay sao? Cậu cứ ném thử đi, nếu đúng duyên đúng phận, người khác ném mấy cũng không trúng nhưng cậu ném một lần là trúng. Không tin cậu cứ thử, mà dù ném không trúng đi nữa thì tiền này xem như cậu tặng cho cô ấy xây cầu chứ có mất mát đi đâu, cậu nghĩ tôi nói có đúng không?

Đúng ngay lúc ấy, giọng ông lão lái thuyền vọng tới:

– Bà con làng xóm ơi, trời đã tối rồi nên hôm nay ngừng ở đây, tôi muốn gác mái chèo về nhà nghỉ.

Lữ Động Tân nghe vậy vội thúc Vi Đà ném, Vi Đà luống cuống bèn ném bừa về phía cô gái một đồng tiền. Có lẽ vì trong suốt hai ngày Ngài Quán Âm dùng thần lực nên tiền không thể nào trúng tới mình Ngài, nay ông lão chèo thuyền đã ra hiệu ngừng để về nghỉ nên Ngài bèn xả thần lực. Thêm vào lại có Lữ Động Tân cố ý làm cho đồng tiền ném trúng Ngài nên ông thổi một cái, đồng tiền của Vi Đà theo hơi thần của ông mà rơi lên người cô gái chài lưới, không rơi bên phải, không rơi bên trái, không rơi ở trên hay ở dưới mà rơi ngay tim của cô. Lúc ấy ai cũng đã ngừng tay, chỉ còn có Vi Đà ném tiền, người đứng hai bên bờ ai cũng thấy rõ ràng, thế là sau hai ngày trời cuối cùng cũng có người ném trúng, không ai bảo ai mà mọi người đều reo hò nhảy cẫng lên vỗ tay hoan hô:

– Giỏi! Giỏi! Trúng rồi! Trúng rồi! Anh chàng này tốt phước quá!

Bồ Tát Quán Âm giật mình kinh ngạc, bị ném trúng một cách bất ngờ nên Ngài lúng túng, không biết chuyện chi xảy ra, bèn nhìn Vi Đà đang được mọi người hoan hô. Nhìn thấy rồi Ngài giận muốn đứt hơi vì trong đám đông, có Lữ Động Tân đang nhìn Ngài mà cười ha hả. Do đó Ngài biết ngay là có bàn tay phá rối của Lữ Động Tân.

Có tiếng người kêu:

– Ông lái thuyền ơi, mau chèo qua đây, chú rể đứng ở đây nè!

Bồ Tát Quán Âm rất bối rối nhưng không có cách nào hơn là để cho ông lão chèo thuyền về rước Lữ Động Tân và Vi Đà lên thuyền, một lời đã hứa đâu có dễ gì nuốt lại được!

Ông lão lái thuyền nhận ra Vi Đà, mừng rỡ nói với cô gái chài lưới:

– Cô nương, cậu này chính là anh chàng thanh niên muốn xây cầu đây, đúng là trời có mắt!

– Đúng rồi, đúng rồi, đây là duyên trời định - Lữ Động Tân nói. Cô nương à, lão phu đặc biệt tới đây để tác hợp cho hai người.

Bồ Tát Quán Âm nhìn Lữ Động Tân như thể ông là con quái vật, vừa tức vừa giận mà không thể để lộ ra ngoài mặt. Tuy nhiên, nghe nói rằng anh chàng thanh niên này chính là Vi Đà, người muốn xây cầu, thì cũng đổi giận làm vui, thầm nghĩ rằng:

– Anh chàng này phúc hậu lương thiện lại là một tay thợ đá giỏi, để cho anh ta đứng ra xây cầu thì không có gì bằng.

Còn Lữ Động Tân, Ngài Quán Âm biết ông là người hay phá phách trêu ghẹo người khác, nên Ngài cũng không giận nữa mà lại bảo rằng:

– Ông làm việc tốt, tôi xin cám ơn ông. Nhưng ông đùa lần này là quá lố, không nên đắc ý như vậy. Ông đã gieo gió thì bây giờ hãy gặt bão, theo tôi nghĩ, ông nên mau nói lên sự thật.

Ông lão lái thuyền và Vi Đà nghe ngài Quán Âm và Lữ Động Tân nói chuyện với nhau như thể là người quen biết từ lâu, cảm thấy kỳ lạ nên hai người đều đứng ngây người ra nhìn. Lữ Động Tân nghe Ngài Quán Âm dạy như thế rồi thì cũng không dám đùa nữa, và cũng nghĩ rằng mình chỉ nên đùa vừa phải thôi, phải mau nói lên sự thật kẻo càng để lâu càng khó xử. Nghĩ thế rồi, Lữ Động Tân bèn nói sự thật cho ông lão chèo thuyền và Vi Đà nghe.

Khi biết mình đang đứng trước mặt Bồ Tát Quán Âm và Lữ Động Tân, hai người vừa kinh sợ vừa vui mừng. Lại nghĩ đến ngài Quán Âm vì muốn có đủ tiền xây cầu mà phải nhọc tâm nghĩ diệu kế, mấy ngày qua thu được tiền đầy cả một khoang thuyền, hai người vô cùng kính phục tấm lòng từ bi và trí huệ của Ngài nên khấu đầu lễ bái không ngừng.

Chuyện kén chồng chỉ là một mưu kế của Bồ Tát, tiên và phàm vĩnh viễn cách biệt nên một khi giải thích rồi, không có vấn đề gì nữa.

Bốn người đếm xong tiền thu được rồi, Bồ Tát Quán Âm nói với ông lão lái thuyền và Vi Đà:

– Chuyện xây cầu là chuyện quan trọng, nay ta ủy thác cho hai người. Vi Đà là người tốt, hãy chịu khó cố gắng thêm chút nữa. Hiện tại thì số tiền này đủ để xây cầu, mong hai người hãy mau tiến hành công việc, tranh thủ thời gian để cầu được xây càng mau càng tốt. Khi nào cầu xây xong, ta sẽ trở lại.

Nói xong, Ngài hiện ra Quán Âm bảo tướng trang nghiêm, rồi cùng Lữ Động Tân lên mây mà đi.

Ông lão lái thuyền và Vi Đà được Ngài Quán Âm ủy thác việc này thì ngay ngày hôm sau là bắt tay vào việc, làm ngày làm đêm không dám trễ nãi, không tới một năm sau, một cây cầu hùng vĩ tráng lệ được bắc ngang sông Lạc Dương.

Đúng ngày cầu vừa xây xong, quả nhiên Ngài Quán Âm trở lại. Tuy Ngài vẫn xuất hiện dưới lốt một cô gái chài lưới, nhưng lần này ai cũng biết đó là Bồ Tát Quán Âm giáng lâm nên tất cả đều sụp xuống lễ lạy.

Bồ Tát nói với mọi người:

– Các vị hãy mau đứng dậy, không nên tạ ơn ta. Cầu này mà hoàn thành là do sức đóng góp của tất cả quý vị, chính ta mới phải tạ ơn các vị.

Bồ Tát Quán Âm chúc mừng việc cầu đã hoàn thành, rồi lên mây trở về Nam Hải. Nhưng trước khi đi Ngài nói riêng với Vi Đà:

– Vi Đà, ngươi đã hoàn thành tốt đẹp việc xây cầu. Ngươi đã ném tiền trúng ta vì ta với ngươi có duyên phận. Ta thấy ngươi là người có tâm thiện lành, ngươi có muốn cùng ta về Phổ Đà Sơn không? Nếu muốn thì có thể ở bên ta mà tu hành cho tới chính quả, làm thần hộ Pháp cho ta, nếu không muốn thì cứ ở lại đây.

Vi Đà vội vàng đáp:

– Bồ Tát trên cao, Vi Đà con được Bồ Tát giúp đỡ, một lòng thề nguyện xây cầu viên mãn, cầu xây xong rồi, con luôn tạc dạ ghi lòng tâm đại từ đại bi của Bồ Tát. Nếu được theo Bồ Tát mà tu hành, thì đó là điều vinh hạnh mà con vẫn hằng mơ tưởng mà không dám nghĩ có thể thành sự thật. Con nguyện theo Bồ Tát về Phổ Đà Sơn.

Bồ Tát Quán Âm bèn đưa Vi Đà về Phổ Đà Sơn. Một vài năm sau, Vi Đà tu hành thành chính quả, được phong là thần Hộ Pháp, và được gọi là “Vi Đà Thiên Tôn”, thời thời khắc khắc đứng trước mặt Bồ Tát Quán Âm để hộ vệ Ngài.
Thiên vương (zh. tiānwáng 天王, sa. devarāja, ja. tennō) được xem như là người canh giữ thế giới, thường được thờ trong các chùa. Truyền thuyết cho rằng các Thiên vương sống trên núi Tu-di (sa. meru), canh giữ thế giới và Phật pháp. Các vị đó chiến đấu chống cái ác và bảo vệ những nơi Phật pháp được truyền bá. Thân thể các vị được áo giáp che chở, đầu mang giáp sắt.
Có bốn vị Thiên vương (Tứ Thiên vương, sa. catur-mahārāja) ở bốn hướng:
  1. Bắc Thiên vương với tên là Đa văn thiên (多聞天, sa. vaiśravaṇa) có thân màu lục, tay trái cầm cờ chiến thắng, tay phải mang tượng chùa hoặc một bảo tháp (mà trong đó – theo truyền thuyết – Long Thụ đã tìm được những bộ kinh dưới Long cung), hoặc một con chuột màu bạc phun ngọc. Vị Bắc Thiên vương là vị quan trọng nhất trong bốn vị Thiên vương;
  2. Nam Thiên vương là Tăng trưởng thiên (增長天, sa. virūḍhaka) có thân màu xanh, cầm gươm chém Vô minh. Vị này chuyên giữ gìn nhữngchủng tử tốt đẹp trong con người;
  3. Đông Thiên vương là Trì quốc thiên (持國天, sa. dhṛtarāṣṭra) có thân trắng, tay cầm đàn, tiếng đàn sẽ làm tâm thức con người trở nên thanh tịnh;
  4. Tây Thiên vương tên Quảng mục thiên (廣目天, sa. virūpākṣa) có thân màu đỏ, tay phải cầm rắn (sa. nāga) nhưng không cho nó chiếm giữNhư ý châu (ngọc như ý). Ngọc như ý chỉ chuyên dành cho những bậc giác ngộ và rắn chỉ là người canh giữ viên ngọc đó.
Truyền thuyết Trung Quốc đã nhắc các vị này từ thế kỉ thứ 4, nhưng đến đời Đường (thế kỉ thứ 7) người ta mới thật sự thờ cúng các vị Thiên vương. Mỗi vị này có 91 con trai và 8 tướng quân, giúp canh giữ mười phương thế giới. Tương truyền rằng, năm 742, Đại sư Bất Không Kim Cương (sa.amoghavajraMật tông) niệm chú Đà-la-ni gọi các vị Thiên tướng xuống giúp chống ngoại xâm. Vị Bắc Thiên vương và Tây Thiên vương hiện xuống đẩy lùi giặc, nhà vua nhớ ơn cho xây tượng các vị trong chùa chiền.
Tứ Thiên vương và Tứ Bồ Tát : Biểu thị sự hộ thế Phật, hộ thế gian. Bốn vị thiên vương phân nhau cai quản 4 cõi ở núi Tudi. Tượng Tứ thiên vương thường thấy gồm 4 vị mặc áo vương phục. Tứ Bồ tát gồm Ái Bồ tát, tay cầm tên, Sách Bồ tát cầm dây, Ngữ Bồ tát cầm lưỡi, quyền Bồ tát, tay nắm chặt trước ngực.
Thập điện diêm vương Là mười vị Diêm Vương coi 10 điện dưới âm phủ. Thập điện Diêm vương để nhằm mục đích răn đe mọi hành vi gây nghiệp ác.Thông thường Thập điện Diêm vương hình mười ông mặc áo phán quan, đôi khi có chùa làm thành những động thập điện.Mười vị vua ở địa ngục có các trách nhiệm phán xét các loại tội ác khác nhau của con người bao gồm các vị như sau:[1]
  • Nhất điện: Tần Quảng Vương
Tần Quảng Vương Tướng chuyên điều khiển việc khỏe mạnh, ốm đau, sinh tử của trần gian và quản lý việc u minh, cát hung. Người thiện sau khi thọ mệnh được tiếp dẫn siêu sinh. Người nửa công nửa tội được đưa đến điện thứ mười xét xử, sau đó được đầu thai làm người trên thế gian: nam thì chuyển thành nữ, nữ thì chuyển thành nam. Người làm điều thiện ít, điều ác nhiều thì được áp giải đến đài cao, phía bên trái điện, gọi là đài gương “nghiệt cảnh đài”, để nhìn vào đó liền thấy rõ mọi việc tốt xấu hồi còn tại thế, sau đó giải đến điện thứ hai để vào ngục chịu khổ.
  • Nhị điện: Sở Giang Vương
Sở Giang Vương trông coi địa ngục Hoạt Đại (có 16 tiểu địa ngục với các hình phạt như: mây đè, phân thối, bị đâm, bỏ đói, bỏ khát, nấu máu, nấu một chảo đồng, nấu nhiều chảo đồng, bỏ vô cối xay sắt, đong lường, gà mổ, ao tro, chặt khúc, gươm lá đâm, chó sói ăn thịt, bỏ vào ao lạnh giá...). Những ai lúc còn sống trên thế gian làm điều tổn thương đến thân thể người khác, gian dâm, sát sinh đều được đưa vào ngục này và các tiểu ngục để chịu khổ. Khi hết kỳ hạn liền được đưa đến ngục thứ ba để định đoạt tiếp hình phạt.
  • Tam điện: Tống Đế Vương
Tống Đế Vương Dư quản Hắc Thằng Đại Địa (có 16 tiểu ngục với các hình phạt: nước mặn, bị gông xiềng, đục sườn, nạo mặt, nạo mỡ, móc gan tim, móc mắt, lột da, căng da, cưa cẳng, rút móng, hút huyết, treo ngược, sả vai, ăn giòi, đập đầu gối, mổ tim). Ai khi sống trên trần gian mà ngỗ ngược, hỗn láo với bề trên, xúi bẩy kiện tụng, gây sự bất hòa,... phải vào ngục này và các tiểu ngục chịu khổ, hết kỳ hạn đưa đến điện thứ tư.
  • Tứ điện: Ngũ Quan Vương
Ngũ Quan Vương quản địa ngục Hợp Đại (và 16 tiểu ngục với hình phạt: xiên thịt, xối nước sôi, vả sưng mặt, chặt gân xương, khứa vai lột da, khoan da thịt, chim trĩ mổ, mặc áo sắt, cây, đá dằn, khoét mắt, tro lấp miệng, đổ thuốc độc, trượt nhớt té, xâm miệng, chôn trong đá vụn...). Những ai trốn nộp tô, thuế cho nhà nước, mua gian bán lận đều bị đưa vào ngục này và các ngục nhỏ chịu khổ, hết kỳ hạn được đưa qua điện thứ năm.
  • Ngũ điện: Diêm La Thiên Tử
Diêm La Thiên Tử vốn ngự ở điện thứ nhất nhưng vì thương người chết oan hay trả hồn về sống lại kêu oan, nên bị giáng xuống quản đại địa ngục Khiếu Hoán (tội phạm ở đây lâm vào cảnh buồn chán, đau khổ không gì bằng) và 16 chu tâm tiểu ngục. Những ai đến điện này đều được dẫn đến đài Vọng Hương để nghe và thấy tất cả những điều, những tai ương mà họ đã gây ra trên trần gian, sau đó được đưa vào địa ngục rồi vào chu tâm tiểu ngục, mổ bụng moi tim, ruột ném cho chó ăn. Hết kỳ hạn lại được đưa xuống điện thứ sáu.
  • Lục điện: Biện Thành Vương
Biện Thành Vương quản Khiếu Hoán đại địa ngục và thành Uổng Tử và 16 tiểu địa ngục với hình phạt: quỳ chông, nhốt trong hầm phân, thiến dái, quết thịt, trâu báng, ngựa đạp, bửa sọ... Những ai khi sống trên thế gian oán trời trách đất, cứ khóc lóc, trộm cắp, đầu cơ tích trữ... đưa vào ngục này và tiểu ngục để chịu khổ hơn nữa. Hết kỳ hạn được đưa đến điện thứ bảy.
  • Thất điện: Thái Sơn Vương
Thái Sơn Vương quản địa ngục Nhiệt Não (có 16 tiểu ngục; tội phạm được quẳng vào vạc đồng để nấu). Ai khi sống trên trần gian đào mồ, trộm mả, lấy hài cốt để làm thuốc, rời bỏ người thân thích, đưa vào ngục này và các tiểu ngục. Hết kỳ hạn giải đến điện thứ tám.
  • Bát điện: Đô Thị Vương
Đô Thị Vương quản đại địa ngục Đại Nhiệt Não (có 16 tiểu ngục; tội phạm bị thiêu, bị nấu cực hình hơn). Những ai sống trên trần gian bất hiếu khiến cha mẹ đẻ, cha mẹ chồng, cha mẹ vợ phải buồn phiền, bực tức khi chết sẽ bị ném vào ngục này và các tiểu ngục. Kẻ bất hiếu chịu hết mọi hình thức đau khổ, giải đến điện thứ mười, thay đổi hình dạng vĩnh viễn làm loài súc sinh.
  • Cửu điện: Bình Đẳng Vương
Bình Đẳng Vương quản Thiết Võng A Tỳ và 16 tiểu ngục ở Thành Phong Đô. Ai sinh sống trên thế gian mà giết người, đốt nhà, bị chém nơi pháp trường đều giải đến điện này, bắt ôm cột đồng trống rỗng và trói chân tay lại, đốt lửa ống đồng cho tim gan thiêu trụi và chịu nhiều cực hình khác, sau đó lần lượt đầu thai vào những nơi kẻ đó đã làm hại, giải đến điện thứ mười.
  • Thập điện: Chuyển Luân Vương
Chuyển Luân Vương chuyên nắm các điện mà giải đến nơi quỷ hồn để làm rõ thiện ác, quyết định đẳng cấp, rồi cho lên đầu thai. Nam hay nữ, sống lâu hay chết yểu, giàu sang phú quý hay nghèo hèn, lần lượt được ghi vào danh sách. Những con quỷ mà có nghiệp ác, cái thai bị lạnh đi, khiến cho nó sáng sinh ra chiều đã chết. Hết kỳ hạn trở lại làm người, đầu thai vào nơi sống rất man rợ, bẩn thỉu.
Các tội nhân sau khi chịu đủ các hình thức xử phạt ở các điện, được giải đến điện Thập điện cho đầu thai. Những ai được đầu thai đều được giao cho Thần Mạnh Bà đến Thù Vong Đài cho ăn cháo lú, để quên hết những chuyện của kiếp trước. Nếu ai không chịu uống thì giá đao sẽ hiện lên dưới chân, quấn chặt lấy chân, bên trên dùng ống đồng đút vào trong cổ họng bắt uống một cách đau đớn khổ sở. Những biện sự về địa ngục, Diêm Vương, Thập điện Diêm La có phần nào mô phỏng hình ảnh quan nha trên thế gian. Các tranh vẽ, chạm khắc trên gỗ đá... miêu tả cảnh phạt tội ở địa ngục: địa ngục tăm tối, máu chảy, đầu rơi, các hình phạt kinh hồn... cốt không ngoài mục đích khuyến thiện răn ác, nhằm làm cho người đời thấy đó mà kiêng dè, thấy đó mà hướng thiện, nhắc nhở người đời phương châm đạo lý “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ”. Ở góc độ hoằng pháp, các biện sự này là phương tiện của phương cách “Dĩ huyễn độ chơn”.

Bồ đề đạt ma : Ðức Ðạt Ma người ấn Ðộ, là sư tổ của Thiền tông Trung Hoa và được coi là sư tổ của Thiền tông.Tượng hoặc tranh vẽ thờ ngài mô tả một người tóc quăn, mũi cao, râu quai nón và thường được thờ trong nhà Tổ.


















Nhận xét